Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú
(Phần 6)
地藏菩薩本願經科注
Đường Tam Tạng sa-môn Thật Xoa Nan Đà dịch kinh
唐三藏沙門實叉難陀譯
Cổ Diêm Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa soạn
古鹽匡菴青蓮苾芻靈椉父輯
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(theo bản in tháng Bảy năm 2017
của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội, Đài Loan)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
3.2.3.1.2. Lợi ích tồn vong (lợi ích cho kẻ còn lẫn người mất)
3.2.3.1.2.1. Phẩm đề (tên gọi của phẩm này)
(Kinh) Lợi ích tồn vong, phẩm đệ thất.
(Kinh: Phẩm thứ bảy: Lợi ích kẻ còn lẫn người mất).
3.2.3.1.2.2. Phẩm văn (kinh văn trong phẩm này)
3.2.3.1.2.2.1. Địa Tạng chánh minh (ngài Địa Tạng nói rõ)
3.2.3.1.2.2.1.1. Thông thị chúng sanh thiện thoái, ác tăng (chỉ ra: Thông thường, chúng sanh lui sụt điều lành, tăng trưởng điều ác)
3.2.3.1.2.2.1.1.1. Pháp thị (chỉ dạy về pháp)
(Kinh) Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngã quán thị Diêm Phù chúng sanh, cử tâm động niệm, vô phi thị tội. Thoát hoạch thiện lợi, đa thoái sơ tâm. Nhược ngộ ác duyên, niệm niệm tăng ích”.
(經)爾時,地藏菩薩摩訶薩白佛言:世尊!我觀是閻浮眾生,舉心動念,無非是罪。脫獲善利,多退初心。若遇惡緣,念念增益。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con thấy chúng sanh trong cõi Diêm Phù này, khởi tâm dấy niệm, không gì chẳng phải là tội. Nếu đạt được điều thiện lợi, phần nhiều lui sụt cái tâm ban đầu. Nếu gặp ác duyên, niệm niệm tăng thêm”).
“Tâm niệm” chỉ sáu thức. “Cử động” là công năng. Do thức thứ sáu và thức thứ bảy hòa hợp, nhuốm bẩn, rối loạn vị chủ nhân là thức thứ tám. Thức thứ tám lại khiến cho năm thức trước (nhãn thức, nhĩ thức…) tham tiếng, chấp sắc, nếm vị, ngửi hương, thân đụng chạm các thứ mềm mịn, duyên theo các chỗ, nên nói “vô phi thị tội” (không gì chẳng phải là tội)!
Hai câu “thoát hoạch thiện lợi” (nếu đạt được điều lợi lành) ý nói: Chẳng thể giữ nổi cái tâm kiên cố. Kinh Tăng Hộ chép: “Diêm Phù Đề nhân, vi tánh nan tín. Do hành thiện nhi hoạch lợi ích, tự nghi tấn công vô gián, nãi nhân hoạch lợi, phản thoái sơ tâm” (Chúng sanh trong Diêm Phù Đề tánh tình khó thể tin tưởng được! Do làm lành mà đạt được lợi ích, đáng lẽ phải nên đổ công dốc sức chẳng gián đoạn, lại ngược ngạo lui sụt cái tâm ban đầu). Vì thế, Phật Thuyết Bảo Vũ Kinh chép: “Bồ Tát kiến nhất thiết hữu tình thọ chư khổ não, tuy phục thành tựu vi thiểu thiện căn, tạm thời phi cửu” (Bồ Tát thấy hết thảy hữu tình chịu các khổ não, dẫu thành tựu chút ít thiện căn thì chỉ là tạm thời, chẳng lâu dài) chính là nói đến chuyện này!
“Nhược ngộ ác duyên” (nếu gặp ác duyên), ý nói: [Tấm thân] Tứ Đại là vật dụng chứa chất độc, có uế ác đầy dẫy trong đó. Sáu tên giặc (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) khiến chủ (thức thứ tám) phát cuồng, tức là đối với cảnh đều chấp trước, chẳng còn có thuở ngược dòng được, chỉ đành xuôi theo dòng luân chuyển, trôi nổi vật vờ trong sanh tử, chấp chặt hữu vi! Vì lẽ này, chư Phật nhíu mày; bởi đó, Bồ Tát khóc ra máu mắt! Đấy là do cái tâm chấp trước bất định đến nỗi có chuyện ác ấy. Vì thế, đại sư nói: “Hãy nên biết các thân đều do tâm tạo. Ví như đại địa là một, mà có thể sanh ra các thứ mầm” là nói về điều này.
Kinh Tịnh Độ Tam Muội dạy: “Tội phước tương lụy, trùng số phân minh. Hậu đương thọ tội phước chi báo, nhất nhất bất thất. Nhất niệm thọ nhất thân, thiện niệm thọ thiên thượng nhân trung thân, ác niệm thọ tam ác đạo thân. Bách niệm thọ bách thân, thiên niệm thiên thân. Nhất nhật, nhất dạ, chủng sanh tử căn, hậu đương thọ bát ức ngũ thập vạn tạp loại chi thân. Bách niên chi trung, chủng hậu thế tài, thậm vi nan số. Hồn thần trục chủng thọ hình, biến tam thiên đại thiên sát độ. Thể cốt bì mao biến đại thiên sát độ địa, gián vô không xứ” (Tội và phước liên quan với nhau theo tầng lớp và số lượng phân minh. Về sau, sẽ thọ quả báo của tội hay phước, mỗi mỗi đều chẳng mất. Một niệm thọ một thân. Do thiện niệm thọ thân trên trời hay trong loài người; ác niệm thọ thân trong ba đường ác. Trăm niệm thọ trăm thân, ngàn niệm thọ ngàn thân. Gieo căn cội sanh tử trong một ngày một đêm; sau đó, sẽ thọ tám ức năm mươi vạn thân các loại. Trong một trăm năm, gieo ươm chủng tử cho đời sau, [sẽ thọ thân] rất nhiều, khó thể tính trọn! Hồn thần theo chủng tử mà thọ thân, trọn khắp các cõi nước trong tam thiên đại thiên thế giới. Xương, da, lông nơi thân trọn khắp cõi đất của các cõi trong đại thiên, chẳng có chỗ trống hở, gián đoạn nào).
Kinh Xử Thai lại nói: “Ngô tùng vô số kiếp, vãng lai sanh tử đạo, xả thân, phục thọ thân, bất ly bào thai pháp. Thuần tác bạch cẩu hình, tích cốt ức Tu Di. Hà huống tạp sắc cẩu, kỳ số bất khả lượng” (Tôi từ vô số kiếp qua lại trong đường sanh tử, xả thân rồi lại thọ thân, chẳng lìa bào thai. Thuần làm thân chó trắng, xương chất như một ức núi Tu Di, huống hồ làm thân những con chó có màu sắc khác, số ấy chẳng thể tính toán được). Vì thế, kinh Hiền Ngu nói: “Nhân thân nan đắc, ngộ ác nhân duyên, tắc tiện dị thất. Dĩ ác đa, thiện thiểu, nhất nhật chi trung, tội niệm bách thiên, thiện niệm vô nhất” (Thân người khó được, gặp nhân duyên ác liền dễ mất đi. Do ác nhiều, thiện ít, trong một ngày, ý niệm gây tội cả trăm ngàn, thiện niệm chẳng được một). Vì thế biết: Người có thể chế phục cái tâm, hành đạo, sẽ có sức mạnh nhiều nhất. Hiềm rằng chúng sanh trong cõi Diêm Phù ý niệm xen tạp tơi bời, chẳng thể giữ vững! Thiện sụt, ác tăng, chẳng phải là đã quen thói ư?
3.2.3.1.2.2.1.1.2. Dụ hiển (dùng thí dụ để chỉ rõ)
(Kinh) Thị đẳng bối nhân, như lý nê đồ, phụ ư trọng thạch, tiệm khổn, tiệm trọng, túc bộ thâm thúy.
(經)是等輩人,如履泥塗,負於重石,漸困漸重,足步深邃。
(Kinh: Những kẻ như thế như đi trên đường bùn lầy, vác đá nặng, càng lúc càng khốn đốn, càng lúc càng nặng hơn, bước chân càng lún sâu).
Trước hết, sánh ví chúng sanh trong Nam Châu lui sụt thiện, tăng trưởng ác; như đi trên đường bùn lầy, thường ở trong cõi sanh tử. Bùn đã sâu, đường còn xa thăm thẳm, mong thoát ra khó lắm!
3.2.3.1.2.2.1.1.3. Sự minh (dùng sự để chỉ rõ)
(Kinh) Nhược đắc ngộ tri thức, thế dữ giảm phụ, hoặc toàn dữ phụ. Thị tri thức hữu đại lực cố, phục tương phù trợ, khuyến linh lao cước. Nhược đạt bình địa, tu tỉnh ác lộ, vô tái kinh lịch.
(經)若得遇知識,替與減負,或全與負。是知識有大力故,復相扶助,勸令牢腳。若達平地,須省惡路,無再經歷。
(Kinh: Nếu được gặp bậc tri thức, vác bớt giùm cho, hoặc vác cả cho. Vị tri thức ấy có sức mạnh to lớn, lại còn nâng đỡ, khuyên người ấy hãy vững chân. Nếu đến được chỗ đất bằng, bèn khuyên người ấy hãy tỉnh ngộ, biết đó là con đường ác hiểm, đừng đi vào nữa).
“Nhược đắc” (nếu được) chứa đựng hai ý nghĩa may mắn và bất hạnh, tức là nếu người ấy có điều thiện nhỏ nhoi, liền gặp tri thức, may mắn chi bằng? Nếu chẳng có thiện duyên, trọn chẳng gặp một ai, bất hạnh quá đỗi! Tri thức có gần và xa. “Gần” là nói đến cha mẹ, quyến thuộc chính là những người vì ta làm các phước sự. “Xa” là Phật, Bồ Tát v.v… là những vị tiêu diệt tội. “Thế” (替) là thay cho. “Phụ” (負) là mang vác đồ vật. “Giảm phụ, toàn phụ” (vác bớt cho, vác hết cả): Luận định về công năng của chuyện làm phước thì có bán phần và toàn phần. Khiến cho người đã mất giảm tội chính là “giảm phụ” (vác bớt giùm cho). Nếu toàn thể tội đều tiêu thì là “toàn phụ” (vác hết cho). Kế đó, giải thích ý nghĩa “năng phụ” (có thể mang vác), tức là bậc tri thức có sức mạnh to lớn. Kinh Tăng Nhất A Hàm nói do người có năm lực (Tín, Tấn, Niệm v.v… ngũ lực) mà Phật quả có mười lực. Theo Đại Luận, Bồ Tát cũng có đủ mười lực. Do có sức mạnh ấy, không chỉ là vác giùm cho, mà còn có thể nâng, dìu, giúp đỡ, khiến cho người ấy vững chân. Nếu té nhào xuống đường bùn lầy, sẽ khó thể đứng dậy được! Lại khuyên người ấy nếu đến được chỗ bình ổn, hãy nên hồi tỉnh trước đó đã sa chân vào đường ác, chớ nên lại đi vào đó nữa! “Nâng đỡ” ví như dạy Thập Thiện. “Vững chân” ví như tâm chẳng lui sụt. “Đường bằng phẳng” ví như thoát ra, thăng lên đường trời, người. “Tỉnh ngộ đường ác” ví như nghĩ tới nỗi khổ trong tam đồ. “Lại đi vào đó” ví như lại bước vào đường khổ!
3.2.3.1.2.2.1.2. Chánh thị tập ác, nghi vi thiết phước (chỉ dạy: Do [chúng sanh] quen thói ác, hãy nên làm phước)
3.2.3.1.2.2.1.2.1. Tổng thị (chỉ chung)
(Kinh) Thế Tôn! Tập ác chúng sanh, tùng tiêm hào gian, tiện chí vô lượng.
(經)世尊!習惡眾生,從纖毫間,便至無量。
(Kinh: Bạch Thế Tôn! Chúng sanh tập quen thói ác từ những điều vụn vặt dần dần đến vô lượng).
Đoạn này nhằm ứng hợp với đoạn văn “cử tâm động niệm” trong phần trước, ý nói: Vì sao mà khởi tâm động niệm cho đến gặp điều ác bèn tăng thêm? Do đã quen thói ác! “Ác tập” (惡習, tập khí ác) chỉ chủng tử, còn “tập ác” (習惡, những điều ác đã quen làm) chỉ hiện hành. Do có chủng tử của ác tập, khiến cho tập ác hiện hành, từ nhỏ tí tẹo cho đến vô lượng.
Kinh Chiêm Sát dạy: “Cầu tâm hình trạng, vô nhất khu phân, nhi khả đắc giả, đản dĩ chúng sanh vô minh si ám huân tập nhân duyên, hiện vọng cảnh giới, linh tâm niệm trước. Ư chủng chủng pháp thượng, vọng sanh chủng chủng pháp tưởng. Vị hữu, vị vô, vị bỉ, vị thử, vị thị, vị phi, vị hảo, vị ác, nãi chí vọng sanh vô lượng vô biên pháp tưởng” (Cầu hình dạng của tâm thì không có một hình dạng riêng biệt nào để có thể đạt được, chỉ vì chúng sanh do nhân duyên vô minh si ám huân tập, hiện ra cảnh giới hư vọng, khiến cho cái tâm nghĩ nhớ, chấp trước. Đối với các pháp, lầm lạc sanh ra đủ mọi pháp tưởng, cho là có, cho là không, cho là kia, cho là đây, cho là đúng, cho là sai, cho là tốt, cho là xấu, cho đến lầm lạc sanh ra vô lượng vô biên pháp tưởng).
Vì thế, Kim Quang Minh Huyền Nghĩa viết: “Lên cao thì khó, rơi xuống dễ dàng, phần nhiều là do duyên theo các thân ác”. Quang Minh Ký viết: “Ấy là vì chúng sanh đã huân tập từ vô thỉ, ác nhiều, thiện ít, khiến cho tâm niệm hay duyên theo các thân ác. Chưa ngồi trên xe năm thừa, mà đã vào bốn nẻo trước. Lên cao thì khó, rơi xuống dễ dàng, có ai mà chẳng như vậy! Hành giả tu Quán đối với các tâm trong mười pháp giới, phải thường nên cảnh tỉnh, chớ nên không biết. Vì thế, Chỉ
Quán loại trừ những cái chẳng thuộc vào chân tâm”.
3.2.3.1.2.2.1.2.2. Biệt thích (giải thích riêng)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1. Thiết phước, tồn vong lợi ích (làm phước, lợi ích cho kẻ còn lẫn người mất)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1.1. Lâm chung thiết phước (lâm chung làm phước)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1.1.1. Thị ý (chỉ bày ý nghĩa)
(Kinh) Thị chư chúng sanh, hữu như thử tập, lâm mạng chung thời, phụ mẫu, quyến thuộc nghi vị thiết phước, dĩ tư tiền lộ.
(經)是諸眾生,有如此習,臨命終時,父母眷屬宜為設福,以資前路。
(Kinh: Những chúng sanh ấy có thói quen như thế, khi lâm chung, cha mẹ, quyến thuộc hãy tạo phước để giúp cho tương lai của người ấy).
Hai câu đầu nhằm nói lên ý nghĩa “tu phước, kiêng giết”. Do chúng sanh có thói quen xấu ác như thế, chủng tử và hiện hành huân tập lẫn nhau, nhân và quả tương cảm. Nếu quyến thuộc chẳng vì kẻ đó làm phước, sẽ nhờ vào đâu để giúp đỡ cho con đường phía trước (tương lai)? Bài kệ Vô Thường có nói: “Thường cầu chư dục cảnh, bất hành ư thiện sự, tử vương thôi tứ mạng, thân thuộc đồ tương thủ, chư thức giai hôn muội, hành nhập hiểm thành trung. Tương chí Diễm Ma vương, tùy nghiệp nhi thọ báo. Thắng nhân sanh thiện đạo, ác nghiệp đọa Nê Lê. Duy hữu Phật Bồ Đề, thị chân quy trượng xứ” (Thường tìm cầu cảnh dục, chẳng làm một chuyện lành. Thần chết đòi bắt mạng, thân thuộc khó chở che. Các thức đều tăm tối, đi vào trong hiểm thành, đến chỗ vua Diễm Ma, theo nghiệp mà thọ báo. Nhân tốt sanh đường lành, ác nghiệp đọa địa ngục. Chỉ có Phật Bồ Đề, chốn nương về chân thật). Vì thế, hãy nên tạo phước lành để giúp cho tương lai của kẻ mất.
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1.1.2. Thiết phước (làm phước)
(Kinh) Hoặc huyền phan cái, cập nhiên du đăng. Hoặc chuyển độc tôn kinh. Hoặc cúng dường Phật tượng, cập chư thánh tượng. Nãi chí niệm Phật, Bồ Tát, cập Bích Chi Phật danh tự, nhất danh, nhất hiệu, lịch lâm chung nhân nhĩ căn, hoặc văn tại bổn thức.
(經)或懸旛蓋,及然油燈。或轉讀尊經。或供養佛像,
及諸聖像。乃至念佛菩薩,及辟支佛名字,一名一號,歷臨終人耳根,或聞在本識。
(Kinh: Hoặc treo phan, lọng, và thắp đèn dầu. Hoặc chuyển đọc tôn kinh. Hoặc cúng dường tượng Phật, và các thánh tượng. Cho đến niệm danh hiệu của Phật, Bồ Tát, và Bích Chi Phật, sao cho một danh, một hiệu lọt vào tai của người lâm chung, hoặc khiến cho thần thức của người ấy nghe được).
Tu phước ở đây, sẽ vun bồi hai loại quả: Một là cái quả do tu phước theo mặt Sự, như treo phan, bày lọng, thắp đèn; hai là cái quả do tôn kính Tam Bảo, tức đọc kinh, cúng dường tượng, xưng danh hiệu. Kinh Phổ Quảng có chép: “Nhược tứ bối nam nữ, nhược lâm chung thời, nhược dĩ quá mạng, ư kỳ vong nhật, tạo tác hoàng phan, huyền trước sát thượng, sử hoạch phước đức, ly bát nạn khổ, đắc sanh thập phương chư Phật Tịnh Độ. Phan cái cúng dường, tùy tâm sở nguyện, chí thành Bồ Đề. Phan tùy phong chuyển, phá toái đô tận, chí thành vi trần. Phan nhất chuyển thời, Chuyển Luân Vương vị. Nãi chí xuy trần, tiểu vương chi vị. Kỳ báo vô lượng. Nhiên đăng cúng dường, chiếu chư u minh khổ thống chúng sanh, mông thử quang minh, đắc hỗ tương kiến. Duyên thử phước đức, bạt bỉ chúng sanh, tất đắc hưu tức” (Nếu tứ chúng nam nữ, vào lúc lâm chung, hoặc đã qua đời, mà trong ngày mất, [thân quyến vì người ấy] tạo tác lá phan màu vàng, treo ở trên chùa, sẽ khiến cho người ấy đạt được phước đức, lìa khổ tám nạn, được sanh vào Tịnh Độ của mười phương chư Phật. Phan, lọng cúng dường, tùy theo tâm nguyện, cho tới khi thành Bồ Đề. Phan theo gió lay, tan nát hết sạch, đến mức nát thành bụi nhỏ. Khi phan lay động một cái, [người ấy] sẽ đạt địa vị Chuyển Luân Vương. Cho đến thổi tung bụi, liền thành ngôi vị tiểu vương. Quả báo ấy vô lượng. Thắp đèn cúng dường, chiếu các chúng sanh đang đau khổ trong u minh, khiến cho họ do quang minh ấy mà trông thấy lẫn nhau. Nhờ phước đức ấy, cứu bạt những chúng sanh đều được ngơi nghỉ). Do có phước lợi này, cho nên treo phan, thắp đèn.
“Cúng tượng” (thờ phụng, hoặc cúng dường tượng) như đã giải thích trong phần trước. “Niệm Phật” như sẽ giải thích trong phần sau. Trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, Dạ Ma Thiên Vương đã vì chư thiên nói kệ như sau: “Nhược nhân tâm niệm Phật, thị danh thiện mạng nhân, bất ly niệm Phật cố, thị vi mạng trung mạng” (Nếu ai tâm niệm Phật, thì là người mạng lành. Do chẳng lìa niệm Phật, nên mạng trường thọ nhất). Niệm Pháp, niệm Tăng cũng như thế, khiến cho danh hiệu ấy lọt qua tai, nạp vào trong thức thứ tám, trọn chẳng bị hủy hoại. Ví như kim cang lọt vào bụng, lâu ngày chẳng tan, ắt sẽ xuyên ruột lọt ra. Vì thế, cần phải huân văn Phật chủng (dùng lắng nghe để huân tập chủng tử Phật). Đó gọi là “pháp âm lọt qua tai, công đức, phước báo trải nhiều kiếp; một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn thành hạt giống đạo”. A Lê Da Thức chính là bổn thức. Do nó là cái gốc cho sự sanh tử, nên gọi là “bổn”.
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1.1.3. Đắc ích (được lợi ích)
(Kinh) Thị chư chúng sanh, sở tạo ác nghiệp, kế kỳ cảm quả, tất đọa ác thú. Duyên thị quyến thuộc, vị lâm chung nhân tu thử thánh nhân, như thị chúng tội, tất giai tiêu diệt.
(經)是諸眾生,所造惡業,計其感果,必墮惡趣。緣是眷屬,為臨終人修此聖因,如是眾罪,悉皆銷滅。
(Kinh: Các chúng sanh ấy do ác nghiệp đã tạo, xét theo quả báo cảm vời, ắt đọa trong đường ác. Do nhờ quyến thuộc đã vì người lâm chung tu nhân duyên thánh đạo ấy, các tội như thế thảy đều tiêu diệt).
Điều này ứng hợp với ý nghĩa “gặp thiện tri thức vác giùm hết cho” trong đoạn trước. Người chết đã quen thói làm nhiều điều ác, chẳng thể không bị nghiệp quấn trói. Nhân quả chẳng sai sót, làm ác ắt mắc ương họa. Nếu chẳng có cái nhân “tu thánh phước”, sao có thể tránh khỏi cái quả trong tương lai? Luận A Tỳ Đàm nói: “Thú (趣) là đạt đến, cũng gọi là Đạo, nghĩa là do con đường nghiệp nhân thiện hay ác ấy mà bị chuyển đến chỗ thọ sanh, cũng có thể nhờ vào nghiệp đã tạo để tiến hướng chỗ thọ sanh. Thú (趣) lại có nghĩa là quy hướng (hướng về), nghĩa là do nghiệp đã tạo, sẽ hướng về cõi trời hay đi vào địa ngục”. Như trong kinh Đại Thừa Đồng Tánh, vua Lăng Già (Lankāvatāra) bạch cùng đức Phật: “Vì sao chúng sanh bỏ thọ mạng này, nhận lấy thọ mạng kia? Bỏ thân cũ này, nhận lấy thân mới kia?” Đức Phật dạy: “Chúng sanh xả thử thân dĩ, nghiệp phong lực xuy, di thức tương khứ, tự sở thọ nghiệp, nhi thọ kỳ quả” (Chúng sanh bỏ thân này xong, do sức của gió nghiệp thổi, dời thức đi, theo nghiệp đã thọ mà nhận lấy cái quả). Vì thế, Khuê Phong đại sư nói: “Muốn kiểm nghiệm lâm chung thọ sanh tự tại hay không, chỉ cần kiểm nghiệm trong những việc làm thường ngày, tâm có tự do hay không. Trong mười hai thời, hãy thường nên tự kiểm điểm bản thân”. Ngài dạy đúng lắm thay! Đã tạo ác nghiệp, ắt đọa trong đường ác. Nay được thoát khỏi, do nhờ quyến thuộc tu đủ mọi thứ nhân duyên thánh đạo, khiến cho các tội như thế giống như gió mạnh thổi tan mây trôi, giống như nước lũ dập tắt lửa nhỏ. Vì thế biết: Các tội tiêu diệt chính là nhờ bậc tri thức rất mạnh gánh vác toàn bộ cho!
3.2.3.1.2.2.1.2.2.1.2. Tử hậu tạo thiện (làm lành sau khi người ấy đã chết)
(Kinh) Nhược năng cánh vị thân tử chi hậu, thất thất nhật nội, quảng tạo chúng thiện, năng sử thị chư chúng sanh, vĩnh ly ác thú, đắc sanh nhân thiên, thọ thắng diệu lạc. Hiện tại quyến thuộc, lợi ích vô lượng.
(經)若能更為身死之後,七七日內,廣造眾善,能使是諸眾生,永離惡趣,得生人天,受勝妙樂。現在眷屬,利益無量。
(Kinh: Nếu sau khi những người ấy đã chết, lại có thể trong bốn mươi chín ngày vì người ấy rộng làm các điều thiện, sẽ có thể khiến cho những chúng sanh ấy vĩnh viễn lìa khỏi đường ác, được sanh trong cõi trời, người, hưởng sự vui thù thắng, mầu nhiệm. Quyến thuộc trong hiện tại sẽ được lợi ích vô lượng).
Điều này ứng hợp với năm câu “lại còn nâng dìu, giúp đỡ” [trong đoạn trước]; tức là vị tri thức có sức mạnh không chỉ vác giùm toàn bộ đá nặng, lại còn có thể nâng đỡ người ấy đến chỗ đất bằng phẳng. Đoạn này chỉ dạy thẳng thừng: Sau khi người ấy đã chết, hãy tu phước cho người ấy. Chữ Mạt Lạt Nẫm (Maraṇa) trong tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Tử (chết). Như kinh Thập Nhị Phẩm Sanh Tử nói, người chết đi có mười hai phẩm loại. Vì thế, kinh Pháp Cú dạy: “Phù thân giả, chúng khổ chi bổn, hoạn họa chi nguyên. Ngô ngã phược trước, sanh tử bất tức, giai do thân dư?” (Thân là gốc của các khổ, là cội nguồn của họa hoạn. Cái Tôi trói buộc, sanh tử chẳng ngơi, đều do cái thân đấy chăng?) Nay muốn lìa cội khổ trong thế gian, hãy nên vì người ấy tạo tác thiện sự. “Bốn mươi chín ngày” sẽ giải thích trong phần sau.
Ví như nắng hạn đã lâu, ắt mong được mưa ngọt nhuần thấm. Nếu lắm tai ương, bệnh tật, ắt mong đợi thuốc của bậc lương y. Bệnh mà có thuốc để an thân, nắng hạn được mưa dầm để đất nhuần thấm. Vì thế, vĩnh viễn lìa khỏi đường ác, được sanh làm trời, người, giống như đến được chỗ đất bằng. Đã sanh lên trời, mãi mãi hưởng phước; hoặc ở trong nhân gian, hưởng quyền quý, giàu có dài lâu. Lúc hưởng niềm vui thù thắng, nhiệm mầu, cũng cần phải nhớ lại đường ác ấy. Vì thế, gìn giữ cái tâm kiên cố, sao cho chẳng lui sụt, chẳng đánh mất thiện niệm, kẻo lại sa vào nẻo ác ấy!
Kinh Ưu Bà Tắc Giới dạy: “Vị vong truy phước, thí dĩ mạng chung, thị nhân phước đức, tùy sở thí vật, nhậm dụng cửu cận, phước đức thường sanh. Thị phước truy nhân, như ảnh tùy hình” (Vì người đã mất làm phước để thí cho người đã mạng chung, phước đức của kẻ [làm phước ấy] tùy theo những vật đã cúng thí mà sẽ tùy ý hưởng dụng lâu hay mau, phước đức thường sanh. Phước ấy theo sát con người, như bóng theo hình).
Chắc là có kẻ nói: “Chết rồi là hết!” Nghĩa ấy chẳng đúng, vì cớ sao? Vật (tức xác thân) đã hư hoại, chẳng dùng được! [Xác thân] mất đi là mất giữa hai lúc (lúc còn sống và lúc tái sanh trong đời sau), chứ không phải là mạng đã mất hết! Vì thế, [người đã mất] được giúp đỡ bèn sanh lên trời hay làm người, hưởng sự vui thù thắng nhiệm mầu! Không chỉ là người chết được hưởng sự vui sướng siêu thăng, mà ngay cả người còn sống cũng đạt được lợi ích vô lượng!
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2. Tạo ác, vong nhân tăng tội (tạo ác thì người đã mất càng thêm tội)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1. Pháp thị (dạy về pháp)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1.1. Nhiếp tiền chánh khuyến (gộp chung ý nghĩa trong phần trước để khuyên bảo)
(Kinh) Thị cố ngã kim đối Phật Thế Tôn, cập thiên long bát bộ, nhân, phi nhân đẳng, khuyến ư Diêm Phù Đề chúng sanh, lâm chung chi nhật, thận vật sát hại, cập tạo ác duyên, bái tế quỷ thần, cầu chư võng lượng.
(經)是故我今對佛世尊,及天龍八部,人非人等,勸於閻浮提眾生,臨終之日,慎勿殺害,及造惡緣,拜祭鬼神,求諸魍魎。
(Kinh: Vì thế, con nay đối trước đức Phật Thế Tôn và trời rồng tám bộ, cùng với nhân, phi nhân v.v… khuyên chúng sanh trong Diêm Phù Đề, trong ngày lâm chung, hãy cẩn thận đừng giết hại, và tạo các
ác duyên, cúng tế quỷ thần, cầu các loài quỷ quái[1]).
Đây là nhờ khi lâm chung tu phước, người mất lẫn kẻ còn đều được lợi ích, nên bèn khuyên nhủ. Nói “ngã kim” (con nay) thể hiện ý nghĩa: Một tay gánh vác chuyện lợi ích kẻ còn lẫn người mất. Đối với ngày lâm chung, kinh Tứ Tự Xâm dạy: “Ngũ dục chi lạc, bất khả thường đắc. Bệnh trước sàng thời, nhiễu động bất an. Tử mạng hốt chí, thân đương bại hoại, an đắc cửu hồ?” (Niềm vui ngũ dục chẳng thể thường đạt được. Bệnh nằm mọp trên giường, vật vã, bất an. Số chết bỗng đến, thân sẽ hư nát, há giữ lâu dài ư?)
“Thận vật” (hãy cẩn thận, đừng nên): “Thận” (慎) là luôn cẩn trọng. Lòng người giả dối, [bề ngoài] rành rành là tu hành, [nhưng thật ra] ngấm ngầm phóng đãng. Chỉ có Thận (thận trọng) là chân tâm; vì thế [chữ Thận] do Tâm (心) và Chân (真) ghép lại. “Vật” (勿, đừng), hàm ý răn cấm. Đã cẩn thận, lại răn cấm, kiên quyết thề chẳng sát hại! “Ác duyên” là những chuyện giúp cho sát hại được thành. “Bái tế quỷ thần”: “Bái” (拜) là phủ phục, tỏ lòng tôn kính. Người ta bái bèn khom mình, [chữ Bái] riêng chỉ hai tay của người hành lễ (chữ Bái do hai chữ Thủ (手) ghép lại), vì tay và vẻ mặt thể hiện sự cung kính, là điều tốt đẹp trong lễ nghi. Sách Thuyết Uyển[2] nói: “Tế (祭) là Tác (索). Tác là trọn hết, tức là đứa con hiếu trọn hết tấm lòng đối với cha mẹ”. Tế phát sanh từ cái tâm muốn báo đền nguồn cội; lòng xót xa, lo làm sao có thể thực hiện? Do vậy, bèn dùng cỗ bàn để hiến dâng, mong sao [người đã khuất] có thể hưởng, do lòng tinh thành mà ra. Nay bái tế quỷ thần, võng lượng, điều này đã được nói tường tận trong bộ [Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu Hương] Nhũ Ký (trong kinh Phổ Diệu, ngài Ca Diếp nói: “Tự niệm từ tự lai, dĩ lịch bát thập niên, phụng phong, thủy, hỏa thần, nhật, nguyệt, chư sơn, xuyên, túc dạ bất giải phế, tâm trung vô tha niệm, chí cánh vô sở hoạch, trị Phật nãi an ninh” (Con tự nghĩ từ lúc cúng bái đến nay đã suốt tám mươi năm, thờ phụng các thần gió, nước, lửa, mặt trời, mặt trăng, các núi sông, ngày đêm chẳng lười nhác, sơ sót. Trong tâm không có ý niệm nào khác, rốt cuộc, vẫn không đạt được gì, [thế nhưng] gặp Phật bèn yên ổn) là nói về chuyện này).
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2. Chuyển thích sở dĩ (giải thích nguyên do)
3.2.3.1.2.1.1.2.2.2.1.2.1. Trực thích (giải thích thẳng vào vấn đề)
(Kinh) Hà dĩ cố? Nhĩ sở sát hại, nãi chí bái tế, vô tiêm hào chi lực, lợi ích vong nhân, đản kết tội duyên, chuyển tăng thâm trọng.
(經)何以故?爾所殺害,乃至拜祭,無纖毫之力,利益
亡人,但結罪緣,轉增深重。
(Kinh: Vì sao vậy? Vì giết hại, cho đến cúng lễ quỷ thần đó, chẳng có mảy may sức lợi ích nào cho người chết, chỉ kết thành tội duyên tăng thêm sâu nặng hơn).
Kinh Thập Phương Thí Dụ nói: “Thiên thượng, thiên hạ quỷ thần, tri nhân thọ mạng, tội phước, đương chí, vị chí, bất năng hoạt nhân, bất năng sát nhân, bất năng sử nhân phú quý, bần tiện, đản dục sử nhân tác ác, phạm sát, nhân nhân suy hao nhi vãng loạn chi, ngữ kỳ họa phước, linh nhân thiết từ tự nhĩ” (Quỷ thần trên trời, dưới đất biết thọ mạng, tội phước của con người sẽ xảy ra, hay chưa xảy đến, nhưng chẳng thể khiến cho con người sống sót, chẳng thể giết người, chẳng thể khiến cho con người phú quý, nghèo hèn, chỉ có thể mong cho con người làm ác, phạm tội giết chóc, rồi do con người bị suy sụp, hao tán, mà đến quấy nhiễu, nói chuyện họa phước của họ, ép họ cúng bái). Vì thế biết, cúng bái quỷ thần vô ích, chẳng có mảy may tác dụng gì lợi ích cho người đã mất!
Kinh Quán Đảnh cũng dạy: “Tạp vật chi tinh, phù du nhân thôn, ký kỳ vô thực, tác chư biến quái, phiến động nhân tâm. Hoặc hữu bạt mị tà sư, dĩ y vi phước, mịch chư phước hựu, dục đắc trường sanh. Ngu si, tà kiến, sát sanh từ tự. Tử nhập địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, vô hữu xuất thời, khả bất thận chi?” (Tinh linh nơi các vật dật dờ trong các thôn làng. Do chúng không có cái ăn, bèn biến hiện các thứ quái đản, khiến cho lòng người xao động [phải cúng bái chúng]. Hoặc có những tà sư thờ phụng yêu quái, cho là chúng có thể tạo phước, mong chúng ban phước, mong được trường sanh. Do ngu si, tà kiến, họ bèn sát sanh để cúng tế. Họ chết đi bèn vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chẳng có lúc thoát ra, há chẳng cẩn thận ư?) Vì thế, chỉ kết tội duyên tăng thêm sâu nặng hơn! Do vậy, kinh Tứ Tự Xâm dạy: “Hữu sự thiên, địa, thủy, hỏa, nhật, nguyệt, sơn, xuyên chư quỷ thần giả, vĩnh vô sở ích. Cố tại châu toàn sanh tử chi lý, bất năng thoát xuất la võng lao ngục” (Có những kẻ thờ trời, đất, nước, lửa, mặt trời, mặt trăng, các quỷ thần nơi sông núi, vĩnh viễn vô ích! Vì thế, tuần hoàn trong vòng sanh tử, chẳng thể thoát khỏi lưới rập, lao ngục). Các kinh đã nói cặn kẽ chuyện này, tiếc là người đời chẳng tin tưởng!
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2. Phức sớ (giải thích cặn kẽ)
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2.1. Ưng báo thiện giả, phản đắc ác (người đáng lẽ được hưởng quả báo lành đâm ra mắc phải quả báo ác)
(Kinh) Giả sử lai thế, hoặc hiện tại sanh, đắc hoạch thánh phần, sanh nhân thiên trung, duyên thị lâm chung, bị chư quyến thuộc tạo thị ác nhân, diệc linh thị mạng chung nhân, ương lụy đối biện, vãn sanh thiện xứ.
(經)假使來世,或現在生,得獲聖分,生人天中,緣是臨終,被諸眷屬造是惡因,亦令是命終人,殃累對辯,晚生善處。
(Kinh: Giả sử đời sau, hoặc trong đời hiện tại, người đó có phần đắc thánh quả, sẽ sanh vào cõi trời hay cõi người, nhưng do lúc lâm chung, bị các quyến thuộc tạo cái nhân ác ấy, cũng khiến cho người mạng chung bị phiền lụy phải đối chất, chậm sanh vào chốn lành).
Đoạn kinh văn này chia làm hai tiểu đoạn:
– Đoạn thứ nhất, [nói đến chuyện người mất] đáng lẽ sanh vào chốn lành.
– Đoạn thứ hai, do điều ác lôi kéo mà chẳng thể sanh!
“Thánh phần” tức Thất Bồ Đề Phần, hoặc Bát Thánh Đạo Phần, Bồ Tát quả phần, hoặc là cũng giống như chữ Phần trong kinh Pháp Hoa, [ngài A Nan, La Hầu La v.v… nói] “ngã đẳng diệc ưng hữu phần” (chúng con cũng nên có phần) [khi cầu đức Phật thọ ký cho hàng hữu học Thanh Văn]. Tức là người chết lúc bình nhật đã có thiện nhân, đáng nên có phần đạt được thiện quả, và sanh làm trời, người. Chỉ vì lúc lâm chung, bị quyến thuộc gây tạo nghiệp nhân giết chóc, do những chúng sanh đã bị giết đòi mạng, [người mất] ắt phải trải qua sự đối chất, tranh biện trong âm ty. Tuy ương lụy [cuối cùng] cũng được giải quyết ổn thỏa, nhưng duyên sanh về [chốn tốt lành] đã bị chậm trễ. Sư Đạo Thế nói: “Cha mẹ khuất núi, [con cái] giết nhiều sanh mạng [để cúng bái], cha chìm ngập trong nỗi khổ nặng nề, mẹ riêng hứng chịu vạc sôi, than hồng tăng thêm. Vì thế, trôi lăn trong tam giới, dằng dai mãi trong lục đạo, bốn đường dễ về, vạn kiếp khó thoát. U linh mẹ hiền đau đớn vì sự độc dữ do con cái ngỗ nghịch gây ra” chính là nói về chuyện này, chẳng đáng xót xa lắm ư?
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2.2. Ưng thọ ác giả, cánh tăng nghiệp (người
đáng phải chịu ác, sẽ tăng thêm nghiệp)
(Kinh) Hà huống lâm mạng chung nhân, tại sanh vị tằng hữu thiểu thiện căn, các cứ bổn nghiệp, tự thọ ác thú. Hà nhẫn quyến thuộc, cánh vi tăng nghiệp?
(經)何況臨命終人,在生未曾有少善根,各據本業,自受惡趣。何忍眷屬,更為增業?
(Kinh: Huống chi người sắp mạng chung, lúc sống chưa hề có chút thiện căn nào, xét theo nghiệp của người ấy, sẽ tự thọ thân trong đường ác, quyến thuộc sao nhẫn tâm tăng thêm nghiệp cho người ấy?)
Ý “hà huống” trong đoạn này là: Trong phần trên là nói những người có thiện nghiệp, đáng sanh về chốn tốt lành, mà còn bị ác nghiệp lôi kéo, chậm sanh về chốn tốt lành. Huống hồ những kẻ bản thân chẳng có thiện căn, đáng thọ thân trong đường ác! Nay lại tăng thêm nghiệp sát hại, há người chết chẳng bị tăng thêm ác nghiệp nặng nề ư? Ví như ôm đá chìm sâu dưới vực, người khác lại ném thêm nhiều vật để dìm xuống, mong thoát ra, khó khăn lắm thay! Vì thế, kinh Ưu Bà Tắc Giới dạy: “Nhược phụ táng dĩ, đọa ngạ quỷ trung, tử vi truy phước, đương tri tức đắc. Nhược thuyết sát sanh từ tự đắc phước, thị nghĩa bất nhiên! Hà dĩ cố? Bất kiến thế nhân chủng Y Lan tử, sanh Chiên Đàn thụ! Đoạn chúng sanh mạng, nhi đắc phước đức. Nhược dục tự giả, đương dụng hương, hoa, nhũ, lạc, tô, quả, vị vong truy phước” (Nếu cha đã mất, đọa trong ngạ quỷ, con vì cha làm phước truy tiến, hãy nên biết cha sẽ hưởng được. Nếu nói sát sanh cúng quải mà được phước, nghĩa ấy chẳng phải đúng! Vì sao vậy? Chẳng thấy người đời gieo hạt Y Lan[3] mà được cây Chiên Đàn; đoạn mạng chúng sanh mà được phước đức ư? Nếu muốn cúng quải, hãy nên dùng hương, hoa, sữa, bơ, kem, trái cây để làm phước truy tiến cho người đã khuất). Vì thế, hai chữ “hà nhẫn” (sao lại nhẫn tâm) trở đi có ý “nhẫn tâm quá đỗi, tăng thêm nghiệp [cho người chết]”!
3.2.3.1.2.2.1.2.2.2.2. Dụ hợp (nêu thí dụ để làm rõ nghĩa)
(Kinh) Thí như hữu nhân, tùng viễn địa lai, tuyệt lương tam nhật, sở phụ đảm vật, cường quá bách cân, hốt ngộ lân nhân, cánh phụ thiểu vật. Dĩ thị chi cố, chuyển phục khổn trọng.
(經)譬如有人,從遠地來,絕糧三日,所負擔物,強過百觔,忽遇隣人,更附少物。以是之故,轉復困重。
(Kinh: Ví như có người từ nơi xa đến, cạn hết lương thực đã ba ngày, mang vác đồ vật nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ hàng xóm nhờ mang thêm chút vật. Do bởi lẽ đó, người ấy càng khốn khổ, nặng nề hơn).
“Hữu nhân” (có người) ví như chúng sanh trong Diêm Phù. “Tùng viễn địa lai” (từ xứ xa đến): Ví như sanh tử bao nhiêu đại kiếp kể từ vô thỉ đến nay, thiếu sót tư lương ba thiện căn đã lâu, có thể biết là bụng rỗng, sức mòn! Lại mang vác gánh nặng Ngũ Ấm nặng hơn trăm cân. Đấy là nói chẳng biết pháp Ngũ Ấm vốn là Không, lầm lạc so đo “ta, người”, tạo đủ Thập Ác. Mỗi thứ đều trọn đủ như gánh nặng trăm cân. Chuyện này giống hệt như bản thân người sắp mạng chung chẳng có thiện căn. Từ chữ “hốt ngộ” (bỗng gặp) trở đi, ứng với câu “xét theo nghiệp của kẻ đó”, “lân nhân” (kẻ hàng xóm) ứng với quyến thuộc. “Thấu hiểu tâm” là thân hữu. Không thấu hiểu tâm thì là “lân nhân”. “Cánh phụ thiểu vật” (nhờ mang thêm chút vật), ví như lâm chung, [quyến thuộc] lại còn sát hại. “Chuyển phục khốn trọng” (trở thành khốn
khổ, nặng nề hơn): Ứng với chuyện càng tăng thêm nghiệp.
3.2.3.1.2.2.1.3. Kết hiển tu thiện đa thiểu tự đắc (tiểu kết và chỉ rõ tu thiện nhiều hay ít thì chính mình đều tự đạt được)
(Kinh) Thế Tôn! Ngã quán Diêm Phù chúng sanh, đản năng ư chư Phật giáo trung, nãi chí thiện sự, nhất mao, nhất đế, nhất sa, nhất trần, như thị lợi ích tất giai tự đắc.
(經)世尊!我觀閻浮眾生,但能於諸佛教中,乃至善事,一毛一渧,一沙一塵,如是利益悉皆自得。
(Kinh: Bạch đức Thế Tôn! Con thấy chúng sanh Diêm Phù chỉ có thể ở trong giáo pháp của chư Phật mà làm thiện sự, dẫu chỉ bằng một mảy lông, một giọt nước, một hạt cát, một hạt bụi, sẽ đều tự đạt được lợi
ích như thế).
Đây là nói tu tập thiện sự trong Phật pháp, dẫu chỉ bằng một sợi lông, một giọt nước v.v… cũng đều tự đạt được lợi ích. Kinh Đại Bi dạy: “Nhược hữu chúng sanh, ư chư Phật sở, nhất phát tín tâm, như thị thiện căn, chung bất bại vong. Như nhân tích nhất mao vi bách phần, thủ nhất phần mao, triêm nhất trích thủy, trì ký ngã sở, ngôn ‘mạc linh thử thủy nhi hữu tăng giảm’. Như Lai tức thọ bỉ ký, trí Hằng hà trung. Như thị thủy trích bất tăng, bất giảm, cộng đại thủy tụ, tiệm nhập đại hải. Giả sử thị nhân trụ thế nhất kiếp, ngã diệc đắc trụ nhất kiếp. Bỉ nhân chí kiếp tận thời, nhi lai ngã sở, tác như thị ngôn: ‘Ngã bổn ký thủy, kim hữu vô da?’ Như Lai nhĩ thời, tri bỉ thủy trích tại đại hải trung, kiến tri trụ xứ, bất tăng, bất giảm, bình đẳng như cố, trì hoàn bỉ nhân. A Nan! Như Lai hữu đại thần thông, ư thọ ký nhân trung tối tôn, tối thắng. Nhược ư Phật sở ký phó như thị vi tế thủy trích, kinh ư cửu viễn, nhi bất khuy tổn. Tế mao, dụ tâm ý thức. Hằng hà, dụ sanh tử lưu. Nhất trích thủy, dụ nhất phát tâm vi thiểu thiện căn. Đại hải dụ Như Lai. Sở ký nhân dụ thanh tín đẳng. Trụ nhất kiếp, dụ Như Lai thọ bỉ ký thủy, chung bất khuy tổn. Như thị A Nan! Nhược ư Phật sở, nhất phát tín tâm, thiện căn bất thất. Hà huống chư dư thắng diệu thiện căn? Ngã thuyết thị nhân, nhất thiết tất thị thú Niết Bàn quả” (Nếu có chúng sanh ở nơi chư Phật vừa phát tín tâm, thiện căn như thế trọn chẳng hư mất. Như người chẻ một sợi lông làm trăm phần; lấy một phần lông ấy, thấm một giọt nước, cầm đến gởi ta, nói “đừng để cho lượng nước này có tăng hay giảm”. Như Lai liền nhận lấy, đặt nó trong sông Hằng. Giọt nước như thế chẳng tăng, chẳng giảm, ở chung với lượng nước to [của sông Hằng], dần dần vào trong biển cả. Giả sử người ấy sống một kiếp, ta cũng trụ thế một kiếp. Người ấy cho đến khi kiếp tận, đến chỗ ta, nói như thế này: “Nước tôi vốn gởi đó, nay có hay không?” Lúc bấy giờ, Như Lai biết giọt nước ấy ở trong biển cả, biết chỗ ở của nó, chẳng tăng, chẳng giảm, bình đẳng như cũ, đem trả cho người ấy. Này A Nan! Như Lai có đại thần thông, là bậc tối tôn tối thắng trong những người nhận lời gởi gắm. Nếu ở nơi Phật, gởi gắm giọt nước vi tế như thế, trải qua thời gian lâu xa mà chẳng hao hụt. Sợi lông nhỏ ví như tâm ý thức. Sông Hằng ví như dòng sanh tử. Một giọt nước ví như thiện căn phát tâm nhỏ bé. Biển cả ví như Như Lai. Người gởi gắm ví như hàng thanh tín nam, nữ. Trụ một kiếp ví như Như Lai nhận nước gởi gắm ấy, trọn chẳng hao hụt. Như thế đó A Nan, nếu phát tín tâm nơi Phật, thiện căn chẳng mất. Huống hồ các thiện căn thù thắng nhiệm mầu khác! Ta nói người ấy hết thảy đều hướng đến quả Niết Bàn).
3.2.3.1.2.2.2. Đại Biện trợ hiển (trưởng giả Đại Biện giúp hiển thị giáo pháp)
3.2.3.1.2.2.2.1. Đại Biện hưng vấn (Đại Biện nêu câu hỏi)
(Kinh) Thuyết thị ngữ thời, hội trung hữu nhất trưởng giả, danh viết Đại Biện. Thị trưởng giả cửu chứng Vô Sanh, hóa độ thập phương, hiện trưởng giả thân.
(經)說是語時,會中有一長者,名曰大辯。是長者久證無生,化度十方,現長者身。
(Kinh: Khi nói lời ấy, trong hội có một vị trưởng giả, tên là Đại Biện. Vị trưởng giả này chứng Vô Sanh từ lâu, hóa độ mười phương, hiện thân trưởng giả).
Trước hết, người trùng tuyên kinh trần thuật lời tán thán, kế đó là trưởng giả thưa hỏi. “Trưởng giả” (Śresthin) như trong phần trước đã giải thích. Chữ Bát Để Bà (Vākpaṭutva) trong tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Biện Tài. Biện (辯) là nói. Xoay chuyển không vướng mắc, biện định rõ ràng, cho nên nói là “biện tài vô ngại”. Có bốn loại: Một là Nghĩa, hai là Pháp, ba là Từ, bốn là Nhạo Thuyết. Trưởng giả trọn đủ bốn đức ấy, nên tên là Đại Biện. Biện mà nói là Đại thì là: Từ trong một nghĩa mà diễn giải vô lượng nghĩa, từ trong một pháp diễn thành vô lượng pháp, từ trong một từ ngữ diễn thành vô lượng từ ngữ, cho đến tột cùng đời vị lai thích nói ba pháp môn này, cho nên có danh xưng tốt lành ấy. Đây là nêu danh, kế tiếp là ca ngợi phẩm đức. “Cửu chứng Vô Sanh” (chứng Vô Sanh đã lâu): “Vô” nghĩa là không. Thường nói là các pháp chẳng sanh, Bát Nhã chẳng sanh, “bất sanh” chẳng sanh, thì gọi là Đại Niết Bàn. Vị này đã chứng đắc Niết Bàn như thế từ lâu. Địa vị cao rộng, thuộc hàng Đẳng Giác, vì muốn hóa độ mười phương, cho nên hiện thân trưởng giả.
(Kinh) Hiệp chưởng cung kính, vấn Địa Tạng Bồ Tát ngôn: “Đại sĩ! Thị Nam Diêm Phù Đề chúng sanh mạng chung chi hậu, tiểu đại quyến thuộc vị tu công đức, nãi chí thiết trai, tạo chúng thiện nhân”.
(經)合掌恭敬,問地藏菩薩言:大士!是南閻浮提眾生命終之後,小大眷屬為修功德,乃至設齋,造眾善因。
(Kinh: Chắp tay, cung kính, hỏi Địa Tạng Bồ Tát rằng: “Thưa đại sĩ! Chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Đề này sau khi mạng chung, các quyến thuộc lớn nhỏ vì người ấy tu các công đức, cho đến sắp đặt cỗ chay, tạo các nhân lành”).
Trong lời hỏi, [ông Đại Biện hỏi] “thị Nam Diêm Phù Đề” (cõi Nam Diêm Phù Đề này) vì phần kinh văn trước đó đã nói cặn kẽ: Khi lâm chung và sau khi đã mất, hãy nên tu phước, cho nên ông dùng ngay ý ấy để hỏi. “Công đức” là những việc như treo phan v.v… “Thiết trai” (sắp đặt cỗ chay) tức là dâng cơm cho chư Tăng. “Thiện nhân” (nhân lành) là như bố thí, tạo tượng v.v…
(Kinh) Thị mạng chung nhân, đắc đại lợi ích, cập giải thoát phủ?
(經)是命終人,得大利益,及解脫不?
(Kinh: Người mạng chung có được lợi ích to lớn và giải thoát hay chăng?)
Từ “mạng chung” trở đi là phần nghi vấn chánh yếu. “Mạng” [theo quan niệm thông thường của Nho gia và Đạo giáo] là “sự tốt lành do trời ban”, là cội rễ tự nhiên nơi tánh, người học cần phải nắm vững. Khí chất bẩm thọ từ trời, cũng được gọi là Mạng. Do “trong, đục, dầy, mỏng” sai khác, mà “trí, ngu, hiền, chẳng ra gì” tách biệt. Khí số (vận mạng) nơi trời cũng gọi là Mạng. Hễ cái gì có sanh thì “thọ, yểu, giàu, nghèo, sang, hèn” đều đã định sẵn. Đấy đều là những ý nghĩa vay mượn của Mạng. Vua hạ lệnh cũng gọi là Mạng. Chữ Mạng (命) được ghép từ chữ Lệnh (令) và Khẩu (口), thuộc loại Hội Ý. Vua được tôn trọng như trời, vạn vật nghe theo mạng trời, vạn sự tuân theo lệnh vua. Vì thế nói là Mạng. Do vậy, Châu Văn Công nói: “Mạng giống như lệnh”. Đấy là những ý nghĩa tinh diệu về Mạng trong đạo Nho.
Nhưng họ chẳng biết cội nguồn của Mạng chính là do nhân duyên của nghiệp từ đời trước. Khi Trung Hữu (Trung Ấm) nương gá vào thai, thức thứ tám gieo vào trong ấy, mỗi hơi thở đều theo mẹ hít ra thở vào, vận mạng được thành lập ngay trong lúc đó. Do vậy, hễ thức còn nương gá thì thân còn tồn tại, mạng ở trong ấy. Cho nên nói “sắc và tâm duy trì lẫn nhau chẳng dứt thì gọi là Mạng”. Nếu một hơi thở không hít vào được nữa, sắc chất hư nát, hồn thần sẽ rời đi, gọi là “mạng chung”. Như vậy thì Sanh chẳng phải là do mạng trời mà sanh, kết thúc cũng chẳng do trời đoạt mà chấm dứt; mà là “duyên hội tụ bèn sanh, duyên hết bèn chết”. “Tạo” là tạo tác. Phàm làm các thiện sự, ắt phải cậy vào bảy chi nơi thân và miệng để tạo tác, lo toan, nhưng ắt cần phải do cái tâm dấy lên. “Được lợi ích và giải thoát” tức là [thắc mắc] người nơi dương trần tu phước, có thể khiến cho người chết thật sự đạt được lợi ích, giải thoát sanh tử hay không? Hay là chẳng được lợi ích, mà cũng chẳng thoát khỏi sanh tử?
3.2.3.1.2.2.2.2. Địa Tạng thùy đáp (ngài Địa Tạng rủ lòng trả lời)
3.2.3.1.2.2.2.2.1. Hứa thuyết (hứa nói)
(Kinh) Địa Tạng đáp ngôn: “Trưởng giả! Ngã kim vị vị lai, hiện tại nhất thiết chúng sanh, thừa Phật oai lực, lược thuyết thị sự”.
(經)地藏答言:長者!我今為未來現在一切眾生,承佛威力,略說是事。
(Kinh: Ngài Địa Tạng đáp rằng: “Này trưởng giả! Tôi nay vì hết thảy chúng sanh trong đời vị lai và hiện tại, nương theo oai lực của Phật mà nói đại lược chuyện ấy”).
Ý nghĩa dễ hiểu.
3.2.3.1.2.2.2.2.2. Đáp thị (trả lời, chỉ dạy)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.1. Lâm chung văn danh tất thoát (lâm chung nghe danh hiệu [chư Phật, Bồ Tát, Bích Chi Phật] đều được giải thoát)
(Kinh) Trưởng giả! Vị lai, hiện tại chư chúng sanh đẳng, lâm mạng chung nhật, đắc văn nhất Phật danh, nhất Bồ Tát danh, nhất Bích Chi Phật danh, bất vấn hữu tội, vô tội, tất đắc giải thoát.
(經)長者!未來現在諸眾生等,臨命終日,得聞一佛名,一菩薩名,一辟支佛名,不問有罪無罪,悉得解脫。
(Kinh: Này trưởng giả! Các chúng sanh trong đời vị lai và hiện tại, vào ngày sắp mạng chung, được nghe danh hiệu của một vị Phật, một vị Bồ Tát, hoặc một vị Bích Chi Phật, chẳng cần biết là có tội hay vô tội, đều được giải thoát).
Đã nói “lâm chung được nghe”, có thể biết là người ấy lúc thường nhật không niệm. Đã nói “văn nhất danh” (được nghe một danh hiệu), chẳng nói đến những chuyện khác, thì lại có thể biết [người ấy vốn chẳng nghe Phật pháp]. Nhưng chẳng luận có tội hay vô tội, đều được giải thoát; vì sao công lực lại thần diệu dường ấy? Ấy là vì sự cấp bách mà tâm chuyên chú. Như người bị đưa đi tử hình, hoặc bị giam chặt trong lao ngục, hoặc bị oán tặc truy bắt, hoặc bị nước lửa bức bách, một lòng cầu thoát khỏi nỗi khổ ấy; cho nên chỗ mong tưởng liền thành tựu. Niệm vào lúc bình thường thì lời nói và hành vi không tương xứng, hoặc tín lực nhẹ, ít, tâm chẳng liên tục, ý có gián đoạn. Vì thế, công phu thường nhật đâm ra lơi là, còn ý niệm lúc lâm chung chóng thành tựu. Như trước kia, quốc vương hỏi sa-môn Na Tiên (Nāgasenā) rằng: “Người trong thế gian làm ác, tới lúc trăm tuổi, lâm chung niệm Phật. Sau khi chết, được sanh về nước Phật, ta không tin lời ấy!” Ngài Na Tiên nói: “Như chất một trăm khối đá to lên thuyền, nhờ thuyền nên đá chẳng bị chìm. Người tuy vốn ác, niệm Phật nhất thời, chẳng vào trong Nê Lê. Đá nhỏ bị chìm, như người làm ác, chẳng biết niệm Phật, liền vào Nê Lê”. Há chẳng phải là do sự cấp bách, tâm chuyên, cho nên công năng vượt xa lúc bình thường ư? Như người vào trận, chẳng tiếc thân mạng, thì được gọi là “kiện nhân” (健人, người mạnh mẽ). Vì thế biết thiện, ác không nhất định, bản thể của nhân duyên là Không. Xét theo hình tích thì có thăng, trầm, nhìn theo Sự bèn có hơn, kém. Một lạng vàng quý hơn trăm lượng bông gòn. Ánh sáng yếu ớt của một bó đuốc, hơn hẳn cỏ chất cao vạn nhận[4]. Hãy xem chuyện lâm chung của ông Trương Chung (tức Trương Thiện Hòa, còn có tên là Quỳ), liền tin lời giải thoát như kinh này đã dạy!
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2. Thị chung hậu tạo phước hoạch nhất (dạy sau khi đã mất mà tạo phước thì người chết hưởng một phần)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.1. Lược minh (nêu đại lược)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.1.1. Trực minh chung hậu hoạch nhất (nói thẳng: Sau khi mất, người chết hưởng một phần phước)
(Kinh) Nhược hữu nam tử, nữ nhân, tại sanh bất tu thiện nhân, đa tạo chúng tội. Mạng chung chi hậu, quyến thuộc tiểu, đại, vị tạo phước lợi. Nhất thiết thánh sự, thất phần chi trung, nhi nãi hoạch nhất. Lục phần công đức, sanh giả tự lợi.
(經)若有男子女人,在生不修善因,多造眾罪。命終之後,眷屬小大,為造福利。一切聖事,七分之中,而乃獲一。六分功德,生者自利。
(Kinh: Nếu có nam tử, nữ nhân, lúc sống chẳng tu nhân lành, tạo nhiều các tội. Sau khi mạng chung, quyến thuộc lớn nhỏ vì người ấy tạo phước để làm lợi. Trong hết thảy các thánh sự, bảy phần thì người mất hưởng một phần. Sáu phần công đức người sống tự hưởng).
Đức Phật vì đại chúng thế tục thuyết pháp, ắt trước hết sẽ bàn về giới, bàn về bố thí, bàn về sanh thiên. Do Thí và Giới chính là thiện nhân để sanh lên trời. Hiềm rằng hết thảy chúng sanh chẳng hiểu “tất cả những gì có trong thế gian rốt cuộc đều là không”, chẳng có gì cả! Lúc an ổn, muôn sự vạn mối, chẳng vì thân toan tính mà đã chuốc lấy muôn tội. Ương họa ứng theo [nghiệp nhân đã tạo] như tiếng vang ứng theo âm thanh, vô thường đưa tới, trói buộc lôi theo, chẳng lìa tù ngục Ngũ Ấm, Lục Suy[5]. Vì thế nói “bất tu thiện nhân, đa tạo chúng tội” (chẳng tu nhân lành, tạo nhiều các tội). Từ “mạng chung” trở đi, [chánh kinh nói đến chuyện] vì người đã mất tu phước tạo lợi ích. Treo phan, bày lọng, thắp đèn, đều là phước nghiệp. Hồi hướng phước nghiệp ấy để giúp [người mất] sanh lên trời hưởng phước, hoặc sanh vào chỗ có phước trong nhân gian. Vì thế nói là “phước lợi”.
“Thánh sự”: “Thánh” có nghĩa là Chánh. Tụng kinh, cúng dường tượng, niệm Phật v.v… đều là những việc chánh đáng trong pháp môn, có thể giúp xuất thế, đạt được thánh quả trong tam thừa. Vì thế nói là “thánh sự”. “Bảy phần được một” là [người chết] được hưởng rất ít, nhưng chẳng uổng phí công lao! Người sống tự được hưởng sáu phần! Vì thế, kinh Vãng Sanh dạy: “Vong hậu tác phước, tử giả thất phần hoạch nhất, dư giả thuộc hiện tại giả” (Chết rồi làm phước thì người chết được một phần [công đức], những phần còn lại thuộc về người còn sống). Hai kinh dạy giống nhau.
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.1.2. Phản hiển tự tu tất đắc (chỉ ngược lại: Tự tu tập thì [những công đức đã làm] đều đạt được)
(Kinh) Dĩ thị chi cố, vị lai, hiện tại thiện nam nữ đẳng, văn kiện tự tu, phần phần kỷ hoạch.
(經)以是之故,未來現在善男女等,聞健自修,分分己獲。
(Kinh: Do vì lẽ ấy, các thiện nam thiện nữ trong vị lai và hiện tại, [đang trong lúc] tai nghe thông tỏ, thân thể mạnh mẽ, hãy tự tu thì mỗi phần [công đức, phước đức đã tu] chính mình đều được hưởng).
Nối tiếp ý câu trên, nói ngược lại nhằm dạy rõ: Nếu chính mình tự tu thì sẽ đạt được toàn bộ lợi ích. “Văn kiện” (聞健) là trong lúc tai nghe thông tỏ, thân thể mạnh mẽ. “Kiện” (健) là “kiến” (建, tạo dựng), hàm ý có thể tạo dựng. Đây là khuyên mọi người hãy tu hành thật sớm. Bởi lẽ, [theo kinh Dịch] Kiện là phẩm đức của quẻ Càn, là tinh túy của thuần dương. [Chữ Kiện (健)] do Nhân (人) và Kiến (建) ghép lại, tức là phỏng theo đạo trời mà lập chí. Chí đã lập, khí sẽ thuận theo. Kinh Dịch chép: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức” (Đạo trời vận hành mạnh mẽ, [do đó], quân tử cũng tự phải không ngừng gắng sức trau luyện cho mình tốt đẹp hơn) là nói đến ý này.
Vì thế, trong kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh, Phổ Quảng Bồ Tát bạch cùng đức Phật: “Nhược thiện nam nữ, vị chung chi thời, nghịch tu sanh thất, nhiên đăng, huyền phan, thỉnh tăng chuyển kinh, đắc phước đa phủ?” (Nếu thiện nam nữ, lúc chưa mất, đã lo tu sanh thất, [tức là] thắp đèn, treo phan, thỉnh tăng đọc kinh [trong khi còn sống suốt bảy ngày] thì có được phước nhiều hay không?) Đức Phật dạy: “Kỳ phước vô lượng” (Phước ấy vô lượng). Bồ Tát lại hỏi: “Phụ mẫu, thân tộc mạng chung thọ khổ, vị kỳ tu phước, đắc phước đa phủ?” (Cha mẹ, thân tộc mạng chung chịu khổ, vì họ tu phước, có được phước nhiều hay chăng?)
Đức Phật dạy: “Thất phần hoạch nhất, duyên tiền sanh bất tín đạo đức cố. Nhược dĩ vong giả nghiêm thân chi cụ, ốc trạch, viên lâm, dĩ thí Tam Bảo, khả bạt địa ngục chi khổ” (Bảy phần phước [thì người chết] được hưởng một phần, do họ lúc còn sống chẳng tin theo đạo đức. Nếu dùng những món trang sức, nhà cửa, vườn, rừng của người chết để cúng thí Tam Bảo, sẽ có thể dẹp trừ nỗi khổ trong địa ngục). Như trong Di Kiên Chí[6] có chép truyện Vương Ôn ở Ngạc Chử gởi kho, sai đầy tớ là Lý Đại viết rồi điểm chỉ. Tự tu trong lúc tai nghe thông suốt, thân thể khỏe mạnh, chớ nên không làm! Người đời có kẻ làm “sanh thất” (cúng thất trong khi còn sống), có kẻ gởi kho sẵn, đừng cho là chuyện vọng tưởng của mấy bà già quê mùa, si dại, để rồi khinh thường vậy!
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2. Tường thị (dạy cặn kẽ)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.1. Thị vong nhân vọng cứu (cho biết người đã mất mong được cứu giúp)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.1.1. Tội phước vị định (tội phước chưa quyết định)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.1.1.1. Cầu cứu chi ý (người chết có ý mong được cứu)
(Kinh) Vô thường đại quỷ, bất kỳ nhi đáo, minh minh du thần, vị tri tội phước, thất thất nhật nội, như si, như lung.
(經)無常大鬼,不期而到,冥冥遊神,未知罪福。七七日內,如癡如聾。
(Kinh: Quỷ lớn vô thường đến bất ngờ, hồn thơ thẩn trong chốn tối tăm, chưa biết tội phước. Trong bốn mươi chín ngày, như si, như điếc).
Từ ngữ Tát Ca Da Tát trong tiếng Phạn được cõi này dịch là Vô Thường. Đại Luận nói: “Hết thảy các pháp hữu vi đều thuộc về nhân duyên, luôn sanh diệt đổi mới, cho nên nói là Vô Thường. Một là vô thường vì pháp liên tục hư hoại. Hai là vô thường vì sanh diệt trong mỗi niệm”. Tông Kính Lục chia [vô thường] thành hai loại và bốn tướng:
– Một là nói theo quả báo thô, tức sanh, lão, bệnh, tử.
– Hai là nói theo Hoặc Nghiệp vi tế, tức sanh, trụ, dị, diệt.
Hai thứ này giống như hai thứ vô thường trong Đại Luận.
“Đại quỷ”: Theo sách Hiếu Kinh Viện Thần Khế đã nói, thần Thái Sơn là cháu nội của Thiên Đế, chủ trì việc triệu hồn người (phủ Đông Nhạc (Thái Sơn) có Thái Bảo chuyên trách truy nhiếp hồn người sống là Ngạc nguyên soái, truy nhiếp hồn người chết là Mạnh nguyên soái, Phong Đô Cửu Khúc truy hồn trảm quỷ Vi nguyên soái. Do vậy, kinh Thanh Linh nói: “Người và vật chết rồi, đều có hồn”. Như Minh Báo Ký chép Lý Sơn Long ở Phùng Dực giữ chức Hiệu Úy đời Đường. Trong niên hiệu Vũ Đức[7], bỗng chết đột ngột, nhưng tim chẳng lạnh, nên người nhà chưa khâm liệm. Bảy ngày sau, ông ta sống lại, tự nói mình bị cõi âm bắt đi. Ông được dẫn tới trước bệ của nhà vua (Diêm vương), vua truyền ông hãy lên tòa tụng kinh Pháp Hoa. Sơn Long vừa tụng tựa đề kinh, một ngàn người cùng tội nhờ phước ấy mà đều thoát tội. Vua sai sứ đưa về. Có ba người nói với Sơn Long: “Vua đã thả ngài, có thể cho chúng tôi chút ít được hay không?” Họ nói: “Sứ giả đi bắt ngài khi trước thì một là Thằng Chủ (người quản lý dây trói), dùng dây đỏ trói ngài. Một là Bổng Chủ, dùng gậy đánh vào đầu ngài. Người nữa là Đại Chủ, dùng cái đãy thâu hơi thở của ngài. Nay thấy ngài được trở về, cho nên xin lại những vật ấy”).
Vì thế, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhân dục chung thời, kiến Trung Ấm tướng, nhược hành ác nghiệp giả, kiến Diêm La trì chư binh trượng, tù chấp tương khứ” (Người sắp lâm chung, thấy tướng Trung Ấm. Nếu là kẻ làm ác, sẽ thấy Diêm La cầm các vũ khí, bắt giữ lôi đi). Vì thế nói là “vô thường đại quỷ”. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Hữu ư thai trung tử, hữu sanh thời mạng chung, hữu tài hành tiện vong, hữu năng tẩu hốt tốt” (Có kẻ chết trong thai, có kẻ sanh ra liền chết, có kẻ vừa mới biết đi liền chết. Có kẻ đã đi được bỗng chết). Vì thế nói “bất kỳ nhi đáo” (bất ngờ mà đến). Nội Đức Luận[8] viết: “Trăm tuổi dễ hết, năm phước khó thường hằng. Dòng sông mạng trôi như ánh chớp qua đi. Đất nghiệp lâu dài như trời cao” là nói về ý này!
“Thần” (thần thức, thần hồn): Đại Luận nói: “Phàm phu do nhớ nghĩ, phân biệt, tùy theo cái tâm ta chấp tướng, cho nên so đo là có thần thức, tức Trung Ấm Thân”. Như vị trời tên là Lục Huyền Sướng đã nói [với ngài Đạo Tuyên luật sư]: “Con người bẩm thọ bảy thức, mỗi thức đều có thần, tâm thức làm chủ. Trong chốn tối tăm, du hành trong hư không, đó gọi là tam đồ tột bậc truân chiên, mù mịt. Bốn dòng mênh mông không ngằn mé”. Vì thế nói là “minh minh du thần” (thần hồn thơ thẩn trong chỗ tối tăm). “Tội phước” tức là Thập Ác, Thập Thiện. Hồn thần đã chẳng biết chính mình tội phước như thế nào, cho nên trong bốn mươi chín ngày như si cuồng, vô tri, như kẻ tai điếc chẳng nghe. Đấy là lúc mới chết.
(Kinh) Hoặc tại chư ty, biện luận nghiệp quả. Thẩm định chi hậu, cứ nghiệp thọ sanh. Vị trắc chi gian, thiên vạn sầu khổ. Hà huống đọa ư chư ác thú đẳng.
(經)或在諸司,辯論業果。審定之後,據業受生。未測之間,千萬愁苦。何況墮於諸惡趣等。
(Kinh: Hoặc ở tại các ty, biện luận nghiệp quả. Sau khi thẩm định, căn cứ theo nghiệp mà thọ sanh. Trong khi chưa quyết định, đã là ngàn vạn sầu khổ; huống hồ khi đọa vào các đường ác).
Từ “hoặc tại” (hoặc ở trong) trở đi, nói đến sự tra xét sau khi chết. Theo Đạo Tạng, “chư ty” có nhiếp phách, truy hồn, tróc sanh (bắt kẻ sống), lạc tử (bắt người chết), thưởng thiện, phạt ác, sát quá (phán xét lỗi lầm), củ phi (uốn nắn những sai trái). Hiển Ứng Thái Bảo Nhiếp Hồn thuộc Nhạc phủ (Đông Nhạc phủ của thần núi Hoa Sơn, tức Đông Nhạc Đế Quân) là Châu Tướng Quân. Cũng có phán quan lo việc tróc nã, áp tải, truy án, có các vị án chủ trông coi việc quản thúc, bắt giữ tội nhân đối chiếu với các chứng cớ. Theo kinh Tịnh Độ Tam Muội, dưới vua Diêm La có năm vị quan. Một là Tiễn Quan cấm sát, hai là Thủy Quan cấm đạo (nghiêm cấm trộm cắp), ba là Thiết Quan cấm dâm, bốn là Thổ Quan cấm lưỡng thiệt, năm là Thiên Quan cấm rượu. Đấy đều là các ty trong cõi âm.
“Biện luận nghiệp quả”: Thiện ác mỗi loại đều có ba phẩm. Khi tạo thì tâm cảnh khác nhau, tùy theo từng việc đã làm mà nhận được quả báo. Trời chẳng phán định oan uổng quá mức, bình đẳng, chánh trực bất nhị. Dựa theo việc đã làm mà mà lưới trời xử trị. Vì thế, cần phải biện luận. Nếu sau khi thẩm định, căn cứ theo nghiệp mà thọ sanh, như Luận nói: “Hết thảy những điều bất thiện đều là cái nhân của địa ngục. Ngoài những điều bất thiện ấy, sanh vào súc sanh, ngạ quỷ v.v…” Theo Minh Tường Ký, Triệu Thái sau khi chết, được phủ quân (Đông Nhạc Đế Quân) sai làm Thủy Quan Đô Đốc trông coi các chuyện trong địa ngục. Ông ta thấy một cái thành vuông vắn hơn hai trăm dặm, gọi là Thọ Biến Hình Thành (thành thọ thân biến hình).
Những kẻ đã chịu tra khảo, trừng trị trong địa ngục xong, sẽ ở trong thành này chịu quả báo biến đổi. Triệu Thái vào trong thành ấy, thấy mấy trăm nha lại thuộc các ty cục đang so sánh đối chiếu văn thư, nói kẻ sát sanh sẽ làm con phù du, sáng sanh, tối chết. Kẻ trộm cướp sẽ làm lợn, dê, bị người ta mổ, xẻ. Kẻ dâm dật sẽ làm chim hạc, cò, cheo, hoẵng. Kẻ nói đôi chiều, sẽ làm diều, cú vọ, cú mèo. Kẻ trốn nợ sẽ làm lừa, la, trâu, ngựa. Vì thế nói là “cứ nghiệp thọ sanh” (căn cứ theo nghiệp mà thọ sanh).
Theo kinh Chánh Pháp Niệm Xứ và luận Câu Xá, đúng là do tội nhân vì ác nghiệp hun đúc cái tâm, khiến cho tâm đổi khác, từ trong Không mà lầm lạc thấy có. Thật ra không có Diêm La trong ấy phán xét các tội nhân; nhưng đã do nghiệp huân tập, liền hư vọng thấy những cảnh ấy, tội nhân cho là thật, chẳng hư huyễn. Vì thế, sau khi người ấy mới chết, trước lúc thẩm định, chẳng suy lường được tội phước của chính mình nhiều ít ra sao, đã ngàn muôn lo lắng, ưu sầu, khổ sở lắm nỗi, đã là chẳng thể nói nổi! Huống hồ đọa vào các đường ác, nỗi khổ sở ấy càng quá hơn nữa!
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.1.1.2. Cầu cứu chi thời (đấy là lúc cầu cứu)
(Kinh) Thị mạng chung nhân, vị đắc thọ sanh, tại thất thất nhật nội, niệm niệm chi gian, vọng chư cốt nhục quyến thuộc, dữ tạo phước lực cứu bạt.
(經)是命終人,未得受生,在七七日內,念念之間,望
諸骨肉眷屬,與造福力救拔。
(Kinh: Người mạng chung ấy chưa được thọ sanh, trong vòng bốn mươi chín ngày, trong mỗi niệm đều mong ngóng các quyến thuộc ruột thịt giúp tạo phước lực để cứu vớt).
Sách Phật Tổ Thống Kỷ nói cúng trai trong bốn mươi chín ngày. Du Già Sư Địa Luận nói người chết đi, thân Trung Hữu nếu chưa có duyên được thọ sanh, sẽ tồn tại nhiều nhất là bảy ngày bèn chết đi, rồi lại sanh. Lần lượt sống chết như thế cho tới bốn mươi chín ngày, quyết định được thọ sanh.
Nếu có duyên để thọ sanh [sớm hơn] thì không nhất định. Kinh nói những kẻ cực thiện hoặc cực ác, không có thân Trung Hữu (Trung Hữu (Antarābhava) còn gọi là Trung Ấm. Cực thiện liền sanh Tịnh Độ, kém hơn thì sanh làm trời, người. Cực ác liền đọa địa ngục ngay trong ngày tử vong, không trải qua giai đoạn Trung Ấm). Sách lại dẫn Thích Thị Yếu Lãm[9] nói: Nay người đã chết, cứ mỗi bảy ngày, ắt phải sắp đặt cỗ chay làm phước truy tiến, gọi là “trai thất”, khiến cho Trung Hữu có chủng tử, chẳng chuyển sanh vào đường ác. Nay người đời trong bốn mươi chín ngày làm công đức, chính là để an ủi lòng mong mỏi được cứu vớt của người đã mất.
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.1.2. Thẩm định thọ báo (thẩm định, hứng chịu báo ứng)
(Kinh) Quá thị nhật hậu, tùy nghiệp thọ báo. Nhược thị tội nhân, động kinh thiên bách tuế trung, vô giải thoát nhật. Nhược thị Ngũ Vô Gián tội, đọa đại địa ngục, thiên kiếp, vạn kiếp, vĩnh thọ chúng khổ.
(經)過是日後,隨業受報。若是罪人,動經千百歲中,無解脫日。若是五無間罪,墮大地獄,千劫萬劫,永受眾苦。
(Kinh: Sau ngày ấy, sẽ theo nghiệp thọ báo. Nếu là tội nhân, sẽ trải qua trăm ngàn năm, chẳng có ngày giải thoát. Nếu là tội Ngũ Vô Gián, đọa trong đại địa ngục ngàn kiếp, vạn kiếp, hứng chịu các khổ mãi mãi).
“Theo nghiệp thọ báo”: Nhân quả chẳng mất. Sách Pháp Uyển Châu Lâm nói: “Có hình sẽ hiện bóng; có âm thanh, ắt có tiếng vang. Chẳng thấy hình còn mà bóng mất, [chẳng thấy] âm thanh vẫn tiếp tục mà tiếng vọng lặng câm! Thiện ác báo đền là lẽ đương nhiên. Mong hãy tin sâu, đừng suy đoán đến nỗi lỡ làng!” Theo kinh, có hiện báo, sanh báo, và hậu báo khác nhau. Trong kinh Trường A Hàm quyển sáu, đức Phật dạy: “Phù bất thiện hạnh, hữu bất thiện báo, vi hắc minh hạnh, tắc hữu hắc minh báo. Phù hành thiện pháp, tất hữu thiện báo. Hành thanh bạch hạnh, tất hữu bạch báo” (Phàm là do hạnh bất thiện, sẽ có quả báo bất thiện. Làm hạnh tối tăm, sẽ có quả báo tối tăm. Phàm làm thiện pháp, ắt có thiện báo. Làm hạnh trắng sạch, ắt có quả báo trắng sạch). Các tội nhân ấy sẽ thọ quả báo tối đen. Những kẻ thuộc trung hạ phẩm sẽ đọa trong biên tiểu địa ngục (các địa ngục nhỏ và phụ), ngạ quỷ, súc sanh, xoay vần trong tam đồ. Cho nên trải qua trăm ngàn năm, chẳng có ngày giải thoát! Tội Ngũ Vô Gián chính là thượng phẩm Thập Ác, cho nên vĩnh viễn chẳng có lúc thoát ra. Kinh Tứ Thỉ nói: “Thân hạnh bất thiện, khẩu hạnh bất thiện, ý hạnh bất thiện, thân hoại mạng chung, cực thọ khổ báo” (Thân hạnh bất thiện, khẩu hạnh bất thiện, ý hạnh bất thiện, thân hoại, mạng chung, chịu khổ báo cùng cực) là nói về chuyện này!
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.2. Khuyến quyến thuộc tu trai (khuyên quyến thuộc làm chay cúng dường Tam Bảo)
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.2.1. Thị doanh trai pháp (dạy cách chuẩn bị cỗ chay)
(Kinh) Phục thứ trưởng giả! Như thị tội nghiệp chúng sanh, mạng chung chi hậu, quyến thuộc cốt nhục vị tu doanh trai, tư trợ nghiệp đạo. Vị trai thực cánh, cập doanh trai chi thứ, mễ cam, thái diệp, bất khí ư địa. Nãi chí chư thực, vị hiến Phật, Tăng, vật đắc tiên thực.
(經)復次長者!如是罪業眾生,命終之後,眷屬骨肉為修營齋,資助業道。未齋食竟,及營齋之次,米泔菜葉不棄
於地。乃至諸食,未獻佛僧,勿得先食。
(Kinh: Lại này ông trưởng giả! Chúng sanh tội nghiệp như thế, sau khi mạng chung, quyến thuộc cốt nhục vì người ấy sắp đặt cơm chay cúng dường, để giúp cho nghiệp đạo của người đó. Lúc chư tăng chưa thọ trai xong, và sau khi nấu xong cỗ chay, nước gạo, lá rau, đừng vứt bỏ nơi đất. Thậm chí các món ăn nếu chưa dâng lên Phật và Tăng, đừng nên ăn trước).
Đầu tiên là khuyên nên làm cỗ chay dâng cúng [Tam Bảo]. Đấy là nói rõ dâng cơm lên Tam Bảo, chẳng phải là “không ăn quá Ngọ thì gọi là Trai”. Nước gạo, lá rau đừng vứt bỏ nơi đất, hãy nên chứa trong đồ đựng. Sau khi cúng trai tăng xong, sẽ thí cho súc sanh. Theo Phật Thuyết Hộ Tịnh Kinh, cần phải giữ cho tay sạch sẽ khi vo gạo, rửa rau, cũng đừng nên dùng tay bất tịnh chạm vào đồ ăn thanh tịnh. “Vị hiến” (lúc chưa dâng cúng) là dạy về cách trai tăng. Đại Luận dẫn kinh nói: Phật là thân kim cang, không cần phải ăn uống, nhưng vì độ chúng sanh, hiện có ăn uống, chứ Ngài thật sự không ăn. Dâng thức ăn lên Phật, mà Phật chưa dùng, người khác sẽ chẳng thể tiêu. Vì thế, chưa dâng cúng lên Phật, Tăng, đừng ăn trước! Kinh Hộ Tịnh nói: “Nhất thiết hiền giả thí thiết phước hội, ư tiên thường xuyết, thử thực đô tác tàn thực. Đường tác thử hội, bất như bất tác. Hà cố? Chư thiên bất hoan, quỷ thần bất hỷ. Thử nhân ư tiên thường giả, ngũ bách thế trung, thọ ngạ quỷ khổ, cố giới đoạn vật tiên thực dã” (Hết thảy các vị hiền giả làm pháp hội trai tăng cầu phước, mà ăn hoặc nếm đồ ăn trước, những món ăn ấy đều thành đồ thừa. Uổng công làm pháp hội ấy, chẳng bằng không làm. Vì sao vậy? Chư thiên chẳng vui, quỷ thần chẳng mừng. Người nếm trước ấy sẽ trong năm trăm đời chịu khổ làm ngạ quỷ. Vì thế, răn dạy đừng ăn trước).
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.2.2. Minh cúng dường lực (nói về sức cúng dường)
(Kinh) Như hữu vi thực, cập bất tinh cần, thị mạng chung nhân, liễu bất đắc lực. Như tinh cần hộ tịnh, phụng hiến Phật, Tăng, thị mạng chung nhân, thất phần hoạch nhất.
(經)如有違食,及不精勤,是命終人,了不得力。如精勤護淨,奉獻佛僧,是命終人,七分獲一。
(Kinh: Nếu ăn trái phép, và chẳng tinh sạch, siêng gắng, người
mạng chung ấy trọn chẳng nhờ cậy được. Nếu chuyên ròng, siêng gắng, giữ gìn sạch sẽ, dâng cúng Phật, Tăng, người mạng chung ấy sẽ được hưởng một phần bảy công đức).
Trước hết là nói [cách sắp đặt, chuẩn bị trai tăng] không đúng pháp; kế đến là nói về chuyện có thể làm đúng pháp. “Tinh cần hộ tịnh” (siêng gắng, tinh ròng giữ cho thanh tịnh): Kinh dạy: “Chư hữu thiết thực chi xứ, nhất thiết như pháp tác trai phạn, bất khả bất thận. Tự kim dĩ hậu, dục đắc phước giả, như pháp tác trai thực, khả đắc phước đức. Chư thiên hoan hỷ, bách thần khánh duyệt, thiên thần ủng hộ, kinh bất hư ngôn, phước báo như ảnh hưởng” (Ở các nơi có sắp đặt thức ăn [để cúng dường Tam Bảo], hết thảy đều theo đúng pháp để cúng dường cơm chay, chớ nên không cẩn thận. Từ nay trở đi, những ai muốn được phước, hãy theo đúng pháp để chuẩn bị thức ăn, sẽ đạt được phước đức. Chư thiên hoan hỷ, trăm thần vui mừng, thiên thần ủng hộ, kinh chẳng nói lời hư dối, phân biệt như bóng theo hình, như tiếng vọng theo âm thanh). Kinh văn đã dạy rõ như thế, tiếc là người đời chẳng biết tin tưởng!
3.2.3.1.2.2.2.2.2.2.2.2.3. Kết tồn vong ích (tổng kết về sự ích lợi cho kẻ còn, người mất)
(Kinh) Thị cố trưởng giả! Diêm Phù chúng sanh, nhược năng vị kỳ phụ mẫu, nãi chí quyến thuộc mạng chung chi hậu, thiết trai cúng dường, chí tâm cần khẩn. Như thị chi nhân, tồn vong hoạch lợi.
(經)是故長者!閻浮眾生,若能為其父母,乃至眷屬命終之後,設齋供養,志心勤懇。如是之人,存亡獲利。
(Kinh: Vì thế, này ông trưởng giả! Chúng sanh trong Diêm Phù nếu có thể vì cha mẹ, cho đến quyến thuộc, sau khi họ mạng chung, sắp đặt cỗ chay cúng dường [Tam Bảo], chí tâm siêng năng, khẩn thiết. Người như thế thì kẻ còn lẫn người mất đều được lợi).
“Chí tâm cần khẩn” tức là siêng gắng, chuyên ròng, gìn giữ thanh tịnh. Chỉ tinh thành thì mới có thể chí tâm. “Tinh” là công phu đạt đến tột đỉnh. Chữ Tinh (精) do Mễ (米) và Thanh (青) ghép lại. Gạo vừa thoát khỏi vỏ trấu hãy còn vàng, còn thô. Gạo giã tróc cám, sẽ có màu gần hơi xanh. Đấy là ý nghĩa được bao hàm trong chữ này: Cái tinh túy nhất của thiên chân. Ân cần, thành khẩn như thế, sẽ tự đạt “người mất lẫn kẻ còn đều được lợi ích”. Phần trưởng giả Đại Biện giúp hiển phát ý nghĩa đã xong.
3.2.3.1.2.2.2.3. Quỷ thần phát tâm (quỷ thần phát tâm)
(Kinh) Thuyết thị ngữ thời, Đao Lợi thiên cung, hữu thiên vạn ức na-do-tha Diêm Phù quỷ thần, tất phát vô lượng Bồ Đề chi tâm.
(經)說是語時,忉利天宮,有千萬億那由他閻浮鬼神,悉發無量菩提之心。
(Kinh: Lúc nói lời ấy, trên cung trời Đao Lợi có ngàn vạn ức na-do-tha quỷ thần trong cõi Diêm Phù đều phát tâm Bồ Đề vô lượng).
Vì sao đến đây quỷ thần mới phát tâm? Trong phần trên đã nói rõ “tế lễ quỷ thần vô ích, chỉ khiến cho người ta tạo nghiệp”. Quỷ cũng có lương tâm, há chẳng hổ thẹn ư? Vì thế, phát tâm làm quỷ thần hộ pháp. Hỏi: Quỷ thần tự phát tâm, hay là do đức Phật và ngài Địa Tạng dạy họ phát tâm? Đáp: Tự, tha, cộng, ly[10] đều chẳng thể được, nhưng do cảm ứng đạo giao bèn luận định về phát tâm đó thôi!
3.2.3.1.2.2.3. Trưởng giả lễ thoái (trưởng giả làm lễ lui ra)
(Kinh) Đại Biện trưởng giả, tác lễ nhi thoái.
(經)大辯長者,作禮而退。
(Kinh: Trưởng giả Đại Biện làm lễ lui ra).
Đã là cùng một hội, lui về nơi nào? Do lúc hỏi pháp, ra khỏi chỗ ngồi, tiến đến trước làm lễ. Hỏi đáp đã xong, làm lễ, lui về chỗ ngồi, tức là biểu thị ai nấy tự trụ trong Tam Ma Địa.
3.2.3.2. Diêm La hưng vấn, tán thán (Diêm La thưa hỏi, tán thán)
3.2.3.2.1. Phẩm đề (tên gọi của phẩm này)
(Kinh) Diêm La Vương chúng tán thán, phẩm đệ bát.
(Kinh: Phẩm thứ tám: Các vua Diêm La tán thán).
3.2.3.2.2. Phẩm văn (kinh văn của phẩm này)
3.2.3.2.2.1. Kinh gia tự (người trùng tuyên kinh trần thuật)
3.2.3.2.2.1.1. Chủ bạn lai nghi (chủ và bạn cùng đến dự)
(Kinh) Nhĩ thời, Thiết Vi sơn nội, hữu vô lượng quỷ vương, dữ Diêm La thiên tử, câu nghệ Đao Lợi, lai đáo Phật sở.
(經)爾時,鐵圍山內,有無量鬼王,與閻羅天子,俱詣忉利,來到佛所。
(Kinh: Lúc bấy giờ, trong núi Thiết Vi, có vô lượng quỷ vương và Diêm La thiên tử cùng đến Đao Lợi, đi đến chỗ đức Phật).
Trụ xứ của cung thành vua Diêm La (Yamarāja) đã được nói rõ trong phần trước. Diêm La là vị tổng lãnh các quỷ quan, vô lượng quỷ vương đều thống thuộc vị này. Vua đã đi, ắt quần thần đi theo; chủ đã đến, ắt bạn theo hộ vệ. Vì thế, cùng đến Đao Lợi, cùng đến chỗ đức Phật. Đây là họ nương theo quang minh, âm thanh của đức Thế Tôn, và oai thần của đức Địa Tạng (Theo Đại Trí Độ Luận, hết thảy quỷ thần nơi hết thảy núi, sông, rừng, cây cối, đất đai, thành quách đều do Tứ Thiên Vương cai quản. Vì thế, họ đều theo đến).
3.2.3.2.2.1.2. Liệt quỷ vương hiệu (nêu danh hiệu các quỷ vương)
(Kinh) Sở vị: Ác Độc quỷ vương.
(經)所謂:惡毒鬼王。
(Kinh: Như là: Ác Độc quỷ vương).
Ác Độc chính là vị đứng đầu các quỷ vương, cho nên được nêu tên đầu tiên. Ác Độc tức là Thập Ác, Tam Độc. Đã ác, lại còn độc, đặt danh xưng xấu xí như vậy. Tam Độc thuộc về Ý, là cội gốc của bảy điều ác nơi thân và miệng (tức ba điều ác nơi thân (giết, trộm, dâm), và bốn điều ác nơi miệng: Ác khẩu, nói dối v.v…) Gốc lẫn ngọn đều nêu rõ, nên gọi là Ác Độc. Nhưng những vị quỷ vương này đều là hàng Bồ Tát đại quyền ứng hóa chẳng thể nghĩ bàn; dùng ác để tấn công ác, lấy độc trị độc! Dụng ý nhằm làm cho ai nấy đều hiểu: “Tu ác chính là tánh ác, thấu hiểu sự độc chính là lý độc”. Vì thế, dùng ác độc làm pháp môn để giáo hóa. Tức là có ý nghĩa như thí dụ cái trống bôi thuốc độc trong kinh Đại Thừa, mà cũng như “đình độc” trong sách thế gian. Liệt Tử[11] nói: “Sanh chi, dục chi, đình chi, độc chi” (sanh thành, nuôi nấng, chăm chút hình dáng, thành tựu thể chất). Người đời chỉ biết “độc” là đại bất thiện, nào có biết nó còn có nghĩa là “đốc” (篤, đốc thúc, chữ Độc (毒) đọc theo Khứ Thanh thành Đốc, cùng nghĩa với chữ Đốc – 篤), chính là đại thiện vậy.
(Kinh) Đa Ác quỷ vương, Đại Tránh quỷ vương.
(經)多惡鬼王,大諍鬼王。
(Kinh: Đa Ác quỷ vương, Đại Tránh quỷ vương).
“Đa Ác”: Một niệm có trọn đủ các điều ác; nói rộng ra, sẽ là nhiều vô lượng. Ngoài hiện tướng ác phẫn nộ, giận dữ, trong thì dấy lên thiện tâm từ bi.
“Đại Tránh”: Tránh là đấu tránh (鬬諍, đấu đá, tranh cãi). Trong kinh Trường A Hàm, đức Phật bảo Đế Thích: “Oán kết chi sanh giai do tham, tật, cố sử chúng sanh đẳng đao trượng tương gia” (Oán kết đều do tham lam, ghen ghét sanh ra, cho nên khiến cho chúng sanh dùng đao, trượng đánh nhau). Đế Thích bạch rằng: “Thật nhĩ! Tham tật chi sanh, hà do nhi khởi?” (Đúng vậy! Sanh ra tham lam, ghen ghét, do đâu mà dấy lên?) Đức Phật dạy: “Tham tật chi sanh, giai do ái tắng” (Sanh ra tham lam, ganh ghét, đều do yêu, ghét). Vì thế, tổ sư dạy: “Chỉ cần lìa yêu, ghét, sẽ hiểu rõ rỗng rang”. Nhưng người đời chẳng hiểu “Ngũ Uẩn vốn là Không”, cho nên ganh đua miệng lưỡi để thỏa giận bởi những chuyện không đáng. Trang Tử gọi đó là “phụ cô bột hề” (婦姑勃谿, mẹ chồng, con dâu cãi lộn). Đấy là do tâm là chủ của sự độc địa, miệng là dụng cụ gây họa. Chẳng có hình dạng tranh cãi, thưa kiện, chống trái, lòng luôn tâm niệm giáo hóa lớn lao. Do vậy, quỷ vương dùng pháp môn Đại Tránh (tranh cãi dữ dội) để giáo hóa mọi người đừng tranh cãi.
(Kinh) Bạch Hổ quỷ vương, Huyết Hổ quỷ vương, Xích Hổ quỷ vương.
(經)白虎鬼王,血虎鬼王,赤虎鬼王。
(Kinh: Bạch Hổ quỷ vương, Huyết Hổ quỷ vương, Xích Hổ quỷ vương).
Bạch Hổ, Huyết Hổ, Xích Hổ: Hổ là loài thú trong núi, còn gọi là Đại Trùng (大蟲), dũng mãnh, có oai, chậm rãi, nhưng hung bạo. Bạch Hổ là thú ở phương Tây. Huyết Hổ miệng như chậu máu. Xích Hổ lông đỏ như lửa. Đầu quỷ như hổ, cho nên mỗi vị đều dùng chữ Hổ để đặt tên.
(Kinh) Tán Ương quỷ vương, Phi Thân quỷ vương.
(經)散殃鬼王,飛身鬼王。
(Kinh: Tán Ương quỷ vương, Phi Thân quỷ vương).
Tán Ương: Ương (殃) là lỗi lầm, tai họa. Kinh Đông Nhạc nói: “Thế gian chúng sanh bất tín nhân duyên, thiện ác quả báo, bất kính thiên địa, bất hiếu phụ mẫu, bất tôn sư trưởng, khi phụ thần lý, bối tiền, diện hậu, khẩu thị, tâm phi, dĩ bị Nhạc Phủ tào quan thánh chúng, thần tịch khảo giảo, kỷ lục tội cữu, trí linh tai họa hoành sanh, quan tư lao ngục, lũy tuế kinh niên, bất năng an thái, gia môn thu tức, mỗi ngộ hung suy, đạo tặc xâm khi, hy kiến thái bình” (Chúng sanh trong thế gian chẳng tin nhân duyên, quả báo thiện ác, chẳng kính trời đất, chẳng hiếu thảo cha mẹ, chẳng tôn trọng sư trưởng, lừa dối thần thánh, vâng dạ trước mặt, chống trái sai lưng, miệng đúng, tâm sai, đã bị tào quan thánh chúng của Nhạc Phủ sớm tối tra xét, so lường, ghi chép tội lỗi, đến nỗi tai họa nẩy sanh đột ngột, bị quan lại tra vấn, tống giam lâu năm chầy tháng, chẳng thể yên vui, cửa nhà đìu hiu, thường gặp chuyện hung hiểm, suy bại, giặc cướp xâm lấn, hiếp đáp, ít có lúc được bình yên). Vì thế, khiến cho quỷ vương phải đến gia đình ấy, cho nên có những chuyện ương họa. Phi Thân thuộc loại Dạ Xoa phi hành.
(Kinh) Điện Quang quỷ vương, Lang Nha quỷ vương.
(經)電光鬼王,狼牙鬼王。
(Kinh: Điện Quang quỷ vương, Lang Nha quỷ vương).
Điện Quang là mắt như tia chớp chói lòa, khiến cho người khác trông thấy hoảng hốt. Lang Nha (nanh sói): Sói to như chó, lông xanh, giỏi săn thú. Cách thức chế tạo [lang nha bổng] thời cổ là dùng các khối gỗ bằng gốc hòe hay bộng táo, cắm răng sói chung quanh. Do thể hiện ý nghĩa linh trí của loài sói, cho nên [cổ nhân chế ra chữ Lang (狼, sói) từ chữ Lương (良) [và Khuyển (犭) ghép lại]. Quỷ này răng nhọn hoắt, chìa ra ngoài như nanh sói. Theo Bạch Trạch Đồ[12], tinh linh nơi mồ mả có tên là Lang Quỷ (quỷ sói), thích chiến đấu với con người. Lấy mũi tên bằng gỗ đào gắn đuôi tên bằng lông chim diều hâu bắn nó, nó sẽ hóa thành gió bay đi. Cởi guốc đuổi nó, nó sẽ chẳng thể biến hóa được.
(Kinh) Thiên Nhãn quỷ vương, Đạm Thú quỷ vương, Phụ Thạch quỷ vương.
(經)千眼鬼王,噉獸鬼王,負石鬼王。
(Kinh: Thiên Nhãn quỷ vương, Đạm Thú quỷ vương, Phụ Thạch quỷ vương).
Thiên Nhãn (ngàn mắt): Quán Âm tay có ngàn mắt, ngục tốt có sáu mươi bốn con mắt nơi sừng. Quỷ này ngàn mắt, chẳng biết xếp đặt như thế nào!
Đạm Thú (ăn các loài thú): Do quỷ này ăn thịt các loài thú, nhưng quỷ cũng là thú. Tỳ Bà Sa Luận nói hình dạng trong đường quỷ phần nhiều giống như con người, cũng có quỷ mặt giống như lợn, hoặc giống như các loài cầm thú ác khác.
Phụ Thạch chính là vác đá, gánh cát, lấp sông, lấp biển v.v…
(Kinh) Chủ Hao quỷ vương, Chủ Họa quỷ vương.
(經)主耗鬼王,主禍鬼王。
(Kinh: Chủ Hao quỷ vương, Chủ Họa quỷ vương).
Chủ Hao và Chủ Họa, hai sự tướng có cùng một cái nhân. Vì thế, Thái Thượng nói: “Trong trời đất có thần trông coi tội lỗi, tùy theo con người phạm lỗi nặng hay nhẹ mà giảm bớt tuổi thọ. Tuổi thọ bị giảm, sẽ bần cùng, hao tán, hay gặp chuyện phải lo lắng, ai nấy đều ghét, hình phạt, tai họa theo đến, chuyện tốt lành, vui mừng tránh xa, ác tinh gieo tai ương” là nói đến ý này (Xưa kia, quan đô úy xứ Lịch Dương là Quách Tầm làm quan mà không được thăng chuyển, đường làm quan trắc trở, truân chiên, lận đận. Đụng tới chuyện gì cũng bị chống trái, ngay cả thân thích, bạn bè thân thiết cũng dần dần lợt lạt, chê trách. Thường có hai con vật, hình dáng giống như vượn hay khỉ, nhảy nhót quẩn quanh, thường theo ông ta ra vào. Một tối, ông đang nằm mơ màng, rầu rĩ, bỗng chúng nó đến cáo biệt, bảo: “Chúng tôi chính là quỷ chủ trì sự hư hao trong cõi đời. Ông do ngấm ngầm phạm lỗi, mắc tội, nên thần sai chúng tôi đến gây tai ách cho ông. Nay hạn số đã mãn, sẽ phải ra đi, ông có thể hưởng yên vui rồi”).
(Kinh) Chủ Thực quỷ vương, Chủ Tài quỷ vương.
(經)主食鬼王,主財鬼王。
(Kinh: Chủ Thực quỷ vương, Chủ Tài quỷ vương).
Chủ Thực: “Thực” ở đây chính là lộc trong đời người. Người lành được hưởng, người ác bị giảm bớt. Vì thế, kẻ vứt bỏ ngũ cốc bừa bãi, Thái Thượng ghét bỏ, thâu lại hoa lợi, cuộc đời kẻ ấy sẽ gặp nhiều cảnh đói kém. Cũng như kẻ tàn sát bừa bãi các sanh vật, thường chết vì đói rét.
Chủ Tài: Tại Nhạc Phủ có án chủ trông coi tài vật. Phù Đà Ma Ni Bát[13] chuyên bảo vệ tài vật của con người. Vì thế, kẻ có tiền của mà chẳng bố thí, quỷ ở bên cạnh trông thấy bèn ghen ghét; nhưng Thái Thượng nghiêm cấm tước đoạt ngang xương tài vật của người khác; cho nên vợ con, người nhà của kẻ đó sẽ dần dần lâm vào cảnh chết chóc. Nếu chẳng chết chóc, ắt có những chuyện như nước, lửa, giặc cướp, đồ đạc mất mát, bệnh tật, thưa kiện [khiến cho tài vật của kẻ đó suy hao. Làm như vậy] để ngăn ngừa chuyện đoạt lấy bừa bãi. Mỗi thứ tài vật đều có chủ.
(Kinh) Chủ Súc quỷ vương, Chủ Cầm quỷ vương, Chủ Thú quỷ vương.
(經)主畜鬼王,主禽鬼王,主獸鬼王。
(Kinh: Chủ Súc quỷ vương, Chủ Cầm quỷ vương, Chủ Thú quỷ vương).
Chủ Súc: Súc sanh có bốn cách sanh (noãn, thai, thấp, hóa), chỗ ở thì có ba chỗ (dưới nước, trên đất, trên hư không). Nhạc Phủ có thần cai quản thai, noãn, thấp, hóa, và thủy tộc.
Chủ Cầm và Chủ Thú đều là thần của Nhạc Phủ. Biết bay thì gọi là Cầm (禽), Cầm là tên gọi chung của loài có lông vũ; ý nói do chúng bị loài người giam cầm, chế ngự, nên gọi là Cầm. Loài động vật chạy [trên mặt đất] thì gọi là Thú, Thú (獸) là tên gọi chung của những loài có lông. Nhằm diễn tả ý tốn sức nhiều mà khó bắt giữ được, phải vây giữ mới bắt được, cho nên gọi là Thú. Các loài cầm thú ấy đều có các quỷ vương chủ quản. Như sách Ma Ha Chỉ Quán trích dẫn mười hai loại thời thú (mười hai con giáp) được nói trong kinh Đại Tập. Sách Phụ Hành viết: “Trong Ngũ Hành, kể tên mười hai tiếu (con vật làm biểu tượng)”. Tiếu (肖) là tương tự, do mười hai biểu tượng ấy giống như những con vật tương ứng. Theo Đại Tập, [mười hai tiếu được kể như sau]: Trong núi Lưu Ly ở biển Đông có hổ, thỏ[14], rồng. Núi Pha Lê ở biển Nam có rắn, ngựa, dê. Núi Bạch Ngân ở biển Tây có khỉ, gà, chó. Núi Hoàng Kim ở biển Bắc có lợn, chuột, trâu (đối với hang nơi chúng sống, kinh đều có kể tên). Mỗi một phương đều có hai La Sát nữ cúng dường ba vị thần (tức các tiếu ấy). Hang của chúng ở đều là trụ xứ của Bồ Tát. Mỗi con thú đều tu lòng Từ của Thanh Văn, từng phát nguyện nơi quá khứ Phật. Mỗi con thú [lần lượt] trong một ngày đêm dạo khắp Diêm Phù Đề, những con thú khác thì ở yên, tu lòng Từ. Từ ngày mồng Một tháng Bảy, chuột khởi đầu. Ngày mồng Hai là trâu, cho đến ngày thứ mười ba, lại bắt đầu từ chuột. Đấy chính là thú vương Bồ Tát, cho nên họ được các phương khác cung kính.
(Kinh) Chủ Mị quỷ vương, Chủ Sản quỷ vương.
(經)主魅鬼王,主產鬼王。
(Kinh: Chủ Mị quỷ vương, Chủ Sản quỷ vương).
Chủ Mị: Mị (魅) là Lỵ Mị (魑魅, yêu quái trong rừng núi), là những vật thành tinh đã lâu, được chép tường tận trong bộ Hương Nhũ Ký[15].
Chủ Sản: Trong Đông Nhạc Sám có đoạn viết: “Kết điều tốt đẹp thành thai, bẩm thọ lưỡng nghi tạo hóa, giúp cho sanh thành, bảo vệ sanh nở, chính là giềng mối của hai vị thánh, phổ độ, cứu giúp trọn khắp. Cửu Thiên Giám Sanh Minh Tố Chân Quân, đông con trai, lắm con gái. Cửu Thiên Vệ Phòng Thánh Mẫu Nguyên Quân”. Lại nữa, chị của Quỷ Mẫu tên là Chá Nặc cũng chủ trì việc sanh nở của nhân loại.
(Kinh) Chủ Mạng quỷ vương, Chủ Tật quỷ vương, Chủ Hiểm quỷ vương.
(經)主命鬼王,主疾鬼王,主險鬼王。
(Kinh: Chủ Mạng quỷ vương, Chủ Tật quỷ vương, Chủ Hiểm quỷ vương).
Chủ Mạng: Theo kinh Phật, Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa, Đa Văn thiên vương) chuyên trách bảo vệ mạng người trong tứ thiên hạ. Nhạc Phủ có phán quan cai quản hồ sơ sanh tử trong thiên hạ, lại có Bảo Sanh Chân Nhân[16], Bích Hà Nguyên Quân.
Chủ Tật như đã giải thích trong phần trên.
Chủ Hiểm: Núi cao chót vót, biển cả sâu thăm thẳm, là những chỗ hiểm nạn đối với thân mạng. Người đáng chết thì ghi chép, người chưa đáng chết thì che chở. Đấy vẫn là chỗ hiểm nạn nhỏ nhặt. Theo Đại Luận, địa ngục có hai bộ: Một là hàn băng (寒冰, băng lạnh), hai là viêm hỏa (炎火, lửa nóng), đều do Thân Xúc mà thọ tội. Nơi đấy gọi là chỗ đại hắc ám, đường hiểm nguy nan chính là nơi chủ quản của quỷ này vậy.
(Kinh) Tam Mục quỷ vương, Tứ Mục quỷ vương, Ngũ Mục quỷ vương.
(經)三目鬼王,四目鬼王,五目鬼王。
(Kinh: Tam Mục quỷ vương, Tứ Mục quỷ vương, Ngũ Mục quỷ vương).
Tam Mục: Giữa hai mắt có một một con mắt xếp dọc, như hình dạng của Ma Hê Thủ La Thiên (Mahesvara). Tứ Mục: Trên trán lại có hai mắt nằm ngang, giống như Thương Hiệt. Ngũ Mục: Trên, dưới, chính giữa đều sanh một con mắt nằm dọc.
(Kinh) Kỳ Lợi Thất Vương, Đại Kỳ Lợi Thất Vương, Kỳ Lợi Xoa Vương, Đại Kỳ Lợi Xoa Vương.
(經)祁利失王,大祁利失王,祁利叉王,大祁利叉王。
(Kinh: Kỳ Lợi Thất Vương, Đại Kỳ Lợi Thất Vương, Kỳ Lợi Xoa Vương, Đại Kỳ Lợi Xoa Vương).
Kỳ Lợi Thất Vương v.v… chưa thấy phiên dịch [từ chữ Phạn nào]. Kinh Kim Quang Minh có nói về Tát Đa Kỳ Lê, dịch nghĩa là là Đại Lực Thiên. Bộ Danh Nghĩa Tập có chép danh hiệu Ác Kỳ Ni (Agni), cõi này dịch là Hỏa Thần. Nhưng xét theo Lập Thế A Tỳ Đàm thì là tên núi. Phẩm Dạ Xoa trong luận ấy chép: “Khi ấy, trong Diêm Phù Đề, có hai rặng núi. Núi ở phía Nam sông Hằng, tên là núi Bà Đa Kỳ Lợi. Núi ở phía Bắc sông Hằng tên là núi Hê Ma Bạt Đa (Himavanta). Hết thảy các thần sống ở phía Nam sông đều có tên là Bà Đa Kỳ Lợi. Những vị sống ở núi phía Bắc sông Hằng đều tên là Hê Ma Bạt Đa. Hết thảy các thần sống trong rặng Bà Đa Kỳ Lợi ở phía Nam sông Hằng và hết thảy các thần sống trong rặng Ma Hê Bạt Đa ở phía Bắc sông Hằng, đều được gọi là Vương”. Nay cõi của Diêm Vương đã ở phía Nam của Diêm Phù, núi Kỳ Lợi lại ở phía Nam sông Hằng. Nam thuộc quẻ Ly là Hỏa. Vì thế, Kỳ Ni Kỳ Lợi được dịch thành Đại Lực Hỏa Thần, đều thuộc về Hỏa Thiên. Chữ Thất chưa rõ nghĩa. Chữ Xoa nói đầy đủ là Xoa Da (Kṣaya), dịch sang tiếng Hán là Tận, tức là Đại Lực Tận Vương, thống lãnh các tiểu vương quỷ thần.
(Kinh) A Na Trá vương, Đại A Na Trá vương.
(經)阿那吒王,大阿那吒王。
(Kinh: A Na Trá vương, Đại A Na Trá vương).
Theo kinh Đại Thừa, A Na Trá có phải là Na Trá (Naṭa)[17] tám tay, tức lực sĩ trên cõi trời hay không, chưa thể nói đích xác được, nhưng đã cùng tên, cho nên cũng chưa biết [có phải là cùng một vị hay không] (Na Trá tức là trưởng tử của Đa Văn Thiên Vương).
3.2.3.2.2.1.3. Thừa lực câu lai (nương theo thần lực đều cùng đến)
(Kinh) Như thị đẳng đại quỷ vương, các các dữ bách thiên chư tiểu quỷ vương, tận cư Diêm Phù Đề, các hữu sở chấp, các hữu sở chủ.
(經)如是等大鬼王,各各與百千諸小鬼王,盡居閻浮提,各有所執,各有所主。
(Kinh: Các vị đại quỷ vương như thế, mỗi vị đều có trăm ngàn các tiểu quỷ vương, đều trong Diêm Phù Đề, ai nấy đều có chức trách, đều có sự vụ phải quản trị).
Ba mươi bốn vị trên đây đều là đại quỷ vương. Dưới mỗi một vị vương, đều có các tiểu vương làm quyến thuộc, số đến trăm ngàn. Họ chẳng phải là quỷ ở phương khác, đều sống trong Nam Châu. “Các hữu chấp giả”: Chấp (執) là “tuân thủ pháp tắc”, tức là nói đến chuyện “bắt những kẻ có tội, xử trị công chánh, mẫu mực theo đúng luật pháp”. Trong thiên văn có các [tinh quan] chấp pháp[18], thay trời thảo phạt kẻ có tội, há dung túng lẽ riêng tư ư? [“Các hữu sở chấp”] là nói những vị có những chức trách duy trì pháp luật. Thái Thượng cũng nói: “Trong trời đất có thần coi sóc tội lỗi, tùy thuộc mỗi người phạm lỗi nặng hay nhẹ mà tước giảm tuổi thọ của họ” chính là nói về chuyện này. Nói là “chủ” (主) thì trong cách chế tạo chữ thời cổ, chữ Chủ (、) hàm ý sự sáng suốt thần diệu làm chủ cái tâm, đấy chính là vị chủ nhân thật sự của cái thân ta. [Chữ Vương (王)] ở trong ấy, bất động mà ứng với vạn vật, giống như hình thể vị vua trời ngồi yên trong điện. Chữ Chủ (、) trên đầu chữ Vương chính là thần, chẳng có hình thể, sẽ chẳng hiển lộ. Vì thế, phải phối hợp với chữ khác để thành hình. Do đó, đem Chủ (、) ghép với Vương [thành chữ Chủ (主)]. Vương là vua. Vạn vật trong trời đất, đều gom về một. Tâm của vua mà chẳng có Chủ (、), ngay cả thân cũng không thể trị, lấy gì để trị vì thiên hạ cho được? Nay các vị quỷ vương, trong tâm đều có Chủ, cho nên có thể làm chủ vạn vật, như quỷ bắt người đem gông xiềng, điều động quỷ thần, truy hồn, trảm phách, bắt người sống, truy người chết, và các vị xét án, các vị tư pháp, lục sự (thư ký) v.v… Cho nên nói là “các hữu sở chấp, các hữu sở chủ” (đều có chức trách, đều có sự vụ phải quản trị).
(Kinh) Thị chư quỷ vương dữ Diêm La thiên tử, thừa Phật oai thần, cập Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát lực, câu nghệ Đao Lợi, tại nhất diện lập.
(經)是諸鬼王與閻羅天子,承佛威神,及地藏菩薩摩訶
薩力,俱詣忉利,在一面立。
(Kinh: Các vị quỷ vương ấy cùng với Diêm La thiên tử, nương theo oai thần của đức Phật và sức của Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, đều đến trời Đao Lợi, đứng qua một phía).
Từ “thị chư” (các vị ấy) trở đi, nêu rõ ý nghĩa vì sao họ có thể đến. Quỷ vương chốn u minh vì sao có thể thăng lên Đao Lợi? Đấy là nhờ vào sức oai thần của đức Phật và ngài Địa Tạng. “Tại nhất diện lập” (đứng qua một phía): Đứng là Lập. Con người kể từ khi sanh ra, hễ đứng bèn đội trời đạp đất, có dáng vẻ nghiễm nhiên chánh trực. Vì thế, thể hiện ý nghĩa “trụ vững trên đại địa mà kính Phật, tôn quân”, cho nên đứng chứ không ngồi!
3.2.3.2.2.2. Chánh hưng vấn (thưa hỏi)
3.2.3.2.2.2.1. Diêm La hưng vấn chánh thán (Diêm La thưa hỏi, tán
thán)
3.2.3.2.2.2.1.1. Kinh gia đề khởi (người trùng tuyên kinh dẫn khởi)
(Kinh) Nhĩ thời, Diêm La thiên tử, hồ quỳ, hiệp chưởng.
(經)爾時,閻羅天子,胡跪合掌。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Diêm La thiên tử, hồ quỳ, chắp tay).
Dựa theo [danh sách] Thập Điện Diêm Vương do hòa thượng Đạo Minh[19] truyền lại, Diêm La thiên tử thuộc ngũ điện. Sách Phật Tổ Thống Kỷ chép: “Danh tự của mười vua từ trong kinh tạng, truyện, ký, có thể khảo chứng sáu vị, tức Diêm La, Ngũ Quan (hai danh hiệu này có thể thấy trong mục Tam Trường Trai (ba tháng ăn chay trường), trích từ kinh Đề Vị), Bình Đẳng (từ Hoa Nghiêm Cảm Ứng Truyện: Quách Thần Lượng bị sứ giả bắt tới chỗ Bình Đẳng Vương. Do ông ta tụng bài kệ “nhược nhân dục liễu tri” (nếu ai muốn hiểu rõ)[20], liền được thả về). Thái Sơn (theo Dịch Kinh Đồ Kỷ[21], ngài Pháp Cự dịch bộ Kim Cống Thái Sơn Thục Tội Kinh), Sơ Giang[22] (theo Di Kiên Chí, Quách Sanh mộng thấy vào cõi âm, vua vái chào, mời ngồi, bảo: “Ta là Vương Lang ở Tây Môn, cõi âm xét thấy ta trung hiếu, chánh trực, chẳng hại muôn vật, được làm Sơ Giang Vương một kỷ[23]”), Tần Quảng (theo Di Kiên Chí, Trần Sanh ở Nam Kiếm đã chết. Con gái của em trai ông ta thấy hai con quỷ dẫn tới một cung điện, [biển ngạch] đề là Tần Quảng Vương. Vua bảo: “Ngươi muốn cứu bác ngươi, hãy nên tụng kinh Bát Sư”. Cô gái tỉnh giấc, bảo người nhà tìm được kinh, thỉnh Tăng tụng một ngàn lượt. Anh ông ta mộng thấy em trai đến cảm tạ: “Đã được sanh lên trời”). Nay chỉ có mình vua Diêm La thưa hỏi, đại khái là vị vua cai quản điện thứ năm, thống nhiếp các vua, cho nên đặc biệt thêm vào hai chữ “thiên tử” [sau danh xưng]. Do Đế Thích Thiên là phụ vương, sai Diêm La làm thiên tử, chủ trì, thống nhiếp minh ty. Vị này thường được gọi là “địa hạ Phược La Hứ Thiên”.
3.2.3.2.2.2.1.2. Thiên tử thuật ý (thiên tử trần thuật tâm ý)
(Kinh) Bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngã đẳng kim giả, dữ chư quỷ vương, thừa Phật oai thần, cập Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát lực, phương đắc nghệ thử Đao Lợi đại hội, diệc thị ngã đẳng hoạch thiện lợi cố”.
(經)白佛言:世尊!我等今者,與諸鬼王,承佛威神,及地藏菩薩摩訶薩力,方得詣此忉利大會,亦是我等獲善利故。
(Kinh: Bạch đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay chúng con và các vị quỷ vương nương vào oai thần của đức Phật và sức của Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mới đến được đại hội trên cung Đao Lợi này, cũng tức là chúng con được thiện lợi to lớn vậy”).
Trước hết, trần thuật ý nghĩa vì sao đến [tham dự pháp hội]. “Đẳng” có nghĩa là không chỉ có các vị ngục vương thuộc chín điện khác. Theo kinh Trường A Hàm, tiểu thiên thế giới có một ngàn vua Diêm La, huống hồ tam thiên đại thiên, huống hồ là các vị Diêm La trong các tam thiên đại thiên nhiều như cát sông Hằng trong mười phương ư? Nhưng đức Phật xuất thế trong Nam Châu, cho nên minh vương (冥王, vua cõi âm) trong cõi này đóng vai trò chánh yếu. Từ “diệc thị” (cũng là) trở đi, chính là lời lẽ diễn tả sự vui mừng. Do Diêm La, quỷ vương v.v… đều do nghiệp duyên mà cảm báo, chịu khổ suốt ba thời. Như trong kinh Đệ Tử Tử Phục Sanh (đệ tử chết rồi sống lại), sứ giả tâu với vua: “Đại vương phụng trì tịnh giới của Phật ư?” Vua đáp: “Do ta không kính phụng Phật, phải theo tội mới đến làm vua trong địa ngục này”. Nay họ tới cung trời thấy Phật, nghe pháp, tự nhiên đạt được thiện lợi tăng thượng. Vì thế, thốt lời vui mừng ấy.
(Kinh) Ngã kim hữu tiểu nghi sự, cảm vấn Thế Tôn. Duy nguyện Thế Tôn, từ bi tuyên thuyết.
(經)我今有小疑事,敢問世尊。唯願世尊,慈悲宣說。
(Kinh: Con nay có chuyện nghi ngờ nhỏ, dám xin hỏi đức Thế Tôn. Kính mong đức Thế Tôn từ bi tuyên nói).
Từ “ngã kim” (con nay) trở đi, là lời thỉnh cầu. Tuy nói là “tiểu nghi”, nó sẽ chướng ngại tín tâm rất lớn. Vì thế, cần phải hỏi rõ. Chỉ mong do lòng đại từ bi, đức Phật sẽ tuyên thuyết ý chỉ ấy cho con, hòng tạo nhân duyên “ban vui, dẹp khổ”.
3.2.3.2.2.2.1.3. Hứa vấn vị thuyết (chấp thuận giải đáp câu hỏi)
(Kinh) Phật cáo Diêm La thiên tử: “Tứ nhữ sở vấn, ngô vị nhữ thuyết”.
(經)佛告閻羅天子:恣汝所問,吾為汝說。
(Kinh: Đức Phật bảo Diêm La thiên tử: “Cho phép ông hỏi, ta sẽ nói cho ông”).
“Tứ” (恣) là hãy buông lỏng, ý nói: Phàm có điều ngờ vực nào, chẳng cần phải ẩn giấu. Cứ mặc sức mà hỏi, ta không điều gì chẳng nói cho ông! Như hồng chung treo trên giá, hễ gõ bèn kêu, biểu thị tâm Phật từ bi chẳng có ngằn hạn!
3.2.3.2.2.2.1.4. Thân nghi trí thỉnh (giãi bày điều nghi cần hỏi)
3.2.3.2.2.2.1.4.1. Tự nghi (trần thuật lễ nghi thưa thỉnh)
(Kinh) Thị thời, Diêm La thiên tử, chiêm lễ Thế Tôn, cập hồi thị Địa Tạng Bồ Tát.
(經)是時,閻羅天子,瞻禮世尊,及迴視地藏菩薩。
(Kinh: Khi ấy, Diêm La thiên tử chiêm ngưỡng, lễ bái đức Thế Tôn, và quay sang nhìn Địa Tạng Bồ Tát).
Chiêm ngưỡng, lễ bái là nghi thức biểu thị kính Phật, cầu pháp. “Hồi thị” (quay sang nhìn): Sự việc có chỗ chuyên chú. Do vì lẽ nào mà quay lại nhìn? Theo lễ nghi thưa hỏi pháp, ắt phải đối trước đức Phật làm lễ. Đang đứng tại chính giữa, như vậy là Bồ Tát ở bên cạnh; do đó, quay đầu nhìn Ngài.
3.2.3.2.2.2.1.4.2. Thân thỉnh (thưa bày sự thỉnh cầu)
3.2.3.2.2.2.1.4.2.1. Trực thán thần thông (trực tiếp ca ngợi thần thông)
(Kinh) Nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngã quán Địa Tạng Bồ Tát, tại lục đạo trung, bách thiên phương tiện nhi độ tội khổ chúng sanh, bất từ bì quyện. Thị đại Bồ Tát, hữu như thị bất khả tư nghị thần thông chi sự”.
(經)而白佛言:世尊!我觀地藏菩薩,在六道中,百千方便而度罪苦眾生,不辭疲倦。是大菩薩,有如是不可思議
神通之事。
(Kinh: Bèn bạch đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con thấy Địa Tạng Bồ Tát ở trong lục đạo, trăm ngàn phương tiện để độ chúng sanh tội khổ, chẳng nài mệt nhọc. Vị đại Bồ Tát này có những chuyện thần thông chẳng thể nghĩ bàn như thế”).
“Tại lục đạo trung” (ở trong lục đạo): Kinh Chiêm Sát dạy: “Y bổn nguyện tự tại lực cố, quyền xảo hiện hóa, ảnh ứng thập phương, nhi ư ngũ trược ác thế, hóa ích thiên hậu, xảo diễn thuyết pháp, năng thiện khai đạo. Thử giai phương tiện lực dã. Đại yếu hiện Phạm Thiên, linh trừ kiêu mạn. Hóa nhân đạo, linh tu Thí, Giới. Địa ngục đại kỳ thọ khổ, ngạ quỷ linh kỳ bảo mãn, Tu La điều phục ác tâm, súc sanh sử đắc trí huệ. Tịnh linh câu xuất khổ luân, đồng đáo trí địa. Vô lượng kiếp lai, bất từ bì quyện” (Nương vào sức bổn nguyện tự tại, quyền biến khéo hiện hóa, ứng hiện phân thân trong mười phương, ở trong đời ác năm trược, giáo hóa, tạo lợi ích càng thêm sâu dầy. Khéo diễn nói pháp, khéo có thể khơi gợi, hướng dẫn. Đấy đều là sức phương tiện. Nói chung là hiện thân Phạm Thiên để trừ kiêu mạn, hóa hiện thân người để dạy tu bố thí, giữ giới. Chịu khổ thay cho chúng sanh trong địa ngục, khiến cho ngạ quỷ được no đủ, điều phục tâm ác của Tu La, khiến cho súc sanh đạt được trí huệ, cũng như khiến cho họ đều thoát khỏi khổ sở, cùng đạt đến trí địa. Từ vô lượng kiếp đến nay, chẳng nề hà mệt nhọc). Đấy chính là trí huệ dũng mãnh, thần thông chẳng thể nghĩ bàn.
Nói “sự” (?) [tức là chữ Sự (事) viết theo lối cổ], tức là việc làm của con người. [Chữ Sự theo lối cổ] trên là Chi (㞢) dưới là Hựu (又, tức chữ Hữu (右) viết theo lối xưa), nắm giữ chữ Trung (中) ở chính giữa, có ý nghĩa gì? Ý nói vạn sự trong thiên hạ đều vốn phát xuất từ lòng người, chẳng có gì khác! Lòng người chính là khuôn phép tự nhiên. Sự việc đưa đến, cứ dùng tấm lòng của ta mà đối đãi, nhất quán muôn điều như một, không thái quá, mà cũng chẳng bất cập, đó gọi là “thiên tắc” (天則, khuôn phép của trời). Nay đức Địa Tạng dùng trăm ngàn phương tiện, hiện đủ loại thần thông, đều vốn là dùng Trung Đạo nhất tâm để ứng với mọi chuyện thuộc muôn mối. Độ chúng sanh khổ sở đều quy vào Trung Đạo. Đấy là đại sự nhân duyên có thể nghĩ bàn nổi chăng?
3.2.3.2.2.2.1.4.2.2. Chuyển thân nghi sự (trình bày sự việc nghi hoặc)
3.2.3.2.2.2.1.4.2.2.1. Chánh trần nghi bổn (nêu thẳng nguyên do sinh
nghi)
(Kinh) Nhiên chư chúng sanh, thoát hoạch tội báo, vị cửu chi gian, hựu đọa ác đạo.
(經)然諸眾生,脫獲罪報,未久之間,又墮惡道。
(Kinh: Nhưng các chúng sanh vừa thoát tội báo, không lâu sau lại đọa vào đường ác).
Nói “vị cửu” (chưa lâu) là nói so sánh với tuổi thọ trong địa ngục Đẳng Hoạt, hoặc tuổi thọ của Tứ Thiên Vương. Năm mươi năm trong nhân gian bằng một ngày một đêm trên trời. Dẫu [trong nhân gian] đã qua một trăm năm, nơi cõi âm chỉ mới là hai ngày, há chẳng phải là [tội nhân] vừa mới thoát ra liền trở lại ngay, [cõi âm] rất chán ngán họ chẳng ngại phiền!
3.2.3.2.2.2.1.4.2.2.2. Phú thân nghi sự (nêu bày chuyện nghi ngờ)
(Kinh) Thế Tôn! Thị Địa Tạng Bồ Tát ký hữu như thị bất khả tư nghị thần lực. Vân hà chúng sanh nhi bất y chỉ thiện đạo, vĩnh thủ giải thoát?
(經)世尊!是地藏菩薩既有如是不可思議神力。云何眾生而不依止善道,永取解脫?
(Kinh: Bạch Thế Tôn! Vị Địa Tạng Bồ Tát này đã có thần lực chẳng thể nghĩ bàn như vậy. Cớ sao chúng sanh chẳng nương cậy thiện đạo để được giải thoát vĩnh viễn?)
Trong ý thưa hỏi ở đây, có hai tầng nghi vấn được nêu lên:
– Một là Bồ Tát đã có thần lực như vậy, đáng lẽ phải khiến cho họ nương theo thiện đạo, mãi mãi được giải thoát.
– Hai, chúng sanh trong lục đạo đã được Đại Sĩ giáo hóa, cũng phải nên an trụ trong thiện đạo để được giải thoát mãi mãi.
Nay chẳng phải như vậy, có phải là do thần lực của đức Địa Tạng chưa đủ mức? Hay là do tâm lực của chúng sanh chẳng tương xứng? Chữ Nị Địa (Nidhi) trong tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Y (依, nương cậy). Kinh Duy Ma dạy: “Thập Thiện thị Bồ Tát Tịnh Độ, chúng sanh năng y Thập Thiện, tự nhiên giải thoát sanh tử” (Thập Thiện là Tịnh Độ của Bồ Tát, chúng sanh có thể nương theo Thập Thiện, tự nhiên
giải thoát sanh tử).
3.2.3.2.2.2.1.4.3. Nguyện thuyết (xin hãy nói)
(Kinh) Duy nguyện Thế Tôn, vị ngã giải thuyết.
(經)唯願世尊,為我解說。
(Kinh: Kính mong đức Thế Tôn hãy giải nói cho con).
3.2.3.2.2.2.1.5. Đáp thị hiển đức (trả lời, chỉ dạy, nêu rõ đức)
3.2.3.2.2.2.1.5.1. Tổng thị nan hóa (nêu tổng quát: Chúng sanh khó hóa độ)
(Kinh) Phật cáo Diêm La thiên tử: “Nam Diêm Phù Đề chúng sanh, kỳ tánh cang cường, nan điều, nan phục”.
(經)佛告閻羅天子:南閻浮提眾生,其性剛強,難調難
伏。
(Kinh: Đức Phật bảo Diêm La thiên tử: “Chúng sanh Nam Diêm Phù Đề, tánh khí ương ngạnh, khó điều phục”).
“Kỳ tánh” (tánh của họ) tức là tập tánh, cho nên nói là “cang cường” (ương ngạnh). Nếu là pháp tánh thì vốn sẵn nhu hòa. “Cang” (剛) là cứng cỏi. Đấy chẳng phải là sự cứng cỏi (cương nghị) trung chánh, thuần túy, mà là sự cứng đầu, táo bạo do bẩm tánh nóng nảy. Ví như voi ác, ngựa hèn, khó thể điều phục!
3.2.3.2.2.2.1.5.2. Biệt tán phương tiện (riêng tán thán phương tiện)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.1. Dĩ pháp trực thị (dùng pháp để chỉ thẳng)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.1.1. Ước Địa Tạng phương tiện cứu bạt (xét theo phương tiện cứu vớt của ngài Địa Tạng)
(Kinh) Thị đại Bồ Tát ư bách thiên kiếp, đầu đầu cứu bạt như thị chúng sanh, tảo linh giải thoát. Thị tội báo nhân, nãi chí đọa đại ác thú. Bồ Tát dĩ phương tiện lực, bạt xuất căn bản nghiệp duyên, nhi khiển ngộ túc thế chi sự.
(經)是大菩薩於百千劫,頭頭救拔如是眾生,早令解脫。是罪報人,乃至墮大惡趣。菩薩以方便力,拔出根本業緣
,而遣悟宿世之事。
(Kinh: Vị đại Bồ Tát ấy trong trăm ngàn kiếp đã luôn luôn cứu vớt chúng sanh như thế, khiến cho họ sớm giải thoát. Những kẻ tội báo ấy, thậm chí đọa vào trong đường ác lớn, Bồ Tát dùng sức phương tiện dẹp trừ nghiệp duyên căn bản, khiến cho họ ngộ những chuyện thuộc đời trước).
Chúng sanh tánh tuy ương ngạnh, khó thể điều phục, nhưng Địa Tạng Bồ Tát chẳng xả lòng đại từ, mà luôn luôn cứu vớt. “Đầu đầu” còn nói là “xứ xứ”, ý nói “ngàn chốn, vạn nơi”. Câu “như thị chúng sanh” (chúng sanh như thế) chỉ rõ kẻ khó điều phục. Đối với kẻ ương bướng thì dùng mềm mỏng để dạy, khiến cho kẻ khó điều phục sẽ điều phục. Như Vương Lương và Tạo Phụ[24] khéo điều phục tánh ngựa, ắt khiến cho chúng nó đi vào khuôn khổ mới thôi! Nay đối với Tam Bảo, Thí, Giới, ắt đều làm cho họ tu trì. Giới thanh tịnh đã sanh, bèn đạt được giải thoát thanh tịnh. Vì thế, đối với kẻ tội báo nhẹ, nhỏ, bèn lập tức cứu vớt. Nếu phạm tội nặng, đáng đọa vào A Tỳ là chốn đường ác to lớn, Ngài cũng dùng sức phương tiện khéo léo để dẹp trừ nghiệp duyên căn bản của họ.
Từ ngữ A Phù Ha Na (Apattivyutthānaṁ) trong tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Bạt Trừ Tội Căn. Cần biết các điều ác, theo nghiệp thọ báo đều lấy Tam Độc làm gốc. Trong Tam Độc, tham ái là cội rễ. Như nắm lấy một đầu tấm vải, những phần còn lại đều xuôi theo. Đại Trí Độ Luận nói: “Nếu chẳng đoạn ái, ái bèn sanh trưởng tươi tốt. Vì thế, tứ sanh đều do ái khởi”. Do vậy, Thành Thật Luận viết: “Như chẳng nhổ rễ cây, cây vẫn còn sống. Rễ tham chẳng nhổ, cây khổ thường còn đó”. Vì thế biết tham ái là cái gốc của sanh tử. Nếu diệt tham dục thì gọi là Đệ Tam Đế (tức Diệt Đế). Kinh Thập Luân dạy: “Diệt trừ nhất thiết Hoặc chướng tập khí, do như liệt nhật tiêu thích khinh băng” (Diệt trừ hết thảy Hoặc chướng, tập khí, ví như mặt trời chói rực làm tan ngay băng mỏng). Vì thế, bài kệ Vô Thường có đoạn viết: “Minh nhãn, vô quá huệ, hắc ám, bất quá si” (Mắt sáng chẳng hơn huệ; tối tăm chẳng hơn si). Nay nghiệp duyên căn bản đã nhổ trừ, tự ngộ những chuyện thuộc về đời trước. Ví như lau đi lau lại gương cổ, ánh sáng thường hằng của nó sẽ tự hiện.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.1.2. Ước chúng sanh ác tập nan thoát (nói theo phía chúng sanh khó thoát tập khí ác)
(Kinh) Tự thị Diêm Phù chúng sanh kết ác tập trọng, toàn xuất, toàn nhập, lao tư Bồ Tát cửu kinh kiếp số, nhi tác độ thoát.
(經)自是閻浮眾生結惡習重,旋出旋入,勞斯菩薩久經劫數,而作度脫。
(Kinh: Chính vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù kết sử và tập khí ác nặng nề, vừa mới thoát ra, lập tức trở vào, nhọc nhằn Bồ Tát trải qua kiếp số lâu xa độ thoát họ).
Chữ “Tự” hàm ý: Phương tiện cứu vớt như thế, đáng lẽ họ phải là nơi nào cũng đều được giải thoát. Nay không thể như thế là vì chúng sanh tự tạo ác nghiệp, tự mình trói mình, chẳng phải là lỗi của Bồ Tát! “Kết ác tập trọng” (kết sử và tập khí ác nặng nề) chính là từ ngữ khẩn yếu: Cội nguồn sanh tử nói đại lược là Tam Kết, tức Thân Kiến, Giới Thủ, và Nghi, nói rộng là tám mươi tám Sử v.v… Do Kết Ác mà tạo mười tập nhân, tức tập, tham, mạn, sân, trá (dối trá), cuống (lừa dối), oán, kiến (chấp vào kiến giải, có thành kiến), uổng (làm chuyện oan uổng), tụng tập (quen thói thưa kiện, tranh chấp), thọ sáu giao báo[25]. Do vậy, họ vừa mới ra khỏi tam đồ, lại lập tức trở vào chỗ khổ sở cùng cực, đến nỗi nhọc công ngài Địa Tạng trải qua nhiều kiếp đã lâu như số vi trần, khởi vô lượng phương tiện để tạo nhân duyên độ thoát. Há chẳng phải là do tập khí ác của chúng sanh lôi kéo, vướng vất đến nỗi Bồ Tát nhọc nhằn giáo hóa đã lâu mà chẳng thể kết thúc ư?
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2. Dĩ dụ thích minh (dùng thí dụ để giải thích rõ)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.1. Mê nhập hiểm đạo (mê muội đi vào đường hiểm)
(Kinh) Thí như hữu nhân, mê thất bổn gia, ngộ nhập hiểm đạo.
(經)譬如有人,迷失本家,誤入險道。
(Kinh: Ví như có kẻ mê mất nhà mình, đi lầm vào đường hiểm).
Đoạn này chia làm ba tiểu đoạn. Đầu tiên là do mê cội gốc mà vào đường hiểm. “Hữu nhân” (có kẻ): Ví như chúng sanh trong ác đạo. “Nhân quả chẳng quên” là Có. “Kẻ” [ở đây] chính là người chịu đựng, tức chịu đựng nỗi khổ ngũ trược. Cõi Thường Tịch Quang là “bổn gia” (nhà của chính mình). Chúng sanh Thập Ác vốn là con của Như Lai; chỗ khổ sở trong tam đồ, không gì chẳng phải là “nhà thường tịch”! Do chẳng biết pháp Chân Như là một, gió bất giác vô minh thổi lên, phiêu bạt nơi nước lạ, đọa lạc chốn quê người! Đã quên quê hương, bèn mê mất lối về. Mải mê đuổi theo cảnh, dấn thân vào đường hiểm. Sách Pháp Hoa Văn Cú giải thích câu “hiểm nạn ác đạo” (đường ác hiểm nạn) trong kinh Pháp Hoa là cách nói sánh ví tổng quát về nhân quả sanh tử trong chín pháp giới. Vì thế nói là Phần Đoạn và Biến Dịch, tức là sự hiểm nạn nơi cái quả. Kiến Tư ngũ trụ chính là sự hiểm nạn nơi cái nhân. Do nhân duyên ấy, cho nên nói là “ác đạo”. Nay dựa theo câu kinh văn trong phần tiếp theo, tức câu “sanh nhân thiên trung, linh thọ diệu lạc” (khiến cho họ sanh trong cõi trời, người, hưởng niềm vui mầu nhiệm), sẽ thấy: Tam đồ được coi là “đường hiểm” là vì chẳng nương theo lời dạy hành Thí, Giới để sanh thiện, đến nỗi lầm lạc đọa vào ba ác đạo!
(Kinh) Kỳ hiểm đạo trung, đa chư Dạ Xoa, cập hổ, lang, sư tử, nguyên, xà, phúc, yết.
(經)其險道中,多諸夜叉,及虎狼師子,蚖蛇蝮蠍。
(Kinh: Trong đường hiểm ấy, có nhiều Dạ Xoa, và cọp, sói, sư tử, cắc kè, rắn, độc trùng, bò cạp).
Đoạn thứ hai là đường hiểm có nhiều sự ác, do có nhiều Dạ Xoa v.v… Dạ Xoa, có trí, có thần thông, bay đi nhanh chóng; ví như Lợi Sử, tà kiến, báng bổ vô nhân quả, có trí biện tài nhanh chóng. Chánh Tâm Địa Quán nói: “Tâm như Dạ Xoa vì có thể ăn các thứ pháp công đức”. “Hổ, sói”: Súc sanh ngu độn, ương bướng, ví như Độn Sử. Theo Câu Xá Luận, do kiêu mạn lừng lẫy, sẽ sanh trong loài sư tử, hổ, sói. Do sân khuể lừng lẫy, sanh trong loài nguyên, xà, phúc, yết. Như vậy thì hổ, sói, sư tử đều ví như Mạn Sử. Nay xét ra, Tam Độc là cái gốc của thân, khẩu, cho nên hổ được sánh ví như Mạn Sử. Như kinh Phân Biệt Thiện Ác đã dạy: “Kiêu ngạo thường mạn nhân, hậu sanh vi mãnh hổ cố dã” (Kẻ kiêu ngạo, thường khinh mạn, về sau, sanh làm cọp dữ). Sói ví như Tham Sử, do sói mong cầu thức ăn, không no bụng sẽ không ngừng; cho nên nói là “tham lang” (貪狼, tham lam, hung tàn). Sư tử biểu thị Si Sử, do xưa kia trì giới tuy nghiêm ngặt, nhưng chẳng có huệ thanh tịnh, chấp vào giới mà khinh mạn kẻ khác, cho nên đọa làm súc sanh. Do sức của giới mà làm vua các loài thú. Không có huệ tức là si, cho nên dùng sư tử để sánh ví Si Sử.
Nguyên, xà, phúc, yết ví như Sân Sử. “Nguyên” (蚖) là Thủ Cung (守宮, cắc kè), loài sống trên tường thì gọi là Yển Đình (蝘蜓, cắc kè đốm), sống nơi bãi sông gọi là Tích Dịch (蜥蜴, thằn lằn cát, hoặc con giông). Do loài này sẵn có rất nhiều chất độc, không đụng đến nó vẫn cắn, cho nên sánh ví như giận dữ phi lý. Dương Tử nói: “Cắc kè không nể nang ai”. Phúc (蝮) là Đào Diên (蜪蝝), [tức một loại độc trùng], hễ nó chích vào tay thì phải chặt tay, chích vào chân thì phải chặt chân; có hại cho thân. Yết hổ (蠍虎, bò cạp) là một loại độc trùng chích người. Nhưng đụng vào nó thì nó mới chích, nên ví như kẻ chấp vào lý mà sân. Chẳng dùng rết để sánh ví sự sân hận vì hý luận, do trong tam đồ không có hý luận.
(Kinh) Như thị mê nhân, tại hiểm đạo trung, tu du chi gian, tức tao chư độc.
(經)如是迷人,在險道中,須臾之間,即遭諸毒。
(Kinh: Kẻ mê như thế, ở trong đường hiểm, trong khoảnh khắc sẽ bị các thứ độc làm hại).
Đoạn thứ ba là ở trong đường hiểm đụng phải các thứ độc. “Như thị mê nhân” (Kẻ mê như thế): Ý nói kẻ mê muội thật nặng, chẳng biết Tứ Đế, đến nỗi lưu lạc trong đường hiểm Thập Sử.
“Tu du tao độc” (Trong khoảnh khắc, sẽ gặp phải các thứ độc): Do một niệm có chín mươi sát-na, trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Giảm tổn trong mỗi niệm, chẳng hề tăng trưởng, ví như thác nước trên núi, [cứ tuôn chảy] chẳng thể ngưng dứt; cũng như sương sớm, chẳng tồn tại lâu dài! Vì thế, nói là “trong khoảnh khắc, sẽ gặp gỡ các thứ độc”.
“Các thứ độc”: Theo kinh Niết Bàn, rắn có bốn thứ độc là kiến độc (trông thấy nó liền bị trúng độc), xúc độc (chạm vào nó liền bị trúng độc), khiết độc (bị nó cắn mà trúng độc), thích độc (bị nó mổ mà trúng độc). Hổ, sói, sư tử, gấu nâu, gấu ngựa, mèo, chồn, chim ưng, diều hâu, có đủ các thứ độc hại, nếu chẳng phải là đường hiểm thì là gì vậy?
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.2. Tri thức chỉ mê (tri thức chỉ điểm kẻ mê)
(Kinh) Hữu nhất tri thức, đa giải đại thuật, thiện cấm thị độc, nãi cập Dạ Xoa, chư ác độc đẳng.
(經)有一知識,多解大術,善禁是毒,乃及夜叉諸惡毒等。
(Kinh: Có một vị tri thức hiểu nhiều phương tiện rộng lớn, khéo ngăn cấm các độc ấy và Dạ Xoa, các thứ ác độc v.v…)
“Tri thức” chỉ đức Địa Tạng, thường nói là “chỉ có mình ta là có thể cứu vớt, che chở”, cho nên nói là “nhất”. Kinh Tư Ích nói: “Ư đọa tà đạo chúng sanh, sanh đại bi tâm, linh nhập chánh đạo, bất cầu ân báo, thị danh đạo sư” (Đối với chúng sanh đọa vào đường tà, bèn sanh tâm đại bi, khiến cho họ nhập chánh đạo, chẳng cầu báo ân, nên gọi là đạo sư), đấy chính là tri thức. Do “đa giải đại thuật, thiện cấm thị độc” (hiểu nhiều phương tiện rộng lớn, khéo ngăn cấm các thứ độc) cho nên gọi là tri thức. Dùng phương tiện nhiệm mầu dể tùy cơ gợi mở, hướng dẫn, rộng nói các luận thuyết Thí, Giới, sanh thiên, chỉ dạy rộng khắp các môn Đế, duyên, đạo phẩm. Trí huệ rộng sâu thì gọi là “đa giải” (hiểu nhiều). Phương tiện xảo diệu gọi là “đại thuật”. “Thiện cấm độc” (khéo cấm chế các thứ độc) là nói Đạo phẩm để đối trị các chất độc của Tập Đế, như đối với kẻ tham nhiều, liền dạy họ quán bất tịnh v.v… (Theo kinh Thiện Tín, có một vị thần cây thuốc, tên là Ma La Đà Kỳ, chuyên khắc chế vạn độc trong thiên hạ. Có con rắn thần, thân dài một trăm hai mươi thước, bò đi kiếm ăn. Có con trùng đầu đen, thân dài một trượng năm thước, chạm mặt rắn, rắn liền ngóc đầu mổ trùng. Nghe mùi thuốc, rắn liền gục đầu muốn bò đi. Thân nó vướng vào cây thuốc, đứt ra làm hai đoạn. Phần đầu sống sót, bò mất, phần đuôi thối nát. Các loài độc vật nghe mùi thối của rắn, các thứ khí độc ác thảy đều tiêu diệt).
(Kinh) Hốt phùng mê nhân, dục tấn hiểm đạo, nhi ngữ chi ngôn: “Đốt tai nam tử! Vị hà sự cố, nhi nhập thử lộ? Hữu hà dị thuật, năng chế chư độc?”
(經)忽逢迷人,欲進險道,而語之言:咄哉,男子!為何事故,而入此路?有何異術,能制諸毒?
(Kinh: Chợt gặp kẻ mê muốn vào con đường hiểm, bèn bảo rằng: “Ô hay ông kia! Vì duyên sự gì mà vào đường này? Ông có pháp thuật lạ có thể ngăn trừ các thứ độc hay chăng?”)
Từ “hốt phùng” (chợt gặp) trở đi, nói rõ Đại Sĩ chỉ ra phương cách thoát khỏi tam đồ. Không quen biết mà gặp gỡ thì gọi là “hốt phùng” (忽逢). Sắp vào nhưng chưa vào thì bảo là “dục tấn” (欲進), tương phản với “ngoa nhập” (譌入, đã lầm lạc tiến vào). “Ngữ chi” (語之) là bảo ban. Ấy là vì xưa kia đã hóa độ khiến cho kẻ ấy thoát khổ, hiềm rằng [kẻ ấy] chí tánh bất định, lại tạo ác nghiệp, lại vào tam đồ. Vì thế, lo sầu, kinh hãi mà bảo ban. “Đốt tai” (咄哉) là từ ngữ cảnh tỉnh. “Nam tử” hàm ý cảnh giác. Nam tử là trượng phu, kinh Đại Thừa nói: “Có thể thấy Phật tánh thì gọi là trượng phu”. Nay đã mê Phật tánh, cho nên dùng từ ngữ “nam tử” để cảnh tỉnh người ấy nhận biết [Phật tánh] vốn sẵn có.
Kinh Thập Luân nói: “Như mê phương giả, sở phùng thị đạo” (Như kẻ mê phương hướng, gặp người chỉ đường) là nói về chuyện này. “Hà sự” (chuyện gì) là kinh ngạc hỏi han. “Thử lộ” (đường này) chỉ tam đồ. Đức Phật dạy: “Chúng sanh dĩ tam ác đạo vi gia” (chúng sanh lấy ba ác đạo làm nhà), cho nên nói “thử lộ”. Do có hai hạng người sẽ vào con đường ấy, tức là người có oai thần, hay người theo nghiệp lực. Chẳng phải là hai chuyện ấy, sẽ trọn chẳng thể đến được! Vì thế, kinh ngạc hỏi: “Là do thần thông cứu khổ mà vào? Hay là do nghiệp cảm báo mà đến?” “Hữu hà dị thuật?” (Có pháp thuật lạ gì) là lời căn vặn, ý nói: Ông có pháp thuật lạ lùng nào, có sức có thể chế ngự các thứ độc hay chăng? Chữ “dị thuật” biểu thị phương tiện lạ, đối trị các pháp môn ác, trợ hiển Đệ Nhất Nghĩa Đế.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3. Mê cầu xuất lộ (người mê cầu thoát khỏi đường hiểm)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.1. Mê văn thoái bộ cầu lộ (người mê nghe nói bèn lùi bước, cầu thoát khỏi đường ấy)
(Kinh) Thị mê lộ nhân, hốt văn thị ngữ, phương tri ác đạo, tức tiện thoái bộ, cầu xuất thử lộ.
(經)是迷路人,忽聞是語,方知惡道,即便退步,求出此路。
(Kinh: Người lạc đường ấy bỗng nghe lời đó, mới biết là ác đạo, liền lùi bước, mong thoát khỏi đường ấy).
“Hốt văn” (bỗng nghe) là nghe Tứ Đế. Do trước kia chưa nghe, nay bỗng được nghe! Điều này giống như ông Tu Đạt (trưởng giả Cấp Cô Độc) lúc mới được nghe chữ Phật, toàn thân rởn da gà, bỗng thấy quang minh. “Tri ác đạo” (biết là ác đạo), tức là sợ Khổ Tập. Sách Phụ Hành viết: “Trong mỗi niệm đều luôn biện định đúng, sai. Nếu dấy lên cái tâm sai trái, phải nên làm cho cái tâm ấy diệt mất, vì tâm sai trái chính là đường hiểm”. Kinh Bảo Vũ dạy: “Vị chư hữu tình an trụ thế gian, cụ túc điên đảo, trụy hiểm ác lộ, đọa ư phi xứ. Ngã kim linh bỉ chư hữu tình đẳng, nhập chân thật lộ. Do thị Như Lai vị chư hữu tình khởi ư đại bi” (Tức là các hữu tình an trụ trong thế gian, trọn đủ điên đảo, rơi vào đường hiểm ác, đọa vào chốn sai trái. Ta nay sẽ làm cho các hữu tình ấy vào trong đường chân thật. Do vậy, Như Lai vì các hữu tình mà dấy lòng đại bi) chính là nói đến ý này. “Tiện thoái bộ” (liền lùi bước) tức là ngừng dứt Thập Ác, tu Thập Thiện. “Cầu xuất lộ” (mong ra khỏi đường ấy) chính là cầu sanh trong trời, người.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.2. Tri thức tiếp dẫn, cáo ngữ (tri thức tiếp dẫn, bảo ban)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.2.1. Tiếp dẫn (tiếp dẫn)
(Kinh) Thị thiện tri thức, đề huề tiếp thủ, dẫn xuất hiểm đạo,
miễn chư ác độc, chí ư hảo đạo, linh đắc an lạc.
(經)是善知識,提携接手,引出險道,免諸惡毒,至於好道,令得安樂。
(Kinh: Vị thiện tri thức ấy nắm tay dìu dắt, dẫn ra khỏi đường hiểm, thoát khỏi các thứ ác độc, đến con đường tốt, khiến được an lạc).
Theo kinh Niết Bàn, người trọn đủ các phạm hạnh, tự tu các thứ thiện pháp, khiến cho các học nhân dần dần xa lánh ác pháp, tăng trưởng thiện pháp thì gọi là “thiện tri thức”. “Đề huề tiếp thủ” (nắm tay dìu dắt): Giống như “phục tương phù trợ” (lại còn nâng đỡ) trong phần trước. Nâng, dắt, nắm tay kéo đi, dẫn ra khỏi đường hiểm, lìa khỏi chuyện khổ trong tam đồ. Thoát khỏi các thứ ác độc, đoạn kết sử quen thói làm ác, sanh trong đường lành trời, người, đạt được Niết Bàn an lạc. Kinh Thập Luân dạy: “Thí như minh nguyệt, ư dạ phần trung, năng thị nhất thiết thất đạo chúng sanh bình thản chánh lộ, tùy kỳ dục vãng, giai linh đắc chí. Thử thiện nam tử, diệc phục như thị, ư vô minh dạ, năng thị nhất thiết mê tam thừa đạo, trì sính sanh tử khoáng dã chúng sanh, tam thừa chánh lộ, tùy kỳ sở ưng, phương tiện an lập, linh đắc xuất ly” (Ví như trăng sáng trong ban đêm có thể soi chỉ con đường ngay ngắn, phẳng phiu cho hết thảy chúng sanh lạc đường, tùy theo họ muốn tới đâu đều được tới đích. Vị thiện nam tử này cũng giống như vậy, trong đêm tối vô minh, có thể dạy con đường tam thừa chánh đáng cho hết thảy những kẻ mê mất đạo tam thừa đang chạy quàng trong đồng hoang sanh tử, tùy theo căn tánh đáng nên đắc đạo quả nào của mỗi người mà dùng phương tiện an lập họ, khiến cho họ được thoát lìa). Dựa theo đó, cũng nên xét theo nhân quả trong chín pháp giới để giảng về đường hiểm, [cũng giống như trong phẩm Hóa Thành Dụ của kinh Pháp Hoa, vị đạo sư dẫn mọi người] vượt qua năm trăm do-tuần đến được chỗ có của báu Niết Bàn thì mới là an ổn. Nay chỉ xét theo tam đồ, trời, người để luận định khít khao, vì hóa độ những kẻ đang mê muội trong ngũ trược là chuyện trọng yếu. Trước hết, dùng tiểu pháp để tiếp dẫn; kế đó, làm cho họ nhập Đại Thừa. [Phải hiểu đấy là] phương tiện hay khéo, thích hợp và sự hóa độ hay khéo thuận theo cơ nghi, chớ nói kinh này chỉ [giúp cho chúng sanh] được sanh trong đường trời, người! Hãy chú trọng điều này, những điều trước và sau đó đều phỏng theo lệ này.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.2.2. Cáo ngữ (bảo ban)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.2.2.1. Chánh cáo mê nhân (dạy bảo kẻ mê)
(Kinh) Nhi ngữ chi ngôn: “Đốt tai! Mê nhân! Tự kim dĩ hậu, vật lý thị đạo. Thử lộ nhập giả, tốt nan đắc xuất, phục tổn tánh mạng”. Thị mê lộ nhân, diệc sanh cảm trọng.
(經)而語之言:咄哉!迷人!自今已後,勿履是道。此路入者,卒難得出,復損性命。是迷路人,亦生感重。
(Kinh: Mà nói như thế này: “Ôi chao! Này kẻ lạc đường! Từ nay trở đi, đừng bước vào con đường ấy nữa. Vào con đường ấy, rất khó thoát ra, lại còn tổn hại tánh mạng”. Người lạc đường ấy cũng sanh tâm cảm kích sâu nặng).
“Ngữ ngôn” (bảo ban) nhằm khuyên tu đạo tốt lành. “Đốt tai” (ô hay, ôi chao) ngụ ý cảnh tỉnh lần nữa. Ta phải dùng hết sạch sức phương tiện mới khiến cho ông thoát khỏi ác đạo; vì thế, cảnh tỉnh lần nữa: “Ông hãy nên nghĩ sâu xa nỗi khổ này, đừng nên tạo ác nghiệp lần nữa, để rồi lại phải vào tam đồ!” Do vậy, bèn khuyến cáo: “Than ôi! Ác huệ tà tu, tự cam tâm ở trong đường hiểm!” Gặp cảnh giới ấy, há có thể lặng câm? Nghĩ kẻ đó ngu si, há đành điềm nhiên ngồi nhìn? Huống hồ đức Thế Tôn bi tâm phó chúc, lưu lại đại nguyện cứu tế trọn khắp nơi bến mê. Bồ Tát y giáo phụng hành, thị hiện hạnh Đồng Sự để hóa độ họ đều cùng thành Phật. Nếu thấy kẻ lạc lối mà chẳng chỉ nẻo chánh, từ bi ở chỗ nào? Ngó kẻ đắm chìm mà chẳng nghĩ cách cứu vớt, phương tiện còn đâu? Vì thế, bảo ban như thế này: “Con đường sanh tử này, hễ lọt vào sẽ khó thoát ra, lại còn tổn hại Pháp Thân huệ mạng, đúng là chỗ hiểm nguy!” Kẻ mê cũng cảm kích sâu nặng, vì trót chẳng biết, lầm lẫn vào chỗ sanh tử nguy hiểm, nay bỗng được nhắc nhở, lại được lên chốn quê nhà an lạc. Như kẻ lênh đênh, bỗng chốc trở về nhà; như kẻ đang chìm dưới vực thẳm, bỗng được lên bờ, há chẳng cảm kích sâu đậm, tột bậc trân trọng ư? Đại Luận nói: “Trước hết, hãy nên dùng mắt để thấy đạo rồi sau đó mới hành. Khi hành, hãy nên siêng năng, chuyên ròng. Khi hành siêng năng, chuyên ròng, thường nghĩ đúng như vị đạo sư đã dạy. Nghĩ rồi, nhất tâm lên đường, chẳng thuận theo phi đạo” chính là nói về chuyện này.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.2.3.2.2.2. Chúc linh chuyển cáo (dặn nói lại với người khác)
(Kinh) Lâm biệt chi thời, tri thức hựu ngôn: “Nhược kiến thân tri, cập chư lộ nhân, nhược nam, nhược nữ, ngôn ư thử lộ đa chư độc ác, táng thất tánh mạng, vô linh thị chúng, tự thủ kỳ tử”.
(經)臨別之時,知識又言:若見親知,及諸路人,若男若女,言於此路多諸毒惡,喪失性命,無令是眾,自取其死。
(Kinh: Lúc chia tay, tri thức lại nói: “Nếu thấy người thân, kẻ quen biết, và những người đi đường, dù nam hay nữ, hãy nói với họ: Trong con đường này có nhiều thứ độc ác khiến cho tánh mạng bị chôn vùi, đừng để cho họ tự rước lấy cái chết”).
Khi chia tay bèn dạy kẻ ấy giáo hóa người khác, dạy hãy khuyên người khác, mong sao họ sẽ lần lượt truyền đạt, giáo hóa mãi chẳng dứt. “Thân tri” (người thân, kẻ quen biết) là những người đã tiếp nhận đạo nhưng chưa giải thoát. “Lộ nhân” (người qua đường) là những người chưa tiếp nhận đạo, còn đang sanh tử. Nói “nam, nữ” biểu thị truyền trao Định, Huệ. Nói “thử lộ” (con đường này), nghĩa là lại dùng Khổ Tập dạy lại những người trên đây. Do con đường có nhiều thứ ác độc, [lầm đi vào đó], ắt sẽ đánh mất tánh mạng. Vì thế, cần biết Khổ đoạn Tập, hâm mộ Diệt, tu Đạo, chẳng tự đánh mất Pháp Thân huệ mạng. Trên đây là vị tri thức dạy [kẻ lạc đường] hãy nói lại với người khác, kế đó nêu ra dụng ý [vì sao] phải nói lại. Nói “thị chúng” (những chúng sanh ấy), có nghĩa là: Họ khác gì người ruột thịt của ta? Nói “thủ tử” (rước lấy cái chết) chính là hãy thiết thực nghĩ họ giống như ta, nhấn mạnh ý nghĩa trong câu “thủ tử”! Như kinh Ngũ Khổ Chương Cú có nói: “Tích Diêm La vương hữu hoằng phổ chi Từ, chư đọa địa ngục giả, hiện thân vấn chi: ‘Nhữ đẳng hà vi thị gian?’ Tội nhân đối viết: ‘Ngã đẳng tử thời, bất tri hành chư ác, tự nhiên truy trục, tống ngã lai đáo thị gian’. Vương viết: – Tự nhữ sở tác, kim đương thọ chi, ngô bất uổng nhữ” (Xưa kia, vua Diêm La có lòng Từ rộng lớn trọn khắp, đối với những kẻ đọa địa ngục, vua bèn hiện thân hỏi han: “Vì sao các ngươi đến nơi đây?” Tội nhân thưa: “Khi chúng tôi chết, chẳng biết kẻ nào làm các điều ác, tự nhiên xua đuổi, đẩy chúng tôi đến nơi này”. Vua nói: “Do các ngươi tự làm, nay phải hứng chịu, ta chẳng oan uổng các ngươi”). Há chẳng phải là tự rước lấy cái chết ư? Ví như ôm đá gieo mình xuống vực, tự chìm, tự rơi. Con thiêu thân gieo mình vào lửa, tự đốt, tự tan nát, chẳng phải do người hay trời gây ra!
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3. Dĩ pháp hợp hiển (phối ứng thí dụ với pháp để làm rõ nghĩa)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1. Phương tiện cứu bạt (phương tiện cứu vớt)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.1. Trực dĩ pháp hợp (trực tiếp kết hợp thí dụ với pháp)
(Kinh) Thị cố, Địa Tạng Bồ Tát cụ đại từ bi, cứu bạt tội khổ chúng sanh, sanh nhân thiên trung, linh thọ diệu lạc. Thị chư tội chúng, tri nghiệp đạo khổ, thoát đắc xuất ly, vĩnh bất tái lịch.
(經)是故,地藏菩薩具大慈悲,救拔罪苦眾生,生人天中,令受妙樂。是諸罪眾,知業道苦,脫得出離,永不再歷。
(Kinh: Vì thế, Địa Tạng Bồ Tát trọn đủ lòng đại từ bi cứu vớt chúng sanh tội khổ, khiến cho họ được sanh làm trời, người, được hưởng sự vui sướng mầu nhiệm. Các chúng sanh mắc tội ấy biết nghiệp đạo là khổ, đã được thoát lìa rồi bèn vĩnh viễn chẳng trở vào nữa).
Đây là dựa trên thí dụ về con đường hiểm để phối ứng với pháp, hòng giảng rõ ý nghĩa. “Cụ đại từ bi” (trọn đủ lòng đại từ bi): Do đồng thể nên nói là “cụ” (具, trọn đủ). Ban vui tức là dẹp khổ, dẹp khổ chính là ban vui, cho nên nói là Đại. Từ cái Thể trọn đủ nơi Lý, khởi ra thần thông tạo tác nơi Sự để cứu bạt. “Sanh trong trời, người”: Hiển lộ tác dụng thật sự của lòng từ bi. “Trời, người” chính là căn khí để tiếp nhận đạo. Vì thế, trước hết cần phải sanh trong trời, người, hưởng các sự vui sướng. Điều này phối ứng với phần trước thì chính là đoạn kinh văn “thiện tri thức nắm tay dìu dắt”, cho đến “khiến cho được an vui” trong phần trước. Từ “thị chư” (các chúng sanh ấy) trở đi, nói tới những chúng sanh có tội biết hối. Các chúng sanh có tội chính là căn cơ được hóa độ, biết nghiệp khổ do đã đích thân trải qua. Vì thế, nguyện được thoát lìa, vĩnh viễn chẳng trải qua chuyện ấy nữa.
Theo kinh Khởi Thế, vua Diêm La sau khi chịu nỗi khổ bị nước đồng sôi rót vào miệng, tự phát nguyện rằng: “Nguyện từ nay xả thân này xong, khi thọ thân khác, chỉ thọ sanh trong nhân gian, tin hiểu pháp của Như Lai, cạo bỏ râu tóc, đắp y ca-sa. Đã xuất gia, nguyện chứng đắc đạo, chẳng còn thọ sanh trong đời sau nữa”. Diêm Vương còn như thế, huống hồ những kẻ khác ư? Vì thế, trong kinh Quán Phật Tam Muội, các vị Bồ Tát quở trách ngạ quỷ: “Nhữ ư tiền thân vô lượng thế thời, tác vô hạn tội, phỉ báng, bất tín, đọa A Tỳ ngục, thọ chư khổ não, bất khả cụ thuyết. Nhữ kim ưng đương phát từ bi tâm” (Các ngươi trong những thân thuộc vô lượng đời trước, đã tạo vô hạn tội, phỉ báng, bất tín, đọa vào ngục A Tỳ, chịu các khổ não, chẳng thể nói trọn! Nay các ngươi hãy nên phát tâm từ bi). Các ngạ quỷ nghe xong, xưng “Nam-mô Phật”, ngay lập tức mạng chung, sanh về chỗ Tứ Thiên Vương. Hối lỗi, tự trách, phát Bồ Đề tâm; tâm quang của chư Phật chẳng bỏ những kẻ ấy. Nhiếp thọ những kẻ ấy như La Hầu La, dạy họ tránh khỏi địa ngục, như yêu mắt, tai. Nay ngài Địa Tạng cũng thế, cho nên những chúng sanh tội khổ phát tâm hối hận ấy hoàn toàn phù hợp với đoạn kinh văn “đốt tai mê nhân” (ô hay! Này người mê) cho đến “tự thủ kỳ tử” (tự rước lấy cái chết).
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.2. Pháp dụ hợp thích (gộp chung pháp và thí dụ để giải thích)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.2.1. Hợp mê nhân nhập hiểm (kết hợp với thí dụ người lạc lối đi vào đường hiểm)
(Kinh) Như mê lộ nhân, ngộ nhập hiểm đạo.
(經)如迷路人,誤入險道。
(Kinh: Như kẻ lạc đường, đi lầm vào đường hiểm).
Ứng hợp với đoạn văn từ “thí như hữu nhân” (ví như có người) cho đến “tức tao chư độc” (sẽ bị các thứ độc làm hại) trong phần trên.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.2.2. Hợp tri thức chỉ mê (đối ứng với phần tri thức chỉ bảo kẻ mê)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.2.2.1. Mê nhân tự xuất (người mê tự ra khỏi)
(Kinh) Ngộ thiện tri thức, dẫn tiếp linh xuất, vĩnh bất phục nhập.
(經)遇善知識,引接令出,永不復入。
(Kinh: Gặp thiện tri thức dẫn dắt ra khỏi, vĩnh viễn chẳng còn vào trong đó nữa).
Tương ứng với đoạn kinh văn từ “hữu nhất tri thức” (có một vị tri thức) cho đến “diệc sanh cảm trọng” (cũng sanh lòng cảm kích sâu
nặng).
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.1.2.2.2. Chuyển cáo tha nhân (nói lại với người khác)
(Kinh) Phùng kiến tha nhân, phục khuyến mạc nhập, tự ngôn nhân thị mê cố, đắc giải thoát cánh, cánh bất phục nhập.
(經)逢見他人,復勸莫入,自言因是迷故,得解脫竟,更不復入。
(Kinh: Gặp người khác, lại khuyên họ đừng vào, tự nói chính mình do mê muội [nên vào đó, nay] đã được giải thoát rồi, chẳng còn vào nữa).
Tương ứng với đoạn kinh văn “lâm biệt chi thời” (khi sắp chia tay) cho đến “tự thủ kỳ tử” (tự rước lấy cái chết). Phần kết hợp với
phương tiện cứu bạt đã xong.
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.2. Hợp ác tập nan thoát (kết hợp phần kinh văn nói về chuyện khó thoát khỏi tập khí ác)
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.2.1. Dụ hợp (kết hợp với phần thí dụ)
(Kinh) Nhược tái lý tiễn, do thượng mê ngộ, bất giác cựu tằng sở lạc hiểm đạo, hoặc trí thất mạng, như đọa ác thú.
(經)若再履踐,猶尚迷誤,不覺舊曾所落險道,或致失命,如墮惡趣。
(Kinh: Nếu lại đi vào, tức là vẫn còn mê lầm, chẳng biết trước kia đã từng rơi vào đường hiểm, hoặc đến nỗi phải mất mạng, như đọa trong đường ác).
Tương ứng với đoạn kinh văn [chúng sanh] “nan điều, nan phục, kết ác tập trọng, toàn xuất, toàn nhập” (khó điều phục, kết sử, tập khí ác nặng nề, vừa mới thoát ra lại trở vào ngay) trong phần trước. Ý nói: Đã thoát khỏi tam đồ, đã sanh làm trời, người, đáng lẽ nên tự chuyên ròng, siêng năng tu tập. Hiềm rằng tập khí ác chưa trừ, lại tạo ác nghiệp, lại vào trong tam đồ. Do vẫn mê cái gốc, lầm lạc vào đường hiểm, chẳng biết xưa kia đã từng lăn lóc trong đường ác hiểm nạn. Hoặc có kẻ rơi vào cảnh hiểm, nhưng chẳng mất mạng, do có chút điều lành thuở trước, thoát hiểm cũng nhanh chóng. Hoặc có lúc rơi vào cảnh hiểm đến nỗi mất mạng, giống như đọa trong đường ác. Không chỉ là chẳng dẹp trừ nghiệp duyên căn bản, mà còn mê muội chuyện trong đời trước!
3.2.3.2.2.2.1.5.2.3.2.2. Pháp hợp (kết hợp với pháp)
(Kinh) Địa Tạng Bồ Tát phương tiện lực cố, sử linh giải thoát, sanh nhân thiên trung, toàn hựu tái nhập. Nhược nghiệp kết trọng, vĩnh xử địa ngục, vô giải thoát thời.
(經)地藏菩薩方便力故,使令解脫,生人天中,旋又再入。若業結重,永處地獄,無解脫時。
(Kinh: Địa Tạng Bồ Tát dùng sức phương tiện khiến cho họ được giải thoát, sanh làm trời, người, nhưng rồi họ lại đọa vào. Nếu nghiệp kết nặng nề, sẽ ở mãi trong địa ngục, chẳng có lúc giải thoát).
Ba câu từ “Địa Tạng” trở đi, xa là ứng hợp với phần kinh văn từ “Bồ Tát dĩ phương tiện lực” (Bồ Tát dùng sức phương tiện) cho đến “khiển ngộ túc thế chi sự” (khiến cho người ấy ngộ chuyện thuộc đời trước); gần thì ứng hợp với đoạn kinh văn từ “Địa Tạng Bồ Tát cụ đại từ bi” (Địa Tạng Bồ Tát trọn đủ lòng đại từ bi) cho đến “linh thọ diệu lạc” (khiến cho họ hưởng sự vui sướng mầu nhiệm). Câu “toàn hựu tái nhập” (nhưng rồi họ lại đọa vào), tương ứng với đoạn kinh văn từ “tự thị chúng sanh kết ác tập trọng” (các chúng sanh ấy kết sử, tập khí ác nặng nề) cho đến “nhi tác độ thoát” (làm cho họ độ thoát). Vì thế, kinh Ương Quật chép: “Ngã diệc bất vi phụ trái chi nhân, như Thân Đầu La, tốc vãng tốc phản” (Ta cũng chẳng phải là kẻ mắc nợ, giống như Thân Đầu La, đi nhanh rồi trở lại cũng nhanh), phù hợp khít khao với đoạn kinh văn ở đây (Thân Đầu La (Sindūra) là người ảo thuật của ngoại quốc. Họ diễn trò người bay, có thể bay tới bay lui trên hư không, qua lại rất nhanh). Đó là loại người nghiệp kết nặng nề, tạo thượng phẩm Thập Ác; đã kết nghiệp ấy, há mong chi giải thoát ư? Bởi lẽ, trong pháp vô ngã, họ lại chấp hữu, tạo nghiệp, đã mê Chân Đế, tự trái nghịch lý không tịch. Vì thế nói: “Trói do ta tự trói, cởi do ta tự cởi”. Nếu đối với mỗi pháp đều cầu Không, tự nhiên môn nào cũng đều giải thoát. Phần kinh văn Diêm La tán thán đã xong.
3.2.3.2.2.2.2. Quỷ vương hộ trợ (quỷ vương giúp hộ trì)
3.2.3.2.2.2.2.1. Ác Độc ủng hộ (Ác Độc quỷ vương ủng hộ)
3.2.3.2.2.2.2.1.1. Quỷ vương hộ thế (quỷ vương hộ trì thế gian)
3.2.3.2.2.2.2.1.1.1. Tự kỷ hành xứ (trần thuật chỗ du hành của chính mình)
(Kinh) Nhĩ thời, Ác Độc quỷ vương hiệp chưởng, cung kính bạch Phật ngôn: – Thế Tôn! Ngã đẳng chư quỷ vương, kỳ số vô lượng, tại Diêm Phù Đề.
(經)爾時,惡毒鬼王合掌,恭敬白佛言:世尊!我等諸鬼王,其數無量,在閻浮提。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Ác Độc quỷ vương chắp tay, cung kính, bạch cùng đức Phật rằng: – Bạch Thế Tôn! Hàng quỷ vương chúng con số nhiều vô lượng ở trong Diêm Phù Đề).
Ác Độc là thủ lãnh của các quỷ vương, cho nên đứng ra thưa bày trước tiên. Trước hết, trần thuật số lượng và trụ xứ của các quỷ. “Số vô lượng”: Bao gồm các tinh linh thuộc các nhà, miếu trong chín châu, vạn quốc, hoặc là thủy phủ sơn tinh (các loài tinh quái ở dưới nước hoặc núi non), là thần gió, thần mưa, ba ngàn quyến thuộc, năm trăm đồ đảng. Đó là số lượng, chẳng thể tính đếm. Nếu bàn đến trụ xứ thì có chánh và phụ khác nhau. Chánh xứ (trụ xứ chánh yếu) thì ở năm trăm do-tuần phía dưới Diêm Phù Đề, do Diêm La thống lãnh, còn những trụ xứ phụ thì bất định. Quỷ có oai đức thì ở trong hang núi, trên hư không, bờ biển, đều có cung điện. Kẻ chẳng có oai đức bèn nương vào chỗ bất tịnh, phân nhơ, cỏ cây, mồ mả, nhà tiêu, gò mộ cũ, họ đều chẳng có nhà cửa, đều ở trong Diêm Phù Đề.
(Kinh) Hoặc lợi ích nhân, hoặc tổn hại nhân, các các bất đồng.
(經)或利益人,或損害人,各各不同。
(Kinh: Hoặc tạo lợi ích, hoặc tổn hại con người, mỗi mỗi khác nhau).
Từ “hoặc lợi ích” trở đi, nói rõ hạnh nghiệp của quỷ. Trong kinh Trường A Hàm, đức Phật bảo các tỳ-kheo: “Nhất thiết nam nữ sanh thời, giai quỷ thần tùy trục thủ hộ. Kim nhân hà cố hữu vị quỷ thần sở xúc nhiễu giả, hữu bất vị quỷ thần sở xúc nhiễu giả? Dĩ thế nhân vi phi pháp, hành tà kiến, tác Thập Ác nghiệp, như thị bách thiên nhân, nãi hữu nhất thần hộ nhĩ. Nhược tu thiện pháp, kiến chánh tín, tu Thập Thiện nghiệp, như thị nhất nhân hữu bách thiên thần hộ. Cố hữu vị quỷ thần xúc nhiễu, hữu bất vị xúc nhiễu” (Hết thảy nam nữ lúc sanh ra, đều có quỷ thần theo sát thủ hộ. Nay con người vì sao có kẻ bị quỷ thần quấy nhiễu? Có kẻ chẳng bị quỷ thần quấy nhiễu? Là do người đời làm điều phi pháp, hành tà kiến, tạo nghiệp Thập Ác. Trăm ngàn người như thế mới có một vị hộ thần bảo vệ. Nếu tu thiện pháp, kiến giải chánh tín, tu Thập Thiện nghiệp, người như thế được trăm ngàn vị thần bảo vệ. Do vậy, có kẻ bị quỷ thần quấy nhiễu, có người chẳng bị quấy nhiễu). Vì thế, thiện quỷ thần lợi ích người rất nhiều, ác quỷ thần tổn hại người rất nhiều.
Phàm bàn đến phương cách của quỷ thần thì họ đặc biệt yêu thích chỗ yêu mị, tà vạy, tối tăm, kín đáo, hoặc ở trong vách đá tối tăm, hoặc nương vào gò cao, hoặc ở trong suối vắng, rừng sâu, chốn đồng hoang, bãi vắng. Họ có âm thanh khác lạ, hình thế đặc biệt lạ lùng, khiến cho thần thức của phàm ngu xáo động, sanh lòng sợ hãi. Nếu họ có oai quang, sẽ giả dối hiện tướng quái lạ, tự tiện ra oai, giáng họa, xằng bậy làm chuyện tổn hại hay tăng ích, làm ngàn vạn những chuyện khác biệt.
(Kinh) Nhiên thị nghiệp báo, sử ngã quyến thuộc, du hành thế giới, đa ác, thiểu thiện.
(經)然是業報,使我眷屬,遊行世界,多惡少善。
(Kinh: Nhưng do nghiệp báo, khiến cho quyến thuộc của con du hành trong thế giới, ác nhiều, thiện ít).
Từ “nhiên thị” (nhưng do) trở đi, nói đến quả báo cảm vời bởi loài quỷ. Theo kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, nhân hạnh của quỷ là do tham lam, ghen ghét, tà nịnh, siểm khúc, lừa dối, gạt gẫm, tích góp tài vật chẳng bố thí. Nương vào nghiệp nhân ấy, quả báo là sanh trong quỷ đạo. Ác tâm huân tập, tạo thành chủng tử, rất khó ăn năn, sửa đổi. Vì thế, quyến thuộc của quỷ vương du hành trong thế gian, ác nhiều, thiện ít. Sách thế gian nói quỷ thần chính là sự chứng nghiệm nhằm tỏ rõ họa phước trong cõi đời (Đạo Tuyên luật sư hỏi vị trời Lục Huyền Sướng về dấu vết xưa của chùa Tương Tư ở Phù Châu. Đáp: “Vào thời đức Phật Ca Diếp, sơn thần La Tử Minh là đệ tử đức Phật, sanh lòng căm ghét những kẻ phá giới, bèn phát nguyện làm ác quỷ ăn thịt những kẻ phá giới. Do lời nguyện, bèn thọ thân làm thần núi ấy. Cuộc đất do ông cai quản rộng hơn bảy ngàn dặm, trong mỗi năm ăn thịt hơn một vạn người. Đức Phật Ca Diếp giáo hóa, điều phục, ông ta bèn thọ Ngũ Giới. Do vậy, chẳng ăn thịt người nữa. Do sợ về sau ông ta sẽ biến đổi cái tâm, cho nên Phật để lại dấu tích ấy. Lại nữa, tại Bắc Sơn thuộc Tuần Châu ở Nam Hải, có chùa Linh Khám tại ranh giới huyện Hưng Ninh, có nhiều chuyện linh ứng. Đấy là do đệ tử của ngài Văn Thù làm thần núi ấy. Thần tạo nhiều ác nghiệp. Ngài Văn Thù xót thương, giáo hóa, sơn thần liền biết túc mạng, thỉnh Bồ Tát lưu lại dấu tích để ông ta lễ bái, phụng sự hòng lìa các ác. Ngài Văn Thù liền thị hiện, đến nay vẫn còn. Vào năm Trinh Quán thứ ba (629), sơn thần mạng chung, sanh lên trời Đâu Suất. Có một quỷ khác đến sống ở đó, tức là người nhà của vị thần cũ, tạo ác lớn lao. Vị thần cũ xót thương, thỉnh ngài Văn Thù hiện dấu tích nhỏ. Vị thần sau lại noi theo chánh pháp. Vì thế, có dấu tích thị hiện lớn nhỏ tại đó).
3.2.3.2.2.2.2.1.1.2. Hộ nhân tu vi (hộ vệ người tu hành)
3.2.3.2.2.2.2.1.1.2.1. Sở lịch thiện xứ (đi qua chỗ tốt lành)
(Kinh) Quá nhân gia đình, hoặc thành, ấp, tụ lạc, trang viên, phòng xá.
(經)過人家庭,或城邑聚落,莊園房舍。
(Kinh: Đi qua nhà của người ta, hoặc thành, ấp, xóm làng, trang viên, nhà cửa).
Trước hết, nói về chỗ quỷ thần đi qua. Tôi trộm cho rằng: Người đời làm lành kín đáo, được báo rõ rệt, người đời gọi đó là Âm Đức, ai nấy đều tin tưởng. Làm ác rõ rệt, bị quả báo ngấm ngầm, lý ấy rành rành, sao chẳng chịu tin? Vì thế, thánh nhân phơi bày phước để khuyến thiện, chỉ bày họa để răn ác. Phàm họa phước vốn có căn cội, chẳng thể không có nhân mà xằng bậy xảy đến được! Do thiện hay ác mà sẽ đạt được quả báo, ắt chẳng phải là “không đáng có mà bỗng dưng hứng chịu”. Trong quyển hai mươi của kinh Trường A Hàm, đức Phật bảo các tỳ-kheo: “Nhất thiết nhân dân sở cư xá trạch, giai hữu quỷ thần, vô hữu không giả” (Nơi nhà cửa của hết thảy nhân dân đều có quỷ thần, chẳng chỗ nào không có). Huống hồ còn có chư thiên đi trên không trung và các loài quỷ dạo trong thế gian!
Theo Minh Tường Ký ghi chép, đời Tấn, Triệu Thái (tự là Văn Hòa, người xứ Bối Khưu, Thanh Hà) bị đau tim chết đi. Có hai người dẫn ông ta tới Thái Sơn, theo phía Nam vào một cái cửa đen. Có người mặc áo đỏ chót, ngồi trong một căn nhà to. [Các người hầu] theo thứ tự gọi tên, tra hỏi tội phước lúc còn sống, [răn đe]: “Các ngươi hãy nói thật. Chốn này luôn sai sứ giả thuộc lục bộ thường ở trong nhân gian, ghi chép cặn kẽ thiện, ác đầy đủ từng điều một. Chẳng thể dối trá được đâu!” Vì thế, Thái Thượng nói: “Thiên địa hữu tư quá chi thần. Hựu hữu Tam Thai, Bắc Đẩu thần quân, Tam Thi thần, Táo thần. Phàm nhân hữu quá, đại tắc đoạt kỷ, tiểu tắc đoạt toán” (Trong trời đất có thần chuyên soi xét tội lỗi. Lại có Tam Thai, Bắc Đẩu thần quân, thần Tam Thi, Táo thần. Hễ kẻ nào có lỗi, lớn thì giảm thọ mười hai năm, nhỏ thì giảm bớt tuổi thọ). Vì thế, chẳng thể không cẩn thận!
(Kinh) Hoặc hữu nam tử, nữ nhân, tu mao phát thiện sự, nãi chí huyền nhất phan, nhất cái, thiểu hương, thiểu hoa, cúng dường Phật tượng, cập Bồ Tát tượng. Hoặc chuyển độc tôn kinh, thiêu
hương, cúng dường nhất cú, nhất kệ.
(經)或有男子女人,修毛髮善事,乃至懸一旛一蓋,少香少華,供養佛像,及菩薩像。或轉讀尊經,燒香供養一句一偈。
(Kinh: Hoặc có nam tử, nữ nhân tu thiện sự bằng mảy lông tóc, thậm chí treo một lá phan, một cái lọng, dùng chút hương, chút hoa cúng dường tượng Phật và tượng Bồ Tát, hoặc đọc tụng tôn kinh, thắp hương cúng dường một câu, một bài kệ).
Kế đó, nói đến những việc thiện đã tu tập. Bất luận nhiều hay ít, thậm chí việc thiện cực nhỏ như sợi lông, cực bé như cái tóc. Lại còn bất luận là lo liệu kiến tạo chốn già-lam trang nghiêm, trang hoàng, tô đắp thánh tượng, thậm chí treo một lá phan hay một cái lọng, thắp chút hương, rải chút hoa để cúng dường tượng Phật, Bồ Tát. Như Triệu Thái đi vào địa ngục, ra khỏi cửa ngục, thấy có hai người cầm văn thư đến, bảo với viên nha lại coi ngục: “Có ba người mà nhà của họ đã treo phan, thắp hương nơi chùa, tháp để giải cứu tội cho họ, họ có thể ra khỏi ngục, đến phước xá”. Trong khoảnh khắc, ông ta thấy có ba người từ trong ngục ra, tự nhiên đã có y phục hoàn chỉnh nơi thân, đi về phía Nam, đến một tòa nhà lớn sáng bừng, ông Thái cũng theo vào. Trên giường vàng ngọc, thấy một vị thần, phi thường đẹp đẽ. Phủ Quân (Đông Nhạc đại đế) cung kính làm lễ. Ông Thái hỏi: “Ai thế?” Nha lại bảo: “Danh hiệu của Ngài là Thế Tôn, là vị thầy độ người. Ngài có nguyện khiến cho người trong ác đạo đều được thoát ra, nghe kinh”. Khi ấy, có một trăm vạn chín ngàn người đều ra khỏi địa ngục.
Vì thế, kinh Đại Phẩm Bát Nhã dạy: “Nhất hoa tán không, nãi chí tất khổ, kỳ phước bất tận” (Rải một đóa hoa lên không trung [để cúng dường Tam Bảo], cho đến khi hết khổ, phước ấy bất tận). Luận rằng: “Nói ‘chí tất khổ’ (cho đến khi hết sạch khổ) tức là khi hai thứ tử (Phần Đoạn và Biến Dịch) đều hết sạch. Ấy là nói: Cho đến khi đã thành Phật, phước do rải hoa ấy vẫn còn chưa tận!” Chuyện về phước do thắp hương rất nhiều. Hoặc tụng đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát này, và các kinh Đại Thừa, thắp hương, cúng dường, bất luận đọc hết một bộ, hay hết một quyển, thậm chí một câu, một bài kệ! Ngài Kinh Khê nói “nhất cú, nhất kệ, tăng tấn Bồ Đề, nhất sắc, nhất hương, vĩnh vô thoái chuyển” (một câu, một kệ, tăng tấn Bồ Đề. Một sắc, một hương, vĩnh viễn chẳng lui sụt) chính là nói về điều này đấy chăng?
3.2.3.2.2.2.2.1.1.2.2. Lệnh hộ ác sự (truyền lệnh bảo vệ đừng để chuyện ác xảy đến cho nhà đó)
(Kinh) Ngã đẳng quỷ vương, kính lễ thị nhân, như quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật; sắc chư tiểu quỷ, các hữu đại lực, cập thổ địa phần, tiện linh vệ hộ.
(經)我等鬼王,敬禮是人,如過去,現在,未來諸佛。敕諸小鬼,各有大力,及土地分,便令衛護。
(Kinh: Hàng quỷ vương chúng con kính lễ người ấy như quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật; sắc truyền các tiểu quỷ, mỗi quỷ đều có oai lực lớn và các thần trực thuộc cuộc đất ấy hộ trì, bảo vệ người ấy).
Câu “ngã đẳng” (chúng con) cho thấy quỷ vương kính trọng điều thiện. Từ “sắc chư…” (sắc truyền các tiểu quỷ) trở đi, chỉ rõ [quỷ vương] sai khiến thuộc hạ hộ trì, trừ ác. Hỏi: Quỷ là loài ác, sao lại có thể trông thấy người làm lành bèn kính lễ như tam thế Phật vậy? Đáp: Nói tới Phật thì Ngài là đấng tu hết thảy thiện pháp mà chứng đắc. Nay các nam nữ tu các thiện sự, đó là họ đang vun bồi Phật quả, cho nên quỷ thần tôn kính. Họ có cùng một Thể chẳng hai với một ngàn vị Phật trong Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp, một ngàn vị Phật trong Hiện Tại Hiền Kiếp, và một ngàn vị Phật trong Vị Lai Tinh Tú Kiếp, há chẳng kính lễ như Phật ư? Nay họ có thể trừ bỏ các điều ác, là do các quỷ vương liền sai các tiểu quỷ, quỷ nào cũng có sức mạnh to lớn và các “thổ địa phần” ủng hộ, bảo vệ môn hộ. Vùng đất trực thuộc quyền cai quản của các ty sở [trong cõi âm] được gọi là “thổ địa phần”, tức là các vị thần quản trị địa phương vậy.
(Kinh) Bất linh ác sự, hoạnh sự, ác bệnh, hoạnh bệnh, nãi chí bất như ý sự, cận ư thử xá đẳng xứ, hà huống nhập môn!
(經)不令惡事橫事,惡病橫病,乃至不如意事,近於此舍等處,何況入門!
(Kinh: Chẳng để cho những chuyện ác, chuyện ngang trái, bệnh ác, bệnh ngang trái, cho đến những chuyện chẳng như ý đến gần nhà cửa thuộc chốn ấy, huống hồ là vào cửa!)
“Ác sự, hoạnh sự” như kinh La Vân Nhẫn Nhục có nói: “Nguyện dữ phước vi, dạ thường ác mộng, yêu quái thủ vĩ, phi họa tung hoành” (Điều ước nguyện mà trái nghịch với phước thì đêm thường gặp ác mộng, yêu quái lộn đầu trở đuôi, bay lượn tung hoành gieo họa). Nay đã tu phước, chẳng có chuyện ác ngang trái, cuộc sống thường an ổn, các họa tiêu diệt. “Ác bệnh, hoạnh bệnh”: Tiếng Phạn là Ca Ma La (Kāmalā), cõi này dịch là Hoàng Bệnh (黃病), còn dịch là Ác Cấu (惡垢), hoặc Lại Bệnh (癩病, bệnh cùi). San Nhược Bà, cõi này dịch là Phế Phong Bệnh, hễ phát ra sẽ không đứng dậy nổi. A Tát Xà (Asādhya), cõi này dịch là Bất Khả Trị Bệnh (bệnh không thể chữa được). Hoằng Minh Tập[26] viết: “Bệnh ắt phải chết thì dù thánh cũng chẳng thể trừ hết được. Bệnh có thể chữa trị sẽ do thuốc men mà lành”. Trên đây đều là những chứng bệnh dữ, không thể trị được.
Cũng có bệnh do ôn tai, tật dịch tiêm nhiễm, xâm nhập, khiến cho hao tài, hoặc đến nỗi mất mạng. Như đời Tống, Tư Mã Văn Tuyên khá tin tưởng Phật pháp. Em trai ông ta chết hơn một tháng, bỗng có một con quỷ dựa vào linh tòa. Khi ấy, có tăng chúng thuộc hai chùa Nam Lâm và Linh Vị đàm luận cặn kẽ với quỷ. Quỷ nói: “Xưa kia, tôi là người tôn quý, do phạm các điều ác, phải làm thân quỷ này. Từ năm Dần, có bốn trăm bộ quỷ gây tật dịch to lớn. Tai họa giáng xuống, theo đúng lẽ, chẳng gây phiền lụy cho người tu hành. Nhưng có những quỷ thừa cơ làm xằng rất đông, phần nhiều nhũng lạm phước thiện, nên sai ta đến giám sát”. Như vậy thì những kẻ bị bệnh ngang trái đều là do không tu thiện mà ra. Nay đã tu phước, thân mạnh khỏe, ít bệnh, tài phước đều vinh hiển, tôn quý. “Chẳng như ý” là như gia nghiệp suy đồi, hao tán, mọi sự chẳng hài hòa, chỗ ở không yên ổn, tâm thường sợ hãi. Nay đã tu phước, quỷ thần hộ vệ, lại còn chẳng để cho các điều ác đến gần chỗ ở, huống còn vào tận cửa ư?
3.2.3.2.2.2.2.1.2. Như Lai tán hỷ (Như Lai tán thán, hoan hỷ)
(Kinh) Phật tán quỷ vương: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đẳng cập dữ Diêm La, năng như thị ủng hộ thiện nam nữ đẳng, ngô diệc cáo Phạm Vương, Đế Thích, linh vệ hộ nhữ”.
(經)佛讚鬼王:善哉!善哉!汝等及與閻羅,能如是擁
護善男女等,吾亦告梵王帝釋,令衛護汝。
(Kinh: Đức Phật khen ngợi quỷ vương: “Lành thay! Lành thay! Các ông và Diêm La có thể ủng hộ hàng thiện nam nữ như thế, ta cũng bảo Phạm Vương, Đế Thích hộ trì, bảo vệ các ông”).
Vì sao đức Như Lai tán thán, hoan hỷ? Bởi quỷ vương đa số hung ác, như một ngàn đứa con của Quỷ Tử Mẫu, năm trăm đứa ở trên trời nhiễu hại chư thiên, năm trăm đứa ở trong nhân gian, nhiễu hại các nhân dân, tột bậc ghen ghét, ác hại, khiến cho người khác phải giết chóc, nấu nướng cúng tế chúng, khiến cho họ phải vào địa ngục. Nay các quỷ vương và Diêm La thiên tử đã có thể ủng hộ nam nữ tu thiện như thế, khiến cho chẳng có ác sự, chuyện ngang trái, bệnh ác, và chuyện chẳng như ý đến gần nhà họ, có thể nói là tốt lành tột bậc! Vì một điều tốt lành là họ cải ác hộ trì cõi đời; điều thiện thứ hai là họ trừ tai ương ngang trái để tăng thêm điều tốt lành, cho nên đức Phật khen ngợi hai lần. [Đức Phật bảo] ta nay cũng sai người thống lãnh tiểu thiên thế giới là Đại Phạm, người chủ trì Dục Giới là Thích Đề Hoàn Nhân (Đế Thích) cùng nhau dùng sức trời để bảo vệ, gìn giữ các ông, chuyển đổi giường sắt, nước đồng sôi là những thứ tai ách trong hiện tại, [khiến cho các ông] thoát khỏi túc duyên chủ trì cõi u minh. [Những báo ứng tốt lành ấy] hoàn toàn do hộ pháp, bảo vệ điều thiện mà ra!
3.2.3.2.2.2.2.2. Chủ Mạng trợ tu (Chủ Mạng giúp tu tập)
3.2.3.2.2.2.2.2.1. Đương cơ bạch sự (bậc đương cơ thưa bày sự việc)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1. Chủ Mạng thuật ý (Chủ Mạng trần thuật tâm ý)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.1. Trần ngã nghiệp duyên chủ mạng (trần thuật nghiệp duyên của tôi là trông coi về sanh mạng)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.1.1. Kinh gia tự danh (người trùng tuyên kinh trần thuật danh hiệu)
(Kinh) Thuyết thị ngữ thời, hội trung hữu nhất quỷ vương, danh viết Chủ Mạng.
(經)說是語時,會中有一鬼王,名曰主命。
(Kinh: Khi nói lời ấy, trong hội có một quỷ vương tên là Chủ Mạng).
Ác Độc quỷ vương thưa chuyện đã xong, Chủ Mạng lại ra khỏi chỗ thưa trình chuyện của chính mình, vì sao vậy? Do cuộc sống của người đời có mạng mà thôi! Người tu thiện thì gọi là “vệ sanh” (衛生, bảo vệ sanh mạng); kẻ làm ác thì gọi là “tường sanh” (戕生, tàn hại sanh mạng). Thiên sách Thành Công[27] trong kinh Xuân Thu có nói: “Dân thọ thiên địa chi trung dĩ sanh, sở vị mạng dã” (Dân được sống trong vòng trời đất, đó gọi là Mạng). Do vậy, có khuôn phép về động tác, lễ nghĩa, oai nghi để định mạng. Người có thể tuân thủ những quy tắc ấy bèn dưỡng mạng, được phước; kẻ chẳng thể tuân thủ bèn bại mạng, mắc họa. Người đời nay chẳng hiểu ý quỷ vương bảo vệ con người, chỉ noi theo lề thói ác độc, có thể nói là tự tàn sát sanh mạng, nghịch thiên quá đỗi! Nhưng mạng trọng yếu ở trong lúc sanh tử; sống là mạng còn, chết là mạng tuyệt. Kinh Bảo Vũ dạy: “Như nhân phong lực, hữu xuất nhập tức, năng linh nhất thiết hữu tình hoạt mạng” (Như do sức gió mà có thở ra, hít vào, có thể khiến cho hết thảy hữu tình sống sót). Nhưng sự sanh tử của cái mạng như mặt trời, mặt trăng mọc, lặn, nghiệp thiện và nghiệp ác như bóng theo sát hình. Vì thế, trong lúc sanh tử, ắt cần phải tu thiện để bảo vệ sanh mạng. Chủ Mạng thưa bày sự việc, dụng ý ở tại chỗ này. Nhưng nói là Chủ, bất quá là ông ta trông coi mạng còn hay mất, há có thể ban cho hay đoạt mạng người ta, khiến cho họ được sống hay chết ư? Chức trách của những vị coi sóc án từ sanh tử trong địa ngục là như vậy đấy!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.1.2. Quỷ vương trần sự (quỷ vương trình bày sự việc)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.1.2.1. Trần kỷ sở chủ sự (thưa trình sự việc do chính mình cai quản)
(Kinh) Bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngã bổn nghiệp duyên, chủ Diêm Phù nhân mạng, sanh thời, tử thời, ngã giai chủ chi”.
(經)白佛言:世尊!我本業緣,主閻浮人命,生時死時,我皆主之。
(Kinh: Bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nghiệp duyên của con vốn là chủ trì sanh mạng của Diêm Phù Đề, lúc sanh ra, lúc chết đi, con đều làm chủ”).
Trước hết, nêu ra nghiệp duyên, do hết thảy chúng sanh bị chuyển theo nghiệp của chính mình. Nếu tạo tác ác hạnh keo kiệt, tham lam tăng thượng nơi thân, ngữ, ý, sẽ sanh vào cõi Diễm Ma (琰摩, cõi của vua Diêm La), cảm vời nghiệp đói khát trải qua trăm ngàn năm, chẳng nghe tên nước, há có thể trông thấy, huống hồ còn được chạm vào ư? Đấy là ngạ quỷ thuộc loại hèn kém nhất. Nếu là kẻ trong khi làm ác, lại kiêm hành cái nhân bố thí, sẽ sanh vào đường quỷ, rất có oai đức, làm các quỷ vương. Tuy làm một vị vua oai đức, nhưng luôn bị chư thiên sai khiến, giữ cửa, tuần phòng, dẫn đường, hầu hạ, vẫn là bị trói buộc bởi nghiệp. Chức trách của vị Chủ Mạng này cũng là theo nghiệp mà làm, vì thế nói “ngã bổn nghiệp duyên chủ Nam Châu nhân mạng” (nghiệp duyên của con vốn là chủ trì sanh mạng loài người trong Nam châu). Lúc sống, lúc chết của họ trực thuộc chức trách coi sóc của con, chẳng thể trái nghịch được!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.1.2.2. Minh nhân bất hội ý (nói rõ: Người đời chẳng hiểu ý)
(Kinh) Tại ngã bổn nguyện, thậm dục lợi ích, tự thị chúng sanh, bất hội ngã ý, trí linh sanh tử câu bất đắc an.
(經)在我本願,甚欲利益,自是眾生,不會我意,致令生死俱不得安。
(Kinh: Bổn nguyện của con là muốn cho họ đạt được lợi ích rất lớn, nhưng do chúng sanh chẳng hiểu ý con, đến nỗi khi sanh cùng tử đều chẳng được an ổn).
“Ý” là nói đến sự suy lường, nghĩa là tâm con vốn suy tính mong [lợi ích chúng sanh] như thế, hiềm rằng người đời chẳng thấu hiểu tâm con, chống trái ý con. Đã trái phạm tâm con, khiến cho con chẳng thể che chở cho họ được. Vì thế đến nỗi kẻ sanh nở hoặc người chết đi đều chẳng được an lạc! Đấy chính là con người tự chuốc lấy ương họa, chẳng phải là tội lỗi của con!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2. Chuyển thích nhân bất hội ý (giải thích người đời không hiểu ý quỷ vương như thế nào)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1. Cấm sanh thời sát hại (răn cấm lúc sanh nở đừng giết hại)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.1. Tu thiện đắc lạc (tu thiện được an vui)
(Kinh) Hà dĩ cố? Thị Diêm Phù Đề nhân, sơ sanh chi thời, bất vấn nam nữ, hoặc dục sanh thời, đản tác thiện sự, tăng ích xá trạch, tự linh thổ địa vô lượng hoan hỷ, ủng hộ tử mẫu, đắc đại an lạc, lợi ích quyến thuộc.
(經)何以故?是閻浮提人,初生之時,不問男女,或欲生時,但作善事,增益舍宅,自令土地無量歡喜,擁護子母,得大安樂,利益眷屬。
(Kinh: Vì sao vậy? Người trong cõi Diêm Phù Đề này, lúc mới sanh ra, chẳng cần biết là trai hay gái, hoặc lúc sắp sanh, chỉ nên làm chuyện lành để tăng thêm ích lợi cho nhà cửa, sẽ khiến cho thổ địa hoan hỷ vô lượng, ủng hộ mẹ lẫn con đều được an lạc to lớn, lợi ích quyến thuộc).
Lần lượt giải thích “ý” [của Chủ Mạng quỷ vương] là như thế nào? Phàm con người đầu thai, đều do nương theo túc nghiệp. Kinh Tu Hành Đạo Địa dạy: “Nhân hạnh bất thuần, hoặc thiện, hoặc ác. Đương chí nhân đạo phụ mẫu hợp hội, tinh bất thất thời, tử lai ứng sanh. Kỳ mẫu thai thông, vô sở câu ngại. Tâm hoài hoan hỷ, phụ thời tinh hạ, tức thất Trung Ấm, tắc nhập bào thai” (Con người do hạnh chẳng thuần là thiện hay ác, đến khi cha mẹ trong loài người giao hợp, tinh chẳng bị rò rỉ mất, con bèn đến sanh vào đó. Thai mẹ thông suốt, không bị trở ngại gì. [Người đầu thai] ôm lòng hoan hỷ, khi cha xuất tinh, [thần thức của con] sẽ mất đi thân Trung Ấm, liền gá vào trong bào thai). Vì thế, khuyên trong lúc ấy, chỉ nên làm chuyện lành, sẽ tăng thêm oai quang cho nhà cửa, tăng niềm hoan hỷ cho thổ địa.
“Xá” (舍) [theo nghĩa gốc] là có thể thở ra thoải mái trong ấy, Trạch (宅) là “trạch” (擇, chọn lựa), tức là chọn nơi tốt lành để kiến tạo. “Thổ” (土) là Thổ (吐, phun ra), hàm ý sanh ra vạn vật. Địa (地) là Đế (諦, chắc chắn). Do năm loại đất[28] sanh ra thì không ai chẳng tin chắc thật!
Theo kinh Trường A Hàm, lúc con người mới sanh [trên đại địa], tranh cãi đúng sai, lớp đất cứng [trên mặt đất] chưa hiện ra, họ cùng nhau lấy gạo tẻ ăn vào, thân thể trở nên thô xấu, biến thành có hình dạng nam, nữ. Nhìn ngó lẫn nhau, bèn sanh dục tưởng, cùng ở chỗ kín đáo, làm chuyện bất tịnh. [Nam nhân] bị người khác quở trách, tự hối lỗi nói: “Ta đã làm sai”, liền gieo mình xuống đất. Nữ nhân thấy người nam đó gieo mình xuống đất, chẳng đứng dậy, liền đưa thức ăn cho. Vì vậy, thế gian bèn có danh xưng bất thiện “chồng làm chủ”, gọi kẻ đưa thức ăn cho chồng là vợ. Sau đấy, chúng sanh bèn làm chuyện dâm dật, nhằm để tự che chắn, bèn tạo nhà cửa. Do nhân duyên ấy, mới có danh xưng “xá” (nhà). Dâm dật càng mạnh hơn, bèn thành vợ chồng. Có những chúng sanh khác, do tuổi thọ đã hết, phước đã tận, từ Quang Âm Thiên (Ābhāsvara) mạng chung, sanh vào thế gian này, ở trong thai mẹ. Do vậy, thế gian mới có danh xưng “xử thai” (ở trong thai mẹ). Đấy là nguồn gốc của vợ chồng, nhà cửa, thai sản. Thổ địa là người chủ trì việc bảo vệ nhà cửa, bảo vệ con người. Họ đã hoan hỷ, sẽ tự đến ủng hộ, khiến cho mẹ lẫn con đều được đại an lạc, lại còn lợi ích quyến thuộc. Lợi ích có hai điều:
– Lúc sanh nở, mẹ không bị tai biến gì, trước hết là khiến cho cả nhà hoan hỷ.
– Con đã được tăng thêm nhiều phước thiện, sau này, sẽ có thể khiến cho gia đình vẻ vang, thịnh vượng.
Kẻ trước kia đã làm việc lành, càng tăng thêm phước thọ. Kẻ xưa kia làm ác, cũng tiêu tội ấy.
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2. Tác ác thọ hại (làm ác mắc hại)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.1. Trực thị vật sát (dạy thẳng thừng đừng giết chóc)
(Kinh) Hoặc dĩ sanh hạ, thận vật sát hại, thủ chư tiễn vị, cung cấp sản mẫu, cập quảng tụ quyến thuộc, ẩm tửu, thực nhục, ca nhạc huyền quản, năng linh tử mẫu, bất đắc an lạc.
(經)或已生下,慎勿殺害,取諸鮮味,供給產母,及廣聚眷屬,飲酒食肉,歌樂絃管,能令子母,不得安樂。
(Kinh: Hoặc nếu đã sanh xong, hãy cẩn thận đừng sát hại để lấy vị tươi cung cấp cho người mẹ, và tụ hội quyến thuộc đông đảo, uống rượu, ăn thịt, ca nhạc, đàn sáo, khiến cho mẹ lẫn con đều chẳng được an lạc).
Đối với chuyện sát hại, xưa nay đều cùng thương xót. Không gì chẳng phải là thấu hiểu tấm lòng hiếu sanh của thiên đạo, giữ gìn sanh mạng rất khó có của con người. Há có nên vì sướng miệng và thân ta, do đãi đằng mừng sanh con mà thương tổn sanh vật, đoạn mạng của chúng, mổ bụng, lóc vảy, trái nghịch lòng nhân của trời, chọc thần giận dữ ư? Vì thế, Vân Thê đại sư (tổ Liên Trì) nói: “Sanh con chớ nên sát sanh. Người không con thì buồn, có con ắt vui. Chẳng nghĩ hết thảy cầm thú cũng đều yêu thương con của chúng nó. Mừng con ta sanh ra, khiến con chúng nó bị chết, tâm há yên chăng? Phàm trẻ thơ mới sanh, chẳng vì nó tích tụ phước, mà lại ngược ngạo sát sanh tạo nghiệp, cũng ngu quá đỗi thay! Xưa kia, học sĩ Châu Dự đã từng nấu lươn, thấy nó cong thân hướng lên trên, còn đầu đuôi đều bị ngập trong nước nóng. Mổ ra, thấy trong bụng nó có lươn con, mới biết lươn cong mình tránh canh nóng vì yêu thương con. Than ôi! Tuy người và loài vật bất đồng, tấm lòng yêu con như một. Sao nỡ mừng nhà ta mẹ vừa sanh con, khiến cho mẹ con nó ôm đau khổ mà chết, ôm lòng bi thương mà thác! Đã bị mổ, chặt, lại bị nấu, đun, đau khổ khó thể nói được! Thấu xương, lọt tủy! Ngay trong lúc ấy, lòng nhân bé tí của ta mất sạch, oán khí vô cùng của chúng trường
tồn. Muốn đời sau chúng nó chẳng truy tìm đòi trả báo, tôi chẳng tin!”
“Quảng tụ quyến thuộc” (tụ tập quyến thuộc đông đảo) là để mừng con mới sanh. Chủ Mạng răn cấm “đừng giết chóc”, bởi lẽ [không sát sanh] sẽ tăng thêm phước thọ cho con. Cổ nhân nói: “Rượu là thuốc để hòa dịu tâm thần, thịt là thức ăn để khỏi đói”. Xưa nay cùng một lẽ, nay sao lại coi thường? Ấy là vì thịt do sát hại sanh mạng mà có, rượu có thể làm loạn tâm thần. Chẳng ăn là lý, há nên làm càn! Trong kinh Ương Quật, đức Phật dạy: “Nhất thiết chúng sanh, sanh tử luân chuyển, vô phi phụ, mẫu, huynh, đệ, tỷ, muội, do như kỹ nhi, biến dịch vô thường” (Hết thảy chúng sanh trôi lăn sanh tử, không ai chẳng phải là cha, mẹ, anh em trai, chị em gái của nhau, giống như đào kép đổi vai chẳng thường hằng). Thịt ta hay thịt chúng nó, đều cùng là thịt. Vì thế, chư Phật đều chẳng ăn thịt. Hơn nữa, uống rượu đoạn chủng tử trí huệ, ăn thịt đoạn chủng tử từ bi. Chủng tử trong tương lai còn bị đoạn mất, sao bảo đảm chủng tử hiện tại chẳng bị đoạn dứt ư? Nếu tuân theo lời giáo huấn của Chủ Mạng, không chỉ là tiêu tai, hết lỗi, mà còn có thể gom góp phước, kéo dài tuổi thọ. Xin hãy suy nghĩ kỹ lưỡng, đừng câu nệ thói tục!
“Ca nhạc” như đã giải thích trong phần trước. “Huyền quản” là tiếng tơ, tiếng trúc. Ngay cả những thứ ấy (ca nhạc, đàn địch) cũng phải kiêng, bởi lẽ, uống rượu, ăn thịt đã loạn tánh, lại còn tổn thương lòng Từ; ca nhạc đàn sáo khiến cho tình thức phóng đãng, ý chí buông lung. Đã trái nghịch lòng nhân đức của trời đất, lại trái nghịch rất lớn lòng Từ của Chủ Mạng, khiến cho nhà cửa bị giảm oai quang, xúc phạm ý hộ trì của thổ địa, mẹ con chẳng được an lạc, lỗi ấy quy về ai đây?
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2. Chuyển thích kỳ ý (giải thích ý ấy)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2.1. Sản thời ác quỷ đạm huyết (khi sanh nở, ác quỷ ăn máu)
(Kinh) Hà dĩ cố? Thị sản nạn thời, hữu vô số ác quỷ, cập võng lượng tinh mị, dục thực tinh huyết.
(經)何以故?是產難時,有無數惡鬼,及魍魎精魅,欲食腥血。
(Kinh: Vì sao vậy? Do lúc sản nạn, có vô số ác quỷ và võng lượng tinh mị muốn ăn tinh huyết).
Giải thích thêm ý nghĩa, tức là có ác quỷ muốn ăn tinh huyết. Do lúc sanh nở, quỷ mị đến vây quanh nơi máu rơi trên đất và chỗ hôi thối bộc lộ. Các loài tà vạy gây điên khùng, đụng chạm tử thi, các loài quỷ gây điên đảo do cổ độc đều đến ngấm nghé, toan xâm phạm. Như các mẩu thịt rơi nơi ngã tư đường, chim, diều hâu, ưng, sói đều cùng tranh giành. Các loài yêu quỷ tà vạy muốn ăn chất bài tiết của trẻ vây đầy chung quanh cũng giống như thế. Kinh Hộ Tịnh dạy: “Ngạ quỷ thường thủ bộ phụ nữ sản tạng huyết bất tịnh dĩ vi ẩm thực” (Các loài quỷ đói thường cướp lấy máu và các chất bất tịnh nơi tử cung của phụ nữ mới sanh nở để làm thức ăn). Bài kệ trong kinh Phân Biệt Thiện Ác chép: “Hiếu điều nhiễu lão thiểu, khất nhi dữ bệnh nhân. Hậu vi tao ngạ quỷ, thực sản nhũ ác lộ” (Thích quấy nhiễu già, trẻ, ăn mày, và bệnh nhân. Chết đi thành ngạ quỷ, ăn chất dơ bà đẻ). Ác nghiệp của quỷ thật quá đáng thương!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2.2. Ngã lệnh thổ địa hà hộ (con ra lệnh cho thổ địa che chở)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2.2.1. Hộ linh an lạc (che chở cho họ được an vui)
(Kinh) Thị ngã tảo linh xá trạch thổ địa, linh kỳ, hà hộ tử mẫu, sử linh an lạc, nhi đắc lợi ích.
(經)是我早令舍宅土地靈祇,荷護子母,使令安樂,而得利益。
(Kinh: Con đã sớm sai thổ địa và thần kỳ chủ quản nhà cửa ấy bảo vệ mẹ lẫn con, khiến cho họ được an vui, đạt được lợi ích).
Chủ Mạng tự nói: “Con đã chủ quản sanh mạnh, người sắp sanh có can hệ đến con. Vì thế, trước đó đã sai thổ địa che chở mẹ con họ”. Đấy chính là giống như [thí dụ] đội vác giùm vật nặng trong phần trước, khiến cho người ấy chẳng bị vấp té. Cho nên nói là “hà hộ” (荷護, gánh vác, bảo vệ). Hê Ma Bạt Đà (Haimavata) dịch là Xá Chủ (舍主, chủ nhà) e rằng là tên của vị thần bảo hộ nhà cửa. “An lạc, lợi ích”: Khiến cho họ được sanh nở an ổn. Nghe tiếng con khóc lọt lòng, cha mừng nhà có thêm con, chẳng phải lo dòng dõi đoạn tuyệt. Vì thế, thổ địa bảo vệ, thật ra là do Chủ Mạng hạ lệnh. Theo Đạo Tạng, khi nhân gian sanh con cái, Cửu Thiên Huyền Nữ[29] sai thiên thần ở trong hư không xướng danh về
những điều kính phụng. Sanh con trai thì xướng lên một ngàn sáu trăm câu như: “Mong cho đứa trẻ này ở nhà thì phụng dưỡng cha mẹ, ra làm quan sẽ phụng sự vua”. Sanh con gái cũng xướng lời cung chúc một ngàn sáu trăm câu, khiến cho khi nó về nhà chồng, sẽ kính phụng bố mẹ chồng và chồng. Khi [các thiên thần] sắp xướng lên lời chúc tụng, cát hung chỉ ngay trong khoảnh khắc ấy. Chuyện ấy được nói ở đây vậy.
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2.2.2. Bất tri thiết phước (chẳng biết làm phước)
(Kinh) Như thị chi nhân, kiến an lạc cố, tiện hợp thiết phước, đáp chư thổ địa, phiên vi sát hại, tập tụ quyến thuộc.
(經)如是之人,見安樂故,便合設福,答諸土地,翻為殺害,集聚眷屬。
(Kinh: Người như thế, do thấy [mẹ con sanh nở] an lạc, lẽ ra phải nên làm phước để đáp tạ các thổ địa, lại ngược ngạo giết hại, tụ họp quyến thuộc).
Câu đầu tiên chỉ ra: Gia đình vừa mới sanh con trai hay con gái, đã thấy sanh nở an vui, hãy nên nghĩ: Được an vui là do công của thổ địa, đáng phải nên làm chuyện phước thiện để đền áp ơn trạch chủ. Nay lại ngược ngạo sát hại sanh linh, tụ tập quyến thuộc, uống rượu, ăn thịt, ca nhạc, đàn sáo, chọc giận thần thánh, thiếu suy nghĩ quá đáng! Xưa kia, vào năm Vạn Lịch 33 (1605) nhà Minh, ông Thái Hòe Đình (húy Thừa Thực) làm thái thú ở Gia Hưng, đã hạ lệnh cấm sát sanh cúng thần. Ở đây, tôi trích đại lược lời phủ dụ như sau: “Quỷ thần hưởng dụng khác với nhân gian. Con người chuộng rượu, thịt, liền dùng rượu, thịt để cúng thần. Ví như giòi ăn phân, liền dâng phân cho người, há chẳng mắc tội với người ư? Do thần minh thanh tịnh, ngửi mùi rượu, thịt ô uế của nhân gian, ghét bỏ còn chẳng xuể, há chịu xét soi hưởng dụng ư? Vì thế, tế Nam Giao[30] chỉ dùng rượu nhạt, người đứng tế kiêng rượu, ăn chay, có thể suy ra mà hiểu ý ấy! Còn như ngạ quỷ chẳng thể uống nước, sao có thể ăn thịt cho được? Ngài Mục Liên cứu mẹ, có thể theo đó mà xét soi. Phàm cúng tế thần minh, hãy nên dâng hương, sửa soạn cỗ chay, và tụng một quyển kinh Kim Cang, thần sẽ tự xét soi, thâu nhận. Âm ty hết sức coi trọng kinh ấy. Nếu vẫn như cũ, sát sanh làm ô uế thần, không chỉ vô ích, lại còn bị trách tội!” Tôi cho ông Thái Minh Phủ đúng là [bậc Bồ Tát] hiện thân tể quan, vì vạn quỷ, vạn dân mà thuyết pháp. Tiếc rằng người đời chẳng biết tín phụng, tự chuốc lấy tội lỗi, biết làm sao được nữa!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.1.2.2.2.2. Kết thị hại tổn (kết lại lời dạy về sự tổn hại)
(Kinh) Dĩ thị chi cố, phạm ương tự thọ, tử mẫu câu tổn.
(經)以是之故,犯殃自受,子母俱損。
(Kinh: Do bởi lẽ ấy, đã phạm lỗi phải tự chịu tai ương, mẹ lẫn con đều bị tổn hại).
“Phạm ương tự thọ” (phạm lỗi, tự gánh chịu họa ương): Kinh dạy: “Hữu Dạ Xoa, La Sát, thường hỷ đạm nhân thai, năng linh nhân vô tử, thương hại ư bào thai, cập sanh thời đoạt mạng, vị kỳ tác nhiễu hại” (Có Dạ Xoa, La Sát, thường thích ăn thai người, khiến cho người không con, tổn hại đến bào thai. Lúc sanh thì đoạt mạng, quấy nhiễu và làm hại). Như vậy thì sanh con ra mà con bị chết yểu là do người ta sát hại tự gây nên, chẳng phải là vì thổ địa không che chở!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2. Khuyến tử thời tu thiện (khuyên lúc chết nên tu thiện)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2.1. Trần kỷ bổn ý (trần thuật ý mình)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2.1.1. Thị thiện ác câu siêu (thiện hay ác đều được siêu thoát)
(Kinh) Hựu Diêm Phù Đề lâm mạng chung nhân, bất vấn thiện ác, ngã dục linh thị mạng chung chi nhân, bất lạc ác đạo, hà huống tự tu thiện căn, tăng ngã lực cố.
(經)又閻浮提臨命終人,不問善惡,我欲令是命終之人,不落惡道,何況自修善根,增我力故。
(Kinh: Lại nữa, người Diêm Phù Đề lúc sắp mạng chung, bất luận thiện hay ác, con đều muốn cho người mạng chung ấy chẳng rơi vào ác đạo, huống hồ là người tự tu thiện căn sẽ tăng thêm sức cho con).
Kinh Pháp Cú dạy: “Mạng như hoa quả thục, thường khủng hội linh lạc. Dĩ sanh giai hữu khổ, thục năng trí bất tử” (Mạng như hoa quả chín, thường sợ sẽ rơi rụng. Đã sanh đều có khổ, có ai được bất tử?) Vì thế nói: “Sanh thì tám thức nâng đỡ, tử thì Tứ Đại tan lìa. Trăm tuổi thoáng chốc, rốt cuộc đều mòn diệt! Xoay vần trong ba cõi, lưu chuyển chẳng hề ngừng”. Do vậy, kinh dạy: “Hữu thỉ, hữu chung, ký sanh tắc diệt, thùy năng cấm kỳ bất tử da?” (Có khởi đầu thì có kết thúc, đã có sanh thì có diệt, ai có thể ngăn cấm khiến cho chính mình chẳng chết ư?) Nhưng lúc lâm chung, cái nghiệp thiện ác đã tạo lúc bình thời sẽ cùng lúc nhanh chóng hiện ra, [người chết phải] theo nghiệp mà thọ sanh. Kinh Pháp Cú dạy: “Nhân tác thiện ác, ương phước tùy nhân, tuy cánh sanh tử, bất khả đắc miễn” (Người làm thiện ác, họa phước theo người. Dẫu qua sanh tử, chẳng thể tránh khỏi). Nhưng trong ý con (Chủ Mạng), chẳng cần biết người ấy thường nhật làm lành hay làm ác, con đều làm cho người ấy sanh vào chốn lành, chẳng để cho người ấy rơi vào đường ác. Huống hồ người ấy vốn chẳng làm ác, tự tu Thí, Giới; do thiện căn đã tu thành của người ấy sẽ khiến cho oai đức của con cũng tăng thêm mạnh mẽ. Khi người ấy cảm báo, ắt sanh lên cõi trời, hoặc sanh trong nhân gian.
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2.1.2. Quỷ thần biến ác (quỷ thần biến hiện chuyện ác)
(Kinh) Thị Diêm Phù Đề hành thiện chi nhân, lâm mạng chung thời, diệc hữu bách thiên ác đạo quỷ thần, hoặc biến tác phụ mẫu, nãi chí chư quyến thuộc, dẫn tiếp vong nhân, linh lạc ác đạo, hà huống bổn tạo ác giả.
(經)是閻浮提行善之人,臨命終時,亦有百千惡道鬼神,或變作父母,乃至諸眷屬,引接亡人,令落惡道,何況本造惡者。
(Kinh: Người làm lành trong Diêm Phù Đề, khi sắp mạng chung, cũng có trăm ngàn quỷ thần trong đường ác, hoặc biến thành cha mẹ, cho đến các quyến thuộc, tiếp dẫn người mất, khiến họ rơi vào ác đạo, huống hồ kẻ vốn làm ác).
Kinh Tịnh Độ Tam Muội nói: “Nhược nhân tạo thiện ác nghiệp, sanh thiên, đọa ngục, các hữu nghênh nhân. Bệnh dục tử thời, nhãn tự kiến lai nghênh. Ưng sanh thiên thượng giả, thiên thần trì thiên y, kỹ nhạc lai nghênh. Ưng sanh tha phương giả, nhãn kiến tôn nhân vị thuyết diệu ngôn. Nhược vi ác, đọa địa ngục giả, nhãn kiến binh sĩ, trì đao, thuẫn, mâu, kích, sách vi nhiễu. Sở kiến bất đồng, khẩu bất năng ngôn, các tùy sở tác, các đắc kỳ quả” (Nếu ai tạo nghiệp thiện, ác, sanh lên trời, hay đọa vào địa ngục, đều có người đến đón tiếp. Khi người bệnh sắp chết, mắt tự thấy có người đến đón. Người đáng sanh lên trời, thiên thần cầm áo trời, kỹ nhạc đến đón. Người đáng sanh vào phương khác, mắt sẽ thấy người tôn quý vì người ấy nói lời mầu nhiệm. Nếu là kẻ làm ác đọa địa ngục, mắt thấy binh sĩ cầm đao, thuẫn, mâu, kích, dây trói vây quanh. Mỗi người thấy khác nhau, miệng chẳng thể nói được, mỗi người đều thuận theo những gì đã làm mà tự đạt được cái quả). Vì thế, khi lâm chung, quả thật có ác quỷ nhiễu loạn. Dẫu cho người một mực làm lành, vẫn khó tránh khỏi bị quấy nhiễu. Hoặc là [ác quỷ thần] biến thành cha, mẹ, anh, em, chú, bác, cô, dì, khiến cho tâm người ấy (người sắp chết) yêu mến, tinh thần nhiễu loạn. Quỷ liền dùng thân giống như cha mẹ v.v… dẫn người ấy vào đường ác, huống hồ chính người ấy tạo ác. Bởi lẽ, người sắp chết, Thiên Đế truyền văn thư xuống. Người ấy chưa đến lúc chết, quỷ thần Thái Sơn bèn xúi giục kẻ ấy tạo tội, khiến cho người ấy rơi vào ác đạo. Hãy nên biết là những quỷ thần đó giở trò, chứ còn ai nữa?
Vì thế, Đại Luận dẫn kinh Phân Biệt Nghiệp như sau: “Phật cáo A Nan: ‘Hành ác nhân, hảo xứ sanh; hành thiện nhân, ác xứ sanh’. A Nan viết: ‘Thị sự vân hà?’ Phật ngôn: – Ác nhân kim thế tội nghiệp vị thục, túc thế thiện nghiệp dĩ thục, cố kim tuy vi ác, nhi sanh hảo xứ. Hoặc lâm tử thời, thiện tâm tâm số pháp sanh, diệc sanh hảo xứ. Hành thiện nhân sanh ác xứ giả, kim thế thiện vị thục, quá khứ ác dĩ thục. Cố kim tuy vi thiện, nhi sanh ác xứ. Hoặc lâm tử thời, bất thiện tâm tâm số pháp sanh, diệc sanh ác xứ” (Đức Phật bảo A Nan: “Người làm ác sanh về chỗ tốt đẹp, người làm lành sanh về chỗ ác”. Ngài A Nan hỏi: “Chuyện ấy là như thế nào?” Đức Phật dạy: “Kẻ ác do tội nghiệp đời này chưa chín muồi, thiện nghiệp đời trước đã chín muồi, cho nên nay tuy làm ác mà sanh về chốn tốt đẹp. Hoặc khi sắp chết, các tâm số pháp của thiện tâm sanh khởi, cũng sanh về chỗ tốt đẹp. Kẻ làm lành mà sanh về chỗ ác, là vì điều thiện đời này chưa chín muồi, điều ác trong quá khứ đã chín muồi, cho nên nay tuy làm lành mà sanh vào chốn ác. Hoặc lúc sắp chết, các pháp tâm số của tâm bất thiện sanh khởi, cho nên cũng sanh vào chỗ ác). Vì thế, luận Câu Xá nói: “Nếu người lâm chung dấy lên tâm tà kiến, là do các điều bất thiện trước kia làm duyên, cho nên đọa địa ngục”. Vậy thì dẫu không có quỷ dẫn dắt, vẫn khó đảm bảo “làm lành sẽ sanh về chốn lành”. Huống hồ kẻ vốn tạo ác, tự nhiên sẽ bị dẫn vào ác đạo!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2.2. Thị nhân bất hội (người lâm chung không hiểu biết)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2.2.1. Vong giả thần thức hôn muội (người mất thần thức tối tăm, mê muội)
(Kinh) Thế Tôn! Như thị Diêm Phù Đề nam tử, nữ nhân, lâm mạng chung thời, thần thức hôn muội, bất biện thiện ác, nãi chí nhãn, nhĩ, cánh vô kiến văn.
(經)世尊!如是閻浮提男子女人,臨命終時,神識惛昧,不辯善惡,乃至眼耳,更無見聞。
(Kinh: Bạch đức Thế Tôn! Nam tử, nữ nhân trong cõi Diêm Phù Đề như thế, khi sắp mạng chung, thần thức tối tăm, mê muội, chẳng phân biệt thiện, ác, cho đến mắt, tai, trọn chẳng thấy nghe).
“Lâm chung thần thức tối tăm”: Thần thức trong thân có lúc rời đi ngay, có khi rời đi theo thứ tự trước sau. Chỉ có thức thứ tám rời đi cuối cùng, cũng nào có biết?
Kinh Niết Bàn dạy: “Như nhân xả mạng, thọ đại khổ thời, tông thân vi nhiễu, hào khốc áo não. Kỳ nhân hoảng bố, mạc tri y cứu. Tuy hữu ngũ tình, vô sở tri giác. Chi tiết chiến động, bất năng tự trì. Thân thể hư lãnh, noãn khí dục tận. Kiến tiên sở tu thiện ác báo tướng, như nhật thùy một, sơn, lăng, đôi, phụ ảnh hiện đông di, lý vô Tây thệ. Chúng sanh nghiệp quả, diệc phục như thị. Cố lâm chung thời, chư căn ảm nhiên, thức bất năng biện. Nhãn, nhĩ tuy tại, hà năng kiến văn?” (Như người lúc xả mạng, chịu đại khổ, họ hàng vây quanh, gào khóc áo não. Người ấy hoảng sợ, chẳng biết nương vào ai để cầu cứu. Tuy có năm tình thức, nhưng chẳng hay biết. Chi thể và các lóng đốt rúng động, chẳng thể tự khống chế được. Thân thể hư nhược, lạnh lẽo, hơi ấm gần dứt. Thấy các báo tướng do điều thiện lẽ ác đã làm trước kia, như mặt trời sắp lặn, núi, ghềnh, đồi, gò đều hiện bóng chiếu sang Đông, chẳng có lẽ nào ngả về Tây. Nghiệp quả của chúng sanh cũng giống như thế; cho nên khi lâm chung, các căn ảm đạm, thức chẳng thể biện định. Tai, mắt tuy hãy còn, sao có thể thấy, nghe?)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2. Quyến thuộc đương vị tu phước (quyến thuộc hãy nên vì người ấy tu phước)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.1. Đa thiện duyên, ly ác đạo khổ (do nhiều thiện duyên, sẽ lìa nỗi khổ trong đường ác)
(Kinh) Thị chư quyến thuộc, đương tu thiết đại cúng dường, chuyển độc tôn kinh, niệm Phật Bồ Tát danh hiệu. Như thị thiện duyên, năng linh vong giả ly chư ác đạo, chư ma, quỷ, thần tất giai thoái tán.
(經)是諸眷屬,當須設大供養,轉讀尊經,念佛菩薩名號。如是善緣,能令亡者離諸惡道,諸魔鬼神悉皆退散。
(Kinh: Các quyến thuộc ấy hãy nên sắm sửa cúng dường to lớn, tụng niệm tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật, Bồ Tát. Thiện duyên như thế có thể khiến cho người mất lìa khỏi các ác đạo, các ma, quỷ, thần sẽ đều lui tan).
“Đương tu thiết cúng dường” (Hãy nên sắm sửa cúng dường) là chuyện cần phải lo liệu. Ví như thuyền đi vào chỗ hiểm, cần phải gấp gắng sức. Hễ có chút nào sơ sểnh, người lẫn thuyền đều bị chìm. Ấy là vì Tiền Ấm (thân thể trong đời hiện tại của người sắp chết) sắp chấm dứt, thân Trung Ấm sanh khởi. Trung Ấm có hai loại: Một là thiện nghiệp quả, hai là ác nghiệp quả. Do thiện nghiệp, nên đắc thiện giác quán. Do ác nghiệp, nên đắc ác giác quán. [Thần thức người chết] theo nghiệp nhân duyên, hướng đến chỗ thọ sanh. Kinh Ngũ Giới dạy: “Sanh tử hiểm nạn, thật khả kinh bố” (sanh tử hiểm nạn, thật đáng kinh sợ). Vì thế, cần phải sắp đặt cúng dường to lớn, đọc kinh, xưng danh. Cúng mà nói là “đại”, ý nói dốc cạn tài lực của chính mình, kiệt lực lo liệu. Nhưng trong lúc cúng dường, cần phải lìa cái tâm cho rằng những thứ [vật phẩm cúng dường] đó thật sự [chỉ có chừng ấy. Phải biết rằng]: Dù hương, hay hoa, Thể của chúng là pháp giới, tánh của người dâng cúng và đấng được cúng vốn là chân không. Do đó, những vật cúng ấy sẽ sanh khởi xứng với tâm lượng, thuận theo tánh mà thường trụ. Cúng dường trọn khắp Tam Bảo giống như cúng khắp mười phương. Tuy nói là “thí tài”, thật sự là pháp cúng dường, cho nên nói là Đại.
Niệm Phật, Bồ Tát thì như Kim Quang Minh Kinh Sớ viết: “Quán tâm đã là như vậy. Quán Phật cũng thế, cho nên nói là niệm Phật”. Đấy là nói về Lý Quán, nay chỉ xưng danh. Kinh Đại Phẩm Bát Nhã dạy: “Nhược hữu nhất nhân xưng Nam-mô Phật, nãi chí tất khổ, kỳ phước bất tận” (Nếu có người xưng Nam Mô Phật một tiếng, cho đến hết sạch khổ, phước ấy chẳng hết). Đại Luận viết: “Hỏi: Vì sao chỉ xưng niệm suông danh tự, liền được hết khổ, phước ấy bất tận? Đáp: Từng nghe công đức của Phật có thể độ người thoát khỏi nỗi khổ già, bệnh, chết. Cúng dường dù nhiều hay ít, và xưng danh hiệu Phật, sẽ được vô lượng phước”. Vì thế, kinh Đại Bi dạy: “Nhược năng chí thành tâm, niệm Phật công đức, nãi chí nhất hoa, tán ư không trung. Ư vị lai thế, tác thiên Phạm Vương, kỳ phước bất tận. Dĩ kỳ bất tận, chung chí Niết Bàn” (Nếu tâm có thể chí thành thì do công đức niệm Phật, cho đến [do công đức] dùng một đóa hoa rải lên không trung, trong đời vị lai, sẽ làm Phạm Vương trên cõi trời. Phước ấy bất tận, cuối cùng đạt đến Niết Bàn). Nay đã do thiện duyên cúng dường, tụng kinh, xưng danh, sẽ tự có thể làm người chết lìa khỏi tam đồ ác đạo, chẳng cần trừ khử các ma quỷ biến hình (biến thành hình dạng người thân) mà chúng nó tự lui tan.
3.2.3.2.2.2.2.2.1.1.2.2.2.2.2. Thiểu thiện duyên, trừ vô gián tội (do chút thiện duyên, trừ tội Vô Gián)
(Kinh) Thế Tôn! Nhất thiết chúng sanh lâm mạng chung thời, nhược đắc văn nhất Phật danh, nhất Bồ Tát danh, hoặc Đại Thừa kinh điển, nhất cú, nhất kệ, ngã quán như thị bối nhân, trừ Ngũ Vô Gián sát hại chi tội, tiểu tiểu ác nghiệp, hợp đọa ác thú giả, tầm tức
giải thoát.
(經)世尊!一切眾生臨命終時,若得聞一佛名,一菩薩名,或大乘經典,一句一偈,我觀如是輩人,除五無間殺害之罪,小小惡業,合墮惡趣者,尋即解脫。
(Kinh: Bạch Thế Tôn! Hết thảy chúng sanh khi mạng sắp chấm dứt, nếu được nghe danh hiệu một vị Phật, danh hiệu một vị Bồ Tát, hoặc kinh điển Đại Thừa, một câu, một kệ, con thấy những người như thế được trừ tội Ngũ Vô Gián và sát hại, các ác nghiệp nho nhỏ đáng đọa vào trong đường ác sẽ liền được giải thoát).
Phần trên đã nói ba thứ công đức “sắp đặt cúng dường, đọc kinh, xưng danh” để giúp phước cho người trong cõi âm lìa ác đạo, đẩy lùi quỷ thần [quấy nhiễu]. Đó là công năng của nhiều phước. Nhưng nay [trong đoạn này, khẳng định] đối với danh hiệu của Phật Bồ Tát, chỉ một danh hiệu mà thôi, đối với kinh điển, chỉ một câu, một kệ mà thôi, sẽ liền có thể trừ khử tội Ngũ Vô Gián cực nặng.
“Một kệ”: Xứ Thiên Trúc chỉ cần đếm đủ ba mươi hai chữ thì gọi là một kệ, thường gọi là A Nậu Tốt Đổ Bà (Anuṣṭubh), hoặc Thâu Lô Ca Ba (Śloka). Chuyện này cũng là do có đại nhân duyên, cho nên lâm chung được nghe. Đại tội thượng phẩm đã trừ, những ác nghiệp nho nhỏ trung hạ, đáng đọa vào các biên tiểu ngục (các tiểu địa ngục phụ), sẽ lập tức giải thoát siêu thăng, như mặt trời rạng rỡ tan sương, há có tội khiên thừa sót ư? Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói: “Ninh thọ địa ngục khổ, đắc văn chư Phật danh. Bất thọ vô lượng lạc, nhi bất văn Phật danh” (Thà chịu khổ địa ngục, được nghe danh chư Phật. Chẳng hưởng vô lượng vui, mà chẳng nghe tên Phật). Do vì xưa kia, trong vô số kiếp chịu khổ, trôi lăn trong sanh tử do chẳng được nghe danh hiệu Phật. Hỏi: Vì sao chỉ nghe danh hiệu Phật liền đắc đạo? Đáp: Có chúng sanh phước đức thuần thục, tâm kết sử mỏng manh, nếu nghe danh hiệu Phật, sẽ lập tức đắc đạo; như vải len trắng mới sạch, dễ nhuộm mầu. Nghe danh hiệu Phật, công sức của phước ấy há lường nổi ư? Chủ Mạng trần thuật tâm ý đã xong.
3.2.3.2.2.2.2.2.1.2. Thế Tôn tán khuyến (đức Thế Tôn tán thán, khuyên răn)
(Kinh) Phật cáo Chủ Mạng quỷ vương: “Nhữ đại từ cố, năng
phát như thị đại nguyện, ư sanh tử trung hộ chư chúng sanh. Nhược vị lai thế trung, hữu nam tử, nữ nhân, chí sanh tử thời, nhữ mạc thoái thị nguyện, tổng linh giải thoát, vĩnh đắc an lạc”.
(經)佛告主命鬼王:汝大慈故,能發如是大願,於生死中護諸眾生。若未來世中,有男子女人,至生死時,汝莫退是願,總令解脫,永得安樂。
(Kinh: Đức Phật bảo Chủ Mạng quỷ vương: “Ông do đại từ nên có thể phát đại nguyện như thế, ở trong sanh tử bảo vệ các chúng sanh. Nếu trong đời vị lai, có nam tử, nữ nhân đến lúc sanh tử, ông đừng lui sụt nguyện ấy, luôn làm cho họ giải thoát, vĩnh viễn hưởng yên vui”).
Đây là phần kinh văn chép lời tán thán, khuyên răn của đức Như Lai. Nói “đại từ” tức là có cái tâm giống như Phật. Phát đại nguyện tức là giống như tâm niệm của Bồ Tát. Nay đã lấy tâm Phật làm tâm của chính mình, có thể phát đại nguyện như thế, tức là Phật, Bồ Tát rồi. Vì thế, nay ta khuyên ông: Trong đời vị lai, hễ nam nữ gặp lúc sanh tử, ông đừng lui sụt tâm nguyện cứu giúp, che chở. Bất luận có tội hay vô tội, đại ác hay tiểu ác, ông đều làm cho họ giải thoát tam đồ, được hưởng niềm yên vui trong cõi trời, người, thật sự chẳng phụ lời ta căn dặn ngày nay!
3.2.3.2.2.2.2.2.1.3. Quỷ vương thọ mạng (quỷ vương vâng mạng)
3.2.3.2.2.2.2.2.1.3.1. Minh kỷ ủng hộ (nói rõ chính mình sẽ ủng hộ)
(Kinh) Quỷ vương bạch Phật ngôn: “Nguyện bất hữu lự! Ngã tất thị hình, niệm niệm ủng hộ Diêm Phù chúng sanh, sanh thời, tử thời, câu đắc an lạc”.
(經)鬼王白佛言:願不有慮!我畢是形,念念擁護閻浮眾生,生時死時,俱得安樂。
(Kinh: Quỷ vương bạch Phật rằng: “Xin Ngài chớ lo! Cho đến hết mạng này, con trong mỗi niệm đều ủng hộ chúng sanh Diêm Phù lúc sanh, lúc tử, đều được yên vui”).
Ý nghĩa dễ hiểu.
3.2.3.2.2.2.2.2.1.3.2. Nguyện sanh tín thọ (mong chúng sanh tin nhận)
(Kinh) Đản nguyện chư chúng sanh, ư sanh tử thời, tín thọ ngã ngữ, vô bất giải thoát, hoạch đại lợi ích.
(經)但願諸眾生,於生死時,信受我語,無不解脫,獲大利益。
(Kinh: Chỉ mong các chúng sanh trong lúc sanh tử, tin nhận lời con thì không ai chẳng được giải thoát, đạt lợi ích to lớn).
Kinh Thế Ký chép: “Phật ngôn: – Nhất thiết nam tử, nữ nhân, sơ thỉ sanh thời, giai hữu quỷ thần tùy trục ủng hộ. Nhược kỳ tử thời, bỉ thủ hộ quỷ nhiếp kỳ tinh khí, kỳ nhân tắc tử” (Đức Phật dạy: “Hết thảy nam tử, nữ nhân, lúc mới sanh, đều có quỷ thần theo sát ủng hộ. Nếu đến lúc người ấy chết, các quỷ thần ấy sẽ thâu nhiếp tinh khí, người ấy liền chết”). Vì thế, Chủ Mạng mong mọi người lúc sanh, lúc tử, hãy cẩn thận đừng sát hại, hãy nên tu thiện duyên. Kinh Đại Tập dạy: “Nhược tu Từ giả, đương xả thân mạng thời, kiến thập phương Phật, thủ ma kỳ đảnh. Mông thủ xúc cố, tâm an khoái lạc, tầm đắc vãng sanh thanh tịnh Phật độ” (Nếu là người tu lòng Từ, khi sắp xả thân mạng, sẽ thấy mười phương Phật đưa tay xoa đỉnh đầu. Do được tay Phật chạm vào, tâm an vui sướng, liền được sanh về cõi Phật thanh tịnh). Vì thế, ngài Vân Thê (tổ Liên Trì) đã răn: “Cúng tế tổ tiên, chớ nên sát sanh để ngầm giúp phước cho người thân trong cõi âm. Phàm món ăn ngon quý bày la liệt trước mặt [linh vị], sao có thể khiến cho di cốt từ nơi chín suối sống dậy để ăn được ư? Đã vô ích lại còn tai hại, kẻ trí chẳng làm!”
3.2.3.2.2.2.2.2.2. Như Lai phát bổn (Như Lai nêu rõ bổn nhân của quỷ vương)
3.2.3.2.2.2.2.2.2.1. Phát viễn bổn (nêu rõ bổn hạnh lâu xa)
(Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Địa Tạng Bồ Tát: “Thị đại quỷ vương Chủ Mạng giả, dĩ tằng kinh bách thiên sanh, tác đại quỷ vương, ư sanh tử trung, ủng hộ chúng sanh. Thị đại sĩ từ bi nguyện cố, hiện đại quỷ thân, thật phi quỷ dã.
(經)爾時,佛告地藏菩薩:是大鬼王主命者,已曾經百千生,作大鬼王,於生死中,擁護眾生。是大士慈悲願故,現大鬼身,實非鬼也。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Địa Tạng Bồ Tát: “Vị đại quỷ vương Chủ Mạng này đã từng trải qua trăm ngàn đời làm đại quỷ vương, ở trong sanh tử, ủng hộ chúng sanh. Vị đại sĩ này do nguyện đại từ bi mà hiện thân đại quỷ, chứ thật sự chẳng phải là quỷ”).
Phàm luận về Bổn và Tích, Bổn đồng mà Tích khác. Ấy là từ Bổn mà hiện Tích, Tích chẳng khác Bổn, do Tích mà hiển lộ Bổn. Bổn chẳng lìa Tích. Bổn và Tích tuy khác, nhưng đều là chẳng nghĩ bàn như nhau. Vì thế, nêu ra Bổn từ trăm ngàn kiếp trước, đạo chẳng hai với Phật. Nay làm thân quỷ này chính là do nguyện từ bi biến hiện. Ví như một vầng trăng trên bầu trời, bóng in xuống các chỗ có nước. Nếu chấp bóng trăng là thật, tức là đã đánh mất cái gốc. Vì thế nói: “Hiện thân đại quỷ, chứ thật sự chẳng phải là quỷ”.
Xưa kia, ngài Đạo Sanh thuyết pháp ở Hổ Khâu, có một quỷ hiện thân, hằng ngày đến nghe pháp. Ngài Đạo Sanh khuyên quỷ nên thác sanh. Quỷ dùng thơ để trả lời: “Tố quỷ kinh kim ngũ bách thu, dã vô phiền não, dã vô sầu, Sanh công khuyến ngã vi nhân khứ. Chỉ khủng vi nhân bất đáo đầu” (Năm trăm năm làm quỷ, chẳng phiền não, ưu sầu. Nay thầy khuyên làm người. Chỉ sợ trót làm người. Nẻo về lại lạc mất). Nay vị đại quỷ vương này đã trải qua trăm ngàn đời, há chẳng phải là do nương theo nguyện lực mà đến, hiện thân quỷ để thuyết pháp đấy ư?
3.2.3.2.2.2.2.2.2.2. Ký kiếp, quốc (thọ ký kiếp số và quốc độ)
(Kinh) Khước hậu quá nhất bách thất thập kiếp, đương đắc thành Phật, hiệu viết Vô Tướng Như Lai, kiếp danh An Lạc, thế giới danh Tịnh Trụ. Kỳ Phật thọ mạng, bất khả kế kiếp.
(經)卻後過一百七十劫,當得成佛,號曰無相如來,劫名安樂,世界名淨住。其佛壽命,不可計劫。
(Kinh: Qua một trăm bảy mươi kiếp sau, sẽ được thành Phật, hiệu là Vô Tướng Như Lai, kiếp tên là An Lạc, thế giới tên là Tịnh Trụ. Vị Phật ấy thọ mạng chẳng tính nổi kiếp).
“Sẽ được thành Phật”: Bậc Sơ Trụ làm Phật trong trăm cõi. “Vô Tướng”: Không chỉ là chẳng có tướng sanh, trụ, dị, diệt, mà vô tướng cũng chẳng có. Do vậy gọi là Vô Tướng. Nhưng dùng quỷ tướng để thành vô tướng, chẳng phải là trơ trơ như hư không. Hư không chẳng có một vật, còn vô tướng chính là tướng. Đem Vô Tướng ngày sau để quán quỷ tướng, [sẽ thấu hiểu quỷ tướng] chẳng phải là nhe nanh hung ác, mà nhằm thị hiện [sanh tử trong lục đạo] có các sự sợ hãi, tướng chính là vô tướng. Tướng quỷ ngày nay chính là Diệu Hữu chẳng thể nghĩ bàn. Vô tướng trong đời sau chính là Chân Không chẳng thể nghĩ bàn. Do Hữu chính là Không, Hữu đã chẳng thể được. Do Không chính là Hữu, Không chẳng thể gọi tên! Không lẫn Hữu đã mất, Trung Đạo chẳng lập. Dù quỷ hay Phật, danh ấy gởi vào đâu? Dù tướng hay vô tướng, Thể của chúng há tồn tại? Danh hiệu đã là như thế, kiếp và thế giới cũng vậy. Sao có thể nói quỷ thần luôn bị sai khiến, chẳng được an lạc ư? Kiếp nào cũng vốn tự an lạc, ai nói quỷ thần thuộc về cõi âm, trong chốn bất tịnh ư? Cõi nào cũng vốn sẵn tịnh trụ, sao có thể nói là tất cả năm tháng tuổi thọ của quỷ chỉ có năm trăm năm ư? Phật thọ chẳng thể tính kiếp; do vậy biết: Dùng Bổn để nghiệm Tích, Tích vẫn đồng Bổn. Dùng nhân để đối ứng với quả, quả chẳng khác nhân. Dụng ý nêu rõ Bổn hay khéo ở chỗ này!
3.2.3.2.2.2.2.2.2.3. Kết độ nhân (kết lại chuyện hóa độ người)
(Kinh) Địa Tạng! Thị đại quỷ vương, kỳ sự như thị bất khả tư nghị, sở độ thiên nhân, diệc bất khả hạn lượng.
(經)地藏!是大鬼王,其事如是不可思議,所度天人,亦不可限量。
(Kinh: Này Địa Tạng! Vị đại quỷ vương này có chuyện chẳng thể nghĩ bàn như thế đó, Ngài độ trời, người cũng chẳng thể hạn lượng).
“Kỳ sự bất khả tư nghị” (chuyện chẳng thể nghĩ bàn): Ước theo Bổn để tán thán Tích. Như kinh A Nan Cứu Diệm Khẩu có nói: “Kỳ trung vi chủ tể, thống lãnh thượng thủ chi giả, giai thị trụ bất khả tư nghị giải thoát Bồ Tát, từ bi thệ nguyện, phân hình bố ảnh, thị hiện hóa thân, tại lục đạo trung, đồng loại thọ khổ. Thiết ư phương tiện, vi thiện tri thức. Thành thục lợi lạc nhất thiết hữu tình chứng đại Niết Bàn” (Những vị làm chủ tể, thống lãnh, thượng thủ trong ấy đều là hàng Bồ Tát trụ giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, do từ bi thệ nguyện, phân thân hiện hình, thị hiện hóa thân làm đồng loại ở trong sáu đường thọ khổ, lập bày phương tiện, làm thiện tri thức để thành thục, lợi lạc hết thảy hữu tình chứng đại Niết Bàn). Như vậy thì những vị như Chủ Mạng quỷ vương v.v… và Diêm La thiên tử há cũng thật sự là do nghiệp thọ sanh, ba thời đều chịu khổ ư? Lại hãy nên biết: Hết thảy đều là các tướng huyễn hóa phù trần, từ ngay nơi ấy sanh ra, sẽ ở chính ngay nơi đó mà diệt mất. Huyễn vọng gọi là tướng, nhưng tánh của nó thật sự là cái Thể giác ngộ sáng suốt mầu nhiệm. Nếu thấu hiểu ý này, thì đối với hóa môn Quyền Thật của chư thánh đã biết hơn một nửa!
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú
(Phần 6)
Hết
» Chú thích:
[1] Võng Lượng (魍魎) vốn là loài yêu quái trong nước, có hình dáng như đứa trẻ ba tuổi, da đen pha đỏ, mắt đỏ, tai dài, tóc rậm, thích ăn gan người chết.
[2] Thuyết Uyển còn gọi là Tân Uyển, do Lưu Hướng soạn dưới đời Tây Hán. Đến đời Tống, Tăng Củng giảo chánh, bổ khuyết soạn thành bộ sách gồm hai mươi quyển. Sách ghi chép những truyền thuyết và những mẫu chuyện lịch sử từ thời Tiên Tần (trước khi Tần Thủy Hoàng diệt lục quốc) cho đến thời Tây Hán, thể hiện quan điểm và tư tưởng của Nho gia.
[3] Y Lan (Erāvaṇa) là một loại hoa có màu đỏ rất đẹp, nhưng mùi hết sức hôi thối. Mùi thối lan tỏa rất xa. Kinh thường dùng hoa Y Lan để sánh ví thân người chỉ đẹp đẽ bề ngoài, bên trong toàn là bất tịnh. Loại hoa này khác với hoa Ylang Ylang (còn gọi là Cananga, hoặc Perfume tree, cũng được dịch là hoa Y Lan trong tiếng Hán). Hoa Ylang Ylang vàng tươi, cánh cong dài, thường được chiết xuất tinh dầu để chế nước hoa.
[4] Nhận (仞) là đơn vị đo dài thời cổ. Thời Châu, một Nhận là tám thước. Sang thời Hán, một Nhận chỉ còn bảy thước.
[5] Lục Suy chính là Lục Trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp), vì chúng có thể khiến cho con người suy hao chân tánh, ví như sáu tên giặc, nên còn gọi là Lục Tặc.
[6] Di Kiên Chí là tác phẩm thuộc thể loại bút ký chép về cuộc sống, nhân văn, những chuyện lạ lùng, quái dị mà tác giả được nghe biết, do Hồng Mại soạn vào đời Nam Tống. Nguyên tác đến bốn trăm hai mươi quyển, hiện thời không còn được một nửa!
[7] Vũ Đức là niên hiệu của Đường Cao Tổ (Lý Uyên) từ năm 618-626.
[8] Nội Đức Luận là một bài viết của Lý Sư Chánh vào đời Đường, luận định về đạo đức theo quan điểm nhà Phật, đả phá kiến chấp của Nho sĩ đương thời.
[9] Thích Thị Yếu Lãm do ngài Đạo Thành biên soạn vào năm Thiên Hỷ thứ ba (1019) đời Bắc Tống, nhằm giúp cho các tăng ni biết những kiến thức thông thường về Phật giáo. Sách viết về những khái niệm cơ bản trong Phật học, các quy tắc, pháp quy trong tự viện, cũng như giải thích một số từ ngữ Phật học, chia thành 679 mục. Sách dẫn chứng khá rộng các sách vở Phật giáo, là một tài liệu tham khảo rất hữu ích cho Phật giáo.
[10] Đây là bốn tướng để biện định sự việc: Tự là do chính mình làm, Tha là do người khác làm, Cộng là đôi bên cùng làm, Ly là ta lẫn người đều chẳng làm.
[11] Liệt Tử là tác phẩm do Liệt Ngự Khấu người nước Trịnh sáng tác. Ông được coi là một trong những người đi tiên phong của Đạo gia, triển khai tư tưởng của Lão Tử dưới thời Xuân Thu. Ông ra đời trước Trang Tử, chủ trương thanh tĩnh vô vi. Tác phẩm Liệt Tử của ông được Đạo gia tôn là Xung Hư Kinh, cùng với Đạo Đức Kinh, Trang Tử (Nam Hoa Kinh), và Văn Tử (Thông Huyền Kinh) được coi là “Đạo gia tứ bảo điển”. Trong đó, có nhiều câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng như người nước Kỷ lo trời sập, lắm ngõ rẽ không tìm được con dê đã mất, Ngu Công dời núi v.v…
[12] Bạch Trạch Đồ có tên gọi đầy đủ là Bạch Trạch Tinh Quái Đồ, không rõ ai là tác giả. Tương truyền, thời Hoàng Đế, có một thần thú tên là Bạch Trạch biết nói tiếng người, thông thạo các loài tinh mị, quỷ quái trên thế gian. Bạch Trạch thường được mô tả như con thú có bốn chân, chín mắt, sáu sừng, mặt người. Nó được coi là một con thú cát tường vì quỷ mị thấy nó đều phải lánh xa. Khi Hoàng Đế tuần du, đến bên biển Đông đã gặp Bạch Trạch, thỉnh giáo về chuyện quỷ thần. Bạch Trạch đã kể ra 11.520 câu chuyện quỷ thần, mô tả cặn kẽ các loài quỷ mị, cũng như cách thức xua đuổi chúng, và được chép lại thành sách Bạch Trạch Tinh Quái Đồ. Bản lưu hành hiện thời của sách này kể tên 199 loại quỷ, và hai mươi bức hình.
[13] Theo Phật Thuyết Quỷ Tử Mẫu Kinh, em gái Quỷ Tử Mẫu tên là Phù Đà Ma Ni Bát, chuyên quản trị tài vật trong thế gian.
[14] Trong “thập nhị tiếu” (mười hai con giáp) vốn không có mèo. Mão (Mẹo) là Thỏ, nhưng không hiểu sao, qua Việt Nam ta bèn trở thành mèo.
[15] Tên gọi đầy đủ của bộ sách này là Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu Hương Nhũ Ký, do ngài Từ Vân Quán Đảnh Tục Pháp biên soạn. Theo truyền thuyết, Lỵ và Mị đều là các loài sơn tinh quỷ quái, hoặc tinh linh dựa vào đất đá trong núi rừng, đặc trưng của chúng là mặt người mình thú; riêng Lỵ là mãnh thú giống như rồng, không có sừng.
[16] Bảo Sanh Chân Nhân còn gọi là Bảo Sanh Đại Đế có tên là Ngô Đào. Ông này là một vị lương y nổi tiếng đời Tống, có tên tự là Hoa Cơ, hiệu là Ngộ Chân và Vân Trung, quê ở huyện Đồng An thuộc Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến. Do khi ông mười ba tuổi, cha ông qua đời vì bị bệnh mà không có tiền lo thang thuốc; không lâu sau, mẹ ông cũng qua đời, ông phẫn chí, thề nguyện dốc chí học y cứu đời. Sau khi mất, ông được tôn làm thần. Có thuyết nói Bảo Sanh Chân Nhân thật ra là ba vị Ngô Đào, Tôn Tư Mạo, và Hứa Tốn, tức là ba vị thầy thuốc nổi danh thời cổ.
Bích Hà Nguyên Quân là nữ thần núi Thái Sơn. Bà còn được biết đến với các danh xưng Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Tiên Ngọc Nữ Bích Hà Nguyên Quân, Thái Sơn Thánh Mẫu, Thái Sơn Lão Mẫu, Thái Sơn Lão Nãi Nãi… Đạo giáo có nhiều cách giải thích nguồn gốc của vị thần này, hoặc nói bà là em gái của Ngọc Hoàng, hoặc con gái của Đông Nhạc Đại Đế, hoặc là một trong các nữ thần phù tá của Hoàng Đế. Theo Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành, Hoàng Đế có các vị nữ thần phù tá là Tây Vương Mẫu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Thái Sơn Ngọc Nữ (tức Bích Hà Nguyên Quân), Tố Nữ, Nữ Bạt, Hậu Thổ, và Vân Hoa phu nhân.
[17] Na Trá là thái tử của Tỳ Sa Môn thiên vương (Đa Văn Thiên Vương), là đại lực quỷ vương, ba mặt, tám tay. Vị này từng thị hiện dâng xá-lợi răng Phật cho ngài Đạo Tuyên lập tháp thờ phụng khi Sư đang ẩn tu tại chùa Tây Minh. Vị này không liên quan gì đến truyền thuyết tam thái tử Na Tra là con của Thác Tháp Thiên Vương Lý Tĩnh trong Đạo giáo.
[18] “Thiên văn” ở đây là thiên văn thời cổ Trung Hoa, chuyên nghiên cứu các tinh tú, không phải là Astronomy của phương Tây. Triều đình có cơ quan Khâm Thiên Giám chuyên nghiên cứu thiên văn để soạn lịch pháp, cũng như dự đoán những điềm báo nguy cơ cho quốc gia, cũng như chọn ngày tốt cho các đại điển như ngày đăng quang, ngày tế Nam Giao, ngày phong Thái Tử, phong nguyên soái, ngày mở khoa thi Đình v.v… Họ quan niệm mỗi tinh tòa có một chủ tinh như đế vương, các ngôi sao khác sẽ được phân định như các quan cận thần có tả chấp pháp, hữu chấp pháp v.v…
[19] Khi ngài Kim Kiều Giác (hóa thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát) đến Cửu Hoa Sơn, mang theo một con chó trắng (có tên là Đế Thính). Ngài ẩn tu tại một sơn cốc hoang vắng của Cửu Hoa Sơn. Khi đói thì dùng đất sét mịn trộn với lúa mạch nặn thành bánh để ăn, chưa từng nấu nướng. Về sau, các vị cư sĩ vô tình tìm thấy Ngài, muốn xây dựng đạo tràng cho Ngài. Lúc bấy giờ, núi Cửu Hoa thuộc quyền sở hữu của Mẫn Công. Mẫn Công hoan hỷ hỏi tỳ-kheo Kim Kiều Giác cần bao nhiêu đất để ông quyên tặng. Tỳ-kheo nói: “Ta chỉ cần khoảnh đất vừa bằng chiếc ca-sa”. Mẫn Công đồng ý ngay. Khi ngài Kim Kiều Giác trải ca-sa ra thì y ca-sa phủ trọn Cửu Hoa Sơn, Mẫn Công hết sức khâm phục đạo lực của Kim tỳ-kheo, bèn hoan hỷ hiến cúng toàn bộ Cửu Hoa Sơn. Con trai của ông ta cũng xin xuất gia với ngài Kim Kiều Giác, tức là hòa thượng Đạo Minh. Do vậy, trong các tranh vẽ theo lối cổ, bên cạnh đức Địa Tạng Bồ Tát, thường có một ông già râu tóc bạc phơ, đó là Mẫn Công và một vị tăng trẻ tuổi chắp tay (hoặc cầm tích trượng đứng hầu); đó là hòa thượng Đạo Minh. Đế Thính về sau thường được vẽ như một con sư tử có sừng, làm tọa kỵ của đức Địa Tạng.
[20] Tức bài kệ “nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (nếu ai muốn hiểu rõ, ba đời hết thảy Phật, hãy quán tánh pháp giới, hết thảy do tâm tạo). Có lẽ do câu chuyện cảm ứng này mà bài kệ này được dùng để mở đầu nghi thức Mông Sơn Thí Thực, cũng như hai câu kệ đầu thường được dùng để nhớ cách điểm trống, khởi mõ, đánh dẫn khánh khi mở đầu bất cứ nghi thức tụng niệm nào trong các tự viện Trung Hoa.
[21] Tác phẩm này có tên gọi đầy đủ là Cổ Kim Dịch Kinh Đồ Kỷ, gồm bốn quyển do sa môn Tĩnh Mại soạn vào đời Đường, ghi chép các kinh luận đã được phiên dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán từ thời ngài Ca Diếp Ma Đằng dưới thời Hán Minh Đế cho đến thời ngài Huyền Trang đời Đường Thái Tông.
[22] Thông thường, khi nói đến Thập Điện Diêm Vương thì vị này phải có tên là Sở Giang (楚江), nhưng sách Phật Tổ Thống Kỷ lại chép là Sơ Giang (初江).
[23] Một kỷ là mười hai năm.
[24] Vương Lương không được ghi chép nhiều trong sử liệu. Ông chỉ được biết đến như một phu xe tài năng, khéo điều khiển và thuần hóa ngựa của Triệu Tương Tử (công khanh của nước Tấn).
Tạo Phụ nổi tiếng về tài thuần hóa ngựa. Ông họ Doanh, là cháu năm đời của Phi Liêm, tức hậu duệ của các vua Chuyên Húc và Thiếu Hạo. Ông đem các con ngựa quý Đạo Lý, Hoa Lưu, Lục Nhĩ v.v… sang tiến cống Châu Mục Vương. Về sau, khi Từ Yển Vương phản nghịch, vua cưỡi thiên lý mã trở về, phá tan quân Từ Yển Vương. Do vậy, để thưởng công, vua đem Triệu Thành ban cho Tạo Phụ. Về sau, con cháu Tạo Phụ sống ở đó đổi sang họ Triệu. Dần dần, họ Triệu trở thành một dòng họ lớn của nước Tấn, nắm nhiều quyền hành. Sau này, họ Triệu cùng với họ Hàn và họ Ngụy chia nước Tấn thành ba nước Triệu, Hàn, Ngụy. Do vậy, Tạo Phụ được tôn là tổ tiên của nước Triệu.
[25] Lục Giao Báo, gọi gọn là Lục Báo, tức là quả báo do sáu thức tạo nghiệp chiêu cảm, bao gồm kiến báo (quả báo do thấy), văn báo (quả báo do nghe), khứu báo (quả báo do ngửi), vị báo (quả báo do nếm vị), xúc báo (quả báo do tiếp xúc), và tư báo (quả báo do suy nghĩ). Những quả báo này được nói chi tiết trong kinh Lăng Nghiêm. Chẳng hạn như Kiến Báo thì khi lâm chung trước hết thấy lửa dữ đầy khắp mười phương, thần thức người chết rơi vào trong khói lửa, trước khi vào Vô Gián địa ngục. Văn Báo thì khi lâm chung thấy sóng trào cuộn tung ngất trời, thần thức người chết trồi hụp trong sóng cả, trước khi vào địa ngục Vô Gián v.v…
[26] Hoằng Minh Tập là bộ sách do ngài Tăng Hựu soạn vào đời Lương, gồm 14 quyển, chép các sự kiện Phật giáo trong ba trăm năm kể từ cuối đời Hán đến thời Lục Triều đời Ngụy – Tấn. Đây là một sử liệu rất quý vì có rất nhiều tác phẩm được trích dẫn trong khi nguyên tác của chúng đã thất truyền.
[27] Thiên Thành Công trong kinh Xuân Thu chép những chuyện xảy ra trong thời Lỗ Thành Công (Cơ Hắc Quăng) từ lúc ông ta lên ngôi dến khi mất tức là 590 trước Công Nguyên cho đến năm 573 trước Công Nguyên.
[28] Năm loại đất (ngũ thổ) là đất nơi núi rừng, đất do phù sa bồi đắp, đất nơi gò, đồi, đất nơi ven sông, suối, và đất thấp trũng. Có thuyết nói Ngũ Thổ là năm loại đất có màu sắc khác nhau (xanh, đỏ, trắng, đen, vàng). Thái Ung lại cho rằng nói “ngũ sắc thổ” chẳng qua chỉ là ứng với màu sắc của ngũ hành mà gọi đó thôi, chẳng hạn, đất vàng ở tại trung ương, tương ứng với hành Thổ, đất trắng tương ứng với hành Kim ở phương Tây v.v… Nói cách khác, theo Thái Ung, ngũ thổ chỉ là danh từ phiếm chỉ đất ở khắp các phương.
[29] Cửu Thiên Huyền Nữ (còn gọi là Cửu Thiên Huyền Mẫu, Cửu Thiên Nương
Nương, Huyền Tẫn Thị, Cửu Thiên Huyền Mẫu Thiên Tôn, hay Cửu Thiên Huyền Dương Nguyên Nữ Thánh Mẫu Đại Đế Huyền Tẫn Thị) là một vị nữ thần tối cổ trong thần thoại Trung Hoa. Bà được coi là một vị thần chủ trì thuật số, sáng tạo Thái Ất Độn Giáp Kỳ Môn, cũng như các phù chú nổi tiếng của Đạo giáo như Âm Phù, Linh Bảo Ngũ Phù. Chữ Huyền trong danh hiệu của bà thể hiện ý nghĩa trời cao, như kinh Dịch phần viết về quẻ Khôn đã ghi “thiên huyền, địa hoàng” (trời đen, đất vàng). Do trời xa thẳm, nhìn lên chỉ thấy một màu đen kịt khi trời tối, nên Huyền còn có nghĩa là huyền diệu, khó thấu hiểu. Địa vị của bà trong thần miếu Đạo Giáo được coi là chỉ kém Tây Vương Mẫu. Theo truyền thuyết, bà từng là thầy của Hoàng Đế, bản lãnh quân sự cao tột, giúp vua đánh bại Xi Vưu. Truyền thuyết cũng cho rằng Cửu Thiên Huyền Nữ hóa thân thành cô gái ẩn danh xứ Việt giúp Việt Vương Câu Tiễn huấn luyện quân sĩ hùng mạnh đánh bại Ngô Vương Phù Sai, khôi phục nước Việt. Tương truyền, ngay cả quân sư Lưu Bá Ôn của nhà Minh sở dĩ tinh thông Kỳ Môn Độn Giáp là do được Cửu Thiên Huyền Nữ truyền dạy.
[30] Nguyên văn là Giao Tự (郊祀) là một nghi lễ trọng đại thời cổ. Vào một ngày tốt do Khâm Thiên Giám chọn lựa kỹ càng, thường là trong khoảng từ tháng Giêng đến tháng Ba, vua dẫn các quan đại thần lớn nhỏ ra ngoài kinh thành, thường là đến một khu lễ đàn đã lập sẵn ở nơi thanh vắng, thường gọi là đàn Nam Giao, dâng lễ trời đất, cảm tạ hoàng thiên hậu thổ che chở đất nước, cũng như cầu quốc thái dân an.