Cảm Ứng Thiên Vựng Biên | Quyển 4

Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

感 應 篇 彙 編

Quyển 4

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2000)

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Đức Phong – Huệ Trang

 

          (Chánh văn) Cưỡng thủ cưỡng cầu, hiếu xâm, hiếu đoạt.

          (正文) 強取強求。好侵好奪。

          (Chánh văn: Đoạt ngang, cướp cạn, thích xâm lấn, thích chiếm đoạt).

         

          Phần số chẳng đáng có, mà cứ ắt muốn đạt được thì gọi là Cưỡng (強). Lấy những thứ của người khác để cung cấp cho chính mình là Thủ (取). Do vì chính mình mà nhờ cậy người khác thì gọi là Cầu (求). Dùng quỷ kế để ngấm ngầm chiếm lấy thì gọi là Xâm (侵). Cậy thế chiếm lấy công khai thì gọi là Đoạt (奪). Đạt được như thế, sẽ khó thể tiêu thụ, ắt sẽ là ngay cả những gì vốn có cũng bị mất luôn!

          Trịnh Tuyên nói: – Tôi thấy tiền bạc là món vật mọi người đều yêu mến, ắt sẽ tranh giành. Cốt nhục bởi nó mà dẫn đến gây hấn. Hàng quan lại do tiền mà danh tiếng suy bại. Con buôn vì thứ này mà mất mạng. Phố phường do tiền mà đấu đá, chém giết. Nó chợt đến, chợt đi, thoáng sang, thoạt hèn, lung lạc suốt một đời. Nói chung, [tiền bạc đem lại] phước cho con người thì ít, mà dẫn đến họa cho con người thì nhiều. Tôi đã từng nhìn kỹ hình dạng của nó, [trong chữ Tiền (錢)], bên cạnh chữ Kim (金) là chữ Qua (戈, cái giáo), đúng là vật giết người! [Thế mà] người ta chẳng tỉnh. Ôi! Tiền ơi, tiền hỡi, do ta nghèo túng, cầu ngươi nuôi sống ta mà chẳng thể được! Vì thế, ta đành bó tay với ngươi! Do ta nghèo hèn, ngươi muốn giết ta mà cũng chẳng thể được, há ngươi có thể làm gì được ta ư?

          Vệ công Triệu Hùng lúc còn hàn vi, nghèo khổ nhất. Mẹ còn sống mà không có gì để phụng dưỡng mẹ sống qua ngày, vợ chồng nhìn nhau khóc. Hôm sau, quét đất, nhặt được một nén bạc, nặng hai mươi lăm lượng bèn có thể sống tạm. Về sau, ông đạt đến địa vị Tể Tướng, theo lệ, [tiền lương là] một trăm đĩnh bạc; [khi nhận bạc], bị thiếu mất một đĩnh. Ông sắp sửa vặn hỏi người giữ kho, thì đêm mộng thấy thần bảo: “Vào ngày tháng năm đó, tướng công đã mượn dùng trước một đĩnh”. Ôi! Trong mạng có tiền tài, thời vận chưa đến, còn chẳng thể ra sức giành giật được, huống hồ [trong vận mạng] vốn chẳng có mà cứ cưỡng chiếm ư!

          Tại Giang Tây, Triệu Thượng Thư sống gần nhà ông Thường Tỉnh Nguyên. Ông Thường có một mảnh vườn hết sức tao nhã. Họ Triệu dùng đủ mọi kế cưỡng chiếm, ông Thường bèn lập văn khế tặng cho họ Triệu, đề bài thơ đằng sau [tờ văn khế] rằng:

          Càn khôn đáo xứ thị ngô đình,

          Cơ giới tùng lai vị tất chân,

          Phúc vũ phiên vân thành để sự,

          Thanh phong hạo nguyệt lãnh khan (khán) nhân,

          Lan Đình hễ sự kim phi Tấn,

          Đào động hoa thần dã tiếu Tần,

          Viên thị chủ nhân, thân thị khách,

          Vấn quân hoàn hữu kỷ niên xuân?

          (Tạm dịch:

          Đất trời mọi chốn vốn vườn nhà,

          Mưu mẹo giành về há thật a?

          Đảo lộn mây mưa hòng đoạt lấy,

          Trăng trong gió mát vẫn ơ hờ.

          Buổi tế Lan Đình thành quá khứ[1],

          Thần hoa Đào Động vẫn cười Tần[2],

          Vườn là chủ nhân, ta khách trọ,

          Hỏi chàng còn được mấy năm xuân?)

          Ông Triệu nhận được bài thơ, hối hận, tạ ơn, từ chối, chẳng dám nhận [khu vườn ấy]. Về sau, ông Thường đậu cao. Ông Thường dùng đức để khiến cho người khác cảm động, ông Triệu dũng mãnh hối lỗi; hiện thời, hiếm có kẻ được như hai vị ấy.

          Dương X… ở Côn Sơn một hôm ngồi ở cửa, thấy một phụ nữ đi qua, đánh rơi cái trâm bằng bạc xuống đá lót đường, vang tiếng leng keng. Cụ vội đến xem, thấy là một con giun (con trùn). Do dự một hồi lâu, bỗng có một người đàn ông đi qua, nhặt lấy. Cụ Dương lớn tiếng bảo: “Đây là cái trâm do ta đánh rơi”. Người ấy biết là xạo, rảo bước bỏ đi. Cụ Dương [cứ quấn lấy] không buông, người ấy lấy ra hai phân bạc, dùng một nửa để mua cá, giao cho cụ nửa phân kia, dặn: “Ông già đừng [khiến cho tôi] vướng bận chân tay nữa, hãy dùng bạc này để mua rượu, nấu cá, nhậu cho đã một tối là được rồi”. Cụ Dương quay về, sai con dâu nấu cá. Trong khi đang hâm rượu, con mèo nhà hàng xóm bỗng ngậm cá tha đi. Người con dâu vội lấy gậy phang mèo; do đó, rượu bị đổ sạch, mà vật dụng đựng cá cũng vỡ nát. Trâm hóa thành giun, dường như là chuyện đáng nên tỉnh ngộ, thế mà vẫn cứ cưỡng lấy, có thể ăn được hay chăng? Ôi chao! Kẻ tham lam! Ôi chao! Kẻ bạc mạng. Việc nhỏ [mà còn] như thế, vậy thì cũng biết chuyện lớn [là như thế nào]!

          Ở huyện Ngân, có gã họ Lục gian trá, giàu có. Do sản nghiệp của họ Trịnh ở gần nhà hắn, họ Lục bèn ngấm ngầm tính kế xâm chiếm. [Đã đoạt được], bèn san bằng ngôi nhà [của họ Trịnh] để kiến tạo thành vườn hoa theo lối cung đình, chỉ chừa lại một cội cây đẹp nhất. Về sau, họ Lục sanh được một trai, nó đã lên năm mà câm bặt, chẳng thể nói. Bỗng một hôm, nó chỉ cội cây, nói: “Cây ơi! Nay mày vẫn còn đó à?” Người nhà hết sức kinh hãi; nó nói xong lại câm. Chữa trị đủ kiểu, trọn chẳng thốt ra một tiếng nào. Đến khi khôn lớn, nó hoang dâm, ăn chơi, kiêu ngạo, khi gia sản đã khánh kiệt bèn chết. Người ta nói nó là hậu thân của họ Trịnh.

          Đời Minh, Vương sanh ở Nam Đô tánh tham lam, thô bỉ. Người bác họ của hắn đã chết, không có con, nhưng đã có người thừa kế. Vương sanh nhòm ngó gia sản của ông ta, muốn cưỡng chiếm. Thưa kiện suốt mấy năm, gặp phải vị quan xét xử giữ đúng lẽ công bằng, hơi trấn áp hắn, hắn liền nhục mạ, hủy báng không ngớt. Năm ấy, khi hắn dự khóa thi mùa Thu, khéo sao, vị quan từng thẩm vấn hắn lại làm chủ khảo. Các giám khảo đã chấm văn bài của hắn đậu hạng nhất, [niêm phong quyển văn, trình lên quan chủ khảo]. Tới khi [quan chủ khảo] rọc niêm phong ra coi, thấy tên của thí sinh chính là gã đã chiếm đoạt cơ nghiệp [của người bác họ] khi trước, bèn quăng đi, loại bỏ tên hắn.

         

          (Chánh văn) Lỗ lược trí phú, xảo trá cầu thiên.

          (正文)擄掠致富,巧詐求遷。

          (Chánh văn: Cướp bóc để trở nên giàu có. Xảo trá để cầu thăng quan tấn chức).

          Nói đến “lỗ lược” (擄掠, cướp bóc), chẳng phải là do [áp dụng phương thức] chiến tranh [để chiếm đoạt] thì làm sao quý vị đạt được? Nhưng kẻ làm quan bóc lột dân chúng, lén bòn rút công quỹ, hoặc bọn cường hào ác bá cho vay lãi nặng, đều là “lỗ lược”. Dùng kiểu ấy để làm giàu, ắt sẽ dẫn đến chuyện nhà tan cửa nát, gia đình chia lìa, vợ gào, con khóc có thừa; há có thể an hưởng? Chẳng nghe nói đến chuyện “heo đất” (撲滿, phác mãn) ư? Hậu (銗) như trong Hán Thư đã nói chính là cái “muộn hồ lô” (悶葫蘆, heo đất, ống để dành tiền) trong hiện thời, làm bằng gốm. Phía trên vật ấy có khe hở, chỉ có thể bỏ [tiền] vào, chẳng thể lấy ra. Người ta dùng nó để dành tiền, đợi đến khi nó đã đầy (滿, mãn), bèn đập ra (撲, phác) để lấy tiền. Vì thế, gọi là “phác mãn”. Trong khi để dành, chỉ sợ nó chẳng đầy; tới khi nó đã đầy tiền, đập vỡ rồi thôi. Bình vỡ, tiền chẳng còn, hai bên đều trở thành hư huyễn! Cất chứa cho lắm, về sau mất đi, có khác gì chuyện này?

          Đời Tống, Lộ Công Văn Ngạn Bác được cử trông coi Trường An. Một hôm, ông đến đập Bôn Ngưu, có một con trâu dùng để chở đất đắp đập nói tiếng người: “Ta và Văn Ngạn Bác làm quan đồng triều hai mươi năm, nay ta còn mặt mũi gì để nhìn ông ta?” Lính canh đập thưa trình chuyện ấy, ông bảo dắt con trâu ấy tới. Con trâu tới nơi, nằm mọp xuống đất, cúi gằm đầu, tuôn nước mắt như mưa. Ông than dài: “Vị này lúc còn sống đã bòn rút công quỹ, nay mắc phải báo ứng này”. Do vậy, ông bảo người giữ kho trong nhà mình bỏ ra hai mươi quan tiền để tăng thêm lượng thức ăn cho con trâu ấy. Phàm công quỹ là do dân đóng góp, [viên quan tham ô công quỹ] biến thành con trâu chở đất đắp đập để đền trả dân chúng. Kẻ đọc đến chuyện này, hãy nên suy nghĩ!

          Đới Văn tánh tham lam. Mỗi lần, hắn cho kẻ khác vay tiền, đều tính lãi nặng gấp mấy lần để bóc lột. Nếu trả nợ hơi trễ, liền đích thân đến chèn ép thúc nợ. Nợ nhiều thì xiết ruộng nương, nhà cửa, con cái; nợ ít thì quần áo, đồ trang sức, gia súc, thảy đều dọn sạch. Tới khi hắn chết, sanh làm trâu trong nhà hàng xóm, dưới hông có lông trắng, ghi hai chữ Đới Văn. Hàng xóm đều mướn nó để cày ruộng. Có người đã từng bị [Đới Văn] tước đoạt [khi hắn còn sống], cho nên sai khiến, đày đọa [con trâu] tàn nhẫn!

          Một gã bán dầu ở Tô Châu đến một nhà giàu có, trông thấy một đứa bé năm tuổi đội mũ gắn chân châu, đeo vòng vàng, bèn dấy lòng ác, ôm nó tới chỗ vắng vẻ, giết chết. Do vậy, hắn bỗng trở nên giàu có. Hắn sanh một đứa con, giống hệt như đứa bé đã bị giết, cho nên trong tâm hắn rất ghét nó. Tới khi đứa con năm tuổi, gã bán dầu trong tháng Hè bỗng ngủ [gà gật], đứa bé rút cây trâm bằng bạc trong búi tóc, giỡn hớt chọc vào ngực hắn. Gã đó ngỡ là ruồi bu, giơ tay đập một phát, trâm xuyên thủng ngực mà chết. Xem câu chuyện này, [phải biết] người hiện thời dùng vàng ngọc trang hoàng cho con cái cũng phải nên thận trọng!

          Bậc quân tử hễ dự vào hàng quan lại, hãy nên coi trung trực, công bằng, thanh liêm là chuyện thuộc về phận sự của chính mình. Nay cũng vì cầu được thiên chuyển, thăng chức mà xảo trá, ắt tâm thuật chẳng đoan chánh đến tột cùng! Đặt kẻ ấy trong triều, ắt hắn sẽ chẳng tận trung, chẳng công bằng; đưa hắn ra cai trị dân, hắn làm sao có thể liêm khiết cho được? Vì thế, đức Thái Thượng đặc biệt răn nhắc. Huống chi trong đời người, công danh và tánh tình nhanh nhẹn hay chậm chạp đã được định sẵn từ lúc mới sanh ra, dẫu lo toan, chạy vạy suốt đời, chẳng thêm được mảy may nào, chỉ tạo trò cười cho người thông đạt, bị quỷ thần quở trách!

          Thời vua Tống Hiếu Vũ nhà Lưu Tống, Đới Pháp Minh, Đới Minh Bảo, và Sào Thượng Chi là ba kẻ nắm trọng quyền thuở ấy. Hễ kẻ nào được họ tiến dẫn, hoặc những điều họ nói ra, không gì chẳng được [vua chuẩn tấu] thực hiện. Chỉ có mình ông Cố Khải Chi chẳng chịu xu phụ [bọn chúng]. Ông từng nói: “Vận mạng đã được ấn định sẵn, chẳng phải là do trí lực mà có thể đổi dời được. Chỉ nên cung kính, kiềm chế bản thân, giữ đạo. Nếu do xảo quyệt, hư vọng mà may mắn đạt được, chỉ là chôn vùi tiết tháo đó thôi, liên quan gì đến chuyện được mất? Nếu có kẻ thấy nói kiểu này bèn hỏi tôi: ‘Thời nay thường có kẻ dùng mưu trí để đạt được quan chức là vì lẽ nào?’ Thưa rằng, vẫn là do mạng. Tuy nhiên, dùng phương pháp quỷ quyệt để bắt chim, bậc quân tử ắt chẳng làm!”

          Năm Ất Tỵ (1665) đời Khang Hy nhà Thanh, gã họ Kê ở huyện Sơn Âm được cử làm dịch thừa[3] tại Long Giang Kiều tỉnh Vân Nam. Hắn sợ xa xôi, chẳng muốn đi. Có người dân bán rượu họ Châu, gia cảnh thuộc loại đủ ăn, họ Kê từng chủ động đến nhà anh ta, bảo: “Ngươi đưa cho ta hai trăm lạng, ta sẽ trao văn bằng cho ngươi”. Họ Châu trong lòng rất cao hứng, liền trao tiền, nhận bằng. Người ấy đến nhận chức, khéo sao phủ quân (quan Thái Thú) đã quen biết với anh ta từ trước, luôn giao phó cho [anh ta] những công tác tốt đẹp. [Anh ta] làm năm năm bèn có được mấy ngàn lạng. Họ Châu đã mãn nguyện, bèn viện cớ bệnh tật để xin về. Gã họ Kê sau khi nhận được vàng, lại đổi tên, vào làm việc ở bộ Lại. Tới khi ông Châu đã xin về, họ Kê lại được phái đảm nhận chức vụ ấy. [Trước khi đó], có một đêm nọ, hắn đi nhà xí, thấy hai người áo xanh nói với nhau: “Gã này là quan gì vậy?” Đáp: “Quan coi dịch trạm tại Long Giang Kiều”. Nói xong, không thấy đâu nữa. Đến khi tới nhậm chức, [họ Kê] lại được bổ về Long Giang Kiều! Hắn vừa mới nhậm chức, Ngô Tam Quế[4] làm phản triều đình, chẳng biết [họ Kê] có kết cục như thế nào!

          Đời Thanh, Tiền Bang Khởi ở Đơn Đồ nói: – Phàm nhân luôn có tác dụng thông thiên, rốt cuộc thì làm thế nào để có thể tranh đua với số phận đã định? Chỉ có một cách là dùng âm chất, ắt có thể vãn hồi số phận đã định. Hôm qua làm, hôm nay có hiệu nghiệm; buổi sáng làm, buổi tối có hiệu nghiệm. Báo ứng trong cõi âm nhanh chóng nhất, sự giám sát của thần minh tột bậc rõ rệt. Đấy chính là đường lối không gì nhanh chóng bằng! Kẻ có tâm hễ thử sẽ biết ngay!

         

          (Chánh văn) Thưởng phạt bất bình, dật lạc quá tiết.

          (正文)賞罰不平。逸樂過節。

          (Chánh văn: Thưởng phạt chẳng công bằng, hưởng lạc quá độ).

          [Trừng phạt tội lỗi và tưởng thưởng công lao] quá nhẹ hay quá nặng, chỉ cần hơi phạm sai lầm một phần, sẽ là chẳng công bằng. Chẳng giữ công đạo (lẽ công bằng), lòng người chẳng phục. [Như thế thì] không chỉ là chẳng thể biểu dương công lao, trừng phạt tội lỗi, mà còn đâm ra tạo thành oán hận chất chứa, chuốc lấy tai họa.

          Đời Thục Hán, Gia Cát Khổng Minh nói: “Tâm ta như cái cân, chớ nên vì một ai mà [thiên vị] nặng nhẹ”. Trần Thọ khen ngợi [Khổng Minh] như sau: “Đối với kẻ tận trung, có lợi cho triều chánh, thời thế, dẫu là kẻ oán cừu, [Khổng Minh] ắt tưởng thưởng. Kẻ phạm pháp, bê trễ [trong chức vụ], dẫu là người thân, ông ta ắt trừng phạt. Đối với kẻ đã nhận tội, biểu lộ sự chân thành, dẫu phạm tội nặng, ông ta ắt tha. Kẻ ăn nói khoác lác, xảo trá, màu mè, dẫu phạm tội nhẹ, ắt bị ông ta xử tử. Vì thế, các tướng thuở ấy đều phục vụ quên thân. Dẫu Ngụy Diên là phường phản trắc, vẫn vâng phục [Khổng Minh], chẳng nói đôi co. Lý Bình, Liêu Lập bị ông ta bãi truất mà suốt đời chẳng có một câu oán hận”. Kẻ nắm giữ trách nhiệm thưởng phạt hãy noi theo gương ấy.

          Dật lạc là chuyện ai nấy đều cùng ham muốn. Lễ Ký chép: “Lạc bất khả cực, dục bất khả túng” (Lạc chớ nên đạt tới tột cùng, dục chớ nên luông tuồng). Sách Quốc Ngữ[5] chép: “Dân lao tắc tư thiện, dật tắc tư dâm” (Dân chúng vất vả sẽ nghĩ đến điều lành, nhàn rỗi sẽ nghĩ đến dâm), tức là chẳng mong dân chúng nhàn rỗi. Mạnh Tử nói: “Nhân sanh ư ưu hoạn, tử ư an lạc” (Người ta do biết lo âu mà sống, quá lo hưởng yên vui sẽ chết), tức là chẳng mong người ta hưởng an vui suông, huống hồ quá mức ư! Nhưng cội nguồn của sự dật lạc trong thế giới, nói chung chẳng có gì lớn hơn tửu, sắc, tài, khí (氣, buông lung theo ý thích). Người thời nay ham mê rượu, chẳng đoái hoài thân thể! Kẻ háo sắc sẽ chẳng màng bệnh tật. Kẻ tham tài sẽ chẳng đoái hoài thân thuộc. Kẻ xử sự buông lung theo ý thích, sẽ chẳng quan tâm đến tánh mạng. Trước khi gặp phải những thứ ấy, ai nấy đều có thể tự hiểu [những đạo lý ấy], mà cũng có thể khuyên bảo kẻ khác. Cho đến lúc những cảnh ngộ [dụ dỗ, mê hoặc ấy] đưa đến trước mặt, sẽ mê muội, tự mình phạm phải. Chỉ là tuy thấy thấu suốt, nhưng chẳng thể nhẫn được. Nếu có thể thấu hiểu bốn chữ “dật lạc quá tiết”, ắt sẽ có thể sửa đổi những thói hư tật xấu. Kẻ có thể ở trong những cảnh ngộ [tửu, sắc, tài, khí] rất thân thuộc mà quên bẵng, đạt đến mức độ “ít ham muốn, tâm trong lặng” thì sẽ có thể đội trời, đạp đất.

          Hòa thượng Chí Công bàn luận cùng Lương Vũ Đế về lạc sự. Sư xin nhà vua thả mấy người tử tù để làm thí nghiệm. [Người hầu] đã đem các tử tù đến, Sư liền bảo họ mỗi người bưng một chén nước đầy ắp đi một vòng trong cung, căn dặn: “Nếu chẳng làm sánh nước ra ngoài, sẽ tha tội chết cho ngươi”. Dặn dò xong, bèn sai tấu nhạc để động tâm họ. Hồi lâu xem lại, chẳng có giọt nước nào văng ra ngoài. Vua thở dài, hỏi [tử tù]: “Ngươi có nghe nhạc hay không?” [Kẻ đó] tâu: “Không nghe ạ!” Sư nói: “Bọn họ chính vì sợ chết, chỉ e nước tràn ra ngoài, làm sao còn nghe nhạc cho nổi!” Người nào có thể luôn giữ lòng kiêng sợ như thế, ắt cái tâm buông lung hưởng lạc sẽ tự nhiên chẳng sanh!

          Vu Thiết Tiều nói: – Chuyên ròng siêng gắng như vận chuyển ngói, dè dặt như đi trên vực băng. Hào kiệt, thánh hiền, không ai đều chẳng như thế, ta là hạng người nào mà dám an vui, xa xỉ? Kinh Dịch chép: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức” (Trời vận hành chánh đáng, bậc quân tử hãy nên học tập tinh thần tự cường chẳng ngưng nghỉ ấy)[6]. Chỉ vì con người không dốc chí tự cường, cho nên mới ơ hờ đối với những chuyện liên quan bức thiết đến thân thể, cứ mong nhàn hạ cho qua ngày tháng. Nếu có chí tự cường, thì những chuyện bản thân ta đáng nên làm sẽ là vô cùng, vô tận, thật sự chỉ cảm thấy chẳng đủ thời gian, chẳng rảnh đâu để vui sướng, mà cũng chẳng dám buông lung!

          Đời Tống, Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) nói: – Ta mỗi đêm khi sắp ngủ, ắt tính toán chi phí dành cho ăn uống suốt ngày từ tiền bổng lộc và [so sánh với] những việc đã làm được trong ngày. Nếu tương xứng, ắt sẽ ngủ sâu, yên giấc, chẳng còn hổ thẹn. Nếu như chẳng tương xứng, suốt đêm sẽ chẳng thể yên giấc.

          Đời Tống, Tư Mã Ôn Công nói: – Lúc cha ta làm quận phán (郡判, quận mục phán quan), khách đến thăm bèn mời rượu, hoặc là [mời cạn ly] ba lượt, hoặc năm lượt, chẳng hơn bảy lượt. Rượu mua ngoài chợ, quả hạt [để nhắm rượu] chỉ là lê, hạt dẻ, táo, hồng. Cỗ bàn chỉ là canh rau nấu thịt khô, hoặc thịt muối. Chén bát chỉ dùng loại bằng sành hoặc tre, gỗ. Sĩ phu thuở ấy toàn là như vậy, chẳng có ai phê phán!

          Đời Tống, Cừu Thái Nhiên làm tri huyện Tứ Minh, rất tương đắc với một thuộc quan (屬官, quan lại dưới quyền). Một hôm, ông hỏi người ấy về chi phí tiêu dùng hằng ngày. Người ấy thưa: “Nhà tôi có mười người, mỗi ngày tốn hết một ngàn đồng”. Thái Nhiên hỏi: “Sao dùng nhiều thế?” Người ấy thưa: “Bữa sáng có chút thịt, buổi tối thì canh rau”. Thái Nhiên kinh hãi, bảo: “Ta làm Thái Thú mà thường xuyên ăn rau. Ông bữa nào cũng ăn thịt, chắc chắn không phải là kẻ thanh liêm rồi”, bèn lợt lạt với người ấy.

          Đời Nguyên, có hai sinh viên trường Thái Học, sanh cùng ngày, giờ, tháng, năm, cùng đỗ khoa thi Hương, cùng được chọn làm quan. Một người được bổ làm Giáo Thụ ở Ngạc Châu, người kia được bổ làm Giáo Thụ ở Hoàng Châu. Không lâu sau, người ở Hoàng Châu chết. Người ở Ngạc Châu hết sức sợ hãi, sắp đặt sẵn hậu sự. Vài ngày sau, vẫn chẳng chết, bèn sắp đặt lễ vật đến phúng điếu [người ở Hoàng Châu], khóc rằng: “Ông và tôi sanh cùng ngày, giờ, tháng, năm, lại cùng đỗ đạt, ra làm quan. Nay ông qua đời trước tôi, [chắc là] tôi cũng sắp chết. Nay đã sau bảy ngày rồi, nếu có linh thiêng, hãy nên báo mộng cho tôi”. Đêm đến, ông ta mộng thấy người ở Hoàng Châu bảo: “Ông đối với mọi việc đều tiết kiệm, cho nên sống thọ. Tôi hưởng dụng quá lố, nên yểu thọ!”

          Đời Lương có kẻ giàu có họ Ngu, dựng một tòa lầu cao bên đường lớn, ngày đêm cùng mỹ nhân ca xướng, tiệc tùng, cờ bạc, chơi cờ vây trên đó. [Có một lần, trong đám khách khứa], có người thắng bạc đang bưng miệng mà cười, vừa khéo có ba người khách đi qua dưới lầu, có một con chim ưng ngậm chuột chết thối nát [bay qua], làm rơi xuống thân mấy người khách đó. Khách ngẩng đầu lên nhằm đúng lúc kẻ đó đang cười, [ngỡ kẻ đó ném chuột lên người họ], hết sức giận dữ nói: “Họ Ngu giàu sang, sung sướng đã lâu rồi! Tao không xâm phạm nó, sao nó lại [xúi người khác] làm nhục tao?” Họ bèn kéo bè đảng đến tiêu diệt nhà ấy.

Cố Tích Trù nói: “Dẫu chẳng dựng lầu cao bên đường lớn, cũng sẽ bị tai họa lạ lùng!” Đó gọi là tai ương do thói kiêu căng, xa xỉ mà ra. Nguyên nhân dẫn đến tai họa chẳng phải chỉ là một thứ, nhưng trong các tai họa do thói kiêu căng, xa hoa gây nên, chỉ có nữ sắc là khốc liệt nhất, là nhanh chóng nhất, càng phải nên ngăn ngừa trước tiên! Vụ Thật Dã Phu nói: “Da bọc xương thịt và ô uế. Gắng sức yêu kiều mê hoặc người. Thiên cổ anh hùng thường mắc họa. Trăm năm rồi cũng hố tro thôi”. Nếu ai có thể biết được lý này, và [lãnh hội những giáo huấn] từ những phần chú giải cho câu “kiến tha sắc mỹ, khởi tâm tư chi” (thấy sắc đẹp của vợ con người khác bèn dấy lòng toan dan díu) và “dâm dục quá độ”, kính cẩn vâng giữ những răn dạy ấy, ắt sắc đẹp nào cũng trở thành rỗng tuếch, mới hòng tránh khỏi họa hoạn do phóng túng hưởng lạc vậy!

 

          (Chánh văn) Hà ngược kỳ hạ, khủng hách ư tha.

          (正文)苛虐其下。恐嚇於他。

          (Chánh văn: Hà khắc, ngược đãi cấp dưới, đe dọa người khác).

          Kẻ ở địa vị trên mà tàn khốc, ngược đãi thuộc hạ và dân chúng; ở trong nhà thì đánh đập tôi tớ quá đáng, đều là “hà ngược” (苛虐, hà khắc, ngược đãi). Làm cấp trên mà ngược đãi thuộc hạ, trong các phần trước của tác phẩm này đã nói tường tận. Vì thế, ở đây, chỉ nói tường tận về chuyện đối đãi với kẻ dưới trong nhà.

          Đức Phật bảo Thi Ca La Việt[7]: “Hết thảy người đời đối đãi nô bộc, hãy nên có năm sự:

          1) Một là trước hết hãy nên biết họ đói, khát, lạnh, nóng [như thế nào] rồi mới sai khiến.

          2) Hai là đối với kẻ có bệnh, hãy nên điều trị.

         3) Ba là chẳng được xằng bậy đánh đập. Hãy nên hỏi han [để biết rõ] thật, hư, sau đấy mới trách phạt, trừng trị. Có thể tha thứ thì hãy tha thứ. Chẳng thể tha thứ thì mới giáo huấn, trừng phạt.

          4) Bốn là nếu họ có đôi chút tài sản riêng, chẳng được tước đoạt.

          5) Năm là cho họ đồ vật gì, hãy giữ sao cho bình đẳng, chớ nên thiên vị, thiếu công bằng”.

          Sách Viên Thị Thế Phạm[8] viết: – Kẻ tôi đòi, đầy tớ phần nhiều bẩm tánh ngu tối, làm việc hay sai sót, tánh lại dễ quên. Dặn dò công việc, họ chẳng ghi nhớ trọn vẹn. Cá tánh phần nhiều lại hay thiên chấp, nếu chẳng phải là kẻ hay tự cho mình là đúng, thì tánh tình lại hay ương bướng, ăn nói bừa bãi, chẳng biết tôn ty. Phàm là bậc gia trưởng, trong khi sai khiến họ, hãy nên đối xử bằng lòng khoan dung, giáo huấn nhiều phen, chớ nên giận dữ, thì trong tâm của chủ nhân cũng cảm thấy an lạc. Dẫu chuyện phạm lỗi của họ đáng nên trừng trị, [chủ nhân] cũng nên bình tâm tra hỏi. Đã trừng phạt, quở trách, trong khi kêu gọi, sai khiến, hãy nên giữ vẻ mặt như thường, ngõ hầu chẳng có chuyện khác xảy ra. Còn như phụ nữ bản tánh hẹp hòi, cố chấp, bậc gia trưởng phải thường nên khuyên nhủ, dạy dỗ. Cũng đừng cho phép con em trong nhà tự tiện đánh đập người hầu. Hễ có chuyện, phải trình báo với gia trưởng. Nếu [đầy tớ] là kẻ ương bướng, hung bạo, bất thiện, hãy nên khéo léo trả kẻ đó về nhà, chớ nên [đối xử] quá nghiêm khắc, sợ kẻ ấy sẽ ôm lòng oán hận mà làm ác!

          Bài thơ Bán Con có đoạn:

          Dưỡng nhữ như phượng sồ,

          Niên hoang trị kỷ tiền,

          Khổ cần đương tự ái,

          Bất tỷ tại nương biên.     

          (Nuôi con như phượng non,

          Năm đói đáng mấy đồng!

          Siêng khổ nên bảo trọng,

          Chẳng như bên mẹ đâu!)

          Lại còn:

          Khốc tận nhãn trung huyết,

          Sái nhữ thân thượng y,

          Nghiệp duyên như vị đoạn,

          Do vọng mộng lai quy.

          (Mắt tuôn sạch huyết lệ,

          Tưới đẫm áo con thơ,

          Nghiệp duyên nếu chưa dứt,

          Vẫn mơ chuộc con về).

          Vu Thiết Tiều nói: – Cai quản kẻ dưới, cố nhiên chẳng nỡ lòng hà khắc, bạo ngược, mà buông thả [cho họ tự tung tự tác] lại càng chẳng nên! Thường thấy nhà quan lớn hoặc người sang cả, bọn nô bộc ngang ngược, hung tợn, được tôn sùng như Thượng Đế. Hễ ra ngoài, chúng bèn cưỡi ngựa khỏe, mặc y phục lộng lẫy; trở về nhà thì cờ bạc, nhậu nhẹt. Hoặc là khách khứa đến cửa, [lũ tôi tớ] vẫn ngồi ì ra đó, chẳng thưa hỏi. Hoặc thân thích đến thăm [chủ nhà], [bọn chúng] bèn cự tuyệt, chẳng thông báo, khiến cho kẻ mạnh thì nổi giận bỏ đi, kẻ yếu thế nuốt hận lui ra. Thậm chí chúng nó còn mượn cớ sanh sự, cậy thế lường gạt tiền bạc. Kẻ làm chủ trọn chẳng nghe biết, [do lũ đầy tớ làm càn mà chủ nhân bị] mọi người chống trái, thân thuộc xa lìa, bạn hờn, người oán đã chẳng thể đếm xiết! Hãy nên thận trọng!

          Đời Tấn, ông Đào Uyên Minh răn dạy con: – Công việc sớm tối của con nếu đều tự làm sẽ khó khăn. Nay sai khiến họ (tôi tớ) giúp con lo liệu nỗi nhọc nhằn về củi, nước. Những kẻ ấy cũng là con cái của người khác, hãy nên đối xử đàng hoàng.

          Đời Tống, phu nhân của ông Thành Trai Dương Vạn Lý Tống tuổi đã ngoài bảy mươi. Mỗi khi đến tháng Đông, cụ sáng sớm thức dậy, xuống bếp, tự tay nấu một nồi cháo cho tất cả tôi tớ ăn rồi mới sai họ làm việc. Con bà cụ là Đông Sơn nói: “Trời lạnh ngắt, mẹ tội gì khổ sở như vậy?” Phu nhân nói: “Tôi tớ cũng là con của người ta. Sáng sớm trời rét buốt, cần phải làm cho bụng họ tạm có hơi ấm thì họ mới có thể làm lụng được”.

          Đời Hán, Lưu Khoan đối xử với người hầu tột bậc khoan dung. Dẫu trong lúc hốt hoảng, ông chưa hề ăn nói cộc cằn, hay lộ vẻ cáu kỉnh. Phu nhân muốn thử làm cho Lưu Khoan tức giận, bèn chờ đến lúc ông sắp vào chầu vua, đã ăn mặc chỉnh tề xong, bèn sai đứa tớ gái bưng canh, [giả vờ sẩy tay], đổ dơ triều phục của ông. Lưu Khoan thong thả hỏi: “Canh có làm phỏng tay ngươi hay không?” Thần sắc ông bất động.

          Mẹ ông Hồ Thái tánh hết sức tàn khốc, thường đánh đập tớ gái khổ sở, tàn độc chẳng thể nói được. Sau khi bà ta chết đã mười năm, cha đã lấy vợ khác. Một hôm, Hồ Thái đi vắng, trong nhà muốn giết một con gà, gà bỗng nói tiếng người rằng: “Đừng có nấu ta, hãy đợi thằng Thái trở về”. Trong chốc lát, Hồ Thái trở về, gà chạy quanh chỗ ông ta ngồi, tự nói rì rầm: “Do mẹ ngược đãi tớ gái, thác sanh làm gà”. Lại nói rất tường tận những chuyện trong nhà. Hồ Thái khóc lóc, kể với cha. [Cha con bèn nuôi con gà ấy], nuôi nó đã lâu, nó bay lên mổ người vợ sau [của cha ông Hồ Thái]. Khi Hồ Thái đi vắng, kế mẫu bèn ném chết con gà. Ôi! Hiện thời, gà, chó thật nhiều, biết là vợ của nhà nào? Đáng thương thay, đáng sợ thay!

          Quan Tư Mã Vương Giản Dịch ở Hồng Châu bị chứng bệnh nghịch khí công tâm. Ông chết đi rồi sống lại, bảo vợ rằng: “Khi xưa, ta sai bảo bọn tớ nhỏ, đôi khi do chẳng cẩn thận mà bó buộc chúng nó quá nghiêm khắc đến nỗi chúng nó chết mất. Vừa rồi, ta tới âm ty là do bị đứa đầy tớ nhỏ tố cáo, chẳng thể hòa giải được! Nay ta mắc căn bệnh này chính là vì nó quấy phá”. Vợ nói: “Đứa đầy tớ nhỏ bé mà dám làm như vậy hả?” Ông bảo: “Dương gian có sang hèn, chứ trong minh ty (âm ty) nhất loạt như nhau”. Ông chết ngay sau đó.

          Đe dọa có hai trường hợp:

          1) Một là thấy người khác gặp nạn cấp bách, chẳng lo an ủi, mà cố ý phô trương oai thế, khiến cho kẻ ấy sợ hãi.

         2) Hai là chỉ mong cầu lợi, hoặc báo đền oán thù từ trước, mà hư trương thanh thế, khiến cho kẻ khác sợ ta, hòng thỏa lòng ham muốn.

          Từng nghe Quán Thế Âm Bồ Tát trong chốn nạn gấp, sợ hãi, Ngài có thể khiến cho chúng sanh chẳng sợ hãi, chứng đắc Viên Thông; đấy là bậc nhất. Vì thế, chúng sanh trong cõi Diêm Phù đều gọi Ngài là “đấng Thí Vô Úy”. Như vậy thì kẻ dọa nạt người khác sẽ trở thành [hạng người] như thế nào? Do đó, bậc quân tử hễ gặp người khác lâm vào cảnh sợ hãi, không ai chẳng tận lực an ủi. Tiếc là cõi đời chẳng biết, thích làm cho kẻ khác kinh sợ; sau khi chết đi, [những kẻ dọa nạt người khác] sẽ sanh làm nai, làm mễn. Phàm những con nai, con mễn, ban ngày thì né tránh, sợ hãi các con thú khác, hễ có động liền kinh hãi bỏ chạy tán loạn. Đêm thì gác sừng lên cành cây, gò mình mà ngủ. Hễ bị đánh thức, ắt sẽ guồng bốn chân kinh hoảng chạy bừa. Đã hết kinh sợ lại ngủ, đã ngủ rồi lại bị kinh động. Từ sẩm tối cho đến sáng, chẳng có một khắc nào yên! Đấy là quả báo của chúng nó vậy!

          Một khách thương nhỏ ở Hồ Châu buôn bán gừng tại Vĩnh Gia. Kẻ nhà giàu là Vương sanh, do tranh cãi về giá gừng, tức giận đánh vào lưng gã khách thương. Gã ta té lăn ra đất, chết ngất, được cấp cứu bèn tỉnh lại. [Vương sanh] xin lỗi, biếu một xấp lụa. Khách thương về tới cửa sông, nhà thuyền hỏi do đâu mà có lụa, [khách thương liền] kể rành rẽ mọi chuyện. Nhà thuyền bèn mua lại lụa và giỏ gừng. Khách thương đi rồi, chủ thuyền bèn vớt một cái xác chết trôi vô chủ, đem về chỗ mình ở, đến gặp Vương sanh thưa chuyện. Hắn nói: “Buổi chiều có một người khách từ Hồ Châu qua đò nói bị ông đánh sắp chết, cậy tôi báo cho cha mẹ, vợ con [người ấy] báo quan, để lại lụa và cái giỏ làm chứng. Chẳng mấy chốc, [người đó] tắt thở mà chết. Tôi chẳng dám không thưa trình”. Cả nhà Vương sanh khóc lóc, kinh hãi, đem hai trăm ngàn đồng đút lót cho hắn. Gã nhà thuyền cố ý làm ra vẻ miễn cưỡng nhận lời cầu xin, cùng nhau đem xác chôn trong núi sâu. Có một đứa đầy tớ của Vương sanh lên huyện tố cáo, Vương sanh bị bắt giam, chết trong ngục. Năm sau, gã khách thương buôn gừng lại đến, ghé thăm nhà họ Vương, con ông Vương tưởng là quỷ. Khách thương nói mình chưa chết, nay đem một chút thổ sản đến đáp tạ. Con ông Vương bèn giữ khách lại, bắt gã đầy tớ thưa lên quan. Quan bắt gã nhà thuyền, [tên đầy tớ và gã nhà thuyền] đều chết trong ngục.

 

          (Chánh văn) Oán thiên vưu nhân, ha phong mạ vũ.

          (正文)怨天尤人。呵風罵雨。

          (Chánh văn: Oán trời, hờn người, chửi gió, mắng mưa).

          Thế giới Diêm Phù thường được gọi là Khuyết Hãm (缺陷), con người mỗi chuyện làm sao đều được vừa lòng cho nổi? Kẻ chẳng xứng ý, ắt là vì đã tích lũy [phước đức] đơn bạc, cho nên được hưởng thụ cũng đơn bạc. Hãy nên giữ đúng bổn phận, suy nghĩ lỗi mình, hòng sửa chữa tước vị đã được trời định sẵn. Đấy là đường lối tốt lành từ ngàn xưa để cư xử trong cảnh khốn cùng, mà cũng là cách tốt lành để hướng lành, tránh dữ. Oán trời, ắt trời càng giận. Hờn người, ắt người càng ghét. Không chỉ là vô ích, mà còn hại thêm!

          Tiêu Tuấn Minh đã sớm đỗ đạt, nhưng đã lâu mà chẳng được thăng chức, đã nhiều lượt vì vận mạng trắc trở mà oán trời. Anh ta lại còn dâng sớ, cầu đảo. Đêm hôm ấy, có một bức thư màu trắng rơi xuống trước lư hương. Xem kỹ thì là mười sáu chữ viết theo kiểu chữ Triện từ cõi trời. Tuấn Minh nghe nói Hà Tiên Cô[9] linh ứng, bèn đến hỏi, tiên cô chẳng đáp. Tuấn Minh tha thiết cầu xin, tiên cô bèn bảo: “Nhận năm lượng vàng [hối lộ], bị giảm thọ mười năm. Giết oan uổng một người, sau khi [người ấy] đã chết, lại còn bị xử lý, ngươi có làm những chuyện ấy hay không?” Tiêu Tuấn Minh cứng họng, chẳng thể đáp được!

          Đời Tống, Chương Đôn làm Tể Tướng, đã đày hết những vị trọng thần thời Nguyên Hựu[10] xuống Lãnh Nam. Phạm Thuần Nhân thuộc vào số đó. Khi ấy, Thuần Nhân đã bảy mươi tuổi, vâng theo mạng lệnh, vui vẻ lên đường, thường căn dặn các con, chớ nên bất bình chút nào! Hễ nghe các con có lời oán trách Chương Đôn, ông Phạm bèn tức giận, ngăn cấm. Trên đường đi, thuyền bị lật trên sông, áo của Thuần Nhân bị ướt sạch. Ông quay lại nhìn các con, bảo: “Đây cũng là do Chương Đôn làm ra hay sao?” Qua câu chuyện của ông Phạm, [ta biết] đạo học “vui theo mạng trời”. Ai có thể thấu đạt lý này, sẽ an vui hứng chịu, thuận theo, tự nhiên là chẳng có chuyện oán trời, hờn người!

          Gió mưa là công năng của tạo hóa, mỗi chuyện đều có thần trông coi, chưởng quản. Khổng Tử hễ gặp sấm rền, gió mạnh, ắt nghiêm túc cầu khẩn thượng thiên. Sách Khúc Lễ chép: “Nhược hữu tật phong, tấn lôi, thậm vũ, tắc tất biến. Tuy dạ tất hưng, y phục quan nhi tọa” (Nếu có gió giật, sấm rền, mưa dữ, ắt thay đổi tư thế. Dẫu ban đêm cũng thức dậy, mặc áo, đội mũ mà ngồi). Trình Tử mỗi khi gặp gió mưa ắt thức dậy, đó là vì kính trọng trời. Dân chúng vô tri, hễ mưa nhiều sẽ oán hận ngập lụt, tạnh ráo nhiều, sẽ oán thán hạn hán, gió mạnh ắt oán bão tố, chẳng nghĩ âm dương mỗi thứ đều có vận số định sẵn. Hoặc là quan lại hà khắc, hung tợn, hoặc là do dân chúng tạo nghiệp, sẽ đều có thể dẫn tới [mưa gió] chẳng đúng thời; há có nên chửi mắng hay không? [Chửi mưa mắng gió] chỉ càng làm tăng thêm cái tội nghịch trời!

          Tại trường huyện ở Hàm Ninh, xứ Chân Định, có người lao công nhà trường là Dương Khoan. Trong tiệc nhà quan, ông ta lo châm rượu, trông thấy góc tường có hai luồng gió lốc, bèn rưới rượu để đãi họ. Về sau, ông ta theo mọi người tới núi Đông Nhạc (Thái Sơn) thắp hương, gặp hai người lính mời uống rượu. Chưa kịp hỏi tên tuổi đã chia tay. Ngày hôm sau lên núi, đến một ngôi miếu thờ thần, thấy hình dáng, dung mạo của hai [bức tượng] lính hầu giống hệt như người đã mời mình uống rượu, lòng hết sức kinh sợ. Đến chỗ trọ, bèn thấy hai người lính nói: “Ông đừng ngờ vực! Hai người bọn ta đều là thuộc hạ của Đông Nhạc Đại Đế. Ngày nọ được sai phái, đi qua quý xứ, được ông ban cho hai bầu rượu. Do vậy, hôm qua dùng chén rượu để đáp tạ”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa!

          Đời Tống, có một phụ nữ ở Ngạc Châu cọ rửa một cái chậu bằng sành bên sông. Bỗng mưa dầm khiến đường sá ướt đẫm, mụ ta bèn buông lời tục tằn chửi trời. Ngay lập tức, một cơn gió lạ cuốn mụ ta lọt xuống sông. Chồng mụ vội cứu lên, cái chậu sành đã bị phá thủng, mắc vào cổ mụ ta như đeo gông. Toan gỡ ra, đau thấu cốt tủy. Người đến xem chật cửa. Vài hôm sau, mụ chịu không xiết nỗi khổ ấy, chết ngắc!

         

          (Chánh văn) Đấu hợp tránh tụng, vọng trục bằng đảng.

          (正文)鬬合爭訟。妄逐朋黨。

          (Chánh văn: Tranh chấp kiện tụng. Kéo bè kết đảng làm quấy).

          Kẻ khác có chuyện tranh chấp, thưa kiện, hãy  nên  lựa  lời  khéo

léo khuyên giải, khiến cho việc lớn hóa thành nhỏ, việc nhỏ hóa thành chẳng còn gì, ắt đôi bên đều cùng hưởng phước ấy. Nếu thừa dịp đó, [xui nguyên giục bị], khiến cho họ đấu đá nhau, hoặc ngấm ngầm đốc xúi, hoặc tự đứng ra làm chứng, hoặc thay họ nhào nặn bằng chứng, thưa gởi, hoặc lo hết chuyện kiện tụng nơi nha môn, để tiện làm ngư ông hưởng lợi. Hạng người ấy bị thần trách, người oán, tạo nên oan nghiệt rất nặng do lòng sai quấy. Khi nghiệp báo xảy đến, sẽ chẳng kham nổi nỗi khổ ấy, hối hận chẳng kịp!

          Lưu Nguyện Chất lưng nổi nhọt độc, thuốc men chẳng lành. Thầy lang bảo: “Đã trọn hết sức người rồi, sợ là bị trời hại”. Nguyện Chất bèn cậy đạo sĩ cầu khẩn thần Bắc Đẩu. Đêm mộng thấy thần bảo: “Ngươi phạm vào luật trời, dẫu cầu khẩn Bắc Đẩu, cũng khó tránh được”. Nguyện Chất thưa mình vô tội, thần bảo: “Ngươi ngồi dạy học ở nhà nọ, gây chuyện dẫn đến thưa kiện, khiến cho hai nhà đều bị tan nát”. Nguyện Chất thưa: “Đó là do em tôi là Nguyện Lập làm, chẳng phải là Nguyện Chất”. Vua sai thuộc hạ xét lại, đúng là như vậy, [Nguyện Chất] bèn được khỏi bệnh. Năm sau, Nguyện Lập chết. Báo ứng do xui giục kiện tụng từ xưa tới nay luôn luôn là thảm khốc, mắt thấy, tai nghe, rành rành chẳng sai! Khuyên khắp người đời, trăm nghề đều có thể kiếm sống, tội gì phải theo đuổi nghề kiện tụng? Gần đây nhất, tôi thấy câu chuyện về một vụ án trong cõi âm xảy ra tại Lâu Đông[11], theo ghi chép, một thầy cãi đã đến cõi âm, Diêm Vương bảo: “Ngươi tuy tạo ác nghiệp, nhưng mỗi khi viết án từ, thường khuyên người khác thôi tranh chấp, đừng nên vu cáo [kẻ khác]. Lại nữa, trong đơn kiện, hồ sơ tranh tụng, thường ngấm ngầm giảm nhẹ tội [của người bị thưa]. Do có thiện niệm ấy, hãy tạm thời tha tội, quyết định cho ngươi được sống”. Do vậy, kẻ đã trót theo nghề nghiệp này, trong tình thế chẳng đổi nghề ngay được, hãy nhìn vào tấm gương này, ngõ hầu có thể giảm thiểu [ác nghiệp] đấy chăng?

          Một thầy giáo dạy vỡ lòng ở Hưu Ninh, nhà nghèo tận lực học hành, thích đọc luật. Trong thôn, có con của một người giàu có, [cha đã mất], hai đứa con tranh giành gia sản. Thằng anh muốn thưa kiện đứa em, đem lễ vật hậu hĩnh đến nhờ thầy viết đơn thưa. Thầy giáo nói: “Tôi học luật để mai sau tránh khỏi bị phán quyết phạt tù, há chịu vì anh dấy khởi chuyện thưa kiện ư?” [Sau đó], thầy giáo nói cặn kẽ tình [anh em] thân thiết như chân tay, cũng như dùng những chuyện cùng nhau suy bại do thưa kiện lẫn nhau để cảnh tỉnh. Đứa anh bị cảm động, hiểu ra. Thằng em tìm đến, thầy cũng khuyên răn, huấn dụ, thằng em cảm phục. Anh em chúng nó bèn vui vẻ, hòa thuận như thuở đầu, đồng tâm làm giàu. Một hôm, họ buôn bán sa bản, bỗng thấy trên tấm sa bản[12] có khắc tên họ vị thầy ấy. Anh em ngộ ra, bảo nhau: “Nhờ ông X… khuyên chấm dứt tranh chấp, kiện tụng, chúng ta may mắn ăn nên làm ra, ân lớn chưa báo. Vì thế, trời viết tên họ ông ấy để chỉ dạy hai đứa chúng ta”. Họ hẹn nhau khi trở về, sẽ biếu thầy món tiền do bán số sa bản ấy. Họ về đến chợ ở quê nhà, bán được món tiền ba trăm lạng bạc. Khi ấy, đã hết năm, thầy không có chỗ ngồi dạy học, cha con đối diện nhau húp cháo lúa mạch [cầm hơi]. Bỗng có hai người cầm bạc đến thưa chuyện, thuật cặn kẽ nguyên do. Thoạt đầu, thầy cảm tạ, từ khước. Hai người nói: “Trời ban cho thầy mà”, rốt cuộc biếu tặng thầy.

          Vu Thiết Tiều nói: – Kẻ đang làm quan phải thống thiết trừng phạt, ngăn cấm những kẻ xúi giục kiện tụng, thưa quan. Kẻ sống trong làng (những vị quan đã cáo lão hồi hưu) thì dốc lòng khuyên can kẻ đã thưa kiện lẫn người chưa kiện hãy nên thôi đi. Đấy là việc đứng đầu nhằm vun bồi nguyên khí. [Người làm như vậy] sẽ là đại công thần của nước nhà, mà cũng là đại công thần của trời đất vậy.

          Tạ Cầu thích làm thiện sự, tánh chẳng tranh chấp, ghét chuyện thưa gởi, kiện cáo. Láng giềng có kẻ xâm lấn đất đai của ông, kẻ khác khuyên ông thưa lên quan, Tạ Cầu giảng giải: “Chiếm được đất, chứ chẳng chiếm được trời!” Mọi chuyện ông đều ôn hòa, nồng hậu [như thế đó]. Ông thọ tới bảy mươi lăm, con cháu đông đảo, lại có đứa hiển đạt.

          Tức Tụng Ca (息訟歌, bài ca chấm dứt thưa kiện) có đoạn như sau: – Chớ nên đi thưa kiện, gia sản bởi đó sẽ tan hoang. Dẫu thắng một vạn binh, mình hao ba ngàn lính. Thầy cãi vung gậy mềm, kẻ làm chứng đòi hậu tạ, há có bọn công sai nào tốt lành, mà cũng chẳng có bọn nha lại giữ văn thư trong sạch! Quan phán quyết như thế nào còn chưa biết, mà đã nguy ngập, đáng sợ như vào vực sâu, như đi trên băng mỏng. Nếu gặp lúc sảy chân, mang nhục khó che đậy! Thường nghe có kẻ gia sản tan nát phần nhiều vì tranh chấp đất đai, vườn tược. Thường thấy kẻ kiện cáo vì gia sản, tình anh em bỗng mất sạch. Vì tức khí nhất thời mà đâm đơn thưa kiện, đã kiện rồi càng tức tối hơn. Do tham lợi lôi nhau ra tòa, đâm ra mất cả vốn lẫn lời, biến hôn nhân thành kết mối oán cừu, vứt sạch hàng thân thích. Đưa nhau ra cửa quan còn tệ hơn bị giặc cướp đoạt, phải chịu tốn phí gấp bội. Do trượng nghĩa mà thưa kiện thay người khác, rốt cuộc lâu ngày trở thành phường bất nghĩa. Do người thân ép buộc ta đứng mũi chịu sào, từ đấy tình giao hảo bị cắt đứt. [Do kiện tụng] mà sĩ tử học hành lỡ làng, thợ thuyền quên cả nghề khéo, nông dân bỏ hoang ruộng nương, thương nhân bỏ buôn bán. Kẻ giàu do thưa kiện mà nghèo nàn, kẻ nghèo do thưa kiện mà chết ngóp. Việc nhỏ chẳng châu toàn, chuyện lớn càng rối ren, phải tránh né, biến chuyện giả thành sự thật, rốt cuộc trở thành khó khăn là vì ban đầu dễ dàng! Mệt sức lại bận lòng, há có thú vị gì? Tuy cao hứng nhất thời, khổ sở về sau ai hứng chịu giùm? Ta khuyên người thế gian, chớ coi thưa kiện như trò con nít đùa bỡn. Nếu chẳng phải là kẻ mang mối thù chẳng đội trời chung, đừng lôi kéo nhau vào vòng kiện tụng. Lời quê mùa tường tận và xác đáng, muôn phần khẩn cầu [người đọc] hãy nhớ kỹ!

          “Vọng” (妄) có nghĩa là chẳng cần quan tâm là có hay không. “Trục” (逐) là theo đuổi. Lớn thì như kẻ làm bầy tôi của người khác mà chia bè lập đảng, nắm quyền triều chánh, công khai bài xích [kẻ khác phe, hoặc người thanh cao không chịu hùa theo], ngấm ngầm khuynh đảo. Nhỏ thì như dân thường lập đoàn thể hoặc kết nghĩa để làm vây cánh. [Những hành vi] lôi kéo kẻ cùng ý thích kết bè đảng đều là “vọng trục bằng đảng” (xằng bậy kéo bè kết đảng), ắt mắc tội lớn, họa sâu! Hàng công khanh cũng như dân chúng, hãy nên cùng nhau hết sức răn tránh vậy!

          Đời Đường, Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích, tài cao, tuyệt học, danh trùm một thuở. Gặp lúc Đường Thuận Tông mắc bệnh, câm bặt, chẳng thể nói. Gã tiểu nhân Vương Thúc Văn thừa cơ nắm giữ đại quyền. Hai ông luồn mình phù tá hắn, khinh suất bon chen, hiến kế, tưởng chừng như Y Doãn, Châu Công lại xuất hiện. Họ gấp rút như cuồng, được thăng cấp nhanh chóng lên chức Thị Ngự Sử. Cả triều đình khinh thường họ. Chẳng lâu sau, Đường Thuận Tông truyền ngôi cho Thái Tử, chuyện Vương Thúc Văn [chuyên quyền, nhiễu loạn triều chánh] bại lộ, những gián quan (quan ngự sử) đua nhau dâng sớ công kích. Bọn họ đều bị đày đi làm Tư Mã tại các châu, đều khốn đốn, chết nơi những miền đất xa xôi. Ôi, ông Lưu và ông Liễu nếu chẳng bị hãm vào bè đảng của Vương Thúc Văn, do họ sẵn có tài năng văn chương, cũng sẽ là bậc đại thần lừng danh một thuở. Sảy chân trong chốc lát, suốt đời chẳng thể ngóc đầu lên được, há có nên chẳng cẩn thận? Nhưng nỗi hại này vẫn còn là nhỏ! Như các biến loạn trong ba triều đại Đường, Tống, Minh đều bắt nguồn từ chuyện này. Vì thế, kẻ làm bầy tôi của người khác mà kéo bè kết đảng, tội lỗi của bọn đó rất lớn!

          Một người là con em của một thế gia đã suy sụp, nhà nghèo, vô hạnh. Mấy lần anh ta đã theo một kép hát đi chơi, kép hát nhiều lượt biếu tặng quần áo. Do vậy, đôi bên hết sức tương đắc. Tuy ưa thích, nhưng [anh ta] biết gã kép hát là phường trộm cắp. Về sau, do anh chàng [con em thế gia] mặc quần áo [do gã kép hát] đã trộm được ra phố, người bị mất của liền bắt chàng ta thưa lên quan, còn gã kép hát đã trốn xa. Rốt cuộc, chàng ta chẳng thể biện bác được, chết trong ngục!

          Lại có con của một phú ông thích võ thuật, kết nghĩa huynh đệ với mười người. Cha biết được, bảo là có thể khiến cho làng xóm nể sợ, chẳng ngăn cấm. Về sau, trong số đó, có một đứa là ăn trộm. Chuyện bại lộ, tên đó cung khai, liên lụy đến con trai phú ông. Quan do thấy nó là nhà giàu, bèn nghĩ nó là đứa oa trữ đồ trộm cắp. [Do đó], tan nhà nát cửa. Ôi chao! Kết bè đảng, chơi với bạn bè, phải xem gương này!

          Đời Nguyên, Trung Tuyên Công Dư Khuyết nói: “Nếu ai gần bậc hiền lương ví như một tờ giấy. Dùng tờ giấy ấy bọc hoa lan hay xạ hương, do những thứ ấy thơm tho mà tờ giấy được thơm tho theo. Nếu ai thân cận bạn tà, ví như một cành liễu, dùng cành liễu để xuyên xỏ cá, hoặc ba ba. Do những con vật ấy tanh hôi, cành liễu sẽ tanh hôi theo”. Chúng ta lập thân xử thế, hãy nên suy đi nghĩ lại lời ấy!

 

          (Chánh văn) Dụng thê thiếp ngữ, vi phụ mẫu huấn.

          (正文)用妻妾語。違父母訓。

          (Chánh văn: Nghe lời thê thiếp, trái nghịch lời cha mẹ dạy răn).

          Lời của thê thiếp ngọt nào, dễ lọt tai. Cha mẹ răn dạy, tuy chánh đáng, khó thể vâng theo! Lời thê thiếp chẳng có gì không trái nghịch lời răn dạy của cha mẹ. Sở dĩ lòng hiếu của người đời suy bại là vì vợ vậy. Cha mẹ từng trải đã nhiều, nhìn sự việc ắt thích đáng, lại thương yêu con tha thiết, ắt mưu tính châu đáo cho con. Há có trường hợp nữ nhân ít tuổi nào mà đâm ra lại có cái nhìn vượt trỗi bậc lão thành đã từng trải, thông hiểu ư? Lý lẫn Sự cũng thế, không chỉ vì khuyên con cái hiếu thuận mà nói như vậy.

          Trương Củng Thần nói: – Đối với giáo huấn của cha mẹ, dẫu người ta muôn phần tuân theo, rốt cuộc vẫn chẳng thể [hoàn toàn] tuân theo. Lời thê thiếp, [tuy] người ta nói là “muôn phần chẳng nghe theo”, rốt cuộc đều làm theo trọn vẹn! Lý chẳng thắng nổi dục. Do quá gần gũi, nên bị [những lời xui khôn xúi dại của thê thiếp] che lấp [tâm trí], khó thể nhận biết. Những kẻ bực bội, tự cho mình là hay (tự cho là không nghe theo lời thê thiếp rủ rỉ), đừng thấy chuyện này là dễ dàng! Trừ phi trong tâm có công phu vi tế, nghiêm mật, sẽ không chỉ là chẳng thể làm được, mà còn là cũng chẳng thể biết được!

          Thê thiếp là nội trợ của mỗi người. Nếu họ có những lời tốt lành, chưa chắc không thể nghe theo. Nhưng đàn bà ít kẻ hiền minh, lắm kẻ ngu dốt, tối tăm! Hơn nữa, tánh tình họ phần nhiều hẹp hòi, cố chấp, chẳng nhẫn nại chịu đựng. Họ lại khéo che giấu khuyết điểm, ăn nói tột bậc đúng chỗ yếu hại, khiến kẻ làm chồng dễ bị mê hoặc nhất. Nhưng kẻ đã bị mê muội bởi lời vợ, ắt sẽ đến nỗi chống trái cha mẹ. Vì thế, đức Thái Thượng răn dạy nghiêm ngặt. Ôi, ly gián cốt nhục, khiến cho thân thích lợt lạt, xa lìa, lừa dối, lấn hiếp làng xóm, thiên vị con cái, hiếp đáp, ngược đãi tôi tớ, nguyên nhân phần nhiều là do vợ mà ra! Lại hãy nên tùy theo từng việc mà tự phản tỉnh, suy xét bản thân, khuyên dụ [thê thiếp] noi theo đạo nghĩa. Còn như chồng nghe theo lời thiếp mà ngược đãi hoặc bỏ vợ cả, chính là chuyện dễ nghiêng theo, dễ bị mê hoặc nhất trong thói thường của con người, chớ nên không thận trọng. Đối với thê thiếp, đức Thái Thượng [đã răn dạy] đúng là hết sức hữu lý.

          Con cái đối với cha mẹ, hãy nên tận tâm kiệt lực. Bất luận Đông, Tây, Nam, Bắc, đều nên vâng theo, há có nên ứng phó qua quýt cho xong, bề ngoài phục tùng, trong tâm chống trái, trái nghịch giáo huấn của cha mẹ. Đó là cái tội căn bản, là điều ác chẳng thể tha thứ được! Còn như vì sủng ái thê thiếp mà trái nghịch cha mẹ, cõi đời lại càng chẳng thiếu bọn ấy! Tội ấy lại càng nặng hơn một bậc. Mong sao ai nấy đọc kỹ thiên sách này, tự hối lỗi quấy thuở trước, sớm mong báo đền [ân cha nghĩa mẹ], lập thân, cư xử, trọn hết lòng hiếu kính, trọn bề phụng dưỡng hòng báo đáp đôi chút một phần vạn vạn nỗi đau cù lao, ngõ hầu chẳng bị trời giáng sét, quỷ thần tru lục, chẳng vướng phải tai họa ngang trái, bất ngờ!

          Trình Ngạn Tuân thờ mẹ chí hiếu. Mẹ tánh tình hết sức nghiêm khắc, dữ dằn, do ghét vợ của Ngạn Tuân bèn trục xuất cô ta. Khi ấy, Ngạn Tuân đang độ tuổi tráng niên, vâng theo ý mẹ, suốt đời chẳng cưới vợ khác. Người vợ ấy hiền thục mà bị đuổi, chẳng thốt lời oán hận chút nào. Mỗi Tết đều đến vấn an, ở một mình thủ tiết, chẳng lấy chồng khác. Sĩ phu coi cô ta là người hiền thục, viết thành truyện hiếu thuận, tiết liệt. Ôi! Trường hợp này có thể nói là con hiếu, vợ hiền, không ai tốt đẹp hơn được nữa! Những đứa con và dâu ngỗ nghịch có thể nào chẳng hổ thẹn đến chết ư?

          Ở huyện Văn An, có một cư dân cưới vợ. Cô vợ đẹp nhưng ương bướng, chẳng phụng sự mẹ chồng. Hễ chồng [đi đâu] trở về, cô ta ắt đều tố cáo mẹ chồng hiếp đáp, ngược đãi. Chồng luôn im lặng. Một tối, chồng lấy ra một con dao sắc đưa cho vợ coi. Vợ hỏi: “Để làm gì vậy”, đáp: “Nàng luôn mách là mẹ chồng ngược đãi, hãy cùng cầm dao này để trừ khử mẹ, nàng nghĩ như thế nào?” Vợ đáp: “Em chịu ngay!” Chồng nói: “Nàng hãy khéo phụng sự mẹ một tháng, khiến cho hàng xóm đều biết là nàng siêng năng, còn mẹ chồng bạo ngược. Sau đấy mới ngấm ngầm giết đi”. Vợ theo đúng lời, vẻ mặt tươi vui, ăn nói mềm mỏng, sáng tối hầu hạ mẹ chồng. Gần được một tháng, chồng lại lấy dao ra chơi đùa dưới ánh đèn, hỏi vợ: “Mẹ chồng đối đãi với nàng ra sao?” Đáp: “Chẳng thể so với khi trước được”. Lại qua một tháng, chồng lại rút dao ra, hỏi vợ. Vợ vui vẻ đáp: “Nay mẹ chồng đối với em rất tốt. Chuyện khi trước, chàng hãy thận trọng, đừng làm nữa!” Chồng thong thả nắm dao, trừng mắt hỏi vợ: “Nàng có thấy trong đời có chồng giết vợ hay không?” Đáp: “Có chứ!” Hỏi: “Có thấy con giết mẹ hay chưa?” Thưa: “Chưa nghe nói”. Chồng bảo: “Đời người coi sự hiếu dưỡng to nhất. Ơn cha mẹ dẫu tự giết chính mình vẫn chẳng thể báo đáp được. Đến khi lớn lên cưới vợ, chính là để phụng dưỡng bố mẹ chồng, nối tiếp giòng giống. Ta thường quan sát thấy nàng chẳng thể hiếu thuận với mẹ ta, lại ngược ngạo xúi ta làm chuyện đại nghịch. Đao này ta thật sự muốn chặt đầu nàng để làm vui lòng mẹ. Mẹ cho nàng hoãn lại hai tháng để sửa lỗi, đổi thái độ, trọn hết đạo làm vợ, biểu lộ lòng mẹ ta đối đãi với nàng, [để nàng biết] vấn đề không phải do mẹ ta, nàng hãy nhắm mắt mà nhận đao!” Vợ kinh hoảng, khóc lóc, lạy lục: “Mong chàng tha tội chết cho em, em sẽ suốt đời hiếu thuận với mẹ chồng, chẳng dám biếng nhác chút nào!” Hồi lâu sau, chồng mới bằng lòng. Về sau, vợ và mẹ chồng thuận thảo, danh truyền khắp xóm làng. Ôi! Người dân ở Văn An bất quá là một kẻ tầm thường, mà khéo điều phục, biến đổi vợ chuyển từ ác độc thành hiền lương, dẫu là bậc quân tử, sĩ phu cũng chẳng thể làm được! Ngạn ngữ có câu: “Trong thiên hạ, chẳng có ai không là cha mẹ”. Lại còn nói: “Trong thiên hạ, không có cha mẹ nào chẳng thể chuyển hóa được”, đúng lắm thay, có lý thay!

          Trầm Trạch Chi lúc hai mươi lăm tuổi bèn bỏ học hành, tính buôn bán. Vợ anh ta là Thạch Thị hiền đức, tận lực can gián, nhưng chồng không nghe, bèn kể khổ với bố mẹ chồng: “Cô và em dâu của con đều được gả làm vợ của người có học, nay chồng con chẳng chịu học hành. Nếu [bố mẹ] cho đứa con dâu mới cưới là con về thăm nhà, gặp thân thích sẽ xấu hổ lắm! Con xin tự bỏ ra tiền học, xin [bố mẹ] hãy chọn thầy, khuyến khích chồng con đến học. Con chẳng dám mong chồng hiển đạt hanh thông, chỉ thành một chàng Tú Tài tốt đẹp, chẳng khiến cho gia phong mang nhục, mà cũng là một người chồng hiền năng vậy!” Bố mẹ chồng thuận theo. Năm năm sau, quả nhiên Trạch Chi thi đỗ, làm quan tới chức Chánh Lang[13]. Những kẻ hãm chồng vào chỗ ác trong hiện thời, há chẳng nên noi gương người vợ hiền họ Thạch ư?

          Vợ Lưu Kiến Đức hung tợn, ác độc. Họ Lưu không thể chế ngự được, nhiều lúc phải chiều theo. Nhằm lúc mẹ chồng bị bệnh, vợ bắt chồng gởi mẹ sang am ni cô. Mẹ không muốn đến đó, họ Lưu chỉ nghe lời vợ, chỉ sai một đứa tớ gái lo thuốc thang mà thôi. Mẹ sắp chết, chửi mắng ầm ĩ: “Tao ắt tố cáo mày dưới âm ty”. Không đầy mấy hôm, vợ điên cuồng, hô ầm lên: “Ta chẳng ra gì, đuổi mẹ chồng đến am ni cô. Âm ty rút ruột ta, lột da ta”. Do vậy, khắp thân mụ ta tím bầm mà chết. Lại hai hôm sau nữa, họ Lưu cũng phát cuồng, hô lên: “Ta là Lưu Kiến Đức bị vợ khống chế, ngỗ nghịch với mẹ ruột. Vợ đã bị âm ty rút ruột, lột da, chịu tội trong địa ngục Vô Gián. Nay lại truy ta rất gấp. Người đời hãy nên lấy ta làm gương, đừng bị thê thiếp mê hoặc mà ngỗ nghịch với cha mẹ”. Hắn chết đột ngột, khâm liệm vài hôm, bỗng sét đánh ầm một tiếng, hai cỗ quan tài đều nứt toác, mùi hôi thối bốc xa mấy dặm! Bị chịu hình phạt ngũ hình có ba ngàn tội, mà không tội nào lớn bằng bất hiếu. Vương pháp là như thế đó, ai nấy đều biết. Còn như trời giáng sấm sét tru diệt đều là những đứa con trai và con dâu ngỗ nghịch, có lẽ có kẻ chẳng biết. [Do vậy], chép chuyện này để bảo ban khắp thiên hạ.

 

          (Chánh văn) Đắc tân vong cố, khẩu thị tâm phi.

          (正文)得新忘故。口是心非。

          (Chánh văn: Có mới nới cũ, tâm khẩu chẳng nhất trí).

          Nhỏ thì là quần áo, vật dụng, lớn thì là tình nghĩa bạn bè, thân thích. Trong là thê thiếp, dưới là thằng hầu, tớ gái, đều có mới, cũ. Nếu có mới nới cũ, đấy là hạng người bạc tình, thiếu ân nghĩa nhất. Tiên hiền có nói: “Dữ kỳ kết tân giao, bất như đôn cựu hảo” (Kết bạn mới chẳng bằng vun đắp tình quen biết cũ), lời ấy đúng lắm thay! Xưa kia, vua Sở (Sở Chiêu Vương) từng hạ chiếu tìm một chiếc giày bị mất như sau: “Ta buồn vì nó cùng ra ngoài với ta, mà nó không cùng về với ta”. Từ đấy, người trong nước chẳng dám vứt bỏ những thứ cũ. Đấy thật sự là người có tình nghĩa cả ngàn đời, mà cũng là người hiểu biết trong ngàn đời vậy.

          Chị của vua[14] Quang Vũ đời Hán là công chúa Hồ Dương vừa mới góa chồng, muốn lấy Tống Hoằng. Vua bảo [Tống Hoằng]: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ, là lẽ thường tình của con người!” [Tống Hoằng] tâu: “Bần tiện chi giao bất khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường” (Bạn trong lúc nghèo khó chẳng thể quên, người vợ tấn cám (người vợ chia sẻ hoạn nạn, nghèo khó) chẳng thể ruồng bỏ được). Vua ngó công chúa, bảo: “Chuyện này chẳng thể thành được!” Kẻ ngu này đọc đến đây, thở dài nói: “Chuộng mới, nới cũ, cả cõi đời đều là như thế. Đối với thê thiếp, càng dễ thay đổi nhất. Thường là do kẻ chung gối nẩy sanh hiềm khích, mà ươm thành mầm họa trong chốn khuê các, gây hại chẳng thể nói nổi, mọi người há chẳng cẩn thận ư?”

          Một phú ông không có con, đã nuôi dưỡng đứa con của người anh mười năm. Bỗng người thiếp sanh một đứa con trai, ông ta bèn bỏ rơi đứa con của người anh, giao hết tài sản cho con người thiếp sở hữu. Về sau, đứa con của người anh do cần kiệm mà thành gia, lập nghiệp, lại còn hiếu đễ, cung kính, nhân từ, cả họ đều khen ngợi, nhưng đứa con của người thiếp lớn lên, phóng đãng, gái gú, cờ bạc, tiêu sạch gia sản. Ông căm hận chết luôn!

          Cảnh Dương ở huyện Nghi Trưng lúc nghèo khó là bạn thân của Sử Thành ở Dương Châu. Cảnh Dương chết, để lại một đứa con côi nghèo khó. Họ hàng, bạn bè thuở trước không ai lui tới, riêng Sử Thành chẳng quên [tình bạn], luôn thăm hỏi, cho quà còn hơn xưa kia. Cảnh Dương để lại di cảo gồm mấy chục quyển, Sử Thành bỏ ra ngàn vàng để khắc in, bảo: “Ta chẳng đành lòng thấy tinh hoa của cố nhân bị chôn vùi”. Về sau, Sử Thành làm quan lớn.

          Đời Tống, Phạm Văn Chánh (Phạm Trọng Yêm) lúc làm Viên Ngoại Lang của bộ Lại, đứng đầu một quận, có ba đứa tớ gái theo hầu, mãi cho đến khi ông làm quan suốt cả nhị phủ[15] cho tới khi mất, suốt cả mười năm, chẳng thêm một người nào, mà cũng chưa hề thay đổi một người nào.

          Tâm và miệng đều đúng lẽ như nhau, đó là người thuần thiện. Nếu tâm và miệng đều sai trái, kẻ khác vẫn đề phòng. Chỉ có những kẻ ăn nói như Nghiêu, Thuấn, tâm giống như Kiệt, Trụ, miệng thề non hẹn biển, mà tâm ngầm đặt bẫy rập, là khó dò lường nhất. Kẻ ấy thờ vua ắt chẳng trung, thờ cha mẹ ắt bất hiếu, chơi với bạn bè ắt bất tín, đối xử với thuộc hạ ắt bất nghĩa. Hạng người ấy là phường tiểu nhân nhất. Nếu ai lầm tin lời kẻ ấy, sẽ lọt vào mưu mô của hắn, tội lỗi của kẻ ấy [bị cõi âm trừng phạt] nặng gấp mấy lần dương gian! Kinh Phật có nói: “Kẻ nói dối, ác khẩu, chết rồi sẽ đọa trong địa ngục kéo lưỡi, nước đồng sôi [rót vào miệng], cày lưỡi, chịu khổ rất nhiều kiếp đã xong, sẽ sanh trong loài súc sanh, luôn ăn gai góc. Nếu lại được làm người, thiệt căn chẳng trọn vẹn, hơi miệng luôn hôi thối. Dẫu thốt lời tốt lành, kẻ khác chẳng tin nhận”. Nghiệp “miệng đúng, tâm sai” mắc quả báo như thế, há chẳng đáng kiêng dè ư?

          Đời Minh, ông Tiết Văn Thanh nói: – Kinh Dịch chép: “Dung ngôn tất tín” (Lời ăn tiếng nói thông thường đều phải giữ chữ tín). Đối với lời ăn tiếng nói bình phàm, người ta cứ ngỡ là chẳng khẩn yếu, cứ tùy tiện, chẳng thận trọng thốt lời. Chẳng biết một lời hư vọng là đã phạm sai lầm trong lời ăn tiếng nói. Vì thế, lời ăn tiếng nói bình phàm ắt phải giữ chữ tín, tức là đức sâu dầy vậy!

          Đời Tống, Tư Mã Ôn Công (Tư Mã Quang) dạy Lưu Khí Chi (Lưu An Thế) về lẽ trọng yếu trong chuyện tận tâm xử thế lập thân: “Chỉ là Thành mà thôi!” Công phu ấy trước hết được khởi đầu bằng không nói dối. Tư Mã Ôn Công lại từng nói: “Khí Chi bình sanh chỉ là một chữ Thành; do vậy, ông ta nói năng rất chánh xác, chẳng ai có thể sửa đổi được”. Dân tại thành thị hay nông dân thuở ấy đều nói: “Nếu đã từng đi qua Nam Kinh, mà không gặp Lưu Thị Chế[16], khác nào qua Tứ Châu[17] mà không gặp bậc đại thánh. Do lẽ nào mà cảm động [lòng người] như thế ấy? Cũng thưa rằng: “Chỉ là Thành mà thôi!” Xét theo chuyện này, há chữ Thành có khiến cho người ta bị lầm lạc ư? Cớ sao người ta chẳng dốc sức nơi đây vậy thay?

          Nhậm Quốc Tá bị bệnh lâu ngày, lập đàn cúng tế cầu được gia hộ. Trong mộng, ông Nhậm nghe thần bảo: “Nhậm Quốc Tá! Ngươi bình sanh làm người tâm và miệng chẳng nhất trí. Từ thuở bé cho tới khi trưởng thành, chẳng có một công hạnh tốt lành nào, tội ác đã định, sẽ chết trong sớm tối”. Quả nhiên, ông ta chết. Hành Thổ không có vị trí nhất định, nhưng nó nắm quyền làm chủ Ngũ Hành, bốn mùa dựa vào đó để vận hành, vạn vật dựa vào Thổ để sanh trưởng. Trong Ngũ Thường, nó chính là Tín. Nếu bốn giềng mối kia mà chẳng có Tín, thì cũng sẽ chẳng thành tựu Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Vì thế nói: “Thành là khởi đầu và chung cục của muôn vật; chẳng có lòng Thành, sẽ chẳng có vật gì”. Người hiện thời ăn nói hoàn toàn chẳng có chân tâm đối với người khác, chính mình há có thể giúp người khác thành tựu ư? Nếu từ nay trở đi sửa đổi, tỉnh ngộ, lời nói đi đôi với việc làm, trong ngoài tương ứng, ắt gặp chuyện sẽ thản nhiên, thường là thong dong có thừa, ngửa lên chẳng hổ với trời, cúi xuống chẳng thẹn với người, há chẳng sung sướng ư? Nhưng chúng ta dễ phạm chuyện này nhất, khó ngăn ngừa, kiểm điểm nhất. Đừng nên lơi lỏng chút nào, [kẻo sẽ] tự cắt đứt với quê hương quang minh, chánh trực, dấn mình vào cảnh tối tăm, gai góc vậy!

 

          (Chánh văn) Tham mạo ư tài, khi võng kỳ thượng, tạo tác ác ngữ, sàm hủy bình nhân.

          (正文)貪冒於財。欺罔其上。造作惡語。讒毀平人。

          (Chánh văn: Tham lam, xằng bậy đoạt tiền của, lừa dối bề trên. Nói lời ác độc, gièm chê, hủy báng người lành).

          Đòi lấy [tiền tài, vật dụng] chẳng chán là Tham (貪). Tăm tối, chẳng biết hổ thẹn là Mạo (冒). Tận trung phụng sự bề trên, giữ mình liêm khiết, đó là khí tiết to lớn của người làm bầy tôi cho kẻ khác. Nay cũng vì nguyên do tham lam, xằng đoạt chiếm đoạt mà lừa dối bề trên, tiết tháo của kẻ bầy tôi còn đâu nữa! Dẫu [làm như vậy] sẽ được phú quý nhất thời, phần nhiều là chẳng mấy chốc sẽ suy bại, con cháu chật vật. Sao bằng vâng giữ lòng trung, liêm khiết, ngõ hầu giữ vẹn tánh mạng và thanh danh ư? Còn như bọn sai nha tại nha môn bòn rút tiền lương, bọn đầy tớ trong các điền trang giấu diếm hòng tránh né nộp thuế, nộp địa tô, đủ mọi tệ đoan chẳng thể nêu trọn! Nói chung, đều là bọn thuộc hạ lấy tiền tài của người trên, dùng mưu kế để che giấu, dùng tài trí để lừa gạt. Nhưng tiền tài họ lấy được vốn là thứ có sẵn trong vận mạng [của chính họ], hiềm rằng do đoạt lấy bằng phương cách bất chánh, sẽ đến nỗi thân mạng và tài sản đôi đường đều mất mát! Sao bằng chẳng có mảy may cẩu thả đối với chuyện này, ắt sẽ đạt được tiền tài vốn có [trong vận mạng] bằng những phương cách chánh đáng khác, ta cũng sẽ có được [tiền của, tài sản] giống như vậy, nhưng lẽ bình an và nguy hiểm khác xa nhau. Mọi người hãy đừng nên mê muội đối với lý tột cùng này!

          Đời Minh, ông Vương giữ chức Đại Trung Thừa[18] tại Quý Châu, làm Tổng Đốc Lưỡng Quảng. Ông thanh tra công khố, thấy tiền dư ra ba mươi bốn vạn lượng. [Thẩm tra sổ sách chi tiêu] thì đối với bộ Hộ, đã khai báo chi phí hoàn tất, tiền lương cho quân đội cũng đã phát đủ, chẳng biết món tiền ấy thuộc về bộ phận nào! Ấy là vì thái bình lâu ngày, quân đội ít, mà lương hướng lại nhiều, năm tháng tích lũy lại, cho nên mới dư ra món tiền ấy, chẳng có cách nào truy ra món tiền ấy do đâu mà có. Triều đình cũng không hay biết, ông tra ra được, muốn dâng sớ tấu trình. Người nhà chẳng dám nói gì, có một vị bạn học cũ thong dong thưa rằng: “Ông chẳng nhiễm mảy trần, trong triều đình, ngoài đồng nội đều cùng biết; nhưng món tiền này, dưới đã chẳng phải do bóc lột máu mỡ của dân, mà trên cũng chẳng phải là xâm phạm thuế khóa nước nhà. Ông có bốn đứa con nối dõi, có thể vì chúng nó tính kế đôi chút hay chăng? Hãy báo lên trên ba mươi vạn lượng, giữ lại bốn vạn lượng để chia cho bốn đứa nó. [Làm như vậy] cũng chẳng tổn hại lòng trung và phẩm giá của ông”. Ông cười bảo: “Anh nói cũng hợp tình, hợp lý, nhưng tôi đã ở góa (giữ vẹn phẩm tiết liêm khiết) ba mươi năm, một mai vì con cháu tính kế, đầu bạc rồi mà thay đổi tiết tháo, không gì chẳng suy bại theo ư!” Rốt cuộc, ông trình báo trọn hết số tiền ấy, chẳng giữ lại mảy may nào. Về sau, ông lần lượt làm đến chức Quận Thủ. Các cháu nối tiếp nhau đỗ Trạng Nguyên, nối tiếp nhau giữ những chức vị trọng yếu, họ chính là anh em của quan Thái Sử Tuyết Viên vậy. Than ôi! Ông Vương có thể làm chuyện khó có như vậy, có thể nói là bậc quân tử thật sự trong thiên hạ!

          Trong niên hiệu Thành Hóa đời Minh, Tống Hoằng làm Tuần Phủ tỉnh Thiểm Tây. Bọn kỳ hiệu thuộc Tần phủ[19] mặc sức hoành hành làm khổ cư dân. Tống Hoằng đều bắt giam, trừng trị hết, chẳng khoan nhượng chút nào. Tần Vương tấu trình [triều đình, tố cáo] Tống Hoằng khi dễ, [có ý định] diệt trừ các phiên vương. Chúa thượng tức giận, sai tống ông vào nhà ngục của Cẩm Y Vệ[20]. Vua sai nội thần[21] Thượng Hanh tịch biên gia sản của ông, chỉ kiếm được một xấp lụa vàng, mấy bộ quần áo cũ. Thượng Hanh trở về, tấu trình tình trạng nghèo khó của Tống Hoằng. Vua đích thân tra xét của cải nhà Tống Hoằng, than thở hồi lâu, hạ chiếu tha bổng Tống Hoằng, ban thưởng một vạn đĩnh bạc nhằm tuyên dương sự liêm khiết của ông, điều ông về làm Tuần Phủ Hà Nam. Ông đã đến nơi trấn nhậm, thái giám Uông Trực cũng vì có công vụ mà phải đến đó. Thuở ấy, oai thế của Uông Trực lừng lẫy, các vị Tuần Phủ khác đều cúi lạy cầu kiến, riêng ông Hoằng vái chào, không lạy. Uông Trực biết ông là bậc trung thần, liêm khiết, càng thêm kính trọng. Tống Hoằng ngầm dâng sớ, đàn hặc Uông Trực mang theo nhiều bọn kỳ hiệu, quấy nhiễu địa phương. Về sau, Uông Trực trở về kinh, chúa thượng hỏi quan Tuần Phủ các tỉnh có hiền hay chăng? Uông Trực chỉ khen ngợi Tống Hoằng là bậc liêm khiết, có năng lực. Chúa thượng đưa sớ tấu đàn hặc của Tống Hoằng cho Uông Trực coi, Uông Trực khấu đầu nhận tội, ca ngợi Tống Hoằng hiền đức chẳng ngớt. Chúa thượng tha tội cho hắn. Về sau, Tống Hoằng làm Thượng Thư.

          Đời Minh, Nhan Mậu Do nói: – Phẩm hạnh, tiết tháo đến mức ấy, như trăng sáng ngời, như lửa cháy mạnh, như vàng ròng, như ngọc đẹp, cũng chẳng phải là tốt lành ư? Nếu ông Tần tích trữ tài vật đôi chút, lúc bị hạ chiếu tống giam, há có thể thoát khỏi [ngục tù] tiêu sái như thế hay chăng? Oai đức liêm khiết đã vang dội, bọn thái giám đều sợ hãi. Bọn Oai Ninh Bá, Doãn Thượng Thư đều cúi đầu xin hắn (Uông Trực) thương xót, riêng ông Tần dùng thân phận viễn thần (遠臣, quan ở ngoài các tỉnh, chẳng trực thuộc triều đình) để bẻ gẫy oai phong của hắn. Than ôi! [Thân phận] sang hay hèn cố nhiên là do chính ta tự đặt mình vào!

          Đời Tống, Đỗ Diễn là người xứ Sơn Âm, ăn uống tại nhà [mỗi bữa] chỉ một bát mì mà thôi! Có người nói ông quá tiết kiệm. Ông đáp: “Diễn tôi vốn là một gã học trò nghèo túng. Danh vị, phước, lộc, mũ, đai, quần áo, vật dụng đều là những thứ sở hữu của nước nhà. Một khi chúng lìa khỏi thân, lại là một chàng học trò đói nghèo, lấy gì để tự tiêu dùng? Tiết kiệm là phương cách để liêm khiết. [Nếu để cho] tài vật và quyền thế cùng nhau bức bách, rất mất tự do. Xa hoa, phung phí, mặc tình tiêu xài, những thứ ấy đều là của cải [của đất nước], dẫu mong liêm khiết, có được hay chăng? Vì thế, để thanh liêm, không gì bằng dùng cách tiết kiệm. Khi cai trị dân, chẳng khác gì lúc chính mình đang ở nhà, dùng tiền tài từ công quỹ [dè xẻn] giống như dùng tiền tài của chính mình! Như thế thì mới được!”

          Một viên quan Bố Chánh ở phủ Thiệu Hưng giỏi nghề tham ô, chất chứa tài sản đến mấy chục vạn. Tới khi mất chức quan, quay về nhà, bèn mua mười vạn mẫu ruộng tốt, giàu có nhất quận. Ông nội của hắn nhiều lần nằm mộng, bảo hắn sắp bị cõi âm trừng phạt. Hắn chẳng tin. Hắn chỉ có một thằng con, một đứa cháu nội, quả nhiên chúng nó đều [mê đắm] gái gú, cờ bạc, chẳng biết hối cải, đều bị chết yểu. Không lâu sau, viên quan Bố Chánh bị bệnh, trở thành tê liệt. Con dâu và vợ đứa cháu của gã quan ấy đều mang tiếng xấu! Những kẻ [thừa cơ] kiếm chác, bu đến như cò. Quan Bố Chánh còn chính mắt trông thấy [tình trạng tài sản bị xâu xé ấy]. Lúc hắn gần chết, gia sản đã khánh kiệt. Lúc hắn lâm chung, trừng mắt, hét ầm lên: “Ta làm quan tới chức Bố Chánh chẳng nhỏ, ruộng tới mười vạn [mẫu] không ít, toàn là do tay ta tậu, mất sạch trong tay ta”. Nói xong thì chết. Chao ôi! Đấy chỉ là hoa báo, quả báo là trong địa ngục, lại chẳng biết sẽ đến mức nào! Lành thay ông Dương Bá Khởi đã nói: “Ta tuy chẳng để lại tài sản đồ sộ cho con cháu, nhưng nếu đời sau gọi chúng nó là con cháu của một viên quan thanh bạch thì chẳng phải là ta đã để lại rất nhiều ư?”

          Con người dẫu có lỗi, cũng sẽ quanh co che giấu! Nếu [đối tượng bị hủy báng] là người trong sạch, vô tội, ắt [kẻ có ác ý] sẽ bịa đặt, rao truyền, dựng chuyện ác độc để gièm chê, hủy báng. Chuyện ấy còn tàn độc hơn dao, búa, cọp, sói. Bởi lẽ người ta vốn vô tội, nhưng do một kẻ đồn thổi, lũ tiểu nhân sủa hùa theo, khiến cho người nghe mờ mịt, chẳng thể biện định đúng sai, đến nỗi người hiền, kẻ gian nháo nhào, đảo lộn chuyện bị giáng chức hay thăng quan. Bậc quân tử quở trách chuyện này rất sâu! Đức Phật dạy: “Do nghiệp ác khẩu, chết rồi sẽ đọa trong địa ngục binh đao rút lưỡi, còn sống thì bị báo ứng rạch, mổ, hình thể tàn tật, hủy hoại!”

          Cổ thi có câu:

          Sàm ngôn thận mạc thính,

          Thính chi họa ương kết,

          Quân thính, thần đương tru,

          Phụ thính, tử đương quyết.

          Phu thê thính chi ly,

          Huynh đệ thính chi biệt,

          Bằng hữu thính chi sơ,

          Cốt nhục thính chi tuyệt.

          Đường đường thất xích khu,

          Mạc thính tam thốn thiệt,

          Thiệt thượng hữu long tuyền,

          Sát nhân bất kiến huyết.

          (Cẩn thận, đừng nghe gièm,

          Nghe rồi, họa ương kết,

          Vua nghe, sẽ giết quan,

          Cha nghe, con ắt chết.

          Chồng vợ nghe, chia lìa,

          Anh em nghe, cách biệt,

          Bạn bè nghe, lợt lạt,

          Ruột thịt nghe, đoạn tuyệt.

          Đường đường thân bảy thước,

          Nghe chi ba tấc lưỡi?

          Trên lưỡi có gươm bén,

          Giết người chẳng thấy máu).

          Nỗi hại của gièm chê, hủy báng là như thế đó. Kẻ nghe lời [người khác nói], há chẳng nên cẩn thận ư?

          Trịnh Tuyên nói: – Lời nói thông tục [khiến cho người nghe cảm thấy] ở gần chợ búa, lời lẽ nhõng nhẽo khiến ta cảm thấy đang gần bọn kỹ nữ ca xướng. Lời nói đùa bỡn khiến ta cảm thấy như đang ở gần bọn đào kép. Quân tử hễ hơi dính dáng đến những thứ ấy, không chỉ là oai đức bị tổn hoại, mà còn bị giảm phước, huống hồ là nói năng độc mồm độc miệng ư?

          Đời Minh, Trần Lương Mô nói: – Ta xưa kia làm Phân Thủ[22] tại huyện Công An, có viên Giáo Dụ[23] họ Bạch lên kinh đô thi Hội. Vợ ông ta thích làm lành, từng dùng tên của viên Giáo Dụ ấy viết vào văn sớ, cúng thí đạo cô một lượng bạc, và làm chiếc phan thêu kết bằng sợi gai dài một trượng. Khéo sao có đồng nghiệp [của ông Bạch] đến thăm trông thấy, bèn kinh hãi bảo: “Quan nhà Nho lui tới với đạo cô sẽ gây phiền lụy chẳng nhỏ”. Vợ ông Bạch bèn tưởng con đường làm quan của chồng từ đây sẽ chấm dứt, trong tâm phiền muộn. Đến khi Bạch giáo dụ thi rớt trở về, lấy vải gai để cắt áo, cắt luôn tấm phan ấy, bà vợ càng thêm bất an, bèn tự treo cổ chết. Tôi vừa mới nghe chuyện, hỏi thăm viên tri huyện, ông ta kể cặn kẽ mọi chuyện, chẳng có ai không thương xót ông Bạch, buồn cho bà vợ. Về sau, phủ viện[24] Lâm Nhị Sơn thảo luận về danh sách những quan lại có hiền năng hay không, bảo tôi: “Bạch giáo dụ cưỡng gian vợ đồng sự, vợ ông Bạch cằn nhằn. Ông Bạch bèn ép vợ thắt cổ chết, tội chẳng thể dung không giết!” Tôi bèn kể lại những điều đã nghe được. Trong lúc ông ta trầm ngâm, tôi thưa: “Chẳng hiểu những lời Ngài đã nghe trước đó xuất phát từ kẻ nào. Nếu [kẻ nói những lời nói đó] đúng là bậc quân tử thì còn có thể tin tưởng. Chứ nếu kẻ ấy chẳng phải là [người đáng trọng] như vậy, xin hãy tìm hiểu thêm”. Ông ta lập tức vỗ bàn nói: “Đúng lắm! Đúng lắm”, lập tức vung bút xóa sạch những [lời lẽ kết tội ông Bạch]. Về sau, ông Bạch được thăng làm Trợ Giáo trường Quốc Tử Giám, tôi chuyển sang làm quan Niết (Án Sát Sứ) tại đất Mân (Phước Kiến). Tôi gặp ông Nhị Sơn tại đất Phủ (Phủ Điền), ông chỉ nhà hàng xóm bảo tôi: “Gã họ Ngô ấy từng làm Huấn Đạo[25] tại huyện Công An. Kẻ sàm báng ông giáo dụ họ Bạch chính là hắn. Xưa nay, tâm thuật của hắn bất chánh. Tôi nhờ lời ông [khuyên can] mà vỡ lẽ. Hắn ta về sau được thăng làm Giáo Dụ ở Bình Hương, cũng vì bị đồng liêu sàm báng mà bị bãi chức, về nhà. Qua hồ Bà Dương, thuyền lật, chỉ giữ được cái mạng; nay hắn tịch mịch lắm”. Tôi thưa: “Thích bàn chuyện buồng the và các thứ khuyết điểm của kẻ khác, ắt sẽ khiến cho quỷ thần tức giận. Nếu chẳng gặp tai họa lạ lùng, ắt sẽ bị khốn cùng quá đỗi!” Xét ra, ông Huấn Đạo họ Ngô sàm báng, bôi đen người trong sạch, báo ứng sẽ không chỉ là như vậy! Nhưng phương pháp để nghe lời nói của kẻ khác sẽ là chỉ nên quan sát [phẩm hạnh] của người nói, chẳng phải là cũng rõ rệt hay sao?

 

          (Chánh văn) Hủy nhân xưng trực, mạ thần xưng chánh.

          (正文)毀人稱直。罵神稱正。

          (Chánh văn: Hủy báng kẻ khác, tự khoe bản thân chánh trực. Nhục mạ thần linh, tự xưng mình là chánh đáng).

          Bậc sĩ quân tử lập thân, xử thế, phải nên giữ sao cho hành vi của chính mình ắt đều chánh trực, chẳng tà vạy. Đấy là Trực (直). Nếu bản thân chưa thể chánh trực, chỉ lo hủy báng người khác [để tự khoe mình là bậc] chánh trực thì lương tâm đã bị chôn vùi; há đáng gọi là “chánh trực” ư? Hơn nữa, người chánh trực cõi lòng ắt trung hậu, hễ đáng nên nói liền nói, khiến cho người khác biết sửa đổi. Cốt yếu là lòng thành có thừa mà lời lẽ chẳng đủ [để diễn tả]. Đó gọi là Trực vậy! Những kẻ hủy báng, bôi nhọ tiếng tăm của người khác hòng thỏa cơn tức giận của chính mình, mà vẫn tự xưng là “chánh trực”, há chẳng đáng thống thiết căm giận ư? Lão Tử nói: “Người thông minh, xét đoán sâu xa mà gần như lâm vào tử địa là vì thích chê bai, bàn tán kẻ khác”. Ông Trình Y Xuyên nói: “Bậc quân tử đối xử với người khác, hãy nên từ chỗ lỗi lầm của họ mà tìm ra chỗ không lầm lỗi, chớ nên từ chỗ không lầm lỗi mà bươi móc lầm lỗi, nhưng xét lỗi mình thì phải nên làm ngược lại”. Ôi! Người trong thế gian khẩu nghiệp vô cùng. Vì thế, đức Thái Thượng đôi ba lượt nghiêm ngặt răn nhắc.

          Đời Minh, Thị Lang Vương Vỹ do Thiếu Bảo Vu Khiêm tiến cử mà được thăng chức. Hắn dò tìm lỗi lầm của ông Vu để ngầm tấu trình hủy báng hòng được tiếng là người thẳng thắn. Khi ấy, Cảnh Đế[26] tín nhiệm ông Vu, triệu ông vào cung, trao cho ông bản sớ tấu của Vương Vỹ. Ông dập đầu nhận tội. Vua bảo: “Ta tự biết khanh, khanh chớ nên lo buồn”. Ông lui ra, Vương Vỹ đón đường, thưa hỏi: “Hoàng thượng truyền bảo chuyện gì thế?” Ông chẳng nói. Hắn lại hỏi nữa, ông bèn cười bảo: “Lão phu có chuyện gì không đúng, hãy nên nói thẳng ngay mặt, chẳng cần phải hùa theo, sao mà tàn nhẫn đến thế?” Ông bèn lấy tờ sớ tấu [của Vương Vỹ] đưa cho hắn coi. Vương Vỹ hoảng sợ, khúm núm, không biết làm sao. Ông cười an ủi hắn.

          Đời Nguyên, Dương Thiết Nhai danh vọng cao trọng cả nước. Ở Lâm Giang, có đền thờ người đàn bà tiết hạnh họ Vương; ông Dương đề thơ rằng:

          Giáp mã đà đà bách lý trình,

          Thanh Phong hậu dạ huyết thư thành,

          Chỉ ưng Lưu Nguyễn đào hoa thủy,

          Bất tự Ba Lăng Hán Thủy thanh.

          (Trăm dặm cặp kè lưng ngựa chiến,

          Thanh Phong đêm thẳm huyết thư đề,

          Chỉ nên tận hưởng Thiên Thai thú,

          Nhạc Dương sông Hán chẳng trong bằng)[27].

          Về sau, ông Dương không có con. Ông mộng thấy một phụ nữ bảo: “Ông làm thơ vịnh tiết phụ họ Vương, tuy chẳng thể tổn hại thanh danh của tiết phụ, nhưng do ôm tấm lòng khắc bạc, trời đã khiến cho ông tuyệt tự”.

          Ông Dương hối hận, lại làm thơ rằng:

          Thiên tùy địa lão, thiếp tùy binh,

          Thiên địa vô tình, thiếp hữu tình,

          Chỉ huyết khiết khai hà kiệu xích,

          Đài ngân hóa tác tuyết giang thanh.

          Nguyện tùy tương sắt thanh trung tử,

          Bất trục hồ già phách lý sanh.

          Tam nguyệt tử quy đề đoạn huyết,

          Thu phong vô lệ tả ai minh.

          (Tạm dịch:

          Trời già theo đất, thiếp theo quân,

          Trời đất vô tình, thiếp hữu tình,

          Máu cắn ngón tay như ráng đỏ,

          Sông trinh xanh ngắt vết rêu in.

          Nguyện chết theo chồng cho trọn nghĩa,

          Chẳng ham sống nhục với quân Hồ,

          Tháng Ba chim cuốc gào tan huyết,

          Gió thu khôn tả nỗi buồn thương).

          Lại mộng thấy người đàn bà nói: “Ông đã hối lỗi, sẽ có con”. Quả nhiên, ông sanh một trai. Do vậy, tiên sinh Thiết Nhai tấn tu, chứng đắc quả tiên.

          Thông minh chánh trực thì gọi là Thần, bậc quân tử hãy nên kính sợ. Thế mà có phường tiểu nhân chẳng biết kiêng nể, tự xưng là “chánh trực, chẳng tà vạy, có thể khuất phục quỷ thần”. Chẳng biết tâm thuật vừa mới dấy mảy niệm, quỷ thần đã thấy rành rành, chỉ tự chuốc lấy tội lệ đó thôi!

          Đời Hậu Ngụy[28], Thôi Hạo phụng sự Ngụy Thái Tổ (Thác Bạt Khuê) được sủng ái, đãi ngộ đặc biệt trọng hậu, lần lượt làm quan tới chức Tư Đồ. Do chuyện tu chỉnh quốc sử đã phô bày những điều ác của đất nước (tức là phô bày những lỗi ác của hoàng tộc đương triều) mà hắn bị giết chết. Trước đó, Thôi Hạo bài xích, hủy báng Phật pháp. Vợ hắn là Quách Thị kính yêu nội điển (kinh Phật), Thôi Hạo tức giận, giật lấy đem đốt hết, vứt tro kinh vào nhà xí! Tới khi Thôi Hạo bị giam kín, nhốt vào trong lồng giam, [bọn giám ngục] sai quân lính đái tung tóe lên thân hắn. Từ xưa, những kẻ đã từng đứng đầu các quan [khi thất thế], không có ai bị [giam cầm], lăng nhục rồi mới giết chết như Thôi Hạo!

               Tại Trấn Giang, có một người chủ tiệm bánh họ Vu, đứa con thơ của hắn bị chết vì bệnh đậu mùa. Họ Vu bèn viết đơn thưa, toan dâng lên Thành Hoàng tố cáo thần đậu mùa. Vợ hắn đoạt lấy, đem đốt dưới bếp lò. Đến đêm, hắn mộng thấy quỷ tốt bắt đi. Thành Hoàng nói: “Táo Quân trong nhà ngươi đã tâu trình chuyện ngươi có đơn tố cáo thần đậu mùa, ông ta mắc tội gì vậy?” Họ Vu thưa: “Thần đậu mùa đòi được cúng tế mà chẳng toại ý, bèn khiến cho con tôi bị chết”. Chốc lát, thần đậu mùa đến, thưa: “Mạng con hắn đã hết, liên quan gì đến tiểu thần?” Thành Hoàng phán: “Nghĩ tình tiểu dân vô tri, giao cho Dương tri huyện trách phạt hai mươi gậy, bệnh một tháng”. Khi ấy, Dương Thục Đình làm huyện lệnh huyện Đơn Đồ. Ngày hôm sau, hắn ở ngoài tiệm, chống cửa lên, [vô tình] gây trở ngại, phá nát cái tán che [kiệu của] quan, bị quan trách phạt hai mươi gậy, nằm mọp trên giường bệnh một tháng mới lành! Quỷ thần và phép vua giúp nhau thành tựu. Vì thế, đắc tội với quỷ thần, sẽ thường là đích thân trái phạm phép vua!

 

          (Chánh kinh) Khí thuận hiệu nghịch, bối thân hướng sơ.

          (正文)棄順效逆。背親向疏。

          (Chánh kinh: Bỏ thuận theo nghịch. Phản bội người thân thuộc, chạy theo người ngoài).

          Thạch Thước là người nước Vệ đời Châu đã nói: – Vua có nghĩa, bầy tôi trung thành, cha nhân từ, con hiếu thảo, anh yêu thương, em kính mến; đó là sáu điều thuận thảo. Kẻ hèn hạ xâm phạm người tôn quý, kẻ trẻ tuổi hiếp đáp người lớn tuổi, kẻ ở xa ly gián người thân cận, kẻ mới ly gián người cũ, kẻ nhỏ lấn lướt người lớn, dùng sự dâm uế phá hoại nghĩa lý, đó là sáu điều trái nghịch. Do bỏ điều thuận thảo, noi theo điều trái nghịch; cho nên, họa sẽ nhanh chóng đưa tới. Kinh Thư chép: “Huệ địch cát, tùng nghịch hung” (Thuận theo đạo trời sẽ dẫn đến sự tốt lành, trái nghịch đạo trời sẽ là hung hiểm). Lại chép: “Thuận thiên giả xương, nghịch thiên giả vong” (Thuận theo đạo trời sẽ hưng thịnh, trái nghịch đạo trời sẽ bị diệt vong). Thuận theo, ắt sẽ là trung, là hiếu, làm thánh, làm hiền. Trái nghịch thì sẽ là điên cuồng, tàn bạo, tâm tình thay đổi xoành xoạch, là kẻ giặc. Có nghĩa là trong vòng một niệm, họa và phước được phán định khác biệt một trời một vực, há chẳng nên thận trọng ư?

          Triệu Phong Tử là người ở huyện Văn An, Bá Châu có sức mạnh, dũng cảm. Hắn cùng với Lưu Lục và Lưu Thất chia nhau làm cướp. Hắn cướp phá Hà Nam, tiến vào Bí Dương, đào tung hết các mộ phần tổ tiên của Tiêu Phương, nói: “Ta phải tận tay giết thằng giặc này để tạ tội với thiên hạ”. Hắn bị quan quân đánh bại, phải chuyển sang cướp bóc tại Lục An. Quan quân lại truy kích, Phong Tử đoạt được độ điệp của một vị Tăng, bèn cạo tóc giả vờ làm Tăng. Hắn bị bộ tướng Triệu Thành bắt được, chém vụn thành từng miếng! Lưu Lục và Lưu Thất chạy tới Lang Sơn ở Thông Châu, bỗng bão lốc nổi lên dữ dội, bọn giặc bị giết sạch. Phàm trái nghịch có hai loại: Một là bầy tôi hoặc con cái trái nghịch vua, cha. Hai là đạo tặc quấy nhiễu, làm hại xóm làng. Đối với chuyện kẻ bầy tôi hoặc phận làm con mà trái nghịch, thì trong phần nói về “bất trung, bất hiếu” thuộc phần trước đã răn bảo tường tận. Vì thế, ở đây chuyên nói về những kẻ dấy loạn, làm giặc, hòng mọi người sẽ an phận, noi theo lý mà giữ vẹn thân mạng vậy!

          Phản bội thân thuộc, chạy theo người ngoài, không chỉ là một mối. Như dối lừa, chống trái cha mẹ, hoặc ỷ thế nhà vợ mà đối đãi thân thuộc của cha mẹ không theo lẽ chánh đáng, đối đãi nồng hậu với thân thuộc bên vợ, nhưng so đo từng ly từng tý với anh em. Đặc biệt đối xử khảng khái với bạn bè, người ngoài, chẳng đoái hoài họ hàng của chính mình đói lạnh, bần hàn, mạo nhận [bạn bè, người ngoài] mới là thân tộc của chính mình. Phàm những kẻ bạc bẽo đối với những người đáng nên đối xử trọng hậu, hậu đãi những người đáng nên đối xử sơ sài, đều thuộc [trong phạm vi của lời răn này]. Khổng Tử bảo: “Bất ái kỳ thân nhi ái tha nhân giả, vị chi bột đức. Bất kính kỳ thân, nhi kính tha nhân giả, vị chi bột lễ” (Chẳng yêu thương cha mẹ mà yêu thương người khác thì gọi là trái nghịch đức. Chẳng kính trọng cha mẹ mà kính trọng người khác thì gọi là trái lễ). Nay những kẻ bội nghịch người thân, thuận theo những kẻ có mối quan hệ chẳng thân thiết, nếu chẳng vì ân oán mà xử sự theo tình cảm riêng tư thì là do thuận theo tình cảm thường tình nồng ấm hay lạnh nhạt, trái đức, nghịch lễ quá đỗi! Đấy là trọng tội căn bản, sẽ bị báo ứng rất nặng!

          Châu Thông do nhiều lần thi Cử Nhân chẳng đậu, bèn sang Tiếu Quận nhận viên Đô Lại[29] là Châu Cát làm cha, hằng ngày tự xếp mình vào hàng ngũ các đứa con ruột của ông ta. Hết thảy những kiêng kỵ về tên húy của ba đời [tổ tiên] đều dùng theo nhà họ Châu. Năm sau, nhờ đó mà hắn thi đỗ Cử Nhân, chẳng trở về nhà. Cha hắn viết bài thơ trách móc, Châu Thông hổ thẹn mà chết.

          Đời Minh, Bạch Hy không có con, chẳng nuôi cháu làm kẻ thừa kế, mà nuôi một đứa con của một gã đồ tể. Về sau, Bạch Hy chết, có người khách ban đêm ngủ lại nhà ấy. Trong đêm, nghe có tiếng chân bước vội, người ấy bèn ngồi dậy, từ khe cửa nhìn ra, thấy mấy người đàn ông, đàn bà, lẩn quẩn mong ngóng, dường như có vẻ đói khát. Lại thấy một người, eo cài con dao mổ, khật khưỡng tiến vào. Chốc sau, vỗ bụng đi ra. Mấy người đàn ông, đàn bà chùn chân nói: “Khổ quá! Thôi rồi, lại chẳng được ăn”, thảm não lui ra. Đến sáng, người khách hỏi đầy tớ, đầy tớ đáp: “Đêm qua chủ nhà cúng bái tổ tiên”. Do vậy, người khách vỡ lẽ: “Kẻ cầm con dao mổ chính là cha ruột [của chủ nhà]. Mấy người đàn ông, đàn bà chính là tổ tiên nhà họ Bạch và vợ chồng Bạch Hy”. Người khách ấy than thở, ra đi.

 

          (Chánh văn) Chỉ thiên địa dĩ chứng bỉ hoài. Dẫn thần minh nhi giám ổi sự. Thí dữ hậu hối, giả tá bất hoàn.

          (正文)指天地以證鄙懷。引神明而鑒猥事。施與後悔。假借不還。

          (Chánh văn: Chỉ trời đất thề thốt làm chứng cho lòng dạ xấu xa. Viện dẫn thần minh hòng chứng giám chuyện tồi tệ. Cho rồi lại hối, vay mượn không trả).

          Trời đất vô tư, thần minh chánh trực, thuận theo sẽ tốt lành, trái nghịch sẽ hung hiểm. Báo ứng như tiếng vang, đã chú tâm kinh sợ, vẫn còn phải dè chừng phạm tội, huống hồ dám chỉ trỏ [trời đất], viện dẫn [thần minh] hòng chứng giám những chuyện bại hoại, bỉ ổi, cũng chẳng phải là khinh nhờn lắm ư? Há lẽ nào trời đất, thần minh chịu giúp con người làm ác ư? [Những kẻ hở ra là chỉ trời, vạch đất thề thốt, viện dẫn thần minh làm chứng] chỉ là tự nhanh chóng chuốc họa vậy!

          Nhà của Trương Trung tụ tập toàn hạng người bất mãn, hung tợn. Cha, con, anh, em, mẹ chồng và con dâu, chị em dâu hở ra là xô xát, tranh chấp. Họ thường hô trời, gọi đất, chỉ trỏ thần minh hòng muốn biểu lộ bản thân trong sạch. Đến khi mỗi gia đình tách ra riêng, sự tranh chấp càng quá đáng, ai nấy cầu cúng thần, nguyền rủa lẫn nhau. Từ đó, yêu quỷ lộng hành ngày càng nhiều, bệnh tật nhiều lần phát sanh. Trong vòng mấy năm, cả nhà gần như chết sạch!

          Đời Minh, Liên Trì đại sư nói: “Thế tục hứa nguyện, như các chuyện cầu có con, cầu thọ, cầu giải nguy, cầu công danh, cầu tài lộc v.v… chớ nên hứa nguyện mổ giết những con vật [để đáp tạ]. Đó gọi là ác nguyện, tạo oan nghiệt, chẳng có công hiệu gì! Cho đến hứa may áo bào [cho thần tượng], hứa may phan, hứa tạo điện phủ, hứa dâng cúng đồ thờ [đều chớ nên]. Chỉ nên cốt sao giữ tấm lòng trang nghiêm Phật pháp, nguyện cho khắp chúng sanh thâu nhiếp cái tâm kính sợ, chớ nên có lòng cầu phước. Ấy là vì đại bi bình đẳng thì gọi là Phật, chánh trực chẳng thiên vị là thần. Nếu ai chỉ có lòng riêng tư cầu phước, há có lẽ nào trời đất quỷ thần vì được hối lộ mà giáng điều cát tường hay chăng? Dựa theo lý để luận định, chỉ cốt yếu là chính mình trọn hết tấm lòng, rộng hành các điều thiện, trung, hiếu, hòa, thuận, thương người nghèo, mến người già, giúp người gặp tai nạn, giúp đỡ kẻ khổ, kiêng giết, phóng sanh, làm các thứ âm chất, mọi điều phương tiện tùy theo khả năng, tận hết sức nỗ lực thực hiện, do công năng của điều thiện cảm vời, tự nhiên phước sẽ giáng xuống. Nếu chẳng làm lành, chỉ sanh lòng cầu nguyện, mong mỏi, đó chính là hoài bão hèn tệ, là chuyện bỉ ổi, khinh nhờn thần minh”. Bảo khắp người đời, hãy nên dốc lòng tin tưởng lời này.

          Chuyện thí xả là chuyện lập công nhanh chóng nhất, ắt phải ưa thích làm lành chẳng mỏi mệt thì mới có tiến bộ. Dẫu tài lực chẳng đủ [không thể tiếp tục thực hiện], vẫn cần phải nên thường giữ tấm lòng ấy. Huống hồ có nên nẩy sanh lòng keo kiệt, chôn vùi ý niệm ban đầu ư? Chưa cho đã hối hận, ắt chẳng có kết quả do thí xả. Đã cho rồi hối hận, tức là chẳng còn thí nữa, tàn hại lòng nhân nghĩa, là cội gốc của tâm bệnh. Vì thế, đức Thái Thượng chẳng nhắc đến sự tốt lành của thí xả, chỉ nói về lẽ ác của việc “đã cho rồi hối hận”. Bởi lẽ, chuyện được thánh nhân khen ngợi nhất chính là “hướng thiện, sửa lỗi”, điều bị các Ngài ghét nhất không gì bằng “chẳng làm lành đến cùng”.

          Kẻ đã thí xả rồi sau đó hối hận, xét đến thuở đầu, [sẽ thấy] rốt cuộc là chẳng do chân tâm thích làm lành; bất quá là nhất thời cao hứng cầu danh, mong được phước đó thôi. Chỗ khởi nguồn đã trật, sao không hối hận về sau cho được? Nếu là chân tâm thí xả, ta và người đều không, chắc chắn sẽ chẳng đến nỗi này. Do vậy, người làm lành chẳng thể không dốc sức biện định nơi một niệm vừa mới chớm nẩy.

          Phù Nhã thích bố thí cho người khác, kẻ ăn mày bâu đầy trước cửa. Ông thường nói: “Tài vật trong thiên hạ vô định. Hôm nay giàu, mai sau nghèo, giống như chiếc vòng xoay mãi. Nếu một ngày chẳng thí, ắt lòng chẳng vui sướng”. Người thuở ấy nói: “Chẳng thèm giàu như Quyền Hưng, thà nghèo như Phù Nhã”. Về sau, ông làm quan tới chức Thượng Thư Lệnh, con cháu càng giàu có hơn.

          Lưu Khoan thích thí cho người nghèo túng, khốn khó, vất vả, chẳng mỏi mệt. Về sau, ông được Thái Thượng Lão Quân thâu nhận, giữ chức vụ Đồng Sơ Phủ Soái Thượng Hầu, chưởng quản những người mới đắc đạo.

          Vĩnh Thanh Sử chánh trực. Khi dựng nhà, đào đất, tìm được mấy vạn lượng bạc. Ông thở dài, nói: “Tiền tài là tánh mạng của con người. Đã do trời ban cho, há nên hưởng riêng?” Phàm những chuyện có thể giúp đỡ, châu cấp kẻ nghèo khổ, túng thiếu, hay đang gặp nguy cấp, không gì ông chẳng làm. Về sau, gặp năm mất mùa, ông bỏ ra tám vạn thạch gạo để cứu tế dân đói. Chẳng lâu sau, đạo tặc nổi dậy như ong, ông lại bỏ ra tài sản để bảo vệ xóm làng. Quan viên tâu lên, ông được [triều đình] ban quan chức, và lập bia biểu dương. Ông thọ chín mươi bốn tuổi, con cháu đông đảo.

          Trương Hiến Khả ở Vũ Tấn, tánh nhân  từ, thích  bố  thí. Ông  đã

từng thí ba ngàn cỗ quan tài xong xuôi, lại tiếp tục thí. Ông mướn những người ăn xin chôn cất những xác chết [vô thừa nhận] trên đường, cứ mỗi xác sẽ trả công chừng đó tiền. Kẻ ăn xin mỗi khi thấy có tử thi trên đường đều vui mừng, cho đó là nguồn tiền. Từ ấy, trong huyện chẳng có thi hài bị phơi sương dãi nắng. Ông lại nấu thuốc cao để thí cho người bệnh hoạn. Lúc lạnh thì nấu cháo thí cho người đói ăn. Ông nói: “Đã chôn người chết, há chẳng nên cứu người sống ư?” Hai con trai ông thi đỗ, được phong chức tước. Mất mùa là thiên tai, kẻ cùng khốn là do số mạng. Cứu người gặp tai ương chính là tấm lòng của trời đất; tạo nên số mạng là sở học của thánh hiền. Mấy vị ấy dùng lòng thành để thí xả, cho nên được phước thọ, phú quý, con cái nối dòng. Lại còn được siêu sanh về chốn lành, lý là như vậy đó.

          Hề Bách Tam vốn là một người nghèo, ngẫu nhiên gặp một đạo nhân đến xin tại một tiệm buôn. Chủ tiệm buôn không cho. Bách Tam sờ lưng chỉ còn một đồng, bèn cho [vị đạo nhân ấy]. Đêm hôm đó, ông mộng thấy đạo nhân trừ bỏ bướu thịt cho mình. Đến khi tỉnh giấc, cái bướu thịt dưới cằm quả nhiên rụng mất. Thí một đồng mà rốt cuộc được lìa đau khổ. Có thể thấy là bố thí chẳng quan trọng là ít hay nhiều, mà là do tấm lòng. Người đời hãy nên tự mình nhất tâm tận lực thực hiện, khuyên người khác cùng làm, còn e là chậm chạp, huống hồ có nên hối hận ư?

          Vay mượn là để chuyển từ người sẵn có cho đến người chẳng có, hòng giúp đỡ trong cơn túng ngặt, vốn là chuyện tốt đẹp. [Người vay mượn] chịu ân đức [của người cho mượn] chẳng nhỏ, há nên cậy mạnh, ngoan cố, viện vào mánh khóe giảo hoạt để thoái thác, trốn nợ ư? Nào có biết chưa trả xong nợ cũ, chết rồi sẽ phải đền bồi. Nhẹ thì làm nô tỳ cho họ (chủ nợ), nặng thì sẽ làm lừa, ngựa, trâu, chó để đền bù, cũng đáng sợ thay!

          Phàm mượn vật dụng của người ta, phải nên chú ý quý tiếc, giữ gìn. Mượn vật dụng của người khác, nếu chẳng phải là bất đắc dĩ, đừng nên mượn. Mượn rồi dùng xong, hãy ngay lập tức trả lại. Như thế thì không chỉ là người ta chẳng chán ghét, mà chính mình cũng chẳng hổ thẹn. Còn như vay nợ tiền bạc, càng phải nên trả lại người ta sòng phẳng. Đời nay, đa số thường là vay mượn không chịu trả, chẳng nghĩ tiền tài ấy chẳng phải là tiền tài của ta, dẫu có giữ rịt thì rốt cuộc nó cũng mất đi. Tiền tài đã chẳng còn, chỉ còn nợ đọng lại, có lợi ích gì chăng? Xin hãy suy nghĩ!

          Mùa Thu năm Mậu Ngọ (1678) đời  Khang  Hy  nhà  Thanh, một

cư dân ở Yên Kinh (Bắc Kinh) là Trương Nguyên nuôi một con lừa, mỗi ngày đi được hai trăm dặm. Nó thích cắn, đá người khác, chỉ có ba người cha con họ Trương cưỡi lên, ắt nó vâng chịu, chứ người khác chẳng thể cưỡi được. Ngẫu nhiên, một người họ Dương bèn thử mượn, rất dễ dàng cưỡi nó, bèn cưỡi đi. Đã trả lại, ban đêm, họ Dương mộng thấy một người áo đen nói: “Tôi là con lừa của họ Trương. Đời trước, tôi đã mượn ông ba trăm đồng không trả, nay sẽ bồi thường. Ngày hôm qua, ông cưỡi tôi đi hai trăm tám mươi dặm, xin hãy cưỡi tôi thêm hai mươi dặm nữa cho xong nợ của tôi”. Ông Dương hỏi: “Ngươi thiếu họ Trương bao nhiêu tiền?” [Người ấy] chau mày nói: “Nhiều lắm! Chẳng thể nói”. Ông Dương tỉnh giấc, quả nhiên lại mượn lừa cưỡi đi. Đi khá xa, lừa bỗng lồng lên, quăng ông Dương xuống đất. Tính đường đi, quả nhiên là hai mươi dặm, họ Dương càng lấy làm lạ hơn, khuyên nhủ: “Ta biết nguyên do [ngươi quăng ta xuống đất rồi], nhưng nay còn cách nhà ta mười dặm nữa. Không cưỡi ngươi, làm sao có thể về cho được? Ta trở về, sẽ dùng mười đồng mua cỏ cho ngươi ăn được không?” Con lừa đứng đó, nhìn ông ta một lúc lâu, [sau đó] lại ngoan ngoãn lên đường. Sau đấy, ông Dương cố ý muốn thử, vừa mới tới gần, lừa liền đá, cắn, hí dài!   

          Ông Châu Tại Am nói: – Có kẻ do nghèo mà quỵt nợ, có kẻ giàu mà quỵt nợ. Do nghèo mà quỵt nợ là vì không đủ sức. Nếu dựa theo Trung Giới Kinh, hãy nên tha thiết nghĩ đền trả, tự nhiên sẽ không phạm lỗi. Còn như có [đủ sức trả] mà không trả, nếu chẳng phải là phường cậy oai, ỷ thế, chắc chắn là hạng mê muội thiên lý, chôn vùi lương tâm, nào có biết đời đời kiếp kiếp phải đền trả cho hết nợ mới xong!          

          Lái buôn họ Ngô ở An Huy giữ tín nghĩa; lúc lâm chung, dặn hai đứa con: “Một ngàn lượng vàng ta sở hữu trong hiện tại đều là do vay mượn từ họ Phù. Con phải thanh toán từng khoản một, thà chịu đói rét, chớ làm kẻ phụ bạc tấm lòng [người khác đã tử tế cho vay]”. Con ông ta đều vâng lời cha dạy, [trả sạch nợ xong], nghèo khổ, không thể trông cậy vào đâu được. Bỗng từ một cái giếng cạn, họ tìm được hai ngàn lạng bạc, [trên mỗi nén bạc] có khắc niên hiệu đời Đường. Họ đóng cửa, giấu kín, chẳng có ai biết. Hôm sau, bỗng có người từ huyện bên cạnh tới nói: “Các ông có phải là con của ông Ngô hay không?” “Thưa phải!” Người ấy nói: “Các ông phát tài rồi! Hôm trước, tôi do bị bệnh, đến phủ Đông Nhạc, thấy có vị thần giải tiền từ ty Tài Bạch tới, tự xưng là thần giếng và suối”. Vị chủ quản bảo: “Đây là số bạc từ trong nội khố (kho tiền trong cung) của nhà Đường. Thượng Đế do thấy ông Ngô phân minh đối với chuyện tiền bạc, con ông ta khắc khổ tuân theo chí cha, bèn ban cho họ khoản tiền này, khiến cho họ suốt đời được hưởng sự đại phú”. Tôi tỉnh lại, lấy làm lạ; vì thế, đến thưa hỏi. Anh em họ Ngô kinh ngạc, kể thật mọi chuyện. Hiện thời, trong họ Ngô, những người giàu to rất nhiều, toàn là con cháu của ông Ngô vậy.

 

          (Chánh văn) Phận ngoại doanh cầu. Lực thượng thi thiết.

         (正文)分外營求。力上施設。

          (Chánh văn: Cầu mong quá phận. Dốc hết sức bày vẽ, tạo tác).

          Con người do chẳng nương theo bổn phận, chỉ cho rằng “do toan tính mong cầu, sẽ được lợi ích”, cũng ngỡ là “phú quý hay bần tiện trong đời người là nhất định, chẳng thay đổi”. [Tài vận do đã được] ghi chép trong cõi âm, [cho nên] cõi dương [có thể] hưởng dụng, đều là do túc nghiệp, há có thể toan tính mong cầu quá phận ư? Vọng tâm tham niệm, mong mỏi sẽ do may mắn mà đạt được, không chỉ là vô ích, lại còn sợ rằng do tình chấp hư vọng mà bị giảm phước! Sao chẳng lãnh hội câu nói của Mạnh Tử: “Cầu chi hữu đạo, đắc chi hữu mạng” (Có phương cách để cầu, nhưng đạt được [hay không] là do vận mạng), hoặc ý chỉ “nhất thiết phước điền bất ly phương thốn” (hết thảy phước điền chẳng rời khỏi cái tâm) của Lục Tổ vậy?

          Đời Đường, vào đầu niên hiệu Trường Khánh[30], huyện úy Tân Bình là Bùi Phác chết. Người anh họ bên ngoại là Hoa Nguyên ở trọ tại Lũng Hữu, trên đường gặp một vị quan võ, các kỵ sĩ theo hầu rất đông. [Vị quan ấy] chính là Bùi Phác. Hoa Nguyên kinh ngạc, mừng rỡ, hỏi: “Huynh lìa cõi đời, làm chức quan võ gì thế?” Bùi Phác nói: “Tôi giữ chức Tây Xuyên Soát Lược Sứ, chuyên trông coi sự tăng giảm của tiền tài trong thế gian. Một hớp uống, một miếng ăn của người đời, không gì chẳng đã định sẵn, huống hồ tài vật ư? Âm ty ghi chép, hạn định [tiền tài của mỗi cá nhân] có mức hạn. Nếu vượt quá [hạn mức ấy], sẽ tước đoạt bớt (刷掠, soát lược) [khiến cho kẻ ấy] hoặc là tự hao phí, gặp chuyện ngang trái, hoặc buôn bán lỗ vốn, hoặc do bệnh tật [mà tiền của] tiêu tán, đều là do tôi trông coi về sự tước đoạt vậy. Trong thế gian, nhà nông siêng năng cầu thóc gạo, lái buôn siêng năng bèn phát tài, kẻ sĩ do siêng năng mà có lộc, chỉ đạt được những gì vốn có trong phận mình, không thể tăng thêm những thứ gì chẳng có trong phận mình. Không siêng năng thì ngay cả những thứ vốn nên có trong vận mạng cũng bị mất đi. Ông gặp tôi cũng là tiền định. Ông đáng có hai cân bạch kim. Cho ông quá con số ấy, sẽ lại bị đoạt mất. Vì thế, chẳng dám hậu đãi ông”. Nói xong, biến mất.

          Lưu Hàng khá giỏi văn chương, tự cho rằng sẽ có thể sớm chiếm địa vị cao trên bảng vàng. Khi ấy, Dực Thánh Chân Quân[31] giáng bút tại núi Chung Nam. Do vậy, Lưu Hàng đến thưa hỏi, Chân Quân bảo: “Văn chương của ông tuy hạng khá, nhưng mạng lại cạn cợt, mỏng manh. Nếu an phận, náu mình, sẽ có thể bình an trong những năm còn lại. Quá mức mong cầu, ắt sẽ dẫn đến tổn thọ”. Lưu Hàng chẳng thể nghe theo, rốt cuộc chẳng thành đạt gì mà chết! Phàm là chuyện đỗ đạt, rạng mày nở mặt tổ tông, phước ấm cho con cháu, há có thể dùng trí xảo để toan tính mưu cầu mà đạt được ư? Hãy nỗ lực vun bồi âm chất, sẽ có thể đặt để [công danh] trong chỗ chẳng thấy, chẳng nghe (cõi âm), há có nên mong cầu quá phận ư? Đối với tiền tài cũng thế.

          Trương Thuyết cáo lão hồi hương, đóng cửa chẳng ra ngoài. Từ đấy, chuyện công hay tư bên ngoài, ông đều chẳng can dự bất cứ chuyện nào. Ông càng đề cao tiết kiệm, nêu gương [tiết kiệm] cho con cháu. Ông từng có lời dạy được viết rõ trên tấm bình phong như sau: “Khách đến thăm, giữ lại mời dùng cơm, hãy tiết kiệm, đơn giản sao cho hợp với tình người. Món ăn tùy theo những gì có sẵn trong nhà mà khoản đãi, trái cây tùy theo mùa mà dọn ra. Dẫu là hàng thân thích mới đến, chẳng bày cỗ bàn thịnh soạn; dẫu khách quý cũng chẳng làm thịt các con vật. Không chỉ nhằm răn ngừa thói xa xỉ đã lâu, mà còn nhằm tránh khỏi phiền não hòng sống an vui”.

          Trương Củng Thần nói: – An vui giữ phận nghèo, tiêu xài tiết kiệm hòng khỏi phải cầu cạnh người khác. Bớt việc cho lòng thanh thản. Mong cầu quá lố chỉ là chuốc khổ. Phước được hưởng trong đời người trời đã an bài. Dư dả, nghèo túng, cùng quẫn, hanh thông, đều được định sẵn trong mạng. Dẫu dùng trí xảo có thể đạt được thì cũng là do thời vận đưa đến. Hiểu thấu suốt điều then chốt này, sẽ có thể đạt được bao nhiêu tự tại. Đợi cho đủ thì ai có thể đủ? Để ngưng dứt [mong cầu quá lố], hãy buông xuống.

          “Dốc hết sức bày vẽ, tạo tác” có nghĩa là đối với những gì sức mình có thể làm được, bèn tận hết sức ra oai, bày cách [nhằm đạt mục đích], chẳng còn chừa lại chút nào, cứ ắt sao cho chẳng đạt đến tận cùng sẽ chẳng thôi. Đó chính là như câu nói “buồm mở hết cỡ căng gió, lại thêm tám mái chèo”.

          Đời Lưu Tống, Hề Hiển Độ làm quan tới chức Viên Ngoại Tán Kỵ Thị Lang. Tống Hiếu Vũ Đế từng sai hắn đôn đốc những người làm tạp dịch cho chánh quyền, hắn hà khắc bạo ngược, vô đạo. Hở ra là đánh đập, đấm đá, tháng Hạ mưa dầm, trời Đông tuyết đổ, chẳng cho họ nghỉ ngơi chút nào! Người ta chẳng chịu nổi, có kẻ phải tự sát. [Về sau], Hiển Độ cũng do mắc tội mà bị giết chết.

          Học sĩ Tiền Hạc Than ở Hoa Đình kiến tạo phủ đệ trong vùng rừng rậm. Những phu phen lao dịch [phải phục vụ] rất vất vả, khổ sở, người làng cũng vì đó mà ngã bệnh. Một công nhân chẳng thể đi làm lao dịch, ông giận dữ, quở trách. Người công nhân thưa rằng: “Xưa kia quan Đề Hình[32] họ Hoàng kiến tạo phủ đệ, tôi vì phải làm lao dịch mà thành bệnh. Nay nhà ông Hoàng đã dột nát, tường vây sụp đổ, mà bệnh tôi vẫn chưa lành. Vì thế, tôi không thể đến phục dịch được”. Ông Tiền nghe nói, vỡ lẽ, bèn thôi công tác ấy. Những kẻ có chức vị mà bày vẽ, chèn ép dân chúng, kẻ phú quý bày trò bóc lột kẻ nghèo hèn, cố nhiên đã phạm vào điều răn của đức Thái Thượng. Còn như kẻ dùng năng lực của con người để chèn ép, bóc lột súc sanh thì cũng là chuyện chớ nên. Như trâu, lừa trong cày cấy, hoặc ngựa, la để cưỡi, nếu chẳng phải do ta từ trước đã tu [phước báo] mà có, ắt những con vật ấy là những kẻ đã thiếu nợ ta. Hãy nên yêu thương, chăm sóc, khi sử dụng chúng, đừng vắt kiệt sức chúng, chớ nên nói: “Súc sanh thuộc loài khác [so với con người], ta muốn làm gì thì làm” ư?

 

          (Chánh văn) Dâm dục quá độ.

          (正文)淫慾過度。

          (Chánh văn: Dâm dục quá độ).

          Các tà duyên kết hợp ở bên ngoài (quan hệ trai gái bất chánh ngoài hôn nhân), [khiến cho] đạo đức diệt tuyệt, lương tâm bị chôn vùi. Vì thế, đức Thái Thượng đã buông lời răn dạy trong phần trước. Còn như đối với chánh sắc (正色, chuyện ăn nằm chánh đáng) giữa vợ chồng, càng cần phải có chừng mực. Nếu nói “chánh sắc chẳng phải là dâm”, há có tránh khỏi cái họa sát thân do buông lung tình dục? Bởi lẽ, nguyên tinh[33] trong thân người được phân bố trong Tam Tiêu[34], tươi nhuận trăm mạch. Khi lửa dục vừa dấy động, [nguyên tinh] bèn tụ hợp lại, lưu chuyển [đổ vào thận tạng], đều phát xuất từ Mạng Môn[35], do Vĩ Lư[36] chẳng bị ngăn chặn, biển xanh sẽ bị kiệt quệ[37], tột bậc đáng sợ! Phàm nhân hễ tinh đầy đủ thì thần sanh, tinh và thần đầy đủ thì trí khôn sanh, [dẫn đến] trí thông minh được tăng cường, củng cố, có chuyện gì mà chẳng làm thành công?  Nếu tuổi thiếu niên trác táng, anh

khí tiêu mất, sự nghiệp suốt cả một đời cũng bị mất theo!

          Người suốt đời bệnh tật luôn luôn là do bắt đầu từ thuở tân hôn. Tuổi trẻ vô tri, thường là dục tình chẳng có chừng mực. [Do hành dâm] nhiều mà thành chứng lao tổn, suy nhược, thậm chí chết yểu, liên lụy vợ phải chịu nỗi khổ góa bụa. Chẳng nghĩ do hôn nhân mà [vợ chồng trở thành] quyến thuộc trăm năm, suốt đời bầu bạn. Tội gì buông lung trong vòng một tháng, gieo thành gốc họa suốt đời? Lúc con em sắp kết hôn, cha anh hãy nên ra rả răn nhắc chuyện này!

          Tục ngữ có câu: “Lạc cực sanh bi, túng dục thành hoạn” (Vui quá hóa buồn, phóng túng lòng dục thành bệnh). Lại có câu: “Quả dục tất đa nam, tham dâm mỗi vô hậu” (Ít dục, ắt phần nhiều sanh con trai; tham dâm thường không có con). Khổng Tử bảo: “Huyết khí vị định, giới chi tại sắc” (Khi huyết khí còn chưa ổn định (đang trong tuổi phát triển của thanh thiếu niên), phải kiêng dè sắc dục). Lão Bành nói: “Người thuộc bậc thượng thì [vợ chồng] ngủ khác giường, bậc trung thì đắp khác mền. Uống trăm viên thuốc, chẳng bằng ngủ một mình”. Đức Phật dạy: “Nữ sắc là cội gốc của các nỗi khổ, là cội gốc của chướng ngại, là cội gốc của sát hại, là cội gốc của ưu sầu”. Kinh Hoàng Đình[38] chép: “Hãy gấp gìn giữ tinh thất, đừng tiết tinh bừa bãi. Hãy bế tinh hòng bảo đảm có thể sống lâu”. Quả thật là vì dâm dục dẫn đến tình cảnh “diệt tánh, vong thân”. Có kẻ ngấm ngầm hứng chịu nỗi hại này mà chẳng hay biết. Có kẻ biết rõ nỗi hại này, nhưng chẳng đoái hoài! Do vậy, thánh hiền phải khăng khăng răn nhắc. Phàm phu chẳng hay biết, cứ buông lung, chẳng kiêng kỵ, mang khí phận dâm uế, chọc giận quỷ thần. Đủ mọi nỗi bất tường do đấy mà ra. Nguyện khắp [mọi người], hãy kịp thời rất nhẫn nại [chế ngự dâm niệm], ngõ hầu đạt được phép tắc kéo dài mạng sống. Nếu không, cái thân sẽ chết chắc, chẳng thể cứu được!

          Nhậm Huệ Cung tuổi già càng thêm mạnh khỏe, cứng cáp. Có người hỏi ông về thuật dưỡng sanh, ông đáp: “Tôi đọc bộ Văn Tuyển[39] ngộ một điều: Do đá chứa ngọc mà núi rạng rỡ, do nước chứa châu mà đẹp đẽ”, chính là nói đến ý này (tiết chế dâm dục).

          Trình Y Xuyên coi chuyện quên thân theo đuổi dục vọng là điều sỉ nhục sâu xa. Đến tuổi bảy mươi, gân sức của ông Trình chẳng kém lúc trẻ tuổi.

          Lý Giác đã trăm tuổi, sắc diện như trẻ thơ. Người ta hỏi bí quyết, ông đáp: “Do tôi sớm tuyệt dục”.

          Lưu Nguyên Thành đã tám mươi mà cứng cáp, mạnh mẽ, tự nói [chính mình] đã quả dục ba mươi năm, huyết khí lẫn tinh thần vẫn như thuở trẻ.

          Vị hòa thượng họ Châu ở Lô Lăng đã chín mươi mấy tuổi, đi đường xa vùn vụt như bay, râu tóc chẳng bạc. Sư nói chẳng có thuật chi khác, chỉ là lúc tuổi trẻ đã có thể tiết dục.

          Trương Thúy ở Thái Thương chín mươi mấy tuổi, tai mắt thông tỏ, vẫn còn có thể vẽ vời. Người ta hỏi [bí quyết], ông bảo: “Bình thời tôi chỉ mỏng nhẹ lòng dục, có chừng mực về chuyện tình dục”.

          Người đã già mà cứng cáp, mạnh mẽ, chính là chuyện vui bậc nhất trong đời người, nhưng nguyên do [dẫn đến tình trạng già cả mà khỏe mạnh ấy] bất quá là giảm thiểu, giữ chừng mực về dâm dục đó thôi! Người ta có khó gì mà chẳng tuân theo pháp tắc ấy? Bành Tổ[40] nói: “Mỗi tháng xuất tinh hai lần, một năm xuất tinh hai mươi bốn lần. Đấy là phương cách giữ chừng mực, thận trọng vậy”. Tố Nữ[41] nói: “Người sống đến tuổi sáu mươi, hãy nên bế tinh, đừng xuất tinh. Đấy là phương pháp để ngăn ngừa nguy cơ. Làm như thế thì chẳng phế nhân đạo, mà cũng chẳng hao tổn nguyên dương”. Tôi cho rằng vào thời Bành Tổ và Tố Nữ, bẩm tánh của con người khá thuần hậu, cho nên [hai vị] nói như thế. Còn như hiện thời, thuần phong mỹ tục đã lạt lẽo quá mức, há nên chấp những lời ấy là lẽ thường! Huống chi kẻ nguyên khí yếu ớt, há chẳng càng bội phần thận trọng ư?

          Đời Minh, có người họ Từ ở Cù Châu, dung mạo đẹp đẽ, có tiếng là tài năng. Chưa đầy hai mươi tuổi, họ Từ đã đỗ Tiến Sĩ, được bổ làm Tiết Thôi[42] ở phủ Tùng Giang. Thân thích, bạn bè đều hâm mộ. Nhưng anh ta háo sắc, nuôi những cô thiếp yêu tột bậc xinh đẹp đến mười mấy nàng. Do hành dục phóng túng vô độ, anh ta đến nhậm chức hơn một tháng, [nguyên tinh] hư hao, thất thoát mà chết. Các nàng thiếp đều được gả cho người khác!

          Chàng họ Ngu ở huyện Ngân phong thái đẹp đẽ, nhưng ưa dâm dục. Một tối, chàng ta mộng thấy Thành Hoàng trách phạt, tính toán những lần chàng ta phạm tội gian dâm, đánh cho mấy chục roi. Đến khi chàng ta tỉnh giấc, hai chân đều tím bầm, sau đó rữa nát. Chàng nằm bệnh hơn một năm rồi chết.

          Muôn điều ác, dâm đứng đầu. Trăm điều thiện, hiếu đứng đầu. Đấy chính luật lệ sắt đanh nơi điện Sâm La[43], tức là quỷ thần chuộng hiếu, mà cũng ghét dâm cùng cực. Tuy có thể lọt lưới dương gian, luật lệ trong cõi âm chẳng sai chạy. Con người há có nên cố ý phạm vào điều [quỷ thần] căm ghét ư? Vì thế, từ xưa, những kẻ hoang đàng, đam mê nữ sắc, chẳng có kẻ nào không mất mạng, tan nhà! Còn như kẻ đã có tuổi, càng chẳng nên nạp tiểu thiếp; bởi lẽ, ta đã chẳng quản họ được, họ càng hận ta đặc biệt sâu! Oán khí tích tụ, [ắt ta sẽ bị] tổn đức, tiêu phước. Hơn nữa, họ trẻ tuổi, tánh chất, tình cảm khó uốn nắn theo khuôn khổ, sẽ càng có [những chuyện nghiêm trọng hơn], chứ không chỉ là như thế, há chẳng nên kiêng tránh ư? Huống chi bóng mặt trời đã khuất dần sau núi, sáng tối thật sự khó thể giữ mình, lại vội vàng cầu quỷ sứ đến áp giải, ngu chi hơn nữa?

 

Ghi thêm: Tu thân lập mạng giới kỳ (những ngày nên kiêng hành dâm để tu thân lập mạng) của tiên sinh Tần Chuyết Am

 

          1) Tháng Giêng:

          Mùng Một tháng Giêng được gọi là Thiên Lạp, Ngũ Đế[44] so lường thần khí và lộc mạng của nhân dân. Kẻ phạm sắc dục [trong ngày này] sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Mồng Ba: Vạn thần nhóm họp, lại là ngày Bắc Đẩu Thất Tinh giáng hạ. Kẻ phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mồng Năm là ngày Ngũ Hư[45]. Mồng Sáu: Lục Hao[46]. Mồng Bảy: Thượng hội. Mồng Chín: Thiên đản[47]. Mười Bốn: Tam Nguyên[48] giáng hạ. Mười Lăm: Tam Nguyên giáng hạ [nhân gian], đồng thời là ngày khánh đản của Thượng Nguyên Thiên Quan. Kẻ phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu Thất Tinh giáng hạ. Hai Mươi Tám: Các vị nhân thần tụ hội tại cõi âm; kẻ phạm dâm sẽ bị bệnh ngặt. Mỗi tháng đều như thế. Ngày Ba Mươi: Tư Mạng Táo Quân tấu trình thiên đình. Kẻ phạm dâm bị giảm thọ một năm. Mỗi tháng đều như thế. Nếu như gặp tháng thiếu thì là ngày Hai Mươi Chín.

 

          2) Tháng Hai:

          Mùng Một: Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm, mỗi tháng đều như thế. Lại còn là ngày vía của Lưu Chân Quân[49]. Mồng Ba: Vía Văn Xương Đế Quân. Phạm dâm sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Ngày ấy còn là ngày vạn thần nhóm hội, và Bắc Đẩu giáng hạ. Ngày Rằm: Vía Thái Thượng Lão Quân. Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mười Tám: Ngày mất của Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử. Phạm dâm sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Mười Chín: Khánh đản của Quán Âm Đại Sĩ. Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Ngày Hai Mươi Mốt: Khánh đản Phổ Hiền Bồ Tát. Ngày Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám và Ba Mươi: Giống như trong phần trên.

 

          3) Tháng Ba:

          Mùng Một: Giống như phần trên. Mồng Ba: Vía Nguyên Đế[50], phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm; lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Chín: Ngưu quỷ thần xuất hiện, phạm dâm sẽ sanh ra ác thai[51]. Ngày Rằm: Khánh đản của Hạo Thiên Thượng Đế[52]. Lại là ngày vía của Nguyên Đàn[53], phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mười Sáu: Khánh đản Chuẩn Đề Bồ Tát, phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mười Tám: Vía Trung Nhạc Đại Đế[54]. Mười Chín: Vía Nhật Cung Thái Dương Tinh Quân, phạm dâm sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Vía Đông Nhạc Đại Đế[55], phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Lại là thánh đản của Thương Hiệt[56]. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          4) Tháng Tư:

          Mồng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Bốn: Khánh đản Văn Thù Bồ Tát, lại là ngày vạn thần khuyến hóa điều thiện, kẻ phạm dâm sẽ bị câm. Mồng Tám: Khánh đản Phật Thích Ca, phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Lại là ngày Thiện Ác Đồng Tử giáng hạ, kẻ phạm dâm sẽ bị chảy máu đến chết. Mười Bốn: Vía Lữ Tổ. Ngày Rằm: Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mỗi tháng đều như thế. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          5) Tháng Năm:

          Mùng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Năm là ngày Địa Lạp[57], là ngày Ngũ Đế khảo hạch quan tước của người đời, kẻ phạm dâm sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Mười Một: Vía Đô Thành Hoàng (thành hoàng cai quản kinh đô). Mười Ba: Vía Quan Đế (Quan Thánh Đế Quân), phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Ngày mồng Năm, mồng Sáu, mồng Bảy, Rằm, Mười Sáu, Mười Bảy, Hai Mươi Lăm, Hai Mươi Sáu, Hai Mươi Bảy [trong tháng này] được gọi là ngày Cửu Độc, kẻ phạm dâm [trong những ngày ấy] sẽ bị chết yểu. [Nếu hành dâm trong] giờ Tý ngày Rằm thì trong vòng ba năm, nam lẫn nữ đều chết. Ngày Mười Sáu lại là thời khắc để vạn vật được sanh thành trong đời nhất, kỵ [hành dâm] nhất. Ngày Hai Mươi Bảy lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          6) Tháng Sáu:

          Mồng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Rằm: Giống như trên. Mười Chín: Quán Âm đắc đạo. Hai Mươi Ba: Vía Hỏa Thần. Hai Mươi Bốn; Vía Lôi Tổ[58]. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          7) Tháng Bảy:

          Mồng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Bảy: Đạo Đức Lạp, lại là ngày Trung Hội. Mười Ba: Khánh đản Đại Thế Chí Bồ Tát. Rằm: Vía Trung Nguyên Địa Quan, phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mười Chín: Thái Tuế[59]. Hai Mươi Hai: Vía Tăng Phước Tài Thần[60]. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          8) Tháng Tám:

          Mồng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Vía Tư Mạng Táo Quân, cũng là ngày vía Bắc Đẩu, và là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mồng Mười: Vía Bắc Nhạc Đại Đế[61]. Rằm: Giống như trên, lại là ngày Thái Âm Triều Nguyên (Trung Thu), hãy nên dâng hương, thức đêm. Hai Mươi Bảy: Sinh nhật Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử. Kẻ phạm dâm sẽ bị tước lộc, giảm thọ mười hai năm. Lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          9) Tháng Chín:

          Mồng Một: Giống như trên, lại là ngày vía Nam Đẩu. Mồng Ba: Vía Ôn Thần, lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Chín: Vía Đẩu Mẫu. Từ ngày mồng Một tới mồng Chín là ngày cửu hoàng đản (ngày vía của chín vị hoàng đế)[62], phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Rằm: Giống như trên. Mười Bảy: Vía Kim Long Tứ Đại Vương[63]. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên, lại là ngày khánh đản Phật Dược Sư.

 

          10) Tháng Mười:

          Mồng Một: Dân Tuế Lạp. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng năm: Hạ hội, cũng là ngày vía Tổ Đạt Ma. Mồng Mười: Tây Thiên Vương giáng hạ. Kẻ phạm dâm sẽ chết trong vòng một năm. Rằm: Vía Hạ Nguyên Thủy Quan, phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Hai Mươi Bảy: Vía Bắc Cực Tử Vi Đại Đế, lại là ngày Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          11) Tháng Mười Một:

          Mồng Một: Giống như trên. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Mồng Sáu: Vía Tây Nhạc Đại Đế. Mười Một: Vía Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn. Rằm: Giống như trên. Mười Bảy: Khánh đản A Di Đà Phật, phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Mười Chín: Vía Nhật Cung Thái Dương Thiên Tôn. Hai Mươi Lăm: Lược Soát Đại Phu giáng hạ. Người phạm dâm trong ngày ấy sẽ gặp hung hiểm. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Giống như trên.

 

          12) Tháng Mười Hai:

          Mồng Một: Vương Hầu Lạp. Mồng Ba: Bắc Đẩu giáng hạ. Rằm: Giống như trên. Mười Sáu: Vía Nam Nhạc Đại Đế[64]. Hai Mươi Mốt: Vía Thiên Do Thượng Đế[65]. Hai Mươi Bốn: Tư Mạng Táo Quân lên trời. Hai Mươi Lăm: Tam Thanh Ngọc Đế đồng giáng hạ. Hai Mươi Bảy: Bắc Đẩu giáng hạ. Hai Mươi Tám: Giống như trên. Ba Mươi: Chư thần giáng hạ, xem xét thiện, ác; kẻ phạm dâm sẽ bị giảm thọ mười hai năm.

 

          Ngày vía của thần thánh rất nhiều, ở đây, chỉ chép những ngày trọng yếu. Nếu có thể đều vâng giữ, ắt sẽ có thể đạt đến thượng thọ. Nếu không thể tuân thủ trọn hết, thì như trong ghi chú trên đây, “đoạt kỷ” là giảm thọ mười hai năm. Kẻ vi phạm [luật răn cấm đừng hành dâm trong những ngày kiêng kỵ], chắc chắn sẽ bị rút ngắn tuổi thọ. Lại trong những ngày Tứ Lập (Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông), Nhị Phân (Xuân Phân và Thu Phân), Nhị Chí (Hạ Chí và Đông Chí), Xã Nhật (ngày cúng tế thần thổ địa), ngày Tam Phục[66], ngày Giáp Tý, Canh Thân, ngày Bính Tý, Bính Đinh, ngày thượng huyền (trăng non) và hạ huyền (trăng khuyết), sinh nhật của cha mẹ, tổ tiên, ngày giỗ, sinh nhật của chính mình, ngày bổn mạng của tổ tiên, cha mẹ, bản thân, ngày gió to, mưa lớn, nóng gắt, rét đậm, sấm sét, chớp nhóa, trời đất tối tăm, ngày nhật thực và nguyệt thực, ngày cầu vồng đỏ, động đất v.v… Đối với chỗ có thần linh trong núi, sông, đàn xã tắc, nơi giếng, nơi bếp… dưới đèn đuốc mà có kẻ phạm dâm sự, hoặc có chuyện say sưa, ăn no, mừng, giận, ưu, sầu, bi ai, hoảng sợ, trước khi có thai, sau khi sanh nở, hoặc lúc có kinh nguyệt, [những ngày được coi là] thiên kỵ, địa kỵ, nhân kỵ, hễ phạm phải, lớn thì là giảm lộc, giảm thọ, hoặc sanh con không nuôi được, hình thể chẳng đầy đủ, nhỏ thì là bệnh tật khốn khó, hung hiểm, thân thể tổn thương, chịu khổ. Hãy nên cẩn thận!

 

          (Chánh văn) Tâm độc mạo từ, uế thực ủy nhân, tả đạo hoặc chúng.

          (正文)心毒貌慈。穢食餧人。左道惑眾。

          (Chánh văn: Lòng dạ thâm độc, ra vẻ hiền lành. Cho người khác ăn thực phẩm dơ. Bàng môn tả đạo dối đời).

          “Tâm độc”  đã khiến cho người khác chẳng chịu đựng nổi, “mạo

từ” (貌慈, diện mạo giả vờ hiền lành) lại khiến cho kẻ khác chẳng thể lường được! Không ai chẳng tránh né cọp, sói, sợ rắn, rết, vì những loài ấy độc địa. Nếu tâm địa độc ác, diện mạo giả vờ nhân từ, vờ vĩnh rất thân thiện với kẻ khác, khiến cho kẻ khác thân cận, [hạng người ấy] sẽ mặc sức nhả độc, [khiến cho kẻ khác] chẳng kịp đề phòng. Hạng người ấy hiểm độc càng quá đáng hơn cọp, sói, rắn, rết. Họ chết đi sẽ đọa trong tam đồ nhanh chóng như tên bay, đời đời chuốc lấy quả báo, chịu khổ vô cùng, chẳng nên kiêng tránh ư?       

          Thái Nguyên Độ[67] đối với khách vẻ mặt luôn tươi hơn hớn. Dẫu là kẻ bị hắn căm ghét, vẫn đối xử thân thiết, trọng hậu, chẳng sơ sót, người khác chẳng lường được, gọi hắn là Tiếu Diện Dạ Xoa (quỷ dạ-xoa mặt tươi cười). Về sau, hắn mắc tội, chết trên đường lưu đày. Hạng người này chỗ nào cũng có, chúng ta hãy cư xử theo đúng nghĩa lý, đối đãi lễ độ đối với họ. Hễ một mực bình đẳng để đối phó, dẫu họ độc hại, làm sao có thể ảnh hưởng đến ta cho được!

          Vu Thiết Tiều nói: – Phàm kẻ nào mắt thường nhìn xuống, chẳng nói lời nào, nhưng ở giữa hai mày, trọn chẳng có khí chất đạo đức ngưng tĩnh, nhân từ, an tường, ắt là kẻ tâm địa độc ác. Chọn bạn để chơi thì hãy nên tránh xa [hạng người này]! Xưa kia có một vị Tăng, ngủ giữa ban ngày, [có vị] thần từ mũi thoát ra, hóa thành một con rắn độc đen đúa uốn éo bò đi, ai nấy đều trông thấy. Khi kẻ đó chết, khắp thân nứt toác, đều biến thành da rắn, đấy chính là hạng người như thế đó. Nếu có thể tự biết sự độc hại ấy, thống thiết gột rửa, như lương y trị liệu ung loét, trừ sạch chất độc ấy mới thôi, chưa hề không thể nhập đạo! Nhưng đối với kẻ chẳng chịu làm như vậy thì biết làm sao được nữa, thật đáng buồn thay!

          Uế thực (穢食, đồ ăn bẩn thỉu) là do nấu nướng chẳng sạch sẽ, hoặc là đã bị trùng bò qua, chuột gặm, hoặc để qua đêm tới sáng, màu sắc và hương vị đã biến đổi. Ăn vào đủ để gây bệnh, khiến cho người khác bị tổn thương. Nếu đem [thức ăn ấy] cho người ta ăn, ắt người ta sẽ nổi cáu, mà thần cũng căm ghét. Còn như kẻ làm tôi tớ cho người khác, lãng phí nước, các thứ tương, nấu món ăn quá nhiều, thức ăn bị hư dơ bèn đổ đầy nhà xí, càng là tạo thành nỗi oan nghiệt to lớn. Tội ấy quá nửa quy về gia chủ, há chẳng nên răn nhắc lẫn nhau ư?

          Tại thành phố Hàng Châu, có một con ngỗng quay bị rắn độc bò quanh. Một vị thầy dạy vỡ lòng cho trẻ trông thấy, nghĩ “đem ngỗng cho người ta ăn, ắt sẽ bị trúng độc”. Ông ta tính mua, [nhà hàng] nói giá hai trăm đồng. Trong tay thầy chỉ có một trăm đồng, lại vay tiền từ người hàng xóm thân thiết, [mua ngỗng xong] cùng nhau đi chôn. Lúc đào đất, nhặt được một thỏi vàng tía to lớn. Người hàng xóm quen biết bèn nói: “[Vàng này] do ta giấu”. Chủ tiệm ăn cũng nói: “Là vàng do ta đánh mất”. Khéo sao quan huyện vừa đến, quan hỏi han sự tình, thở dài: “Rõ ràng [đĩnh vàng ấy] là do thiện niệm cảm vời, các ngươi muốn tranh đoạt mối lợi ấy, đều là hết sức trái nghịch lòng trời”. Do vậy, phạt hai gã ấy bị đánh trượng, giao vàng cho vị thầy dạy trẻ vỡ lòng.

          Gã X… ở Hoài An gian hiểm, xảo trá, thích đùa bỡn, từ trong nhà bắt được chuột con chưa mọc lông, bèn nghiền nát, ướp bã rượu (hèm) để gạt khách ăn, bảo là “đồ biển”. Những chuyện giống như vậy chẳng phải chỉ một. Về sau, hắn bị kẻ thù bắt giữ, trói vào thân cây, bắt ăn phân của người, thú, chim chóc. Chẳng ăn bèn đánh đập tàn nhẫn, ép ăn trọn hết mới thôi! Làm ác mắc quả báo đều là giống như thế.

          Viên nha lại ở Kiền Châu tên là Lý Cơ cho vay nặng lãi. Hắn có một đứa đầy tớ chuyên đi đòi nợ. Hễ đòi không được, sẽ trói người thiếu tiền vào thân cây, dùng nước phân rưới lên. Do làm như vậy, nên thâu được một ngàn đồng. Bỗng sấm sét đánh gã đầy tớ ấy ngay trước chùa Phổ An, tiền hắn giắt ở thắt lưng đều khảm vào thịt, da phủ lên trên. Câu chuyện này không chỉ cảnh cáo kẻ xấu, mà cũng nhằm cảnh cáo những gã đầy tớ ác độc. Bởi lẽ, bọn tôi tớ của người có thế lực, ỷ thế đòi nợ, có khi xông thẳng vào buồng thêu, chẳng đếm xỉa thể diện của người khác, thường là dẫn đến đại họa, lẽ nào lưỡi búa sấm sét chẳng thường [lơ lửng] ở trên đỉnh đầu bọn chúng?

          Vu Ngọc Bệ nói: – Đạo là con đường chánh đáng để mọi người cùng noi theo. Đạo của thánh nhân trong tam giáo, tuy xét về hình tích thì bất đồng, nhưng bậc thượng thì khiến cho con người minh tâm kiến tánh. Kém hơn là khiến cho người ta hướng thiện, sửa ác. [Đạo của thánh nhân trong tam giáo] như thốt ra từ cùng một miệng, chưa hề chuộng dùng những chuyện quỷ dị để mê hoặc người khác. Những thứ xuất phát từ sự bất chánh, mê hoặc lòng người thì đều là “tả đạo”. Như Trương Giác[68] đời Hán, Tôn Ân và Lô Tuần[69] đời Tấn, Hồng Cân và Lưu Phước Thông cuối đời Nguyên, cận đại thì là những pháp như Vô Vi Hoàng Thiên, Bạch Liên v.v… đều là tả đạo. [Chúng nó] lập tâm chẳng đoan chánh, xuẩn hoặc dân chúng ngu muội, phản vua, trái nghịch cha mẹ, tạo họa, gieo ác. Đó là hành vi của lũ loạn thần tặc tử, phép nước ắt tru diệt, lại càng chẳng thoát khỏi báo ứng trong cõi âm! Còn như bọn thầy bà, đồng cốt tà thuật, giả mượn lời thần, nói họa phước quàng xiên, gạt gẫm, lừa phỉnh dân chúng, cũng sẽ mắc tội giống như vậy.

          Đời Tùy, Tống Tử Hiền có lắm huyễn thuật như phóng quang trên lầu, biến hóa hình tượng Phật. Hắn tự xưng là Di Lặc xuất thế. Hắn lại treo gương trong nhà, hễ có người yết kiến, bèn bảo họ soi [vào đó để biết] đời sau, [trong gương] hiện ra hình rắn hoặc thú. Hắn bảo họ lễ bái, bèn hiện hình người. Do vậy, tụ tập mấy ngàn người, xướng suất làm loạn. Quan quân vây bắt, [trông thấy] chung quanh chỗ hắn ở đều là hầm lửa, mọi người không dám tiến vào. Vị chủ soái bảo: “Nơi này thật sự không có hầm hố, chỉ là yêu thuật lừa dối đó thôi!” Đến khi quân sĩ tiến lên, quả thật chẳng có lửa, bèn bắt được hắn, bằm hắn nát bét!

          Đạo sĩ ở núi Thanh Thành có huyễn thuật, dẫn con em nhà phú quý đi chơi, đến một ngôi đình viện xa vắng, dâng hương, giăng màn, thi thố pháp thuật. Vu Sơn thần nữ và các vị tiên cô đều ứng theo lời triệu thỉnh mà tới đó nhậu nhẹt, chung chạ chẳng khác gì người bình thường. Hoan lạc, cười nói xong xuôi, họ bèn cưỡi mây bay đi. Hắn để cho những người “học đạo” lén nhìn qua kẽ màn. Thiếu chủ nước Thục vây bắt, chẳng bắt được hắn, bèn đem máu lợn, máu chó theo, [phá được tà pháp] mới đuổi kịp. Triều đình tống giam hắn, tra khảo. Hắn khai: “Hằng năm bắt trộm gái trinh trong dân gian, mặc sức hành dâm với họ”. [Do vậy], vô số người bị chết. Vua bèn ra lệnh phanh thây hắn.

          Đời Minh, ông Nhan Mậu Do nói: – Có được yêu thuật có thể lừa dối cõi đời mà chẳng truyền bá, phước ấy cực lớn. Cổ nhân nói: “Người có được thuật ẩn thân mà suốt ba năm chẳng thử dùng, ắt thành tiên”. Lại nói: “Ông có thuật Hoàng Bạch[70] mà không dùng, ắt có thể nhập đạo”. Bởi lẽ, bậc tu chân giấu diếm tung tích, ẩn giấu bản lãnh, coi chuyện “độ người, cứu đời” là chánh yếu. Nếu cậy vào một chút tài nghệ để huyễn hoặc người khác; đó là cội gốc danh lợi chưa thoát, hãy còn cách đạo xa lắm! Huống hồ kẻ làm càn, gian trá, giả mạo ư? Thanh thiên bạch nhật, há dung bọn lỵ mị ấy hiện hình ư?

          Tam Quy trong Phật giáo là “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”. Trong ấy, khẩn yếu nhất chính là Phật pháp. Thuở đức Phật tại thế, Ngài dùng pháp ấy để dạy dỗ, hóa độ chúng sanh. Sau khi đức Phật diệt độ, lưu lại giáo pháp để độ chúng sanh. Đức Phật thuyết pháp, Tăng truyền pháp. Nếu chẳng quy y Tăng, nghe pháp từ chỗ nào? Nếu chẳng có Pháp, nhờ vào đâu để tu hành? Nhưng nương vào Phật pháp để tự tu, nương vào Phật pháp để dạy người khác, lấy “liễu sanh tử, chứng Bồ Đề làm bản hoài” thì chính là Tăng. Nếu chính mình chẳng nương theo Phật pháp tu hành, [chỉ lo] buôn bán Như Lai hòng cầu lợi dưỡng, tiếng tăm, khiến cho người khác lầm lạc, dẫu là hạng đầu tròn áo vuông, nghiễm nhiên giống như Tăng, nhưng thật ra là con cháu của ma! Thân người khó được, Phật pháp khó gặp. Đã được làm thân người, càng phải nên quy y Phật. Thời cổ thì cầu pháp từ Tăng, ngày nay thì trước hết, cần phải dùng pháp để khảo nghiệm Tăng. Đã biết [người xuất gia ấy] là Tăng [chân chánh], hãy khăng khăng một dạ thọ giáo tu hành. Pháp ở nơi đâu? Pháp ở trong kinh. Xin trước hết hãy xem từ bộ Vân Thê Pháp Vựng của Liên Trì đại sư.

 

          (Chánh văn) Đoản xích, hiệp độ, khinh xứng, tiểu thăng, dĩ ngụy tạp chân, thải thủ gian lợi.    

          (正文)短尺狹度。輕秤小升。以偽雜真。採取姦利。

          (Chánh văn: Thước non, thước thiếu, cân nhẹ, thưng non. Đồ giả xen lẫn hàng thật. Dùng thủ đoạn để kiếm lợi gian trá).

          Bốn câu đều nói về chuyện của phường tiểu nhân tham lợi. Thước, đồ đo lường, thưng, cân vv… là những thứ dùng để lượng định giá trị của mọi vật được mọi người cùng đồng ý. Người đời có hai cách thức: Nhập vào thì gắng làm sao cho to, xuất ra thì gắng sức cho nhỏ; nhập vào thì [chú trọng sao] cho nặng, xuất ra thì [cố ý] giảm nhẹ. Lập tâm như vậy, chỉ mong chiếm tiện nghi [cho bản thân ta]. Nào có biết: Chiếm nửa phần tiện nghi, sẽ tổn một phần phước đức! Huống hồ ích ta, tổn người, ắt bị tai ương, thiêu đốt bởi lửa sét cõi trời. [Tuy nhiên], chưa chắc đều là như thế cả, cũng có khi chủ nhân chẳng biết, mà chắc là do con em hoặc tôi tớ trông coi việc thâu vào, xuất ra đã ngấm ngầm làm như thế, tội ấy rốt cuộc quy về chủ nhân, chớ nên không xem xét [tường tận].

          Đời Nguyên, Phí Vinh Mẫn Công (Phí Dung) tiết kiệm, chánh trực, thích điều lành, chuộng thí. Dụng cụ đo lường trong nhà đều theo đúng tiêu chuẩn. Ông thường khắc trên các dụng cụ đo lường như sau: “Xuất như thế nào, phải nhập đúng như thế ấy. Con cháu vĩnh viễn làm như vậy”. Về sau, con cháu của  ông  nghiêm  ngặt  tuân  thủ  pháp  thế

gian, đời đời quý hiển.

          Tại Quảng Lăng, có bà lão họ Vương dùng thước hụt để bán vải vóc. Sau khi chết, báo mộng cho con: “Ta lúc sống dùng thước hụt để lừa dối người khác. Âm ty phạt ta làm trâu ở nhà họ Hạo tại Tây Khê[71], dưới bụng có chữ Vương”. Con bà ta tìm tới nhà họ Hạo, quả nhiên [trâu nhà ấy] vừa sanh một con nghé, dưới bụng có lông trắng thành hình chữ Vương. Đứa con mua lại, đem về. Cho con nghé ăn đồ mềm mịn, nó không ăn, cho cỏ rơm thì ăn. Bắt nó chở nặng hoặc cày ruộng thì trâu yên tĩnh, nuôi nấng an nhàn thì nó nhảy lồng lên, húc chuồng đủ mọi cách, dường như chẳng thể yên ổn nổi. Kẻ tâm địa mê muội kiếm lợi có biết nghiệp báo này hay chăng?

          Trong niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh, tại Dương Châu có một tiệm bán hàng tạp hóa lớn[72]. Chủ tiệm lúc sắp chết, dặn con: “Ta bình sanh lập nghiệp là nhờ cái cân này. Cái cân này làm bằng ô mộc[73], chính giữa rỗng, chứa thủy ngân. Khi cân hàng để bán ra, nghiêng cân cho thủy ngân chảy vào đầu cân. Khi cân hàng để mua vào, bèn dốc cân cho thủy ngân chảy vào phần đuôi cân. [Do vậy], thâu vào thì nặng [hơn số lượng thật sự], xuất ra thì nhẹ hơn [số lượng cần bán]. Vì thế, làm giàu”. Đứa con trong lòng lấy lạ, nhưng chẳng dám nói. Cha chết, con liền đốt cháy cái cân, khói hóa thành một con rồng bay lên trời. Chẳng lâu sau, hai đứa con trai của người con đều chết. Do vậy, anh ta oán hận nói: “Cha dụng tâm bất bình, đâm ra được bình an. Nay tôi mua vào, bán ra công bằng, chẳng dám dối trá, lại trớ trêu chôn hai con! Đạo trời há như thế chăng?” Bỗng dưng anh ta mơ màng [thấy mình] tới một dinh thự của quan lại, vị chủ nhân [của dinh thự ấy] phủ dụ: “Cha ngươi thường ngày bán ra thì nhẹ, mua vào thì nặng, gạt gẫm người khác để mình được béo bở. Tuy nhiều tiền lắm của, vẫn là cố nhiên vốn sẵn có trong số phận. Chỉ vì dùng cái tâm dối lừa tạo nghiệp mà mắc tội với trời. Do đó, Thượng Đế sai hai tinh tú phá tán, tiêu tan đến làm con của ngươi. Khi chúng trưởng thành, sẽ xài phung phí tài sản của ngươi, kế đó là bị hỏa hoạn, khiến cho ngươi hết sạch tài sản, con cháu tuyệt diệt, hòng hiển thị sự báo ứng [của cõi trời đối với kẻ cam tâm lừa dối thủ lợi]. Nay ngươi có thể sửa đổi ác báo, tu hành. Hơn nữa, mọi chuyện đều công bằng, hòa hoãn, tốt lành; do vậy, Thượng Đế gọi hai ngôi sao ấy về. Không lâu sau, sẽ đổi cho ngươi hai đứa con tốt lành, khiến cho gia đình ngươi được rạng rỡ. Ngươi hãy nên gắng sức làm lành, đừng oán hờn xằng bậy”. Người ấy tỉnh lại, nhất nhất ghi nhớ, càng thêm nỗ lực làm lành. Trong vòng ba năm, sanh được hai đứa con. Chúng đều đậu Tiến Sĩ, con cháu đông đảo. Ông Trương Củng Thần nói: “Khi tôi ở Hàn Quan, chơi thân với con cháu của ông ấy. Vì thế, biết chuyện rất tường tận, nhưng giấu tên người ấy, [kẻo người] thân thiết sẽ biết lỗi lầm cũ [của tổ tiên họ]”.

          Tạ Tú Lâm ở Uất Lâm, đối với thước đo, đấu, cân, đều luôn [dùng những phương cách gian trá để] xuất ra nhẹ hơn hòng ngang ngược kiếm lợi. Một hôm, gã ấy bị sét đánh chết. Nhiều lần chôn, nhiều lượt bị [sét đánh xuống] quật tung mồ, thịt tan nát, bị đốt cháy. Trong bụng có một lưỡi tầm sét.

          Đời Tống, Vương Lương Nhụ chết đi sống lại, nói mình đã tới âm phủ. Thấy trên tường treo đấu, hộc, cân, thước. Hỏi những thứ ấy dùng để làm gì, nha lại cõi âm bảo: “Do tăng giảm [trọng lượng] nặng nhẹ, mang lòng lừa dối kiếm lợi, mà mắc phải tội này”. Sau khi Lương Nhụ sống lại mười ngày, phàm là những vật dụng như đấu, cân v.v… sai trái, không đúng tiêu chuẩn, đều bị cháy rụi!

          Đời Tống, Lý Giác ở Quảng Lăng buôn bán kiếm sống. Ông thấy những người cùng nghề xuất ít, thu nhiều, bỏ ra nhỏ nhoi, thu vào to lớn, tâm chán ghét, bèn khuyên bảo [những kẻ ấy] hãy thôi đi! Lý Giác thu vào bán ra như nhau, kiếm đôi chút tiền lời để có cái sinh sống. Lâu ngày, gia cảnh cũng giàu có. Về sau, có một vị Chế Trí Sứ[74] tại Giang Hoài có tên họ giống như ông. Người ấy ban đêm nằm mộng, thấy vào động phủ, xem trong sổ tiên có ghi tên họ Lý Giác, bèn rất mừng rỡ, tưởng mai sau sẽ được lên cõi tiên. Bỗng có hai đồng tử bảo: “Lý Giác này chẳng phải là ông đâu, mà là một người dân ở huyện Quảng Lăng”. Ông ta tỉnh giấc, bèn dò tìm người ấy, hỏi ông ta đã tu những chuyện gì? Đáp: “Chẳng có gì khác, chỉ là tâm đối đãi công bằng với muôn vật mà thôi”. Về sau, Lý Giác thọ tới một trăm tuổi, bỏ xác phàm thành tiên. Châu Trinh nói: “Cõi đời nói chẳng lừa dối thần minh. Tôi nói [“thần minh” trong lời ấy] không phải là tất cả các vị thần trong trời đất, mà là ‘chẳng lừa dối vị thần trong tâm ta’ thì chính là chẳng lừa dối thần minh”. Than ôi! Người có thể hiểu điều này có được mấy người vậy?

          Người đất Thục (Tứ Xuyên) là Lê Vĩnh Chánh khéo tạo đấu và cân, tăng, giảm nặng nhẹ. Chỉ cần có người thuê làm, trả giá gấp bội, hắn sẽ không gì chẳng làm. Kẻ tiểu nhân chẳng đoái hoài đạo trời, thường đến nhờ hắn làm. Hắn bị thần tư sát (vị thần có chức trách tra xét) tấu lên thượng thiên, Vĩnh Chánh và hai con đều mù, năm ngón tay đều thương tổn, tàn phế, các khớp tay rơi rụng mà chết. Ôi! Chế tạo giùm người khác mà bị quả báo như thế, chính là vì trừng trị tận gốc. Phàm hết thảy những kẻ sống bằng nghề buôn bán, có kẻ nào chẳng muốn tự nuôi thân, nuôi gia đình, thế mà cứ thường chọc giận cõi trời, là vì lẽ nào vậy? Sao bằng xem xét tường tận câu chuyện này, dũng mãnh sửa đổi thì may mắn lắm thay!

          Gần đây, những vật được buôn bán ngoài chợ búa, gần như là đồ giả nhiều hơn đồ thật. Đấy cũng là vì thế đạo nhân tâm bị biến đổi. Phàm những món thực phẩm cần thiết, những món thuốc men cần dùng, những thứ như vàng, lụa, vật dụng v.v… nếu là đồ giả, hoặc kém phẩm chất đôi chút, kẻ [buôn bán những thứ ấy] sẽ là phường chôn vùi lương tâm, hại người không chi hơn nổi! Còn như kẻ sử dụng bạc giả, tội ác càng sâu, trời sẽ tru diệt càng nhanh chóng hơn.

          Năm Canh Tuất (1670) đời Khang Hy nhà Thanh, có người họ Cố từ đất Mân (Phước Kiến), ngụ cư tại Giang Âm, ngầm buôn bán bạc giả. Hắn mang bạc ra chợ, không ai có thể nhận biết [là bạc giả hay thật], nhưng chẳng quá mười ngày. Hễ quá [thời hạn ấy, thoi bạc giả] lại hiện nguyên bản chất. Có gã tên Giáp nọ dùng sáu lượng [bạc thật] để đổi lấy hai mươi lượng [bạc giả], tới Xương Môn mua sa, đoạn. Quay thuyền trở về, đêm qua Hoa Đãng, gió mạnh lật thuyền, chẳng còn một tấc lụa là nào. Gã đó may nhờ bơi lội giỏi nên thoát chết, lõa lồ quay về. Cũng trong ngày hôm ấy, gã họ Cố bị sét đánh chết. Lò nung, búa rèn để chế bạc giả đều nát như bột. Than ôi, ngu dại thay! Họ Cố vì gian trá mà bị giết là lẽ đương nhiên. Còn gã Giáp do một niệm tham lam, mất bay sáu lượng tiền vốn, chẳng biết áo mền, hành lý đem theo giá trị bao nhiêu tiền nữa? Buôn bán đến mức này, có thể nói là lỗ vốn! May mà tánh mạng chẳng chôn vùi trong sóng cuồn cuộn, nguy ngập thay! Kẻ tiểu nhân vô tri đáng thương đến mức ấy. Ngu tôi có một lời cảnh tỉnh mọi người rằng: “Ta buôn bán là muốn cầu sống còn. Ta muốn sống còn, người khác chẳng mong sống sót ư? Ta muốn nuôi gia đình, người khác trọn chẳng muốn nuôi nấng gia đình họ ư? Huống hồ kẻ mang tâm lừa dối nghịch thiên, báo ứng vằng vặc, chẳng có kẻ nào không bị mất mạng rồi mà lại còn gây hại khiến cho gia đình bị diệt môn, đó có phải là ý muốn kẻ buôn bán hay chăng?”

          Ông nội của Thượng Thư Tôn Thẩn Xuyên một hôm buôn bán thâu vào hai lượng bạc. Cụ đưa cho người khác xem, thì ra là bạc giả. Cụ nghĩ: “Bạc này chẳng thể dùng, há nên giữ lại khiến cho người khác bị lầm lạc ư?” Tới bãi sông Đông Hà, ông lại lội xuống nước đi mấy chục bước, quăng bạc xuống chỗ sâu. Con trai cụ thi đỗ, làm Phó Sứ. Cháu nội của cụ chính là Thẩn Xuyên. Cụ Tôn thu được bạc giả bèn quăng xuống hồ, tấm lòng ấy hợp với tâm Lữ Tổ. Con cháu hiển vinh, sang quý, vẫn là báo ứng nhỏ nhặt vậy!

          Đời Tống, Lô Thường ở Lư Sơn bán dầu và nến, bỏ lẫn mỡ cá trong ấy [để làm nến]. Còn Hoàng Vũ tại Kiến Long Quán dùng mỡ bò pha vào dầu để làm nến. Hai gã đều bị thiên lôi đánh chết. Ôi! Nay thì có kẻ bán muối lẫn cát, bán rượu pha nước, những kẻ ấy cũng nên nhìn vào gương này!

          Gã họ Nghê ở Hải Diêm dùng các loại vụn gỗ nghiền nát làm hương để buôn bán. Một đêm, đám mạt hương bỗng bốc cháy, tỏa khói. Họ Nghê muốn chạy ra khỏi cửa, nhưng bị khói làm cho mê muội, không chạy ra được, người lẫn nhà đều cháy tiêu.

          Đời Minh, Trương An Quốc khi làm tri phủ, do thấy ngoài chợ có nhiều kẻ bán thuốc giả, bèn yết bảng răn cấm: “Do Đào Ẩn Cư (Đào Hoằng Cảnh) trước tác bộ Thảo Mộc Kinh Tập Chú Yếu, Tôn Chân Nhân (Tôn Tư Mạo) trước tác Thiên Kim Phương Nhân giúp vật, lợi sanh, tích chứa nhiều âm đức, cho nên được lưu danh trong các vị tiên. Từ đó tới nay, người làm nghề y, bán thuốc, thành tâm cứu người, đạt được phước báo rất đông. Nếu chẳng bàn đến những điều được sách vở ghi chép, chỉ xét trong thời gần đây, sự ứng nghiệm càng nhiều. Có kẻ chỉ bán thuốc thật, tài sản to lớn cả vạn, hoặc là bản thân an nhàn, vinh hiển, hưởng cao thọ. Hoặc là con cháu đỗ đạt, thay đổi môn hộ, [báo ứng] như bóng theo hình, chẳng có sai sót. Lại từng thấy kẻ buôn bán thuốc giả, thoạt đầu tích tụ đôi chút tài sản, tự cho là ổn thỏa, chẳng biết trong cõi ngấm ngầm, tài lộc đáng lẽ nên có của chính mình đã bị tước giảm. Hoặc bản thân gặp nhiều tai họa ngang trái, hoặc con cháu phi lý phá tán sạch sành sanh. Đến nỗi có kẻ bị lửa trời [thiêu đốt], hoặc bị sét đánh. Bởi lẽ, người mua thuốc phần nhiều là do bệnh tật cấp bách; do vậy, họ đem tiền cầu tìm. Con cháu hiếu thuận chỉ mong [cha mẹ, ông bà] uống thuốc vào sẽ thấy ngay hiệu quả, kiến hiệu, nhưng mua nhầm thuốc giả, không chỉ là vô ích, mà còn đâm ra bị tổn thương. Bình thường, giết một con vật thuộc loại phi cầm, tẩu thú còn có nhân quả; huống hồ trong muôn vật, mạng người trọng nhất. Vô tội mà mắc họa, đau đớn kể sao cho trọn, há chẳng nên kiêng dè ư?”

          Đoạt lấy (thủ) mà dùng chữ Thải (採) để nói [nhằm hình dung phương cách chiếm đoạt chẳng đơn giản], do gian trá mà đắc lợi, tức là dụng tâm tàn nhẫn, hà khắc, không gì chẳng làm! Hiện thời, hết thảy những chủ thuyền gian trá cậy thế quan phủ, hoặc những kẻ đứng làm trung gian giao dịch đều thuộc loại này, không nhất thiết phải là những kẻ lén đúc tiền riêng hay buôn bán muối riêng tư mới gọi là “thải thủ gian lợi”. Vì thế, trong giới áo mũ (quan lại) cũng có chuyện ác này, há có nên chỉ chê trách bọn tiểu dân nơi phố chợ mà thôi!

          Cổ nhân có thơ rằng:

          Việt gian, việt xảo, việt bần cùng,

          Gian xảo nguyên lai thiên bất dung,

          Phú quý nhược tùng gian xảo đắc,

          Thế gian ngốc hán hấp tây phong!

          (Càng thêm gian xảo, càng nghèo khó,

          Trời vốn chẳng dung kẻ dối gian,

          Nếu nhờ gian xảo mà giàu có,

          Thế gian kẻ ngốc đói bò càng).

          Trương Phụng thông hiểu chuyện thưa kiện, biết rõ thuế ruộng của từng nhà trong vùng. Hắn có thể khiến cho kẻ có ruộng liên tiếp nối bờ (rất nhiều ruộng đất) biến thành sạch túi, không có tấc đất cắm dùi. Do vậy, sổ bộ ghi tên hắn là chủ ruộng rất nhiều. Cả vùng khổ sở vì sự tàn độc của hắn mà không dám nói. Buổi sáng mà nói [động chạm tới hắn], buổi chiều thuế má đã ập tới. Hắn rất thông thạo cách bóc lột dân chúng. Hễ có quan trên tới [trấn nhậm], liền gọi hắn hỏi han, trong chốc lát, đã nắm tay vui vẻ. Rốt cuộc quan trên nhìn theo sắc mặt của hắn mà hành xử. Hắn hằng ngày chỉ dạy trưởng quan phương cách bóc lột tận cùng tiền tài của dân chúng. Quan trên được hai phần, còn bảy phần giao về Trương Phụng. Quan Tuần Phủ là ông Đường dò xét, nắm rõ tình trạng ấy, sai thuộc hạ võ công cao cường bắt trói hắn. Trên đường bị đóng gông giải đi, hắn hối lộ người áp giải trọng hậu nhưng không được, bèn giở mưu kế trốn thoát, người áp tải hắn đuổi theo chẳng kịp. Khi ấy, bốn phía đồng hoang không có mây, đột nhiên sét đánh đằng Đông mà Trương Phụng chết ngắc ở đằng Tây. Bụng hắn toang hoác như bị mổ tung ra, ngũ tạng như bị khoét mất. Dân chúng chán ghét, ngay cả chó, lợn cũng chán ghét [chẳng thèm ăn thịt thối của hắn].

 

          (Chánh văn) Áp lương vi tiện. Mạn mạch ngu nhân.

          (正文)壓良為賤。謾驀愚人。

          (Chánh văn: Chèn ép người lành khiến họ trở thành ty tiện. Dối gạt kẻ ngu).

          Những kẻ hiện thời làm nô tỳ cho người khác là do đời trước tạo nghiệp, tích ác, những lỗi ác [đã tích tụ] cho đến con số một ngàn tám trăm điều. Trong số ấy, có những kẻ chẳng phải thật sự là nô tỳ, mà vốn là con cái nhà đàng hoàng, nhưng do ta dùng thế lực cưỡng chế, ép buộc họ làm nô tỳ, tức là “chèn ép người lành, khiến cho họ trở thành hàng ty tiện”. Còn như mua con gái nhà lành về làm kỹ nữ xướng ca, sẽ thuộc về tội “thập ác bất xá”[75] (十惡不赦, mười điều ác chẳng thể ân xá), lại càng chẳng cần phải nói nữa!

          Châu Tường ở Chương Châu làm bạn với Tiết Thuần. Tiết Thuần nghèo nàn, chỉ có một đứa con. Tiết Thuần chết, đứa con được gởi cho Châu Tường nuôi. Rốt cuộc, Châu Tường coi nó như tôi đòi; hễ có chút gì chẳng bằng lòng, liền đánh đập tơi bời. Một ngày, Châu Tường gặp Tiết Thuần trên đường, kinh hãi hỏi: “Anh đã qua đời, sao lại đến nhân gian?” Đáp: “Đến thăm con tôi và bắt anh đi theo”. Châu Tường tuôn mồ hôi như mưa, trở về nhà, chết đột ngột. Từng thấy trong nhà phú quý, những kẻ thân tộc khốn khổ không nơi nương tựa, gởi thân vào nhà ấy, mong có được miếng cơm, manh áo, thường bị sai khiến như kẻ tôi đòi! Thậm chí còn bị chửi mắng, quát tháo. Đấy là những trường hợp bị đức Thái Thượng răn cấm. Nhưng hạng người như thế ấy thoạt đầu là có lòng giúp đỡ, chăm sóc, về sau lại làm chuyện vùi dập, đày đọa, không chỉ là chẳng có công lao gì, mà còn tổn đức, há chẳng đáng tiếc ư?

          Tại kho Quảng Tế[76] của tỉnh Chiết Giang, [quan lại địa phương] mỗi năm thường sai những người có tiền trong thành Hàng Châu đảm nhiệm công tác khố dịch[77] để trông coi chuyện thâu vào, phát ra. Có kẻ vì bòn rút công khố quá nhiều, chẳng thể bù đắp được, viên Phủ Phán[78] là Vương X… bèn bắt thê, thiếp, con cái của người ấy lên quan. Rốt cuộc, người ấy chẳng đền được, ông Vương bèn sai [cấp dưới] dùng thuyền nhỏ, chở họ ra Tây Hồ làm người hầu cho các du khách để lấy tiền nạp cho quan phủ. Về sau, con cháu của họ Vương có đứa làm kỹ nữ ca xướng!

          Có một hạng cha mẹ, do bất đắc dĩ, phải làm chuyện táng tận lương tâm vô sỉ là bán con cái làm nô bộc cho kẻ khác, nhưng ta có nỡ lòng [đứng nhìn cảnh ấy] hay chăng? Người chuộng nghĩa, do có sức bèn bỏ ra tiền bạc để giúp đỡ người ấy trong cơn túng ngặt, hòng bảo vệ con cái của nhà đàng hoàng ấy. Đó là đức dầy. Nếu như chẳng thể, ta đừng làm nhục chúng. Tuy chẳng tránh khỏi phải bán chúng cho người khác, vẫn chẳng đánh mất sự tận tâm của ta!

          Hạng trung lưu và bần tiện vốn chẳng có nhất định. Bất quá con cái của kẻ nghèo bán cho người giàu có thì gọi là “tiện” (賤, bần tiện, hèn kém), thật ra đều là “lương” (良, đàng hoàng, không phải là thân phận tôi tớ, nông nô). Người thời nay yêu quý con cái của chính mình như châu báu. Cao lương mỹ vị ngon béo, lụa là, thêu thùa [đều dành cho con mình], nhưng đối với con nuôi trai gái thì coi như bụi, rác, đòn roi, đối xử thô ác, [chẳng quan tâm chúng nó] đói khát, rách rưới, rét buốt! Những đứa trẻ ấy cũng do cha mẹ sanh ra, sao mà [bị đối xử] chẳng công bằng như thế ấy? Sao chẳng nghĩ kẻ giàu có thể trở thành nghèo nàn, người nghèo nàn có thể trở thành giàu có? Đạo trời thật sự chưa thể biết được, có thể bảo đảm hạng trung lưu chẳng đâm ra trở thành nghèo hèn, kẻ nghèo hèn chẳng đâm ra trở thành trung lưu ư?

          Đối đãi người ngoài, xử sự với người dưới, cần phải là “ở vào địa vị phú quý, thấu hiểu nỗi đau đớn của kẻ nghèo hèn”. Đang lúc trẻ trung, khoẻ mạnh, hãy nghĩ tưởng nỗi niềm cay cực, chua xót của người già cả. Ở trong hoàn cảnh an lạc, hãy thấu hiểu, thương xót hoàn cảnh, trạng huống của người hoạn nạn. Ở trong cảnh bàng quan, hãy thông cảm nỗi khổ tâm của người trong cuộc.

          “Mạn” (謾) là lừa dối kẻ không biết, không thấy. “Mạch” (驀) là dáng vẻ nhanh nhảu, lanh lợi. Hễ dùng quỷ kế để bày cách lừa đảo, khiến cho kẻ khác bị vướng vào mưu mô ấy, thì gọi là “mạn mạch” (謾驀). “Mạn mạch” đều chớ nên dùng; áp dụng [những mánh khóe ấy] vào kẻ ngu lại càng đáng thương hơn! Dẫu kẻ ngu chẳng thể trả đũa, trong cõi ngấm ngầm, sẽ tự có kẻ báo đền thay cho họ. Kẻ ngu chẳng bị tổn hại mà ta đã bị tổn hại trước!

          Sách Viên Thị Thế Phạm chép: – Nghèo, giàu chẳng hề là chuyện nhất định. Ruộng nương, nhà cửa, chẳng có chủ cố định. Có tiền bèn mua, không tiền thì bán. Kẻ mua sản nghiệp hãy nên biết lý này. Huống hồ người ta bán tài sản là vì thiếu cái ăn, hoặc do mắc nợ, hoặc vì bệnh tật, tử vong, kết hôn, thưa kiện. Do có trăm ngàn thứ phải chi tiêu mà bán trăm ngàn sản nghiệp. Kẻ mua sản nghiệp, hãy chú trọng khoan dung, đôn hậu, trả cho đúng giá trị, [ngõ hầu] người bán sau khi đã chuyển giao [sản nghiệp], tuy chẳng còn lại gì, [nhưng món tiền người ấy nhận được] vẫn đủ để giải quyết xong xuôi chuyện ấy. Kẻ làm giàu bất nhân, chuyên chú trọng lừa dối, lươn lẹo, biết người bán có chuyện gấp phải cần dùng, bèn bề ngoài cự tuyệt, bên trong ngấm ngầm dẫn dụ để dìm giá thật sâu. Đã lập xong văn khế, lại dằng dai, chẳng lập tức thanh toán trọn số, hoặc dùng gạo, thóc, hay những món vật khác tính cao giá lên để khấu trừ [món tiền phải thanh toán], hoặc ước hẹn kỳ hạn để trả lẻ tẻ. Kẻ đã bán sản nghiệp sẽ vì đó mà tiêu hao hết tiền nhưng chẳng thể giải quyết xong xuôi chuyện ấy, phải qua lại đòi nợ, chi phí và công sức lại chiếm mất nửa. Kẻ giàu có kia lén lút vui sướng, ngỡ là mưu mô hay khéo, chẳng biết đạo trời sẽ báo đền. Có trường hợp báo ứng ngay trên thân người ấy, có khi rơi vào thân con cháu. Lắm kẻ mê muội chẳng tỉnh, vì lẽ gì vậy?

 

          (Chánh văn) Tham lam vô yếm, chú trớ cầu trực.

          (正文)貪婪無厭。呪詛求直。

          (Chánh văn: Tham lam chẳng chán, thề thốt để người khác tin là mình chánh trực).

          Dùng miệng nuốt chửng đồ vật thì gọi là Lam (婪), ý nói lòng tham của con người giống như cái miệng ăn nuốt thực phẩm chẳng chán, chẳng ngừng, chẳng có cùng cực. Lão Tử nói: “Tội mạc đại ư đa dục, họa mạc đại ư bất tri túc” (Tội không gì lớn bằng lắm dục vọng, họa không gì lớn bằng chẳng biết đủ). Kẻ biết đủ dẫu nghèo hèn vẫn vui sướng. Kẻ chẳng biết đủ, dẫu phú quý vẫn lo rầu. Người đời tham cầu quá nhiều, rốt cuộc đều hao tán!  Vì thế, chẳng cần phải nói nữa, lại

còn gieo mầm tai họa, càng khó kết liễu!

          Chân Bân là người có phẩm hạnh, đạo đức cao thượng. Ông từng đem một bó sợi gai đến tiệm cầm đồ để cầm lấy tiền. Về sau, ông chuộc bó gai về, thấy trong ấy có năm lượng vàng. Chân Bân đem vàng giao trả, chủ tiệm cho Chân Bân một nửa. Chân Bân chẳng nhận, bảo: “Kẻ tháng Năm mặc áo dầy, đội củi[79], há chịu nhận vàng ư?”

          Vào thời Đường Đại Tông, Trung Thư Thị Lang Nguyên Tải[80] qua trung gian của các con mà móc nối ăn hối lộ. Ở kinh đô và các nơi, hắn đều dẹp trừ bậc trung lương, cất nhắc bọn tham lam, bỉ ổi. Hắn giàu có, xa xỉ, hằng ngày đều ca xướng, hoan lạc, ngay cả hoàng cung cũng chẳng bằng. Vua đã từng răn nhắc, hắn chẳng thay đổi. Về sau, vua giận, bắt giam Nguyên Tải, hạ chiếu ban chết. Vợ con hắn cũng được ban chết, tịch biên gia sản, [tịch thâu] năm trăm lượng chung nhũ[81]. Vua hạ lệnh chia cho các quan thuộc [các cơ cấu] Trung Thư, Môn Hạ, và Đài Tỉnh, [còn có] hồ tiêu đến tám trăm thạch. Những món vật khác cũng nhiều ngần ấy. Trịnh Tuyên nói: “Từ xưa, những kẻ ở vào địa vị Tể Tướng, có bao giờ chết vì đói rét, mà thường là chết vì của cải, vật chất, cũng đáng nực cười thay!”

          Đời Minh, trong niên hiệu Thiên Thuận (đời Minh Anh Tông), Lý Minh ở Gia Hưng có một chiếc bình báu. Kẻ nhà giàu là Tào Viện muốn đổi bằng hai mươi thạch gạo, nhưng ông Lý không đồng ý. Về sau, [Lý Minh] lại gạ gẫm Hoài Duyệt, Hoài Duyệt trả gấp bội, [Lý Minh] vẫn không bán. Lại giao cho Ngô Nhữ Huy xem, Nhữ Huy trả giá một trăm thạch gạo. Đã đồng ý bán, có gã Lưu Chúc bảo Lý Minh: “Tôi có một kế, khiến cho ông thâu lợi to lớn. Nếu ông dâng cái bình ấy cho quan Trấn Thủ Trương Thái Giám để đổi lấy giấy phép vận chuyển và tiêu thụ muối trong cả quận Gia Hưng thì sẽ được lợi gấp trăm lần”. Lý Minh đồng ý. Lưu Chúc đi chạy chọt thay, quả nhiên đạt được đúng mưu đồ, tính ra sẽ được lợi hơn ba ngàn lượng. Họ Lưu được chia một phần ba [số phiếu lãnh muối]. Lý Minh lãnh về, qua sông, thuyền lật, các tấm phiếu lãnh muối đều bị ướt nhẹp, hư nát. Thái Thú quận Gia Hưng là Dương Kế Tông thúc bách đòi nộp [số lượng muối đúng với] những giấy phép [đã cấp] ấy, Lý Minh bị [giam cầm], chết trong ngục. Lưu Chúc bán sạch gia sản để bồi thường!      

          Cổ nhân nói: “Cõi đời chẳng có người trăm tuổi, oan uổng bày mưu tính kế ngàn năm”. Mong cầu chẳng chán để làm gì? Có phải là vì muốn tính toán cho con cháu đó chăng? Chẳng biết tục ngữ có câu: “Nếu con cháu chẳng được như ta, chúng nó cần tiền để làm gì? Con cháu mạnh mẽ như ta, [chúng nó] cần tiền để làm gì?”

          Đời Hán, Sớ Quảng nói: “Há có phải là ta già cả, hồ đồ, chẳng nghĩ tới con cháu ư? Ta có ruộng đất, nhà cửa cũ, con cháu siêng năng cày bừa, sẽ đủ để cung cấp áo, cơm. Nếu tăng thêm hòng được dư dả hơn, chính là dạy con ôm lòng lười nhác. Kẻ hiền mà có lắm tiền của, ắt ý chí hao tổn. Đứa ngu mà có lắm tiền của, sẽ càng tăng thêm lỗi lầm. Hơn nữa, kẻ giàu bị nhiều người oán hận. Ta đã chẳng có gì để dạy con cháu, chẳng muốn chúng nó tăng thêm lỗi để sanh oán”. Do vậy, ta thấy Tư Mã Ôn Công đã giáo huấn: “Chứa vàng chẳng bằng tích đức”. Sao chúng ta không đọc tụng nằm lòng [câu nói ấy] hòng nỗ lực thực hiện vậy thay!

          “Chú trớ” (呪詛) là thề với thần. “Cầu trực” (求直) là cầu thần báo ứng nhanh chóng. Chuyện này chẳng phải đợi đến khi dùng hình thức sớ tấu [để thề thốt với thần], mà hễ tức giận trong khi tranh chấp, xằng bậy kêu gọi [quỷ thần] thì đều thuộc vào phạm vi của lời răn này. Xét ra, Chú Thệ Chương có nói: “Hễ có thề thốt, ắt bốn phương tám hướng đều tiếp nhận lời thề thốt của kẻ ấy, hết thảy loài quỷ hung ác sẽ đều thừa cơ kiếm sơ hở để đột nhập, gây nên họa hại. Nếu chẳng sám hối, thỉnh thiên thần giáng hạ hóa giải, sẽ chẳng dễ đoạn trừ”. Vậy thì có nên thề thốt hay chăng?

          Đầu thời Vạn Lịch nhà Minh, một gã lý dịch là Vương Trứ ở Tây Hoa, do đôi co với người nạp thuế về chuyện thiếu thuế, đã thề thốt ở miếu Thành Hoàng. Ban đêm, hắn ngủ lại chùa Dương Thiện, bỗng nghe tiếng quát tháo. Hắn thức dậy xem, thấy một vị quan đứng dưới ánh đuốc, đội phốc đầu[82], áo đỏ, người theo hộ vệ rất đông. [Vị ấy] quát bảo hai tráng sĩ vung đao hướng về phía Vương Trứ. Vương Trứ cầm nghiên mực trên án quăng họ, rốt cuộc vẫn bị đâm trúng, miệng và má đều bị đổ máu. Tăng chúng trong chùa bị kinh động thức dậy, chẳng thấy một ai. [Vương Trứ] mới biết là thần Thành Hoàng. Sáng hôm sau, hắn mặc áo tù nhân, đến miếu tạ tội, thấy thần tượng trong miếu nghiễm nhiên như giống như trong mộng. [Tượng] thị vệ đứng bên phải thì cầm đao, trên thân có vết mực. Hơn một tháng, vết thương nơi miệng mới lành, giống hệt như vết đao chém. Phàm Lý và Sự vốn có đúng hay sai, vốn là đúng thì công luận khó thể dẹp trừ được, lâu ngày [sự thật] sẽ tự tỏa rạng, tội gì phải so đo? Nếu là sai thì hãy tự phản tỉnh, hối lỗi, há dám đối trước thần mà hờn oán người khác ư? Huống hồ mọi chuyện chỉ nên xét theo đúng lý mà an phận. Hễ thề thốt, sẽ bị quỷ thần chán ghét, ắt bị trời phạt, há chẳng nên kiêng tránh ư?

 

          (Chánh văn) Thị tửu bột loạn.

          (正文)嗜酒悖亂。

          (Chánh văn: Ham nhậu nhẹt, quậy phá).

          Rượu có thể làm loạn tánh. Nếu quá mức mê rượu, sẽ bị tổn thất cực lớn. Xem bài Tửu Cáo[83] bèn biết cổ nhân đã lo lắng sâu xa. Xem bài Tửu Tụng[84], sẽ biết cổ nhân gởi gắm niềm hứng thú sâu xa. Như trong [cổ] lễ đã nói, hễ kính nhau một lượt rượu[85], chủ và khách vái chào lẫn nhau nhằm ngăn ngừa do rượu mà thất lễ! Người đời ham thích rượu chè vô độ; do vậy, dẫn đến chuyện thân thể chệnh choạng, lễ pháp bị chôn vùi, rối loạn, chửi bới người cùng ngồi [trong bàn rượu], nằm lăn ra đường phố, trái pháp, phạm thượng. Lâu ngày, [do say sưa], sẽ bị chôn vùi cái tâm, mất hết phẩm đức, có thể khiến cho kẻ sĩ bại hoại danh tiết, quan lại bị mất chức, nhà nông bỏ mặc ruộng nương, lái buôn cụt sạch vốn. Thậm chí mất mạng, tan nhà, há chẳng đau xót ư?

          Đời Tống, Lỗ Công Phạm Chất răn con rằng: “Cha răn các con đừng ham uống rượu. Rượu là loại thuốc gây cuồng, chẳng phải mỹ vị. Nó có thể khiến cho người tánh tình cẩn trọng, nồng hậu hóa thành hung hăng, ương bướng”. Tào Nguyệt Xuyên nói: “Để dưỡng tánh, chớ tham đắm loại nước khiến cho tánh bị hôn ám. Đã lập gia đình, phải kiêng loại ‘canh phá nhà’. Hơn nữa, cội nguồn của hết thảy các chuyện dâm loạn phần nhiều bắt nguồn từ rượu”. Vì thế, trong bốn điều răn, lấy rượu làm điều răn đầu tiên.

          Kẻ say ắt mất sạch thiện niệm, ác niệm dấy lên lừng lẫy. Khi tỉnh, ắt chẳng dám làm, ắt chẳng dám nói; hễ say, sẽ làm luông tuồng, sẽ nói bừa bãi. Vì thế, người uống rượu mà biết giữ chừng mực, thì [rượu sẽ] được gọi là Thái Hòa Thang (太和湯, canh Thái Hòa), hoặc gọi là Vong Tình Hữu (忘情友, người bạn giúp mình quên buồn). Kẻ uống rượu mà chẳng thể giữ chừng mực thì [rượu được] gọi là Nhu Ma (柔魔, con ma dịu dàng), gọi là Cam Độc (甘毒, chất độc ngọt ngào).

          Rượu là củi để [đốt lên] lòng dâm. Phóng túng rượu chè mà chẳng phóng túng dâm dật thì hiếm lắm! Bởi lẽ, nội hỏa vừa bừng bừng bốc lên, dâm dục hừng hực phừng lên, đã là khó ngăn ngừa; huống hồ, rượu chè phóng túng khiến cho ngọn lửa ấy càng thêm mạnh mẽ ư? Nhậu say rồi ăn nằm, ngũ tạng đảo lộn, sẽ mắc bệnh chẳng nhẹ, càng phải nên đau đáu kiêng dè! Lại có kẻ do say sưa mà nói huỵch toẹt những chuyện dâm uế, [đến nỗi] phải chịu nhục, táng mạng, hối hận sao kịp?

          Chuyện đáng nực cười nhất trong thế gian không gì bằng tranh đua thắng thua trong tiệc rượu. Xử sự trong cõi đời, mỗi chuyện đều nên lùi bước, nhân nhượng. Huống chi đôi khi [cùng nhau tụ tập] vui chơi, hành tửu lệnh[86] so quyền, bất quá là để cao hứng trong chốc lát, thắng chẳng đáng để vinh, thua chẳng đáng nhục! Thua thì chẳng bị mất mát gì, thắng chẳng đạt được gì. Đúng như người chơi cờ vây đã nói: “Thắng thì cố nhiên là vui thú, thua thì cũng vui vẻ”. Những kẻ đã hôn ám chẳng biết, cứ ắt phải thắng mới được, đến nỗi chẳng say chẳng nghỉ! Sao mà ngu si quá mức vậy? Lại có kẻ tự khoe tửu lượng cao, coi chuyện không ai có tửu lượng bằng mình là hành vi hào hùng. Chẳng biết đạo đức, văn chương, đỗ đạt, công danh của chính mình đúng là nhiều phần chẳng sánh bằng kẻ khác, [thế mà] cứ khăng khăng khoe khoang tửu lượng cao, há cũng chẳng lầm lạc ư? Lại có một hạng người, khoe khoang coi chuyện tửu lệnh nghiêm minh là điều đáng đắc ý, chẳng nghĩ rượu dùng để chung vui với nhau, hãy nên thuận theo tửu lượng của từng người, tội gì cưỡng ép [kẻ khác] uống cho nhiều đến nỗi tổn thương thân thể! Tục ngữ có câu: “Chánh trị hà khắc còn tệ hơn cọp dữ”. Tôi nói: Tửu lệnh hà khắc thì cũng giống như vậy. Trong tiệc rượu, nếu có hạng người ấy, hãy nên gấp viện cớ để tránh đi.

          Trong Đại Trí Độ Luận đã ra nêu các lầm lỗi do uống rượu như sau:

          1) Tâm không tiết chế, chẳng có chừng hạn.

          2) Tài vật hư hao, kiệt quệ.

          3) Cửa ngõ dẫn đến các thứ bệnh.

          4) Cội rễ của sự đấu tranh.

          5) Lõa lồ chẳng hổ thẹn, giống như trâu ngựa.

          6) Do ta làm nhục, khinh miệt, chửi bới những người cùng uống, mà bị người ta ghét bỏ.

          7) Chẳng đạt được vật đáng lẽ đạt được.

          8) Bỏ mất vật đã đạt được.

          9) Trong khi say, phun ra hết những chuyện giấu diếm; khi tỉnh rượu bèn hối tiếc.

          10) Khi say có nhiều hành vi sai trái, khi tỉnh sẽ hổ thẹn.

          11) Sức lực suy yếu.

          12) Sắc mặt biến đổi.

          13) Tâm chí mê hoặc.

          14) Trí huệ bị che lấp.

          15) Chẳng biết tôn kính cha mẹ.

          16) Chẳng biết tôn kính quỷ thần.

          17) Chẳng biết sợ lời nói của người khác.

          18) Chẳng biết sợ phép vua.

          19) Kéo bè kết đảng làm chuyện cuồng vọng, bạo ngược.

          20) Lợt lạt, xa lánh bậc hiền thiện.

          21) Chẳng hổ thẹn.

          22) Dễ nổi giận đùng đùng.

          23) Chẳng kiềm chế lục tình (mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét).

          24) Phóng túng sắc dục vô độ.

          25) Bị người đã từng cung kính ta bài xích, xua đuổi.

          26) Chẳng cẩn thận, kiêng sợ.     

          27) Coi ngày là đêm, sự nghiệp đều bỏ bê.

          28) Phạm lỗi về luân thường, đạo đức.

          29) Vứt bỏ thiện pháp.

          30) Xa lìa Niết Bàn.

          31) Gieo cái nhân ngu si, cuồng vọng.

          32) Khi thân hoại, mạng chung, sẽ đọa  trong  ác  đạo. Nếu  được

làm người, tâm luôn cuồng loạn, hết thảy những vật bên ngoài cần dùng cho cuộc sống thảy đều bị bại hoại.

          Một kẻ sĩ ở đất Mân (Phước Kiến) là Lưu X… bình thời phẩm hạnh đoan nghiêm, học trò rất đông. Hằng ngày, ông ta thường răn dạy [học trò] kiêng dè sắc dục. Một hôm, ngẫu nhiên say sưa, tranh giành gái điếm với bạn. Khi tỉnh, hết sức hối hận, xấu hổ chẳng muốn gặp các học trò, đóng cửa suốt ba ngày, biên tập các chuyện xưa nay mắc hại vì rượu để tự cảnh tỉnh chính mình, đặt tên là Bách Hối Kinh.

          Lại có kẻ sĩ ở đất Ngô (Giang Tô) là Diệp X… bẩm tánh vốn hiếu thảo, hòa thuận với anh em. Một hôm, sau khi say sưa, đã tranh chấp, chửi bới em trai. Cha dùng lý để khuyên, chàng ta phun ra một, hai câu bất kính. Canh năm tỉnh rượu, vợ kể lại tình trạng khi say sưa, chàng ta hối hận muốn chết phứt, vội đến phòng cha, khấu đầu, khóc lóc, quỳ xin tạ tội, cơn giận của cha mới nguôi.  

          Ôi! Hai ông bẩm tánh thuần hậu, nghiêm cẩn, còn chẳng khỏi ngang ngược, phóng túng khi say. Nếu là hạng người phóng túng, tà vạy, xa xỉ, sẽ càng tệ hại đến mức nào? Rượu được gọi là Họa Tuyền (禍泉, suối họa), đúng lắm thay!

          Đời Tống, Ngô Dục làm Xu Mật Sứ. Khi ấy, Trần Chấp Trung bị bãi chức Tể Tướng, tiến cử Ngô Dục thay thế. Do Ngô Dục hầu vua dự yến tiệc, say sưa, ngủ vùi, bỗng vỗ giường, gọi tùy tùng; vua tức giận, bãi truất ông ta làm Tây Kinh Lưu Đài. Lại nữa, Quách Chí làm Tham Chánh (Tham Tri Chánh Sự, tức Phó Tể Tướng) vào cung tâu trình, mùi rượu xông sực tòa ngự, ông bị giáng chức, đổi đi Nam Kinh.

          Say rồi lỡ lời, thường gặp đại họa. Một danh sĩ ở huyện Vô Tích, tuổi trẻ, đa tài. Uống say rồi phê phán chuyện xấu trong buồng the của người khác ngay trước mặt kẻ đó. Kẻ đó thản nhiên cười bảo: “Ông X… say nên nói vậy”, dường như chẳng có mảy may nào so đo. Những người đang ngồi cùng bàn đều cảm phục độ lượng của ông ta. Một người từng trải chờ cho người ấy đi khỏi, bảo những người cùng ngồi: “[Bị làm nhục] mà tức giận là chuyện thường, chứ kẻ cười xòa khó thể dò lường được”. Nửa năm sau, chàng ta rốt cuộc bị người khác mưu hại. Ai nấy đều nghi người ra tay hãm hại chính là kẻ đã chịu nhục khi trước. Than ôi! Rượu gây tai họa đến mức ấy. Còn như do say sưa mà lọt sông, sụp hố, ngã toác đầu vỡ mặt, đánh mất tiền của, tiết lộ chuyện cơ mật, xúc phạm quỷ thần, đủ mọi nỗi tai ương và lỗi họa ắt đều do rượu gây họa, cớ sao chẳng kiêng tránh?

          Đời Tống,  Tô Dịch Giản làm Học Sĩ  (Hàn Lâm Đại Học Sĩ), do

uống quá chén mà lỗ mũi tóe máu, bị bệnh rồi chết. Lại còn Vương Toàn làm Điện Trung Thừa, do quá mức say sưa, nứt rốn mà chết. Ôi! Thuốc gây cuồng loạn thấm đẫm người, hiếm khi chẳng phát sanh bệnh tật. Bệnh phát ra sớm thì nhẹ, phát chậm sẽ là bệnh nặng, chẳng có trường hợp nào không dẫn đến chết chóc. Vì thế, xem xét khắp những vị cao thọ, đều là những vị chẳng ham mê rượu. Người ta cớ sao lại để di thể của tổ tiên rơi vào vòng “sống say, chết mộng” vậy thay!

          Trần Hạo tánh thích uống rượu, làm Đề Học[87] ở Sơn Đông. Cha ông ta gởi thư răn nhắc, ông bèn sai thợ làm ra một cái chén nhỏ, trên đó có khắc chữ như sau: “Cha dạy kiêng rượu”, chỉ uống mười chén.

          Gia quy của họ Trịnh ở Phố Giang [như sau]: “Con cháu chưa đến ba mươi tuổi, rượu không được nhấp môi. Kẻ đã tráng niên tuy cho phép uống đôi chút, nhưng kẻ mê đắm, gây huyên náo vì rượu, ắt sẽ bị đòn. Đãi đằng khách khứa, chỉ chú trọng chân thành, chẳng bắt buộc dùng rượu. Phụ nữ không được cùng uống. Nếu tuổi đã quá năm mươi, chỉ đành để cho họ được thuận tiện”. Gia quy này có thể dùng làm pháp tắc để giữ yên gia đình vậy!

          Cổ nhân nói: – Rượu là tựu tập, tựu tập với người chánh đáng thì [chính mình] sẽ là chánh đáng, tựu tập với kẻ sai trái thì [chính mình] sẽ sai trái. Rượu là “tạo”, tạo điều lành thì là thiện, tạo điều ác thì là ác. Rượu chẳng thể khiến cho con người đúng, sai, thiện, ác, mà do con người vốn tự tạo cho mình trở thành đúng, sai, thiện, ác. Hai chữ “tiết tỉnh” (節省, giữ chừng mực, phản tỉnh) cố nhiên có thể thiếu được ư?

 

          (Chánh văn) Cốt nhục phẫn tranh, nam bất trung lương, nữ bất nhu thuận.

          (正文)骨肉忿爭。男不忠良。女不柔順。

          (Chánh văn: Là ruột thịt [với nhau mà] giận dữ, tranh chấp. Trai không trung lương. Gái chẳng nhu thuận).

          Đời Đường, [gia tộc của ông] Trương Công Nghệ chín đời sống chung với nhau, chỉ do một chữ Nhẫn. Phẫn hận tranh chấp là vì chẳng thể nhẫn. Trong vòng cốt nhục, hễ chấp lý bèn tổn thương tình cảm; hễ tình cảm bị tổn thương, tức là chẳng đúng lý, há có nên xằng bậy phẫn nộ, tranh chấp ư? Nhưng cội nguồn của chuyện này phần nhiều là do bị lời lẽ của phụ nữ xúi bẩy, tạo thành hiềm khích. Bởi lẽ, lòng dạ phụ nữ chẳng công bằng, luôn ôm lòng ghen tỵ. Hơn nữa, những người được gọi là “bố mẹ chồng, chú bác, chị em dâu”, [cũng như] những người cùng hàng đều là duyên giả hợp, [tức là] gượng xưng hô [như thế], vốn chẳng phải là quyến thuộc tự nhiên. Vì thế, dễ cắt đứt tình thân ái, dễ phẫn nộ, tranh chấp. Lời nói được truyền qua hai lượt, [ý nghĩa ban đầu sẽ bị sai lệch], chất chứa thành oán hận. Trong một nhà, những chuyện chống trái, biến hóa cứ nẩy sanh đầy dẫy là do nhiều đầu mối (nguyên nhân, nguyên do), chẳng thể nói khái lược được. Chỉ có những người dốc lòng coi trọng thiên luân, hiểu biết sâu xa, đuốc sáng soi tỏ, chẳng nghe lời gièm siểm, tự nhiên sẽ là một niềm hòa khí ấm áp, đối xử với nhau bằng tình nghĩa vui vẻ, hòa hợp, làm sao có chuyện phẫn hận, tranh chấp cho được?

          Đời Minh, nhà Trịnh Liêm ở Phố Giang suốt hai trăm năm [mỗi tiểu gia đình trong dòng họ] chẳng tách ra sống riêng. Mọi người gọi xóm ấy là Nghĩa Môn. Quan Thái Thú trao tặng tấm biển đề “thiên hạ đệ nhất gia”. Minh Thái Tổ lên ngôi, triệu ông Trịnh vào kinh, hỏi: “Nhà ông có bao nhiêu người cùng nhau ăn cơm?” Ông Trịnh tâu: “Hơn một ngàn người”. Chúa thượng nói: “Đúng là thiên hạ đệ nhất gia”. Khi đó, Mã hậu ở sau vách nghe tiếng, nói với Thái Tổ: “Bệ hạ có thiên hạ là do một mình cử sự, nay cả nhà họ Trịnh hơn một ngàn người, há chẳng cử sự dễ dàng ư?” Chúa thượng kinh hãi, lại hỏi ông ta: “Cả gia tộc của khanh được giữ vẹn cũng là do có phương cách nào?” Trịnh Liêm thưa rằng: “Chẳng có gì khác, chỉ là không nghe lời vợ mà thôi!” Chúa thượng bất giác cười to. Khi ấy, [nhằm lúc] vùng Hà Nam tiến cống lê thơm; do vậy, vua ban cho ông hai trái. Trịnh Liêm hai tay nâng lê đặt trên đầu, lui ra. Chúa thượng bèn sai người theo dò xét. Về tới nhà, Trịnh Liêm triệu tập người trong họ, hướng về cửa khuyết dập đầu, tạ ơn, đặt hai chum nước lớn, nghiền nát lê bỏ vào đó, chia nhau uống. Thái Tổ nghe chuyện, vui mừng. Về sau, có kẻ vu cáo nhà ông Trịnh thông đồng với bọn quyền thần. Thái Tổ bảo: “Họ Trịnh không phải là như vậy, đó là vu cáo”. Về sau, vua hạ lệnh cho ông chọn ba mươi người từ đám con em đưa tới kinh đô, đều cho họ làm quan. Trưởng họ là Trịnh Anh tới cửa khuyết tạ ơn. Chúa thượng ngự giá tới cửa Phụng Thiên, đích thân viết ba chữ to “hiếu nghĩa gia” ban tặng, còn dùng ấn ngọc đóng lên đó.

          Trung (忠) có nghĩa là tận hết sức mình. Lương (良) là ngay thẳng, chánh đáng. Trong muôn vật, chỉ có loài người là tối linh, con người lại coi đàn ông là quý. Đã có được cái thể linh và quý ấy, lại gian trá, bất trung, hiểm ác, tà vạy, bất lương, không chỉ là tự phụ bạc chính mình, mà cũng là cô phụ tạo vật quá đỗi!

          Đời Tống, Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) vừa hai tuổi đã mồ côi. Đến khi hơi lớn, bèn đích thân tự lập, ngày đêm học tập, ngồi lặng lẽ thầm suy nghĩ. Trong sáu năm bèn tinh thông lục kinh. Ông đỗ Tiến Sĩ lúc hai mươi tuổi, được bổ về làm chức phán[88] ở Hà Trung, trung nghĩa, yêu dân, hợp lòng người. Ông lần lượt trải qua các chức vụ, làm tới Thị Lang. Làm quan trong triều cũng như quản trị gia đình, ân lẫn uy đều dùng, trung quân, ái quốc, lưu lại những hành vi tốt đẹp rạng ngời. Ông dạy con noi theo điều nghĩa, giúp người nghèo, châu cấp kẻ khổ, thanh danh vang rền một thuở, được trăm đời kính ngưỡng, đúng là chẳng thẹn với hai chữ Nam Tử.

          Sách Lễ Ký chép: “Nam soái nữ, nữ tùng nam” (Nam lãnh đạo nữ, nữ tuân theo nam). Lại chép: “Ấu tùng phụ huynh, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử” (Lúc bé thì nghe theo lời cha, anh, lấy chồng thì thuận theo chồng, chồng chết thì nghe theo con). Sách Nhan Thị Gia Huấn chép: “Phụ nữ chủ yếu trông coi về ẩm thực, chuyên trông coi về rượu, thức ăn, quần áo trong lễ nghi. Nếu là người có thông minh, tài trí, chỉ nên phụ tá bậc quân tử, giúp chồng bù đắp khuyết điểm. Nếu lấn hiếp, chế ngự chồng, can dự vào chánh sự bên ngoài; đó là gà mái gáy sáng, là bọn cú diều lưỡi dài. Gia đạo không thể hưng thịnh nổi bắt nguồn từ chuyện này!”

          Đời Hán, Viên Ngỗi lấy con gái của Mã Quý Lương, [vợ đem theo] của hồi môn rất nhiều. Viên Ngỗi nói: “Vợ chăm nom nhà cửa mà thôi, cần gì phải [đem theo] quá nhiều đồ quý báu, đẹp đẽ vậy!” Vợ thưa: “Mẹ thiếp có lòng thương tưởng, chẳng dám trái mạng. Nếu chàng hâm mộ phong thái cao cả của Bào Tuyên, Lương Hồng[89], thiếp cũng có thể học đòi gương tiết nghĩa của Thiếu Quân, Mạnh Quang”.

          Đời Tống, phu nhân của Trình Hướng là Hầu Thị khiêm cung, thuận thảo, nhu hòa. Dẫu là việc nhỏ nhặt, ắt trình với chồng rồi mới đi. Bà trị gia đúng pháp tắc, chẳng đánh đập nô tỳ. Nếu con cái quở mắng đầy tớ, bà ắt răn dạy: “Tuy sang, hèn khác nhau, nhưng đều là người như nhau”. Hễ Trình Hướng có gì tức giận, bà ắt khoan thai vuốt giận. Chỉ có điều các con phạm lỗi, bà chẳng giấu diếm. Thường nói: “Con cái không ra gì là do mẹ giấu lỗi, cha không biết đến”. Về sau, hai con bà là Trình Di và Trình Hạo đều trở thành bậc đại nho, địa vị quý hiển, được thờ phối hưởng trong Khổng Miếu.

          Gã cư dân X… ở Hòa Châu nuôi hơn một trăm con ngỗng. Một hôm, bọn ngỗng ăn lúa của hàng xóm, gã hàng xóm đánh chết hơn năm mươi con. Vợ gã X… trông thấy đùng đùng nổi giận, nhưng lại nghĩ: “Nếu thưa kiện hắn, ắt cũng phải tốn kém. Hơn nữa, chồng ta đang say rượu nằm ngủ. Nếu biết chuyện mà đánh lộn với hắn thì càng bất tiện”. Bèn nhặt nhạnh ngỗng chết đem chôn. Sáng hôm sau, bỗng gã hàng xóm chết đột ngột. Chồng biết chuyện ngày hôm qua, bèn hết sức cảm khái, nói: “Nếu hôm qua bà kể lể với tôi, tôi đang say đánh lộn với hắn, không chừng đã thành án giết người rồi!”

          Tử Hà Tạo Phước Quyết (bí quyết tạo phước của Tử Hà Chân Quân) có đoạn: – Phàm nữ nhân tu thiện thì chẳng khác nam tử, nhưng nữ nhân chẳng có chuyện gì khác, tam tùng là tốt đẹp. Nếu có hạnh lành, chẳng bằng khuyên song thân và chồng thực hiện thì càng tuyệt diệu hơn. Bởi lẽ, cha mẹ có ba phần thiện thì con gái được một phần. Chồng có hai phần thiện, vợ sẽ được một phần. Nếu vợ dự phần suy nghĩ, cân nhắc [phương cách làm lành cho chồng] thì công sẽ giống hệt như chồng. Nếu khuyến hóa phụ nữ khác làm lành, công đức ấy so với [công đức do] chính người phụ nữ ấy tự làm lành sẽ khó có gấp bội, tốt lành gấp bội. Trong vòng chị em dâu, chị em ruột, nếu [người nào] có thiện sự, mà khen ngợi lẫn nhau, công [khen ngợi, tùy hỷ] ấy cũng có thể bằng nhau. Điều đáng quý là hoan hỷ, có cùng chí hướng, chẳng có lòng ghen ghét. Nếu có thể hiếu kính, hòa thuận, giúp chồng dạy con hòng trọn hết bổn phận, lại còn tin sâu nhân quả, ăn chay, niệm Phật, ắt trong đời hiện tại sẽ tự nhiên thân tâm an lạc, con cháu hưng thịnh, lâm chung chắc chắn được đức Phật rủ lòng Từ tiếp dẫn, vãng sanh Tây Phương. Chỉ nên tiềm tu tại nhà, đừng nên rong ruổi bên ngoài. Một là chẳng phí uổng thời gian, hai là khỏi phải chuốc lấy tiếng dị nghị của kẻ khác. Lại nữa, nếu như con cháu mắc bệnh, lạy thần cầu cúng, tốn kém tiền bạc, sao bằng thường ngày làm lành, phóng sanh, sẽ tự được thần gia hộ ư? Trong chốn khuê môn, luôn có chốn động thiên phước địa[90], hãy gắng thực hiện!

 

          (Chánh văn) Bất hòa kỳ thất, bất kính kỳ phu.

         (正文)不和其室。不敬其夫。

          (Chánh văn: Bất hòa với vợ. Chẳng kính trọng chồng).

          Vợ chồng hòa thuận, sau đó, gia đạo sẽ hưng thịnh. Phụ nữ chưa từng đọc sách, hiểu lý; nếu có điều gì không đúng, [chồng] cũng phải nên giảng giải, khuyên bảo rõ ràng. Cố nhiên là chớ nên mặc kệ cho cô ta tự tung tự tác, mà cũng chớ nên lập tức sanh lòng giận dữ, ghét bỏ. Nhưng người đời gặp phải vợ tánh hung tợn, mạnh mẽ, đành để cho vợ khinh rẻ, lấn hiếp; gặp vợ nhu nhược, chất phác, [ắt chồng] lấn hiếp, ngược đãi. Khinh rẻ người lành, sợ kẻ ác, kẻ làm chồng há có nên như thế hay chăng? Cũng có kẻ ngu đần hơn nữa, sủng ái vợ lẽ, khinh nhục vợ cả, mê luyến gái điếm, khinh rẻ vợ, thậm chí đánh đập, chửi bới, giận dữ, quở trách. Hạng người ấy càng chẳng được hưởng hết tuổi trời!

          Nhan Quang Trung nói: – Sanh làm người, đừng làm thân phụ nữ! Trăm nỗi sướng, khổ đều do người khác [quyết định]. Họ phải lìa cha mẹ để yêu thương người khác, sống chết tùy tay người đó. Chủ nhân duy nhất là chồng. Đói không thể ăn một mình, lạnh không thể mặc ấm cho riêng mình. Họ xả thân mình để lo cho thân ta, bỏ cha mẹ mình để phụng sự cha mẹ ta. Lỡ gặp cảnh chồng buôn bán phương xa, hoặc là nho sĩ đi học xa, ngủ trơ trọi trong căn phòng đơn côi, đêm rét buốt, mền lạnh ngắt như sắt, há dễ chịu đựng ư? Ta là kẻ bạc tình, có nhân tình bên ngoài, dồn hết tình cảm cho hoa, cho liễu, mê luyến như cuồng. Nếu như ngày nào đó quý hiển, [chồng sẽ thâu nạp] hầu non đầy dẫy, nào có nghĩ đến tình nghĩa kết tóc se tơ? Chỉ riêng nàng gánh phần sợ hãi, dành cho ta nỗi an lạc. Ôi chao! Sao mà đối xử với người khác chẳng khoan dung như thế? [Nếu vợ] là mụ đàn bà lưỡi dài, mặc sức cậy thế hiếp đáp [thằng chồng nhu nhược], hoặc [vợ là] hạng phụ nữ đánh mất đức hạnh, chẳng hề tự kiểm điểm, luông tuồng, chua ngoa thì thôi rồi! Nếu vợ có thể phụng sự bố mẹ chồng, hòa thuận với chị em dâu, hòa hảo với các cô, các mợ [thì may mắn lắm thay]! Trong vòng vợ cả, vợ lẽ, dòng đích, dòng thứ, ai nấy đều có lòng riêng tư, ai nấy đều mong nắm lấy quyền hành, xoay vần trong cảnh ưu phiền ấy, phải nhẫn nhục nín chịu, đúng là chẳng thể diễn tả được. Nếu gặp phải nhà chồng [lâm vào cảnh] khốn cùng, lao đao, sáng tối phải lo nghĩ vì cái ăn, phải thêu thùa, may vá [thuê cho người khác] để kiếm sống, cũng chẳng thể nào nói trọn hết [nỗi khổ sở, nhọc nhằn] được! Há lẽ nào vợ đã mong cùng ta chung sống suốt đời, ta lại nửa chừng ruồng rẫy, về tình lẫn lý, phải nói như thế nào đây? Đấy chính ý nghĩa của bài thơ Quyển Nhĩ (卷耳, trong phần Châu Nam của Kinh Thi), [tác giả của bài thơ ấy] đã dùng tình cảm nhu hòa, vận điệu uyển chuyển để miêu tả [nỗi lòng của người chồng] khi Đông chinh. Ý nghĩa bậc nhất trong sự giáo hóa chánh đáng của quốc gia là “chồng khiến cho vợ yên vui, gia đình êm ấm, hiếu thuận với cha mẹ”, đấy chính là thiện sự cát tường vậy!

          Cố Khải đối xử với vợ đúng lễ. Ông thường sáng ra ngoài, tối về, ít khi gặp mặt. Ông bị bệnh nặng, vợ đến thăm hỏi, Cố Khải sai tả hữu đỡ dậy, buộc tóc, đội mũ đàng hoàng [rồi mới cho vợ gặp mặt]. Thăm hỏi, trò chuyện xong, liền bảo vợ trở về. Nhìn từ đây, [ta biết] giữa vợ chồng với nhau, há có nên vô lễ một khắc nào, để rồi dẫn đến chuyện do quá thân cận mà thất lễ ư? Nhưng lễ có gì khác đâu? [Bất quá là] “hòa hợp mà có chừng mực, thương yêu nhưng kính trọng” đó thôi!

          Vương Bát Lang ở thành Lạc Dương tánh tình hung tợn, thích đánh vợ. Hắn bao một cô gái điếm, phá sạch gia sản. Vợ hắn đã khốn khổ vì nỗi đói rét, lại bị chồng đánh đập dữ dội hơn. Vợ bất đắc dĩ, phải cậy thân thích, hàng xóm phân xử. Bát Lang bắt vợ sống ở chỗ khác, [để hắn] ở chung nhà với cô gái điếm. Không lâu sau, hắn bệnh tật, gia sản hết sạch, cô gái điếm tỉnh bơ bỏ đi. Hắn lại đến nương cậy vợ, vợ tránh né. Bát Lang chết đột ngột, vợ hắn cũng chết. Thân thích, hàng xóm đặt xác hai người cùng một chỗ. Đến đêm, bỗng nghe có tiếng cãi cọ, chửi bới, [mọi người] mở cửa xem, thấy hai cái xác đứng đâu lưng với nhau.

          Chồng là trời của vợ, là chỗ nương tựa suốt đời, làm sao có thể bất kính cho được? Kẻ bất kính nếu chẳng phải là hạng đàn bà hung tợn, thì sẽ là hạng phụ nữ phóng đãng, hoặc là nói năng thô ác, xúc phạm, hoặc là trù ếm, trấn yểm, chẳng biết: “Hễ mang thân nữ là do nhiều cái nhân trong đời trước sai sử. Nếu càng khinh miệt chồng, sẽ càng đọa trong ác đạo”. Thậm chí có kẻ chồng vừa chết, xương thịt chưa lạnh, đã nghĩ tới chuyện cải giá, coi con cái do mình đẻ ra như kẻ qua đường. [Chồng] đã chết mà chẳng thể buồn thương, thì khi sống làm sao kính trọng cho nổi?

          Đỗ Xí làm người khiếp nhược. Vợ hắn là Trương Thị luôn khinh rẻ chồng. [Đỗ Xí] tuổi già càng lắm bệnh, Trương Thị chẳng đoái hoài. Không lâu sau, Trương Thị chết trước Đỗ Xí. [Mụ ta đã được] tẩn liệm, quan tài bị vỡ tung, [Trương Thị] hóa thành mãng xà, bò vội vào rừng. Ôi! Kẻ làm chồng là trời của vợ; khinh mạn chồng tức là khinh mạn trời; có thể khinh mạn chồng ư? Xin hãy tự nghĩ!

          Đời Hậu Hán, Lương Hồng cưới con gái nhà họ Mạnh, tên là Quang. Thoạt đầu, [Mạnh Quang] đem đồ trang sức về nhà chồng, [trang điểm lộng lẫy]. Suốt bảy ngày, Lương Hồng chẳng ngó ngàng đến cô ta. Vợ liền búi tóc trần, mặc áo vải, làm việc nhà như trước. Lương Hồng vui vẻ bảo: “Đây mới thật sự là vợ của Lương Hồng”. Bèn cùng nhau ẩn cư trong núi Bá Lăng. Về sau, do tỵ nạn, họ sang đất Ngô, ở nhờ nơi chái nhà của Tạo Bá Thông, [Lương Hồng] giã gạo thuê cho người ta. Mỗi khi trở về, vợ dọn sẵn cơm nước, chẳng dám ngước lên nhìn trước mặt Lương Hồng, nâng án ngang mày. Bá Thông nói: “Gã làm thuê ấy có thể khiến cho vợ kính trọng như thế, chẳng phải là hạng người tầm thường”, bèn tặng nhà cho họ.

          Đỗ Khuê mắt mù, vợ ông ta ngày đêm hướng về sao Bắc Cực cầu khẩn. Mỗi lần lễ bái, ắt lạy đủ bảy lần bảy bốn mươi chín lượt, rốt cuộc có thể cảm Chân Vũ (Huyền Thiên Bắc Đế) hóa thân giáng hạ trị liệu. Đỗ Khuê lại thấy rõ như thuở đầu.

          Vợ của Vũ Văn Bang Ngạn là Lê Thị khắc khổ chăm lo gia đình. Bà thích xem sách, hiểu đại lược đại ý, bèn tự tay biên chép để giúp chồng, lại còn nghiêm ngặt đốc thúc các con học theo. Con cái bà anh em dìu dắt nhau, quả nhiên thi đậu, trải từ chức quan Từ Viên[91], vào Hàn Lâm, đạt tới chức Hữu Hạt (右轄, Hữu Thừa Tướng). Làng xóm đều ca ngợi, tôn kính. Đến nay hãy còn bộ Chế Cáo Luân Ngôn Tập do chính bà Lê chép.

          Đời Minh, Hoàng Quán là người xứ An Khánh. Vào thời Kiến Văn (Minh Huệ Đế), do đậu Tam Nguyên, ông làm quan tới chức Học Sĩ Thừa Chỉ. Khi gặp cơn binh biến Tĩnh Nạn[92], Hoàng Quán chết. Vợ là Ông Thị và hai đứa con gái đều bị bắt. Có chiếu chỉ truyền gả Ông Thị cho người giữ voi. Ông Thị giả vờ nói khi tỵ nạn, có chừng đó vàng gởi gắm ở nhà thân thích ngoài thành: “Mẹ con tôi đến thì lấy được; nếu không, ắt họ sẽ giấu diếm”. Gã trông voi muốn chiếm mối lợi ấy, cùng đi theo ra ngoài thành. Vợ ông Hoàng Quán nói: “Hai đứa con gái hãy nên buộc vạt áo với nhau, sợ bị lạc mất trong đám đông”. Gã trông voi bằng lòng, hai đứa con gái cũng chẳng hiểu ý mẹ. Vừa đến bến sông, bà ta liền ôm hai con cùng nhau trầm mình tự vẫn. Đến nay vẫn còn miếu thờ họ bên bờ sông Tần Hoài.

          Đời Tống, Sùng Quốc Trịnh phu nhân là mẹ của Âu Dương Tu. Sùng công đậu Tiến Sĩ, đến nhậm chức Thôi Quan bèn mất, Âu Dương Tu [khi đó] mới bốn tuổi. Nhà nghèo, mẹ tận lực lo toan cơm áo để nuôi Âu Dương Tu tận lực học hành. Mẹ dạy con học, đã từng vào đêm tuyết đổ dầy, mẹ san phẳng tro lạnh [trong lò] để viết chữ dạy con. Mẹ luôn khóc, bảo Âu Dương Tu:

          – Cha con liêm khiết, thích bố thí, ta chẳng được phụng sự bố mẹ chồng, nhưng biết cha con có thể phụng dưỡng họ. Mẹ chẳng thể biết con sẽ thành tựu như thế nào, nhưng biết cha con sẽ có hậu duệ [tốt lành]. Mẹ về với cha con, [cha con] đã đoạn tang [ông bà nội] hơn một năm rồi, mỗi lần cúng tế ắt khóc lóc. Hoặc mỗi khi có rượu thịt, ắt khóc lóc vì tiếc hận chẳng thể phụng dưỡng cha mẹ nữa. Thoạt đầu, mẹ tưởng là vừa mới đoạn tang, nên lẽ đương nhiên là như thế. Về sau, mới biết [cha con] luôn là như vậy; cho đến hết đời, vẫn chẳng không khi nào như vậy. Do vậy mẹ biết cha con có thể phụng dưỡng ông bà nội. Cha con làm quan, từng có đêm xem hồ sơ phán án, nhiều lượt than thở: “Ta muốn [kiếm cách] cho [tội nhân] này được sống mà không thể, đáng buồn thay!” Quay đầu nhìn nhũ mẫu đang bế con đứng bên cạnh, cha con chỉ con bảo: “Mạng ta sẽ chết sớm, chỉ sợ không kịp thấy con thành tài; nàng hãy nên bảo cho con biết những điều ta đã nói”. Cha con dạy bọn con em cũng đều là như thế. Vì thế, mẹ biết cha con ắt sẽ có hậu duệ [tốt đẹp].

          Do vậy, Âu Dương Tu cảm động, khóc lóc, siêng gắng học hành. Tới lúc ông đậu Tiến Sĩ, tôn quý, hiển đạt, vẫn tiết kiệm, đơn sơ như cũ. Đến khi Âu Dương Tu vì can gián thẳng thừng mà bị biếm trích, phu nhân cười nói thản nhiên, bảo: “[Nhà ta] vốn sẵn nghèo khó [nên quen rồi], con ắt nên an lòng”. Rốt cuộc, do trung trực nên Âu Dương Tu trở thành bậc Tể Tướng hiền năng, mẹ được sắc phong làm Việt Quốc Thái Phu Nhân. Đạo kính trọng chồng, có gì hơn được hai chuyện trọn hết tiết hạnh và dạy con? Vì thế, thuật hai câu chuyện này để làm khuôn mẫu tột bậc cho đạo kính chồng. Những kẻ làm vợ hãy nên gắng sức!

 

          (Chánh văn) Mỗi hiếu căng khoa, thường hành đố kỵ.

          (正文)每好矜誇。常行妒忌。

          (Chánh văn: Thường thích khoác lác, kiêu căng; thường hay ganh tỵ).

          Lão Tử nói: “Bất tự thị cố chương, bất tự phạt cố hữu công, bất tự căng cố trưởng” (Chẳng tự cho là đúng mà [sự thật đúng sai] được phơi bày rõ rệt. Chẳng tự cho là mình đã bỏ công tốn sức mà tự nhiên là có công lao. Chẳng tự kiêu căng tự đại mà sẽ được kẻ khác coi trọng). Kinh Dịch chép: “Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm. Địa đạo biến doanh nhi lưu khiêm. Quỷ thần hại doanh nhi phước khiêm” (Đạo trời khiến cho những gì quá tràn đầy sẽ bị hao hụt, để bù đắp cho sự khiêm tốn. Đạo đất khiến cho những gì viên mãn sẽ được chuyển sang chỗ khiêm hạ. Quỷ thần phá hoại sự kiêu căng tràn đầy hòng tạo phước cho người khiêm tốn). Do khiêm tốn mà được [mọi người] tôn kính, [thanh danh, phẩm đức] tỏa rạng. Người giữ phận nhún nhường, không ai có thể vượt hơn được! Bậc quân tử luôn giữ trọn [phẩm đức khiêm tốn, nhún nhường]. Đại Vũ chẳng kiêu căng, chẳng kể công, [luôn nói] “hàng ngu phu ngu phụ ai nấy đều có một điểm tài năng tốt đẹp hơn ta”. Vua đục đẽo Long Môn[93], dẹp trừ Y Khuyết[94], đất đai được sửa sang tề chỉnh, ứng hợp theo lẽ trời, công lao phủ trùm muôn đời. Châu Công chẳng kiêu căng, chẳng tiếc tài năng, nhọc lòng khiêm hư tiếp đãi bậc hiền sĩ, búa mẻ Đông chinh[95], rốt cuộc giữ yên nhà Châu. Vì thế nói: “Bậc đại thánh đại hiền chân chánh luôn dè dặt, kiêng sợ như vào vực sâu, như đi trên băng mỏng, dốc trọn [hết tinh thần] để thực hiện”. Như Đại Vũ, Châu Công là thánh nhân, [thế mà] chưa hề khoe khoang đạo đức với ai. Như vậy thì người đời nay có kẻ khoe khoang xằng bậy, có ý nghĩa chi đâu? Phần nhiều là phường chẳng biết lượng sức vậy!

          Đời Hán, Cố Ung được phong tước hầu đã ba ngày mà người nhà chẳng hay biết. Tạ An đời Tấn cùng khách chơi cờ vây, thư báo tiệp (thư báo tin thắng trận Phì Thủy) đưa tới, khách trọn chẳng biết. Đời Tống, Tào Vũ Huệ (Tào Bân) đánh hạ Giang Nam thành công, [căn dặn] viên quan hầu cận dâng biểu về triều, chỉ nói là “phụng chỉ xuống Giang Nam, lo xong công việcđể báo tiệp. Văn Lộ Công (Văn Ngạn Bác) trong niên hiệu Chí Hòa, cầm đầu các quan đề nghị lập Tống Anh Tông làm người nối ngôi cho [Tống Nhân Tông]. Cho tới khi Tống Thần Tông[96] tức vị, ông (Văn Ngạn Bác) vẫn nói là công của Hàn Kỳ. Do vậy, vua biết ông là người chẳng khoe khoang công lao. Các vị ấy đều là những bậc nhân phẩm tột bậc cao thượng, sự nghiệp công huân tột bậc to tát, mà còn khiêm tốn, nhún nhường, chẳng kiêu căng ngần ấy, sao mọi người chẳng biết học theo?

          Người độ lượng to ắt phước trạch sâu dầy. Kẻ độ lượng cạn cợt, ắt phước trạch mỏng tanh! Khiêm hư hoặc là vênh vang tự mãn, họa hay phước rạch ròi, há chẳng nên thận trọng ư? Hơn nữa, những chuyện như phú quý, tài năng có gì đáng để ỷ vào đó mà kiêu ngạo với kẻ khác? Vì thế, chẳng bàn đến [chuyện kiêu căng] ắt chuốc họa; trước hết, [kẻ hợm hĩnh] đã chôn vùi lương tâm, chẳng biết sỉ nhục vậy!     

          Đời Tấn, Thạch Sùng và Vương Khải[97] tranh giàu với nhau. Vương Khải làm một bức màn che bằng tơ tía dài bốn mươi dặm. Thạch Sùng làm bức màn bằng gấm dài năm mươi dặm để giành phần hơn. Vương Khải lại từng đem khối san hô được ban tặng từ trong cung có đường kính cả thước để khoe với Thạch Sùng. Thạch Sùng lấy thiết như ý đập vỡ nát, Vương Khải nổi nóng. Thạch Sùng bèn đem ra những thứ cất giữ trong nhà, đều là [những cây san hô] loại to hai, ba thước; lấy ra một cành [san hô] để đền cho. Những vật trân quý, hiếm lạ khác, không ai tranh thắng được! Về sau, Thạch Sùng do mắc tội bị hành hình, bèn thở dài: “Lũ tôi tớ tụi bay chỉ vì muốn chiếm tài sản của tao”. Ôi! Một lời khi sắp chết của Thạch Sùng còn gì rõ ràng hơn? Nhưng nếu như sớm biết, ắt sẽ chẳng khoe khoang! Nỗi họa do kiêu căng, khoe khoang khốc liệt đến mức ấy, người thời nay trong mỗi câu nói, mỗi hành động, há chẳng nên cẩn thận vậy thay!

          Đố kỵ thì nam lẫn nữ đều có. Nam nhân thấy người khác có công danh bèn ganh tỵ, thấy người khác phú quý bèn ganh tỵ, [thấy người khác có] địa vị cao hơn mình bèn đố kỵ, [thấy kẻ khác] tài năng vượt trỗi mình bèn đố kỵ, đều là do lòng dạ nông cạn, hẹp hòi mà ra. Còn như phụ nữ do tranh giành sự sủng ái kết thành oán cừu, thường là dẫn đến gieo họa cho gia đình, tuyệt tự! Tội ấy càng chẳng thể kể xiết! Sống thì bị ai nấy đều nghiến răng, thống hận; chết sẽ vĩnh viễn đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ngõ hầu bù đắp tội ấy. Giữ cho bản thân chánh đáng hòng làm gương mẫu chính là chức trách của nam tử vậy!

          Đời Châu, tướng nước Ngụy là Bàng Quyên đố kỵ tài năng của Tôn Tẫn[98] bèn chặt chân ông ta. Về sau, Bàng Quyên bị Tôn Tẫn giết. Đời Đường, Ngư Triều Ân và Trình Nguyên Chấn đố kỵ Quách Tử Nghi công cao, chức cả, thường mưu hại, gièm báng, rốt cuộc chúng nó đều mắc tội, họ Ngư bị giết, họ Trình bị đi đày. Đời Tống, Hàn Thác Trụ đố kỵ Văn Công Châu Hy đang giữ chức Hoán Chương Các Đãi Chế, bèn kéo bè lập đảng bài xích Châu Hy là ngụy học. Nhất thời, các bậc quân tử đều bị bài xích, chèn ép. Về sau, Hàn Thác Trụ bị Sử Di Viễn giết chết. Đời Bắc Tề, Thích Minh Sâm bình sanh hễ thấy người tài đức cao hơn mình, luôn đố kỵ sâu xa. Về sau, hắn biến thành mãng xà trong chốn rừng rậm, chui vào hang hốc. Xét ra, bài thuốc trị đố kỵ của Lương Vũ Đế do tả hữu tâu trình: “Xin bệ hạ hãy rộng ban thưởng cho quần thần, khiến cho kẻ bất tài chẳng đố kỵ người có tài, kẻ ham tự lợi chẳng đố kỵ người giữ lẽ công chánh, kẻ ô trược chẳng đố kỵ người thanh cao, kẻ tham lam chẳng đố kỵ bậc liêm khiết”, cũng là một đầu mối để khuyến hóa. Vua cho là đúng, như vậy thì đố kỵ há chỉ có phụ nữ là như vậy mà thôi ư!

          Vào đời Châu, vợ Tô Bào ở nước Tống là Nữ Tông (女宗, tấm gương cho nữ giới) phụng sự mẹ chồng hết sức hiếu thảo. Tô Bào làm quan ở nước Vệ ba năm, lấy vợ ở ngoài. Chị dâu nói cho vợ ông ta biết, Nữ Tông đáp: “Phụ nữ coi chuyên nhất là trinh, coi khéo vâng lời là thuận, há chuyên coi chuyện được chồng sủng ái là tốt lành ư? Theo lễ, đại phu có thể lấy ba vợ, kẻ sĩ có thể lấy hai vợ. Chồng em là kẻ sĩ có hai vợ thì cũng chẳng hợp lý hay sao? Vả nữa, phụ nữ có thất xuất[99] thì ganh tỵ đứng đầu. Chị chẳng đem lễ nghĩa cư xử sao cho gia đình trong ấm ngoài êm để bảo ban em, lại ngược ngạo muốn em làm theo hành vi khiến cho chồng ruồng bỏ ư?” Vua Tống nghe chuyện, biểu dương bà ta trong vùng ấy, phong hiệu là Nữ Tông.

          Bác của Lô Biện làm huyện lệnh Hồ Thành. Lô Biện đến thăm ông ta, mộng thấy đến một nơi có mười chiếc cối xay lớn. Bên cối xay có vô số phụ nữ, cối xay luôn tự xoay chuyển. Lính đầu trâu dùng cái ky lớn xúc phụ nữ đổ vào miệng cối, xay rồi nhả ra, xương thịt nát bét, tiếng kêu than đau đớn khó thể chịu đựng nổi. Từ trong đám người ấy, Lô Biện thấy bác gái tức vợ của quan huyện Hồ Thành. Trông thấy nhau, [đôi bên] buồn vui xen lẫn; Lô Biện hỏi những người ấy vì sao phải chịu tội? Bà ta đáp: “Do phạm tội đố kỵ mà phải đến nơi đây!” Ôi! Quả báo của sự ghen tỵ trong địa ngục là như thế đó, đáng sợ lắm thay!

          Lương Nhân Dụ sủng ái một tỳ nữ, vợ là Lý Thị ghen tuông, ngược đãi cô ta, trói cô tỳ nữ, đánh vào đầu. Tỳ nữ gào thét: “Tôi là hạng đầy tớ kém hèn, bị ràng buộc, chẳng tự do, nương tử gô cổ tôi, đau khổ, tàn độc còn gì hơn?” Cô tỳ nữ chết hơn một tháng, Lý Thị ngã bệnh, luôn bị [oan hồn của] cô tỳ nữ làm khổ, trên đầu bốn phía đều mọc ung nhọt, gào khóc, rên xiết, thối rữa não mà chết.

          Đời Tấn, vợ của Giả Sung là Quách Thị tánh hay ghen tuông. Bà ta từng sanh con. Nhũ mẫu ẵm đứa bé, Giả Sung [thừa cơ giả vờ ôm con] để ôm lấy [nhũ mẫu]. Quách Thị bèn giết chết nhũ mẫu, đứa bé nhớ nhũ mẫu, khóc lóc mà chết. Giả Sung rốt cuộc tuyệt tự. Giả Sung là tay đại gian hùng gây hại cho nước nhà; vì thế, hắn lấy phải bà vợ ghen tuông để rồi dòng họ tuyệt diệt[100]. Đó là đạo trời vậy, nhưng trong cõi đời, vẫn còn không ít kẻ do ghen tuông mà tuyệt tự! Những người đàn bà ghen tuông dẫu chẳng nghĩ tội sâu ác lớn, khó trốn quả báo trong địa ngục, sao chẳng nghĩ nỗi niềm tuyệt tự trước mắt, mộ hoang, hài cốt lưu lạc, hồn phách [vơ vẩn] nơi chốn mộ phần trong đêm mưa dầm gió buốt thê lương, [chỗ chôn cất trở thành] nơi chăn dắt, trâu dê giày xéo? Các tiết Hàn Thực, Thanh Minh, ai dâng chén nước? Chốn đồng hoang cỏ phủ, khói sương, quỷ khóc tỉ tê, là vì lẽ nào vậy? Buồn bã thay! Tôi nói đến đây, cũng khôn ngăn động lòng xót xa đau đớn cho những hạng người ấy mà gào khóc, thở dài sườn sượt. Phàm làm thân phụ nữ, hãy sớm kịp suy nghĩ, nhưng tôi lại ngẫm nghĩ: Trường hợp của Giả Sung bị tuyệt tự vốn là do đạo trời [báo ứng], khiến cho mụ vợ ghen tuông xuất hiện trong nhà ấy; cũng là sự xảo diệu của ác báo vậy. Người đàn ông làm chồng há chẳng nên nghĩ tích đức hòng xoay chuyển lòng trời, chỉ lo trách móc đàn bà ghen tuông ư?

          Đời Hậu Ngụy, vợ của Đỗ Xương là Liễu Thị hết sức ghen tuông. Có đứa tớ gái tên là Kim Kinh. Đỗ Xương tắm, sai nó cắt tóc; Liễu Thị bèn chặt đứt hai ngón tay của nó. Không lâu sau, Liễu Thị bị hồ ly cào, cắn, rụng mất hai ngón tay. Lại có một tỳ nữ tên là Ngọc Liên có thể ca xướng, Đỗ Xương yêu thích, Liễu Thị bèn cắt lưỡi nó. Về sau, lưỡi của Liễu Thị lở loét, thối rữa. Sự tình cấp bách, bà ta liền đến chỗ Trù thiền sư sám hối. Sư dạy: “Phu nhân đã cắt ngón tay của đứa tớ gái, đã bị rụng ngón tay. Bà cắt lưỡi đứa tớ gái, lại bị đứt lưỡi. Chí tâm hối lỗi, sẽ có thể thoát khỏi”. Liễu Thị đảnh lễ, xót xa cầu khẩn. Trải qua bảy ngày, thiền sư bảo bà ta há to miệng, chú nguyện, có hai con rắn từ miệng chui ra, dài hơn cả thước. Sư gấp rút chú nguyện, rắn bèn rơi xuống đất, lưỡi [Liễu Thị] cũng được bình phục. Từ đấy, bà ta chẳng còn ghen tuông nữa. Phàm người hối lỗi, sửa ác, thần và người đều cùng hoan hỷ. Nếu quý vị đã tạo tác vô biên tội nghiệp, chỉ cần từ nay trở đi hối cải, chẳng tái phạm, tội trước sẽ nhất thời tiêu tan. Câu chuyện này là một chứng cớ rõ rệt. Nhìn vào chuyện này mà hối cải thì đúng là may mắn to lớn vậy!

          Than ôi! Sự oán hận của phụ nữ chẳng cùng tận, tánh tình của phụ nữ dễ kết oán hận nhất. Vì thế, phụ nữ đích thân làm những chuyện độc địa thê thảm, hãm hại ngấm ngầm chẳng thể ngờ được! Chỉ có cách là khi người nữ còn chưa gả đi, cha, mẹ, anh em trong gia đình đã khuyên bảo sẵn. Nếu đã gả đi thì hãy khéo léo kiềm chế cô ta, đừng giúp sức thổi bùng thêm ngọn lửa [ghen tuông], ngõ hầu lòng ghen tuông sẽ ngưng dứt bớt. Từ đó, chuyện điều đình, cảm hóa lại cậy vào chồng của người ấy. Nếu chồng đắm sắc, công khai dâm uế, đến nỗi vợ nổi cơn sư tử Hà Đông gầm rống, bậc quân tử chỉ kết tội người chồng dâm dật, đấy cũng là đặc biệt tiện nghi cho người vợ đó thôi!

 

          (Chánh văn) Vô hạnh ư thê tử, thất lễ ư cữu cô.

          (正文)無行於妻子。失禮於舅姑。

          (Chánh văn: Đối xử với vợ con không ra gì, chẳng lễ phép đối với bố mẹ chồng).

          Đối đãi với vợ hãy nên hòa hoãn, kính trọng. Đối đãi với con cái, hãy nên nghiêm nghị, chánh đáng. Chẳng đối đãi với vợ bằng lễ nghĩa, ắt sẽ đánh mất tình nghĩa “phu xướng phụ tùy”. Chẳng dùng đạo để dạy con, ắt sẽ tổn thương ân nghĩa sanh thành, dưỡng dục. Bất nghĩa, chẳng có lòng từ, đều gọi là “vô hạnh”. Nay [người ta thường là] đối đãi với vợ nếu không khắc bạc, thiếu ân huệ, ắt sẽ suồng sã, không chừng mực; đối đãi với con nếu không quá mức nuông chiều, ắt sẽ nghiệt ngã, quở trách quá đáng. Chính mình đã thật sự vô hạnh, còn trách móc vợ con nỗi gì?

          Đời Hậu Hán, Trương Trạm trang trọng, nghiêm cẩn, chuộng lễ, cư xử ắt cung kính. Mỗi khi gặp vợ con, ắt giảng nói những giáo huấn về lễ, cũng như dùng những lời lẽ tốt lành, hạnh đẹp đẽ để giáo huấn, giống như bậc quân vương trang nghiêm ngự giữa bầy tôi. Vì thế, vợ ông ta [đối với người trong nhà] cũng có thể khuyến khích, đốc thúc lẫn nhau. [Do đó, gia đình Trương Trạm] được tiếng thơm trong làng nước. Tấm gương này thật đáng dùng làm phương pháp tốt đẹp để dạy bảo vợ con.

          Sử Đường khi còn hàn vi đã  cưới  vợ. Đến  khi  đỗ  đạt, hắn  tiếc

hận không thể cưới con gái nhà giàu làm vợ. Do hối tiếc, hắn ngày càng xa lánh vợ, chẳng còn ngủ chung nữa. Bà vợ uất ức thành bệnh. Đã mấy năm, Sử Đường chẳng ngó ngàng tới, vợ cũng nuốt hận. Lâm chung, [vợ ở] cách vách, gọi Sử Đường: “Nay tôi sắp chết, ông nhẫn tâm không ngó ngàng ư?” Sử Đường trọn chẳng đoái hoài. Tới khi vợ đã chết được một năm, cõi âm trách hắn tội bạc ác, bất lương, tước giảm thọ lộc của hắn. Hắn bị bệnh đột ngột mà chết.

          Vương Dao ở Trác Châu nuông chiều hai đứa con trai quá lố, dưỡng chúng thành tánh ác, không thể kiềm chế được, [đành phải] thưa lên quan. Hai đứa con trai đều chết, hắn bèn bị tuyệt hậu. Tới khi Vương Dao chết, vào đêm ngày Rằm tháng Hai năm sau, ông Từ giữ miếu Thành Hoàng xứ ấy là Lưu Tiến ngó thấy một người cầm đơn xin được cúng tế vào tiết Thanh Minh. Thành Hoàng giận dữ phán: “Ngươi có con mà chẳng thể dạy, tự chấm dứt giòng dõi, ai có thể cúng bái cho ngươi?” Thành Hoàng sai quỷ tốt đuổi đi. Người ấy khóc to, rời đi. Ngày hôm sau, miếu chủ dò hỏi, mới biết là Vương Dao đã chết hơn một năm. Cổ nhân có nói: “Con cái nhà Khổng Tử chẳng biết chửi, con nhà Tăng Tử không biết đấu đá”. Đó là do đã huân tập thành tánh. Lại nói: “Nuôi con em như dưỡng cỏ chi, cỏ lan”. Đã dùng học vấn tích lũy để vun bồi, lại còn nhuần thấm chúng bằng những điều thiện đã tích tập. Trong vòng cha con, chẳng thể nuông chiều những đứa còn nhỏ. Từ bé, đã đưa con vào khuôn khổ chặt chẽ, ràng buộc bằng pháp tắc, ắt khi nó lớn lên, sẽ chẳng trở thành hạng không ra gì! Lại nói: “Người có mấy đứa con, đối với chuyện ăn uống, quần áo, chớ nên không [chia sẻ] đồng đều. Chớ nên không giữ nghiêm vai vế và tôn ty giữa người lớn và trẻ nhỏ. Hiền, ngu, đúng, sai khác biệt, chẳng thể không biện định. Từ bé, đã thể hiện sự đồng đều, ắt chẳng lo chúng lớn lên, sẽ tranh chấp tài sản. Từ bé đã bị trách phạt nghiêm ngặt, ắt chẳng lo lớn lên, con sẽ trái nghịch, khinh mạn. Từ bé đã dạy con phân biệt [thiện, ác, đúng, sai, hiền, ngu], ắt chẳng lo lớn lên, con sẽ thành phường trộm cướp”. Gộp chung những điều vừa nói trên đây, mọi người cũng sẽ biết pháp tắc [nuôi dạy con]!

          Vợ phụng sự bố mẹ chồng giống hệt như con cái phụng sự bố mẹ ruột. Mềm mỏng, vẻ mặt tươi vui, ăn nói nhẹ nhàng. Thông cảm nỗi lạnh, nóng, quan tâm bệnh tật, đau ngứa của [bố mẹ chồng]. Họ ra vào, ta đều đến nâng đỡ. Nếu thất lễ đôi chút, sẽ là bất hiếu, tội ác ngập trời, lửa sét sẽ lập tức tru diệt! Ôi! Tôi còn nói cao hơn nữa, vợ đối với bố mẹ chồng là sự kết hợp do mối quan hệ giữa con người với nhau; con cái đối với cha mẹ là sự kết hợp bởi tình thiên luân. Trước nay, con bất hiếu với cha mẹ, mà vợ lại riêng một niềm hiếu thảo với bố mẹ chồng, tôi trộm sợ rằng chẳng hề có lẽ ấy! Vì thế, kẻ làm vợ mà thất lễ, đều là do kẻ làm con [chẳng hiếu thảo với bố mẹ] mà ra vậy. Thần tru diệt, quỷ quở trách, há chuyên trách phạt kẻ làm vợ mà thôi ư? Mong trọn khắp những kẻ làm con hãy suy nghĩ!

          Ngày Hai Mươi Hai tháng Ba năm Sùng Trinh thứ năm (1632) đời Minh, tại huyện Sơn Dương ở Hoài An, vợ của Mao Kế Tông là Phùng Thị bẩm tánh chí hiếu. Mẹ chồng tuổi cao, bệnh tình nguy ngập, ông Mao lại phải vận lương vào kinh thành. Vợ bèn tắm rửa, thay quần áo, trong đêm tối thỉnh cầu trời cao cho mình chết thay. Vợ cầm đao đâm vào hông, đầu gan ló ra. Bỗng nghe con gọi, cô ta sợ con làm kinh động mẹ chồng tỉnh giấc, bèn lấy chiếc khăn che vết thương, vào vỗ về đứa con. Lại lo một chút gan không đủ chữa lành, bèn kiền thành cầu nguyện để mổ lần nữa. Khi ấy, trăng còn chưa mọc, trời bỗng sáng sạch, các ngôi sao đều chói ngời, chiếu vào thân người vợ, sáng trưng như ban ngày. Vợ rạch bụng lấy được một miếng gan, liền tức thời nấu canh dâng cho mẹ chồng ăn. Mẹ chồng vừa mới nếm canh, liền cảm thấy canh thơm ngọt dị thường, bèn hỏi là vật gì? Vợ nói trại đi là nhà hàng xóm bắt được con nai, đây là gan nai. Mẹ chồng ăn hết, bệnh theo đó được khỏi hẳn. Khi ấy, cô ta do lòng chí thành cảm vời, vết thương không đau, nhưng khó giấu vết máu, bị cô em chồng phát hiện, cả nhà kinh hãi, truyền tụng. Mẹ chồng mới biết con dâu cứu mình, khóc rống, cảm kích tấm lòng thương yêu của con dâu. Nhất thời, các sĩ phu trong làng hợp sức viết sớ tâu lên triều đình, nhưng do bị bọn quan nha đòi hỏi [tiền lót tay], chẳng thể tâu lên thiên tử. May mà có chư sanh Giang Thiên Nhất ở Huy Châu viết thành bộ Kỳ Hiếu Kinh Thiên Tập để truyền tụng chuyện này!

          Đời Tống, Giả Đam làm Tiết Độ Sứ ở Hoạt Châu. Khi ấy, có một người đàn bà dân dã, phụng sự mẹ chồng bất hiếu. Mẹ chồng tuổi già, mắt lòa, mụ ta cho mẹ chồng ăn thức ăn bẩn. Mẹ chồng thấy đồ ăn có vị lạ, [nhằm lúc] con trai từ bên ngoài trở về, mẹ chồng đem thức ăn hỏi con. Đứa con trông thấy, ngửa mặt lên trời khóc lớn. Bỗng sấm sét ầm ầm giáng xuống, chặt phăng đầu mụ vợ, gắn đầu chó vào đấy. Giả Đam biết chuyện, sai dắt mụ ta đi khắp trong vùng nhằm cảnh tỉnh phường bất hiếu. Than ôi! Người thời nay cứ hở ra là bảo “tánh phụ nữ như nước, chẳng thể lập tức dạy được”. Nói kiểu ấy sao mà vô lý quá đáng vậy? Những kẻ đang còn là con gái [chưa chồng] trong hiện thời, cha mẹ đã đánh mất phương cách nuôi dạy, đến khi những người nữ ấy làm vợ, chồng lại ngu đần chẳng biết sự lợi ích của việc nêu gương mẫu tốt đẹp [cho vợ học theo], sẽ liền cảm thấy vợ mang thói ác ngỗ nghịch, dâm đãng, đố kỵ, chẳng thể khống chế. Nếu như người làm cha mẹ, [đối với con gái] từ thuở bé cho đến tuổi cài trâm, [thường luôn] dùng sự hiếu kính, nhu thuận để chỉ bảo, hướng dẫn cái tâm của con, [thì mai sau con gái mình] dẫu được gả làm vợ một thằng chồng bất tài, con cũng có thể tự biết cách thành gia lập nghiệp. Huống hồ là được gả cho người thông hiểu lễ pháp, lại còn là bậc quân tử hiếu, đễ, thiện lương ư? Dạy con gái cũng như dạy con trai đều phải coi trọng; cố nhiên phải bảo ban lời này trọn khắp thiên hạ!

          

          (Chánh văn) Khinh mạn tiên linh, vi nghịch thượng mạng.

          (正文)輕慢先靈。違逆上命。

          (Chánh văn: Khinh rẻ hương linh tổ tiên. Vi phạm mạng lệnh của bề trên).

          “Tiên linh” (先靈) là hương linh tổ tiên. Phàm tẫn liệm vô lễ, cư tang không theo chế định của lễ nghi, chẳng nhanh chóng an táng, trai giới, cúng quải chẳng có lòng thành, chẳng siêng năng thăm viếng, quét dọn mộ phần, miếu thờ (chỗ thờ phụng) không ngăn nắp, hương đèn khi có khi không, đều là khinh mạn! Ôi! Nguồn nước, cội cây, há dám quên bẵng? Nếu kẻ nào phạm sai sót đối với chuyện này, tôi chẳng biết nên gọi hạng người ấy là gì nữa?

          Đời Lương, Thái Tử Chiêu Minh (Tiêu Thống) bẩm tánh nhân từ, hiếu thảo. Mẹ ruột của ông là bà quý tần họ Đinh (Đinh Lệnh Quang) mất, [Thái Tử] chẳng uống nước hay canh, thường khóc ngất đi. Lương Vũ Đế khuyên nhủ: “[Người đã mất, thân thể] hủy hoại, nhưng bản tánh bất diệt. Có ta còn đây, con há có nên như thế”. Thái Tử mới miễn cưỡng uống mấy hớp. Từ ngày ấy cho đến khi an táng mẹ, mỗi ngày chỉ dùng một thưng cháo mạch. Thân thể Thái Tử vốn tráng kiện, vòng eo to lớn. Cho đến khi ấy (an táng xong xuôi), giảm mất quá nửa. Mỗi khi vào triều, các quan và dân chúng trông thấy, không ai chẳng ứa lệ.

          Trần Cảo do đã đậu Cống Sanh bèn tới kinh đô. Anh ta đến miếu thờ thần cầu xin thần giáng mộng, mộng thấy thần nói: “Quan tài của cha ngươi chưa hạ táng, chẳng thể hỏi đến chuyện đỗ đạt được!” Trần Cảo chưa tin. Năm sau, anh ta thi trượt khóa thi Hội, bèn trở về, vội vã lo an táng xong xuôi. Lại đi thi, mới thi đỗ. Công Quá Cách chép: “Cha mẹ mất mà ba năm chưa chôn, [cứ tính] mỗi tháng chậm trễ là mười lỗi. Chôn cất mà không trọn hết tâm lực, hoặc là đến nỗi [để cho di thể của cha mẹ] bị hư hoại, phạm một trăm lỗi. Sau khi đã nhận biết mà không sửa đổi, [cứ tính] mỗi ngày chậm trễ là mười lỗi”. Sách còn chép: “Bỏ sót chuyện cúng giỗ tổ tiên, bất kính thì tính là một lỗi. Nếu do vui chơi mà bỏ sót ngày giỗ thì tính [lỗi] gấp năm lần”.

          Đặng Tả Danh mỗi lần tảo mộ, ắt sẽ lưu lại đó cho đến ngày hôm sau mới về. Ông nói: “Trong vòng một năm, đến đây được mấy ngày, tôi không nỡ lòng bỏ đi ngay”. Lời nói chí tình thay! Thế tục hiện thời mỗi năm vào dịp tết nhất hoặc tiết Thanh Minh mới đến nơi phần mộ một lần; ngoài ra, để mặc cho người thân nơi gò hoang chẳng hỏi tới! Lúc cúng tế thì đại khái là cùng với anh em, thân hữu tận tình vui chơi, ngắm cảnh, vui sướng hết mình rồi về. Vào dịp tết nhất, chẳng phải nhằm quét dọn lá tùng [phủ đầy trên mộ], mà chỉ là thưởng thức hoa mai. Thanh Minh chẳng phải là đến thăm mộ, chỉ là dự hội Đạp Thanh[101]. Chao ơi! Chẳng dùng bổng lộc phụng dưỡng song thân, mà cứ ôm vợ con thì có lợi ích gì? Lúc sống chẳng dâng chén cơm bát nước đơn sơ, mất rồi bày cỗ bàn la liệt để làm gì?

          Bầy tôi nghe theo lệnh vua. Con nghe theo lệnh cha mẹ. Đệ tử nghe theo lời thầy. Phàm hết thảy những kẻ thuộc phận dưới, nghe theo lệnh của người trên, đều gọi là “thượng mạng”. Nếu xét theo đạo nghĩa, chẳng thể thi hành [mạng lệnh ấy], cũng nên uyển chuyển [thưa bày khiến cho người bề trên bị] cảm động. Trước hết, xin hãy dâng lời can ngăn, [thưa trình nguyên do] chẳng dám vâng theo lệnh ấy. Nếu xét theo đạo nghĩa [là chuyện] đáng nên làm mà chẳng dốc hết sức vâng làm, đã là có tội, huống là trái nghịch ư? Kẻ trái nghịch chính là khởi nguồn của phường loạn thần tặc tử vậy!

          Đời Minh, Đào An là người huyện Đương Đồ. Minh Thái Tổ sai ông ta trông coi Hoàng Châu, phủ dụ rằng: “Ngươi hãy khéo vỗ về dân chúng”. Đào An kính cẩn vâng theo lệnh trên. Khi tới quận, ông miễn trừ thuế khóa, giảm nhẹ những việc lao dịch rườm rà, siêng năng giáo huấn các quan [cấp dưới], giảm nhẹ trừng phạt, dân chúng đều vui vẻ khâm phục. Ông lại được triệu về kinh làm Học Sĩ, đổi sang làm chức Giang Tây Hành Tỉnh, Tham Tri Chánh Sự. Không chuyện gì chẳng tận tâm kiệt lực châu toàn lệnh trên. Đào An mất, vua đích thân soạn bài văn tế, tặng thụy hiệu, cho con ông ta được tập ấm. Con cháu ông đều đỗ đạt, đạt tới địa vị khanh tá (卿佐, địa vị chấp chánh phù tá đại thần). Những kẻ nay được làm người chăm nom dân đen, đều là cậy vào mạng lệnh của hoàng đế, thế mà họ bạo ngược tàn khốc đối với sanh linh, tàn hại dân chúng, trọn chẳng thấu hiểu tấm lòng nuôi dạy của đức vua ta. Cái tội trái nghịch không chi hơn được tội này! Cố nhiên là dân chúng chẳng thể làm gì được họ, nào có biết trời cao soi thấu chẳng xa. Chẳng thể ngược đãi dân, chẳng thể dối lừa trời cao đâu nhé!

 

          (Chánh văn) Tác vi vô ích, hoài hiệp ngoại tâm.

          (正文)作為無益。懷挾外心。

          (Chánh văn: Làm chuyện vô ích. Ngầm đổi lòng thay dạ).

          Vạn sự trong thế gian, chớp mắt đã thành rỗng không. Chỉ có những chuyện như tích đức, hành thiện, dấy điều lợi, trừ điều hại v.v… là đời đời kiếp kiếp thân luôn được thọ dụng, chẳng có cùng tận. Những thứ khác như dinh thự, nhà cửa, đài, ao, áo cơm, xe ngựa, cùng với hết thảy những thứ thơ, họa, những món đồ trân ngoạn đều đủ khiến cho người ta suy sụp chí hướng, thân thể phiền lụy, có ích lợi gì đâu? Còn như treo đèn diễn tuồng, hát hò, uống rượu, chơi xu bồ[102], đánh bạc, cờ vây… há chỉ là vô ích, mà còn gây hại to tát, hãy cật lực răn dè!

          Đời Tống, Trương Vịnh trấn thủ Thành Đô. Ông lo dân chúng vì khó kiếm ăn sẽ trộm cướp, cho nên mỗi năm trích từ tiền thuế ruộng thu từ các huyện để mua sáu vạn hộc gạo. Tới mùa Xuân, dựa theo sổ sách [ghi chép] cặn kẽ về dân chúng, tính theo số người trong mỗi nhà để cấp phiếu [mua gạo], [nhà kho của chánh quyền sẽ] chiếu theo giá gốc để bán ra. Do vậy, dẫu gặp năm mất mùa, cũng chẳng đến nỗi quá đói.

          Trần Nghiêu Tá làm Tào Vận tại Quảng Nam. Phong tục xứ ấy là không uống thuốc. Hễ bị bệnh bèn cầu khẩn quỷ, đa số là bị chết. Ông sưu tập những bài thuốc có hiệu nghiệm gia truyền cho khắc lên đá nơi dịch trạm, quán xá; do vậy, thổ dân (dân chúng nơi ấy) được nhờ.

          Vương Địch làm tri phủ Thành Đô, dân chúng phần nhiều hỏa táng, ông tận lực ngăn cấm, dùng đất công để lập nghĩa địa thí, chôn cất những người chưa được an táng. Nơi ấy chẳng còn lệ hỏa táng nữa.

          Tô Thức làm tri phủ Hàng Châu, đã cho vét sâu hai con sông, sửa chữa sáu cái giếng, đắp đê dài trồng liễu để ngăn lũ lụt. Do vậy, dân chúng đặt tên cho cái đê ấy là Tô Công Đề (蘇公堤, đê ông Tô).

          Dụ Trọng Khoan làm tri phủ Thuận Xương. Tục lệ xứ ấy hay dìm chết con gái. Ông soạn bài văn khuyên răn, triệu tập phụ lão tới dinh tri phủ, ân cần thăm hỏi, lại lấy bài văn ấy để khuyên lơn. Hủ tục ấy bèn được biến đổi.

          Trên đây, đều là những tấm gương tạo lợi ích cho người khác. Do vậy, ta biết bậc quân tử xử thế cốt sao hữu ích cho người, cho vật, há chỉ bàn suông chuyện cao xa, chẳng hề thực tế ư? Còn như chúng ta tu thân, giữ mình chánh đáng, bớt lỗi, trừ sai, thật sự là chẳng đủ thời gian mà sự việc vẫn ê hề ra đó, há có các thứ hành vi vô ích xằng bậy ư? Chẳng biết huyễn thân huyễn cảnh bỗng dưng lâm vào cảnh tan diệt, chỉ có tánh viên minh là thường còn muôn kiếp, vốn chẳng có sanh diệt. Người thời nay tiêu phí thời gian vã nước cho ướt bùn (làm chuyện vô ích), sao chẳng hướng vào đây để dụng công dốc sức đôi chút vậy thay?

          Bầy tôi lừa dối vua, con ngỗ nghịch cha mẹ, vợ phản bội chồng, anh em xâm phạm lẫn nhau, bạn bè khuynh đảo lẫn nhau, đều là do cái tâm rong ruổi theo ngoại cảnh sai khiến. Nhưng chẳng đợi đến khi cái tâm ấy thể hiện ra hành động, hễ có mảy may ý niệm chớm động, người chưa biết mà quỷ thần đã biết rành rành cái tâm ấy!      

          Đời Tống, Tần Cối âm mưu thông đồng với người Kim, tận lực chủ trương hòa nghị. Các tướng hễ chiến trận hơi thắng thế, ngay lập tức, hắn hạ lệnh giục giã họ rút quân; những thành thị, quận huyện vừa đoạt lại [từ tay quân Kim] lập tức bị vây hãm, thất thủ. Hắn lại giết chết Nhạc Phi trong ngục. Về sau, có người vào cõi âm, thấy Tần Cối ở trong địa ngục Vô Gián. Nay ở trước mộ phần Nhạc Vương ở Hàng Châu, có tượng sắt của vợ chồng Tần Cối quỳ trước đó. Người đến viếng thường đánh đập tượng đó và vẩy nước tiểu lên tượng để trút bớt nỗi hận!

          Đời Minh, có gã dân tên X… ở Việt Trung đối với vợ tình cảm rất thắm thiết. [Thế mà] vợ hắn lại hâm mộ đứa thiếu niên hàng xóm, luôn mắt đi mày lại với nó. Dẫu ở cùng nhà với chồng, mà lòng cô ả luôn tơ tưởng đứa thiếu niên ấy. Về sau, người chồng bị bệnh mất. Chưa mãn tang mà ả ta đã tái giá. Đến đêm, ả liền mộng thấy chồng đến bảo: “Ta chết mà nàng tái giá, ta chẳng trách móc gì. Ta hãy còn sống mà nàng đã mang tâm tơ tưởng người ngoài, chuyện này thật đáng hận”. Bèn cầm chùy sắt đập vào lưng vợ, ả ta ngay lập tức ói máu mà chết.

 

          (Chánh văn) Tự chú, chú tha, thiên tăng, thiên ái.

          (正文)自咒咒他。偏憎偏愛。

          (Chánh văn: Rủa mình, rủa người. Yêu ghét thiên vị).

          Câu này nhằm nói đến chuyện nguyền rủa mà chẳng tìm được lý do chánh đáng nào! “Hễ giận dữ mà tự nguyền rủa chính mình, lại còn nguyền rủa người khác” sẽ thuộc vào phạm vi của lời răn này. Đấy chính là điềm báo trước kẻ tiểu nhân hoặc phụ nữ sẽ chuốc họa, thường là chẳng đợi đến chết, mà là ngay lập tức đúng như lời nguyền, há chẳng nên kiêng dè ư?

          Vợ của Yển Điển từng lén tằng tịu với kẻ khác, lại ăn trộm một chiếc khăn tay từ nhà hàng xóm. Hàng xóm chửi bới, Yển Điển bèn tự nguyền rủa, rủa người khác như sau: “Nếu vợ tao thật sự tằng tịu với thằng khác, và ăn trộm khăn tay của mày, tao sẽ bị sét đánh. Nếu không, ắt mày sẽ bị gánh lấy!” Không lâu sau, Yển Điển chết dưới lưỡi búa của thiên lôi. Dưới hông có chữ viết: “Gã si che chở cho vợ”. Vợ hắn cũng bị sét đánh chết. Dưới hông cũng có chữ ghi rằng: “Hành gian, trộm cắp”.

          Đời Châu, Tử Hãn[103] nước Trịnh nói: – Hễ có nguyền rủa thì chính là căn bản của sự rối loạn. Sanh tử có số mạng định sẵn; chẳng phải là do yêu mà có thể sống, há có lẽ nào do ghét mà chết được ư? Nay có kẻ tự rủa mình, rủa người, mê hoặc quá đỗi, ngu muội quá đỗi!

          Phạm vi của “thiên tăng, thiên ái” (yêu ghét thiên vị) rất rộng. Phàm vua đối với bầy tôi, cha đối với con, chồng đối với thê thiếp, chủ đối với tôi tớ, đều có [chuyện yêu ghét thiên vị]; nhưng chỉ có trong vòng vợ trước, vợ sau, vợ cả, vợ lẽ nơi phụ nữ là nặng nề nhất. Do vậy, xưa kia Tăng Tử sau khi chôn vợ, suốt đời chẳng cưới vợ mới. Ông nói: “Cao Tông[104] vì vợ sau mà giết [con ruột mình là] Hiếu Kỷ. Quan lệnh doãn Cát Phủ[105] vì vợ sau mà giết [con ruột là] Bá Kỳ. Ta trên là chẳng sánh bằng Cao Tông, giữa là chẳng thể sánh bằng Cát Phủ, sao có thể chẳng phạm sai lầm cho được?” Lành thay! Đấy là vì sợ có lòng yêu ghét thiên vị mà giữ vẹn ân tình của người làm cha vậy. Thế nhưng, vợ đã chết, chẳng tục huyền, xét về mặt tình người khó khăn lắm. Chỉ mong sao sau khi tục huyền, luôn có thể lãnh hội [thâm ý] trong lời nói của Tăng Tử, ngõ hầu chẳng đến nỗi phạm sai lầm to tát vậy! Vợ trước của Từ Giáp ở Đông Hải là Hứa Thị sanh được một con trai, đặt tên là Thiết Cữu (鐵臼, cối sắt). Hứa Thị chết, Từ Giáp lại lấy Trần Thị. Mụ ta tánh hung dữ, đố kỵ, muốn giết con của vợ trước. Trần Thị sanh một đứa con trai, do vậy, đặt tên là Thiết Xử (鐵杵, chày sắt), [hàm ý] muốn giã nát cối. Thiết Cữu luôn bị đánh đập, chết vì đói rét. Khi đó, [Thiết Cữu] mười sáu tuổi. Sau khi chết được hơn mười ngày, quỷ hồn bỗng trở về nhà, bảo: “Ta là Thiết Cữu. Mẹ ta đã kêu oan trên trời, đã được thiên tào ban lệnh phù rửa sạch nỗi hận, muốn làm cho Thiết Xử bệnh tật mà chết, giống hệt như ta khi phải chịu đựng nỗi khổ vậy”. Trần Thị trăm kế cầu đảo, cúng bái [hòng thoát nạn], [hồn Thiết Cữu] chẳng rời đi. Khi ấy, Thiết Xử mới sáu tuổi, bỗng bụng trương phềnh, thân thể đau đớn, khắp thân tím bầm rồi chết!

          Vào đời Châu, từ mẫu (người mẹ hiền từ) nước Ngụy vốn là con gái của Mạnh Dương, là vợ sau của Mang Mão, sanh ba đứa con. Vợ trước có năm đứa con. Chúng nó đều chẳng yêu mến mẹ kế, nhưng mẹ kế đối xử hết sức nồng hậu. Năm đứa con ấy vẫn không yêu mến mẹ kế. Từ mẫu bèn giữ cho ba đứa con ruột của mình không bằng con vợ trước: Quần áo, thức ăn, sanh hoạt đều thua kém rất xa. Năm đứa con của vợ trước vẫn chẳng yêu mến mẹ kế. Chẳng lâu sau, có một đứa con của vợ trước vi phạm lệnh cấm của vua nước Ngụy, mắc tội sắp bị xử tử. Từ mẫu buồn rầu, đau xót, sớm chiều chịu đựng nhọc nhằn tìm cách cứu nó.

Có người bảo: “Con chẳng yêu thương mẹ quá đáng. Việc gì phải vất vả, lo sợ như thế?” Từ mẫu đáp: “Con ruột của thiếp tuy chẳng yêu mến thiếp, thiếp ắt cứu vãn tai họa, trừ tội cho nó. Nay đối với con vợ trước, nếu không làm như vậy, [chúng nó] có khác gì không có mẹ? Cha chúng nó vì thấy chúng nó côi cút, chọn thiếp làm mẹ kế. Mẹ kế là mẹ của người ta, mà chẳng yêu thương con chồng, có thể gọi là nhân từ hay chăng? Thân thiết với con ruột, lơ là con vợ trước, có thể nói là nghĩa hay chăng? Bất từ, bất nghĩa, làm sao đứng trong cõi đời được nữa? Tuy chúng nó chẳng yêu thương thiếp, thiếp há có nên quên nghĩa ư?” Bà bèn đến thuyết phục vua Ngụy, vua coi trọng lời nghị luận của bà, bèn xá tội, cho đứa con ấy trở về nhà. Từ đó, năm đứa con thân thiết, kề cận từ mẫu, hòa thuận [với các em] như con cùng một mẹ. Do vậy, bà dùng lễ nghĩa dạy bảo tám đứa con, chúng đều trở thành hạng đại phu hoặc khanh sĩ của nước Ngụy.

 

          (Chánh văn) Việt tỉnh, việt táo, khiêu thực, khiêu nhân.

          (正文)越井越灶。跳食跳人。

          (Chánh văn: Nhảy qua giếng và bếp lò. Nhảy qua thức ăn, nhảy qua người khác).

          “Việt” (越) là nhảy qua. Giếng giúp đỡ, có lợi cho con người rất rộng, có thần suối trông coi, tên là Quán (觀), hình dạng như mỹ nữ. Hơn nữa, nước trong giếng đã lợi lạc, nhuần thấm quần sanh, [nước giếng] lại còn dùng để cúng thần, cúng Phật, há có nên khinh nhờn? Táo Quân là một trong năm vị thần[106] trong nhà. Ông ta là Thái Ất Hỏa Thần, họ Trương, tên Trác, tự là Tử Quách, chưởng quản vận mạng tốt xấu của cả một nhà, chuyên xem xét thiện, ác, hay, dở [của mỗi thành viên trong một gia đình], báo trước cát, hung, họa, phước. Nhảy qua [giếng hoặc bếp lò] chính là khinh mạn, lăng nhục thần linh, tội ấy rất lớn! Không chỉ là nhảy vượt qua, mà ngồi trên bờ giếng, giẫm đạp miệng lò, thiêu đốt những vật dơ bẩn trong lò, sẽ đều là xúc phạm, ô uế [thần linh] vậy!

          Trương Hiếu Tiên mỗi lúc say rượu thích cùng kẻ khác nhảy qua giếng để đùa giỡn. Một hôm, trong giếng có một vị thần kim giáp cầm mâu đâm hắn. Bụng Hiếu Tiên hết sức đau đớn, luôn như bị mũi thương đâm trúng. Hắn kiền thành cầu đảo mới lành bệnh.

          Đời Thanh, Ngô Trạm làm nha lại ở huyện, nhà ở gần Kinh Khê. Kinh Khê có một con suối, nước hết sức trong, mọi người đều nhờ vào [con suối ấy mà có nước để dùng]. Ngô Trạm dựng hàng rào trúc để bảo vệ, không cho những thứ bẩn thỉu rớt xuống suối. Bỗng ở bên cạnh suối, ông nhặt được một con ốc trắng, bèn bỏ nó trong vò. Mỗi lần ông ra ngoài, trở về, thấy trong bếp cơm nước đã chuẩn bị sẵn, tâm hết sức lấy làm lạ. Một ngày lén rình, thì ra là một cô gái từ trong con ốc chui ra, ra tay dọn dẹp, nấu nướng. Ngô Trạm vội chạy tới, cô gái hết sức lúng túng, [bị ông ngăn cản] chẳng cho trở vào vỏ ốc, bèn nói thật với Ngô Trạm: “Tôi là thần suối. Thượng Đế vì thấy ông kính trọng, bảo vệ nguồn nước, lại biết ông ở góa, sai tôi lo liệu cơm nước cho ông. Ông ăn cơm do tôi nấu sẽ đắc đạo”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa!

          Đời Hán, Âm Tử Phương là người chí hiếu, lại rất nhân từ, nồng hậu. Nhằm ngày mồng Tám tháng Chạp, đang nấu bữa sáng, bỗng thấy Táo Quân hiện ra trước mặt, Tử Phương vội lạy. [Từ đó], mỗi dịp mồng Tám tháng Chạp, ông đều cúng bái. Kể từ đó, giàu to ngang ngửa với vua. Tới đời cháu là Âm Thức, có đứa con gái được chọn làm Hoàng Hậu, [Âm Thức] bèn được phong tước hầu. Do vậy, con cháu họ Âm đời đời thờ phụng ông Táo.

          Hướng Lẫm tánh tình giống như cuồng. Một hôm, hắn ngồi trên nóc của căn nhà gỗ ở phía Bắc bếp lò, mộng thấy Táo Quân quở trách. Nhà hắn lập tức phá tán.

          Thức ăn là thứ để nuôi nấng tánh mạng, con người là một trong Tam Tài, há có nên khinh rẻ, coi thường ư? Nếu nhảy vượt qua, sẽ là tội lỗi, há chẳng kiêng tránh ư?

          Đời Đường, có một viên quan vào núi, đến chỗ hoang vắng, thấy một tửu điếm, bèn mua rượu uống. Một người đàn bà thâu tiền trước rồi mới vào trong. Hồi lâu sau mới đem rượu ra. Rượu sắc đỏ như máu, uống vào hết sức ngọt ngào, [viên quan] muốn uống nữa. Người đàn bà khóc, thưa rằng: “Thiếp chẳng phải là người sống. Do lúc còn sống, tiêu dùng xa xỉ vô độ, uống rượu chẳng biết giữ chừng mực, thường giẫm đạp canh thừa, thịt dư rồi cho người khác ăn. Vì thế, hứng chịu quả báo này. Mỗi lần có người mua rượu, liền lấy máu trên thân thiếp dâng ra”. Vị quan ấy hết sức kinh hãi, quay về. Trên núi cao làm sao có quán rượu cho được? Tôi cho rằng vị quan ấy vốn sẵn thói khinh rẻ đồ ăn thức uống, cho nên âm ty mượn cảnh ấy để điểm hóa vậy!

          Đời Tống, Trạch Lâm từng đưa tiễn tiên sinh Chánh Thúc (Trình Di) dời sang phía Tây. Trên đường, ngủ lại ở tăng xá, chỗ ngồi ngẫu nhiên xoay lưng vào thánh tượng. Tiên sinh bảo: “Ông hãy chuyển ghế, đừng ngồi xoay lưng vào tượng!” Trạch Lâm nói: “Há có nên vì tín đồ của họ cung kính, mà [chúng ta] cũng nên cung kính ư?” Tiên sinh đáp: “Phàm những gì có hình mạo con người đầy đủ, đều chớ nên khinh mạn”. Tiên sinh Quy Sơn (Dương Thời) nghe chuyện, hết sức tán thưởng lời ấy, vui mừng nói: “Thấy giống như người mà còn chẳng dám khinh thường, ắt sẽ có thể thấy đối với người sẽ là như thế nào!” Phàm là xoay lưng vào mà còn chẳng nên, huống hồ là nhảy qua ư?

         

          (Chánh văn) Tổn tử đọa thai, hành đa ẩn tịch.

          (正文)損子墮胎。行多隱僻。

          (Chánh văn: Tổn hại con cái, phá thai. Làm nhiều chuyện ám muội).

          Thân người quý nhất, được làm thân người khó nhất. Đức Phật bảo khi con người sắp sanh ra, có cửu thiên tư mã hiện diện, cửu thiên đều chúc mừng, Thái Ất cầm phù mạng, Đế Quân phẩm định mạng vận, vị quan coi sổ sách ghi chép vào sổ. Vị thần Tư Mạng tính toán thọ mạng, Ngũ Đế giám sát sanh mạng, thánh mẫu bảo vệ, che chở [sản phụ trong phòng sanh][107]. Các vị thiên chân, địa kỳ phòng thủ cẩn mật tam giới, [đã canh giữ nghiêm mật như thế rồi] mới được sanh vào nhân đạo, được phô thân hình dưới ánh mặt trời, [đúng là] chuyện kinh trời động đất, quý khôn kể xiết! [Sanh mạng nhỏ bé ấy có] phụ bạc quý vị nỗi gì, sao lại dám giết hại chúng? Kẻ nữ dâm bôn đã mang thai bèn phá thai, chẳng bằng cầm thú, không có cách nào khuyên nhủ được! Còn như có kẻ nhà nghèo, chán ngán con cái đông đúc, hoặc là con đã sanh ra bèn gây thương tổn [cho nó chết đi], hoặc là con chưa sanh ra bèn phá thai, tội nghiệp giết người chẳng thể sám hối, chuộc lỗi được! [Đối với] sanh mạng của loài vật bé nhỏ nhất còn mong phóng sanh, kiêng giết, huống hồ con cái ư? Nay những kẻ suốt đời không có con, hoặc sanh con mà chẳng nuôi được, hoặc đến tuổi già, đâm ra con chết trước, đều là quả báo do đời trước đã tạo ra các ác nghiệp ấy mà chuốc phải.

          Huyện lệnh Quý Khê là Tiền Bang Vỹ do thấy [dân chúng trong vùng] quen thói hễ sanh con gái, phần nhiều chẳng nuôi, ông bèn dạy họ đạo nghĩa chánh đáng, lại còn thưởng phạt nghiêm ngặt: “Kẻ giết con gái sẽ khiến cho năm nhà hàng xóm bị liên lụy”. Do vậy, cứu sống chẳng kể xiết [những bé gái sơ sanh]. Về sau, Bang Vỹ làm Thái Thú ở Đinh Châu, hưởng thượng thọ, con cháu đều hưng thịnh. Phàm nghiêm cấm tổn hại con cái và phá thai đạt được báo ứng như thế, người thời nay hãy nên luôn khuyên nhủ, công ấy cũng chẳng nhỏ nhặt đâu nhé!

          Quách Ấn có đứa con gái tên là Dẫn Phượng bị hai con quỷ truy bắt, dẫn qua khắp mười tám ngục. Trong ngục cuối cùng, có một vị vương giả ngồi trên điện, phía dưới là mấy trăm người đàn bà, ai nấy đều có trẻ nhỏ đang ôm chân họ gào khóc đòi mạng. Có kẻ vì sanh nhiều con gái mà dìm chết [trẻ gái] mới sanh. Có kẻ vì nhà nghèo, sanh ra [con gái] bèn chẳng nuôi. Có kẻ vì vợ cả ghen tuông vợ lẽ sẽ sanh con mà đánh đập đến nỗi [vợ lẽ bị] sẩy thai. Có kẻ vì chửa hoang bèn tự dùng thuốc độc [giết chết thai nhi]. Có kẻ vì đấu đá, bị va chạm mà tổn hại thai. Có kẻ vì giận con khóc nhè mà đánh, mà quăng đến nỗi làm chết con. Có kẻ vì trông trẻ không cẩn thận, khiến cho con chẳng do yểu mạng [mà bị chết oan]. Vị vương giả cật vấn từng người một, không ai chẳng mang gông đeo cùm trên thân, [thân hình] quắt queo đáng thương. Dẫn Phượng đã trở về, bèn kể đầy đủ với cha. Do đó, ông bèn cho viết lại chữ to trên vách chùa Thiên Ninh để răn đời.

          Người đàn bà tên Dương A Thặng từ bé đã nghèo nàn, bệnh tật. Đến tuổi già càng chật vật. Lâm chung, tự nói: “Đời trước, ta vốn là một thầy thuốc. Do không tra hỏi tường tận, có một phụ nữ tự nói bị bệnh do trúng cổ độc, ta chẳng biết là cô ta có thai, liền cho uống rượu Nguyên Hoa[108]. Cô ta và hai đứa con trong bụng đều chết, tức là ta đã giết chết ba người một lượt. Quan cõi âm bắt tội ta, chịu khổ đã mãn, lại bị phạt làm thân nữ, đến nay đã là ba lần. Đời đời luôn luôn là kẻ tôi tớ hèn hạ, luôn bị khốn khổ vì đói khát, lắm bệnh, ít được an vui. Khuyên những người làm nghề y trong cõi đời, hãy lấy ta làm gương”. Nói xong bèn chết.

          Văn Xương Đế Quân nói: “Kẻ làm con bất hiếu, ắt có luật trời tru lục. Vô tội giết con chính là giết nhân dân trong thiên hạ. Hơn nữa, người ta muốn giết con, sao chẳng tiết dục, mà lại dám giết người chẳng màng! Trong đời này, hạng người như vậy há có thể bảo đảm là không có! Ta thấy những kẻ chịu tội trong chốn Phong Đô phạm lỗi này thật đông! Hãy gấp cùng nhau tỉnh ngộ, để khỏi nhanh chóng bị trời phạt”.

          Bài Giới Nịch Nữ Ca (戒溺女歌, bài ca khuyên kiêng dìm chết con gái) của Hà Long Đồ có nói:

          – Cọp sói tánh ác nhất, vẫn biết có cha con. Người linh nhất muôn vật, hiềm rằng chẳng bằng chúng! Sanh trai cùng sanh gái, bồng ẵm đều như nhau. Tôi nghe giết trẻ gái, khốn khổ khôn sánh bằng, bào thai còn đẫm máu, có miệng chẳng thể nói, khóc ọ ẹ trong bồn, hồi lâu mới chết hẳn. Chao ôi! Lòng cha mẹ, tàn nhẫn đến ngần ấy! Do vậy, tôi khuyên dân, đừng nên giết con gái, thoa gai cùng váy vải, chưa chắc khiến ngươi nghèo. Nữ tánh hiền dịu nhất, yêu cha mẹ hơn trai. Con trai hay ra ngoài, gái thường quấn mẹ cha. Trai phần nhiều ương bướng, gái luôn thuận cha mẹ. Trai hay thích chơi xa, gái luôn gần cha mẹ. Trai thường ít bi ai, gái luôn khóc cha mẹ. Gái có tâm hiếu thuận, thường cứu giúp mẹ cha. Nữ có chồng con tốt, thường rạng danh cha mẹ. Chẳng thấy cô Đề Oanh[109], giúp cha thoát nhục hình. Chẳng thấy cô Đường Hương[110], cứu cha bèn chặn hổ. Đàm Thị mười tám tuổi, lo ma chay cho cha. Tào Nga[111] mười bốn tuổi, trầm mình kiếm xác cha. Thúc Tiên[112] cha chết đuối, đau xót ôm thây cha, lập lờ trôi theo giòng. Mẹ nàng Viên tê bại, hỏa hoạn chẳng dậy được, nàng khóc, chẳng nỡ lìa, cam chịu thiêu cùng mẹ. Đời Tống, cô Trần Tam, cha mẹ nghèo kiết xác, ba chị em húp cháo, chuyên hái ấu đổi gạo. Mẹ chết, chẳng lấy chồng, dựng lều sống bên mộ, cho đến hết một đời. Đời Đường, Ngọc Hòa Tử, cha anh đều chết trận. Hòa Tử mới mười bảy, lặn lội tận biên cương, ăn xin, đưa xương về, bọc lụa là chôn cất, cắt tóc, hủy diện mạo. Rồi dựng lều bên mộ. Tiết lớn, vua nghe biết. Xuống chiếu khen ngợi nàng. Hiếu thay nàng Tiêu Cơ! Cha mẹ chết đất khách, nàng mới mười sáu tuổi, đưa hòm về quê nhà. Nhà thuyền khinh con côi, giữa đường bỏ quan tài, giong thuyền đi mất hút. Nàng cùng một tỳ nữ, khoét đất, đào thành huyệt, [hòng chôn tạm song thân]. Nàng hủy hoại dung mạo, ngày đêm luôn buồn bã, dựng chòi bên mé nước. Hết tang, chẳng chịu rời. Cầu hôn, chẳng chịu gả, [đưa ra điều kiện rằng]: “Ai đưa hòm về quê, sẽ chịu theo làm vợ”. Quả nhiên lấy một người, đưa hòm về quê cũ, là lão úy[113] họ Dương, vốn là người Dương Xá. Cô Đồ ở Đông Ô, cha mù, tay chân vẹo, cơm ăn lo từng bữa, người thân với xóm giềng, đều cùng chẳng thèm ngó. Cô bèn dời song thân, đến sống trong phường dệt, ở một chốn xa xôi. Ngày đẵn củi đổi gạo, đêm se gai thành sợi. Song thân hết tuổi thọ, đắp đất thành mộ phần, giữ mộ chẳng lấy chồng, chỉ vì không anh em. Gương xưa gái hiếu hiền, nhiều khó thể chép xuể. Quan lại hoặc tặng vàng, hoặc triều đình khâm thưởng. Có người làm phi tần, hoặc thành bậc phu nhân. Nếu giữ mạng con gái, con sẽ biết báo đền, chẳng hề thành ngỗ nghịch. Kính khuyên người thế gian, đạo trời sẽ báo đền, chớ bảo trẻ gái ngốc, oán hận chẳng biết báo. Chẳng xót mạng trẻ gái, mẹ cha sao dám chắc, giữ nổi mạng chính mình? Tuyệt tự, giảm tuổi thọ. Luật âm ty rành rành, đến khi bị đòi mạng, cắn rốn chẳng thể kịp! Sao chẳng tròn mạng con, cốt nhục đều vui sướng!

          “Ẩn tịch” (隱僻, ám muội) chẳng phải chỉ là một chuyện. Như gian trá, trộm cắp, tà dâm v.v… phàm những gì không thể cho trời biết, chẳng thể nói với người khác thì đều là [“ẩn tịch”]. Nhưng chuyện lớn nhất, ắt thuộc loại chuyện dâm uế; do vậy, đức Thái Thượng viết điều này vào sau [lời răn về chuyện] tổn hại con cái, phá thai là vì có lý do vậy.

          Đời Minh, Mạo Khởi Tông nói: – Tại phía Bắc huyện Phù Lương, có Trương Minh Tam theo cha đến lỵ sở trấn nhậm tại Quỳnh Nhai. Dinh quan gần nhà Lý Chỉ Huy. Hai cô con gái họ Lý đều xinh đẹp, Minh Tam đều tằng tịu với họ. Đến khi trở về, [Minh Tam] ngầm đem cả hai cô giấu trong thuyền. Thuyền sắp ra biển, ông Lý đuổi theo rất gấp. Minh Tam túng kế, vội đẩy hai cô gái xuống nước. Mười năm sau, Minh Tam thắt lưng đau buốt, đón thầy thuốc họ Tôn chữa trị. Thầy cắt thuốc vừa mới đỡ đau; đêm ấy, ông Tôn mộng thấy ở chỗ đánh cá nơi rặng mai trong làng, có hai người con gái lõa lồ từ trong nước biển ngoi lên, nắm áo họ Tôn nói: “Bọn thiếp là người Quỳnh Nhai. Ông đến chữa bệnh cho thằng Trương, sao ông cố ý đoạt công của bọn thiếp?” Do đó, họ lôi ông Tôn vào nước. Ông Tôn kinh hoảng tỉnh giấc, mồ hôi tuôn đẫm lưng. Đến sáng, [ông Tôn] kể với Minh Tam, Minh Tam đấm ngực, than thở: “Nghiệp đã đến rồi, ta đã tới số rồi”. Quả nhiên, hơn một tháng, hắn bèn chết. Đấy chính là chuyện “hành đa ẩn tịch” (làm nhiều chuyện ám muội) giữa nam và nữ, [dẫn đến tình trạng] hứng chịu báo ứng lẫn nhau vậy. Như Minh Tam và hai cô gái, thoạt đầu ngấm ngầm chung chạ, lại cùng nhau ngầm trốn đi. Rốt cuộc, hai cô gái chết bởi tay Minh Tam, mà Minh Tam lại chết bởi vong linh hai cô. Có thể nói là báo ứng tột bậc xảo diệu, chẳng sơ sót. Đại để là gian dâm vợ và con gái [kẻ khác], gây tổn hại cho công danh của kẻ khác, hai chuyện ấy thuộc về hành vi ám muội nhiều nhất, tổn thương tình người và lý trời nhiều nhất. Vì thế, kẻ gian dâm vợ và con cái kẻ khác, vợ và con gái của chính hắn sẽ bị người khác dâm loạn. Kẻ tổn hại công danh của người khác, công danh của chính hắn ắt sẽ bị người khác làm hại! Tục ngữ có câu: “Ám thất khuy tâm, thần mục như điện” (Làm chuyện thiếu lương tâm trong phòng tối, mắt thần thánh sáng ngời như chớp), há chẳng nên răn dè ư?

 

          (Chánh văn) Hối lạp ca vũ, sóc đán hào nộ, đối Bắc thế thóa cập nịch, đối táo ngâm vịnh cập khốc.

          (正文)晦臘歌舞,朔旦號怒。對北涕唾及溺,對竈吟咏及哭。

          (Chánh văn: Ca múa vào cuối tháng, ngày lạp. Gào hét, giận dữ vào ngày đầu tháng hoặc sáng sớm. Quay về hướng Bắc hỉ mũi, khạc nhổ, tiểu tiện. Đối trước bếp lò ca hát, khóc lóc).

          “Hối” (晦) là nguyệt hối (月晦, ngày cuối tháng), chính là ngày Tư Mạng Táo Quân tấu trình công và lỗi của người đời. “Lạp” (臘) là năm ngày lạp, chính là ngày Ngũ Khí Thiên Quân[114] tụ họp để thẩm tra điều thiện lẽ ác của chúng sanh. Trong những ngày ấy, các vị thiên quân tụ về huyền đô[115], suất lãnh ba vạn sáu ngàn vị thần trong cõi âm và dương trần thuộc nhân gian, địa phủ, ngũ nhạc để so sánh, quyết định những chuyện thiện, ác, tội, phước, vinh diệu, tài lộc, tuổi thọ, cát, hung, sanh, tử v.v… của chúng sanh. Mỗi điều đều được ghi chép vào trong sổ sách. Ngày mồng Một tháng Giêng gọi Thiên Lạp, mồng Năm tháng Năm là Địa Lạp (tiết Đoan Ngọ), mồng Bảy tháng Bảy là Đạo Đức Lạp, mồng Một tháng Mười là Tuế Lạp (Dân Tuế Lạp), mồng Tám tháng Chạp là Hầu Vương (Vương Hầu) Lạp. Phàm gặp những ngày ấy, vạn nhất phạm lỗi, một khi bị ghi vào sổ đen, há có thể chuộc tội ư? Huống chi Phong Đô Bắc Đế[116], Thái Âm Thiên Quân[117], cũng vào những ngày ấy, dẫn dắt tổ tiên, cha mẹ, quyến thuộc lâu đời của chúng sanh, cho đến các quỷ hồn bị giam kín trong ngục, tra hỏi họ đã ở trong âm ty thời gian bao lâu, cũng như tra hỏi nguyên do dẫn đến tích lũy tội lỗi, phần mộ đặt ở nơi nào, con cháu tên họ là gì. Đã có tên họ của con cháu, anh em, thân nhân, sui gia trong cửu tộc, [các vị thần tiên] sẽ liền nhóm họp lại để giảo định, dùng những điều ấy để định đoạt tội trạng của chúng sanh. Nếu đã trải qua nhiều kiếp mà con cháu chẳng hề cầu siêu, chuộc tội, chắc chắn sẽ liên lụy đến thân nhân còn sống trong nhân gian. Huống hồ trong những ngày ấy, tiên linh quyến thuộc đều được phóng thích, ai nấy trở về nhà mình để thọ lãnh [con cháu] cúng quải. Kẻ làm con cháu, hãy nên nương cậy đạo pháp để cúng quải, cầu siêu, cứu chuộc. Nếu mặc tình ca múa, sẽ mắc tội với trời đất, tổ tông. Như vậy thì trong các ngày hối, ngày lạp, hãy nên truy tiến (追薦, cúng bái, cầu siêu, tưởng niệm), hay nên ca múa?

          Ông Vu Ngọc Bệ nói: – “Hối” là ngày cuối của một tháng. “Lạp” là tận cùng của một năm. Trong những ngày ấy, mọi người hãy nên so lường công đức, gắng chí tấn tu. Do đó, tổ sư đã khuyên mọi người như sau: “Nếu chẳng chuẩn bị thấu triệt sẵn sàng, ngày Ba Mươi tháng Chạp xảy đến, chắc chắn sẽ là một hồi náo nhiệt” (Ý nói người mất tay chân luống cuống, hoang mang; họ hàng quyến thuộc bàng hoàng, nháo nhào, càng khiến cho vong linh mê loạn hơn).

          Lại nói: – Hỡi các vị ơi! Hãy thử kiểm điểm chính mình, xét xem từ trẻ đến già, từ sống đến chết, [tâm ta] đã hòa lẫn cùng trần lao nghiệp thức thành một khối, biến thành một bầu hỗn loạn. Rốt cuộc là kết quả như thế nào? Có ai quay đầu suy nghĩ hay chăng? Bỗng dưng ba tấc khí đứt đoạn, mắt nhắm tịt lại, chỉ là một thần hồn vẩn vơ theo nghiệp chịu báo! Há chẳng phải là sống uổng chết phí ư?

          Trong Cảnh Lão Nghi Thức (nghi thức cảnh tỉnh về tuổi già) của ngài Vân Thê (Liên Trì đại sư), đối với mỗi ngày cuối tháng, Ngài đã dạy đại chúng: “Mạng người vô thường, ngắn ngủi trong hơi thở. Ví như cá bơi trong nồi, khoảnh khắc bỗng bị nấu chín nhừ. Đèn ở trước gió, sát-na tắt phụt. Huống hồ thân này chẳng lâu dài, ắt đến cửa tử. Nẻo đường phía trước mịt mờ, chẳng biết về đâu? Há chẳng nên dũng mãnh tỉnh ngộ vô thường, dè dặt, kinh sợ, gắng sức buông xuống muôn duyên, nhất tâm niệm Phật”. Tổ sư rát miệng khuyên người như thế, há có nên làm chuyện ca múa trong ngày cuối tháng ư?

          Có một nhà giàu sụ ở Hoài Âm, bình sanh giữ mình cẩn thận, giao tiếp khiêm tốn, nhu hòa. Mỗi dịp mồng Một, ngày Rằm, ngày Lạp, đều đọc tụng phạm kinh (kinh Phật), lễ bái thần kỳ, từ đầu tới cuối chẳng bỏ sót. Khi ấy gặp đúng ngày Thiên Lạp vào hôm Nguyên Đán (mồng Một Tết), có một đứa tiểu nhân cậy men rượu để nhục mạ, người nhà giàu đóng cửa, không màng tới. Người nhà và hàng xóm chung quanh đều chẳng nhịn nổi. Phú ông nói: “Đang trong lúc lễ Tết, có ai mà chẳng uống rượu. Say sưa rồi phát cuồng là thói thường của con người. Nếu so đo với kẻ ấy, lẽ nào chẳng phải là thiếu độ lượng ư?” Do một lời ấy, cảm động thần kỳ. Đêm hôm ấy, ông nằm ngủ, mộng thấy đến một chỗ, gặp một người đội mão vàng, áo tía, bảo: “Trong ngày Thiên Lạp, ngươi có thể nhẫn điều người khác chẳng thể nhẫn. Thượng Đế khen ngợi, ban cho ngươi phước thọ, con cháu của ngươi đời đời có mũ áo (làm quan)”. Ông bỗng bị người nhà đánh thức. Về sau, quả nhiên hưởng thọ ngoài tám mươi, hai con trai và một cháu đều do thi đậu Minh Kinh mà được bổ làm quan. Đến nay, lớp chắt chút đều không ngớt nổi danh học rộng, đỗ đạt. Đấy chính là [phước báo đạt được] do biết phản tỉnh bản thân trong ngày Hối, ngày Lạp vậy. Những kẻ trong những ngày ấy cuồng vọng kêu gào, ca múa, mặc sức rượu chè phóng đãng, đã mạo phạm giới luật của cõi trời, ắt đã đánh mất cái tâm tu tỉnh, thật sự đáng bị tiêu ma phước lộc, giảm bớt tuổi thọ. Hãy nên răn dè!

          Cơ sở để tính một tháng là ngày mồng Một. Cơ sở để tính mỗi ngày là buổi sáng. Nhằm lúc ấy đúng là lúc hãy nên lắng đọng tâm tư, thanh tĩnh hòng phù hợp với chân lý trong thiên đạo. Nếu gào thét, tức giận, trược khí sẽ từ gan bốc lên, chân khí sẽ theo tiếng hét mà tan mất. Do vậy, tâm thần hôn ám, khí ô trược, thiện niệm tiêu diệt. Có bài thơ cổ như sau: “Nhất thiết chư phiền não, giai tùng bất nhẫn sanh. Lâm cơ như đối kính. Diệu xử tại quang minh. Phật ngữ cầu vô tránh. Nho thư quý bất tranh. Hảo điều khoái hoạt lộ. Thế thượng thiểu nhân hành” (Hết thảy các phiền não, do chẳng nhẫn mà sanh, gặp chuyện như soi kiếng, quang minh khéo ở yên. Phật dạy đừng cãi cọ, sách Nho trọng đừng tranh, một nẻo đường vui sướng, cõi đời ít kẻ theo). Kinh Phật dạy: “Sân là căn bản khiến cho các pháp lành bị mất đi, là nhân duyên khiến đọa vào các ác đạo”. Trong khi tức khí, đừng để cho cơn giận tăng trưởng; bởi lẽ, gào thét, tức giận đã tạo phiền lụy quá đỗi cho con người, trong ngày thường vẫn phải nên cẩn thận, huống hồ là ngày mồng Một hay sáng sớm ư?

          Vợ của Trần Anh là Triệu Thị tánh hung tợn, thích tranh chấp, gặp ngày mồng Một, mụ ta càng quá quắt hơn nữa. Những ai lui tới nhà ấy, chỉ nghe tiếng gào thét, giận dữ chửi bớt không ngớt. Bỗng có một đạo nhân tìm tới. Mụ ta hỏi: “Ngươi tới làm chi vậy?” Đáp: “Bán linh đan. Uống vào sẽ trường sanh”. Mụ ta thích lắm, mua rồi nuốt ngay, [thế là] câm luôn!

          Đời Hán, mẹ của quan Tư Không Đệ Ngũ Luân do già cả không thể theo ông đến nhiệm sở làm quan. Mỗi dịp cuối tháng, ngày Lạp, mồng Một, ngày Rằm, ông Luân thường buồn nhớ, tuôn lệ, lạy trời cầu thọ cho mẹ. Ôi! Bậc quân tử thuở xưa cảm khái trước thời tiết, tưởng nhớ mẹ dường ấy. Những kẻ ca múa, gào thét, giận dữ, cũng chẳng biết họ nghĩ gì? Huống chi, trong phần trước đã nói hết sức tường tận về chuyện tưởng nhớ, cúng bái, siêu độ tổ tiên, há chẳng tỉnh ngộ đôi chút ư?

          Phương Bắc là chỗ ngự của Bắc Đẩu Tinh Quân. Bắc Cực là chỗ then chốt của cõi trời. Vạn linh, các vị thiên chân (thần tiên) trong tam giới mười phương đều thuộc quyền quản hạt của Ngài. Do vậy, Trung Thiên Đẩu Cực được xưng là Chí Tôn. Thế thì chỗ cư ngụ của đấng tôn quý há có nên xúc phạm, ô uế ư? Xét theo lễ, con trai, con dâu chẳng được khạc, nhổ, phun nước miếng bên cạnh cha, mẹ, bố mẹ chồng, [vì làm như vậy] là bất kính; huống hồ đối với phương Bắc là chỗ cư trụ của thần ư! Hỉ mũi, khạc nhổ còn chẳng được, há có thể tiểu tiện ư?

          Ở đất Ngô có kẻ ban đêm thức dậy, trần truồng, hướng về phương Bắc tiểu tiện. Bỗng thấy cờ đen rợp trời, đức Chân Vũ hiện thân, [kẻ ấy hoảng hốt] bò vào cửa, nằm bệnh suốt mấy tháng; sám hối mới lành bệnh. Kinh Trường Sanh nói: “Mùa Xuân ở phương Đông, mùa Hạ tại phương Nam, mùa Thu tại phương Tây, mùa Đông tại phương Bắc. [Đối với] những phương hướng như sách Nguyệt Lệnh đã chỉ ra [mà xúc phạm, ô uế], sẽ đều là phạm tới chuôi sao Bắc Đẩu, sẽ bị giảm thọ nhanh chóng nhất”. Nhìn từ chỗ này, các phương vị đều có răn cấm, không chỉ là phương vị Chánh Bắc!

          Họ Tiền ở Thường Thục là một họ lớn. Trong niên hiệu Chánh Đức (thời Minh Vũ Tông), bị hỏa hoạn lớn, ba ngày mới tắt. Trong đám tro tàn, chỉ riêng ba gian tiểu lâu còn nguyên. Đấy chính là nhà của Tiền Tiểu Tứ. Mẹ chồng và con dâu là hai bà góa, cùng ở trên đó. Gặp lúc lửa hừng hực thiêu đốt bốn phía, hai người quẫn bách, không có cách nào trốn thoát được, do thường ngày thờ phụng Bắc Đẩu, họ chỉ biết khấu đầu cầu cứu. Bỗng dưng thấy bảy người mặc áo đỏ, đứng dưới mái hiên, vung tay áo xua lửa, lửa theo tay họ tản ra. Do vậy, mẹ chồng và con dâu không sao, nhưng bốn phía chẳng còn sót lại một cái rùi kèo nhà nào. [Do chuyện này] cả một vùng được cảm hóa, đều thờ phụng Bắc Đẩu. Phàm những ai tôn sùng Bắc Đẩu đều được kéo dài tuổi thọ, trừ bệnh, mạng vận bình yên, thoát tai nạn, được hưởng phước, giòng dõi tiếp nối dài lâu. Nước, lửa, trộm cướp, yêu, ma, quỷ quái, ôn dịch, các thứ ấy đều chẳng xâm hại, [những điều lợi ích] chẳng thể gập ngón tay để tính đếm trọn hết. Ở đây, chỉ nêu một trường hợp để suy ra những điều còn lại. Điều trọng yếu là làm lành thì mới có thể cảm ứng cõi trời. Người có thể biết như thế, há có chuyện hướng về phương Bắc mà khạc, nhổ, tiểu tiện ư?

          Hoàng Đế Táo Kinh chép: “Không được đối trước cửa lò mà ca hát, ngâm vịnh, khóc lóc, chửi rủa, quát tháo. Phàm ngâm vịnh và khóc lóc, tuy buồn vui khác nhau, nhưng đều là khinh mạn thần, ắt bị giảm lộc, giảm thọ”. Vả nữa, người thời nay ở trước mặt quan phủ, còn chẳng dám lớn tiếng nói bừa, sao lại riêng đối với thần bèn chẳng kiêng dè vậy thay? Bọn ngu phu ngu phụ hãy nên hết sức răn dè, còn như do kính trọng mà được phước, do khinh nhờn mà mắc họa thì trong phần trước đã nói rõ ràng rồi!

 

          (Chánh văn) Hựu dĩ táo hỏa thiêu hương, uế sài tác thực, dạ khởi lõa lộ, bát tiết hành hình.

          (正文)又以灶火燒香。穢柴作食。夜起裸露。八節行刑。

          (Chánh văn: Lại còn dùng lửa từ bếp lò để châm hương. Nấu thức ăn bằng củi dơ. Ban đêm thức dậy, thân thể lõa lồ. Hành hình nhằm tám ngày Tiết).

          Theo Thiên Sư Môn Hạ Khoa Lệnh, lửa vùi dưới tro nơi đáy bếp lò được gọi là Phục Long Thỉ (伏龍屎, phân của rồng nằm ẩn); do vậy, chẳng thể dùng để thắp hương. Tôi từng trộm đọc giáo điển, [biết] những điều kiêng kỵ trong nhang đèn lại không chỉ là một chuyện này. Như chẳng thể dùng giấy bổi xoắn lại thấm cặn dầu để [làm mồi lửa] đốt giấy [tiền vàng bạc]. [Giấy tiền vàng bạc đốt kiểu đó] gọi là “uổng tích lạp tiền” (tiền sáp bị chất chứa oan uổng). Tại Đông Nhạc, [loại tiền vô dụng ấy] chất chứa như núi, các ty sở âm dương trong trời đất đều chẳng tiếp nhận. Lại như cúng dường Chân Vũ (Huyền Thiên Đại Đế, Huyền Vũ Đại Đế), vào tháng mùa Hạ không thể dùng quả mận, tháng mùa Đông chẳng thể dùng thạch lựu. Thỉnh cầu bậc thượng chân (chân tiên) giáng hạ, không thể đốt nhũ đầu hương[118]. Đàn hương được gọi là dục hương (浴香, hương để tắm), hoa nguyệt quý[119] được gọi là Bất Thời Hoa (hoa chẳng đúng thời), hoa kim đồng (金桐) được gọi là Quỷ Hoa. Những thứ ấy đều nên tránh dùng. So với chuyện chẳng tránh né để rồi tự mạo phạm [mà chuốc lấy tội lỗi], sao bằng tuân theo, kính trọng giáo pháp ấy?

          Chư Kinh Yếu Tập[120] nói: – Do Sự mà ngộ Lý, ắt phải nhờ vào tướng để dẫn đến lẽ chân thật. Chiêm ngưỡng thánh dung, cậy vào hương, hoa để cúng dường, phụng trì. Đức Phật dạy: “Sau khi Như Lai diệt độ, nếu lại có người dùng một đóa hoa, một nén hương để cúng dường, lấy một vốc nước, trừ bỏ những thứ bất tịnh, nhấc chân một bước, đến trước chư Phật, xưng nam-mô Phật một tiếng, nếu người ấy đọa trong ba ác đạo thì chẳng thể có chuyện ấy”. Tịnh Danh Sớ chép: “Hương là danh xưng lìa uế, có tác dụng thơm ngát lan tỏa”. Cảm Thông Truyện[121] chép: “Mùi hôi thối trong nhân gian, xông lên hư không bốn mươi vạn dặm. Chư thiên thanh tịnh, không vị nào chẳng chán ghét, nhưng do tiếp nhận lời phó chúc của đức Phật mà hộ trì Phật pháp. Đức Phật còn ở chung với con người, chư thiên chẳng dám không đến. Vì thế, trong Phật pháp, dùng hương làm Phật sự, đáng gọi là bậc nhất”. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Trong Thiện Pháp Thiên, có loại hương tên là Tịnh Trang Nghiêm. Nếu đốt một hoàn để xông, sẽ khiến cho khắp các chư thiên đều dốc lòng niệm Phật”. Như vậy thì dùng lửa bếp để thắp hương chẳng đáng kiêng tránh ư?

          Đời Tống, Châu Khai Sơn tụng kinh Hoa Nghiêm; lại có một vị Tăng có thể tụng Kim Cang. Hai người chết đột ngột cùng một lúc. Vua cõi âm mời Khai Sơn tụng kinh, hết sức lễ kính. Lại mời vị Tăng tụng kinh Kim Cang, tâm chẳng hết sức cung kính. Tụng xong, vua nói: “Do công đức tụng kinh, hai vị Tăng đều được tăng thọ hai mươi bốn năm. Vị trì kinh Hoa Nghiêm, càng hết sức đáng nên kính trọng, mai sau sẽ chẳng đến chỗ ta!” Khi ấy, vị Tăng tụng kinh Kim Cang tâm hết sức hổ thẹn. Do vậy, hỏi chỗ ở của Khai Sơn, nguyện sẽ đến bái phỏng. Tỉnh lại, vị Tăng liền đến Lộ Châu, tìm đến thăm Khai Sơn. Hỏi nguyên do, Khai Sơn đáp: “Mỗi lần tụng kinh, ắt y phục tinh khiết, dùng nước thơm rửa dọn tịnh thất. Sau đó, lấy lửa xẹt từ đá [lửa], hoặc lửa do dùi gỗ mà có để đốt hương, tâm nghiêm túc chú nguyện, mở miệng [tụng niệm với thái độ cung kính] giống hệt như đối trước Phật, chưa hề dám biếng nhác, ơ hờ! Nếu chẳng có loại lửa thanh tịnh ấy, quyết chẳng dám khinh thị dùng loại lửa khác để thắp hương”. Vị Tăng tụng kinh Kim Cang cảm tạ, nói: “Tôi có tội. Mỗi lần tôi tụng kinh, liền dùng lửa bếp để thiêu hương. Do chuyện này, tôi đã bất kính nhiều lắm”. Bởi lẽ, thắp hương nhằm biểu lộ tâm cung kính, ắt phải thanh khiết, ắt phải thanh tịnh thì mới có thể thiêu hương. Vạn nhất bếp lò đốt củi dơ bẩn, dùng lửa ấy để đốt hương, tức là cái tâm kính trọng ngược ngạo biến thành khinh nhờn; vì vậy, đức Thái Thượng răn dạy.

          Củi tuy đốt dưới đáy nồi hay vạc [để nấu thức ăn], nhưng hơi khói thật sự bốc lên, huân ướp [thức ăn]. Củi bẩn bất tịnh, có mùi hôi bẩn, đáng chán ghét, xúc phạm ông Táo. Đó là một điều chớ nên. Đã dùng [củi bẩn] để nấu thức ăn, chẳng tránh khỏi dùng những món ấy để cúng tế; đó là hai điều chớ nên. Hơi khói xông lên tận hư không, dễ khiến cho thần thánh tức giận; đó là ba điều chớ nên. Người nấu thức ăn phải nên hết sức kiêng tránh!

          Năm Chánh Hòa thứ bảy (1117) nhà Tống, Lý Bát bị bệnh cùi đã ba năm, trăm loại thuốc chẳng chữa lành. Thoạt đầu, chàng Lý chưa bị bệnh, đã tụng kinh Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát đủ ba tạng[122]. Một hôm, bỗng có một vị Tăng đến, cho một hoàn thuốc bảo uống. Họ Lý chần chừ giữ lại, chẳng chịu uống ngay. Đêm ấy, mộng thấy vị Tăng đã cho thuốc bảo: “Ta chính là Quán Thế Âm. Do ngươi thường ngày dùng củi bẩn để nấu ăn, xúc phạm quỷ thần. Vì thế, mắc chứng bịnh phong này. Lại do ngươi từng tụng kinh đến ba tạng, đặc biệt ban cho ngươi một viên thuốc cứu khổ. Sao ngươi không uống?” Chàng Lý đã tỉnh giấc, liền lấy thuốc uống. Sau bảy ngày, da nơi toàn thân tróc hết, râu và tóc mọc lại. Củi bẩn xúc phạm thần thánh, cố nhiên đáng nên kiêng tránh. Còn như [sử dụng] thân hoặc cành cây đào, cây liễu để làm củi thổi nấu thì cũng xúc phạm đến Táo Quân. [Đối với] những điều cấm kỵ trong kinh Đạo Giáo, cũng phải nên biết.

          Bậc chánh nhân quân tử, ở chỗ sáng thì sợ người, ở chỗ tối tăm thì sợ thần. Vì thế, dẫu ở trong nhà tối, hoặc chỗ kín đáo không ai thấy, nghiễm nhiên như đối trước thần minh. Hơn nữa, thần minh ngự tại chỗ tối tăm, kín đáo, vốn chẳng có chỗ nào không đến, mà đêm thuộc về âm, lại là lúc chư thần tụ hội xét soi, há nên không cẩn thận để rồi tự chuốc lấy tội lỗi hung họa ư?

          Ở Bành Thành có một cô gái con quan, lấy chồng chưa đầy một tháng, vô duyên vô cớ phát cuồng, trần truồng chạy cuồng lên, trọn chẳng biết hổ thẹn. Thuốc men, cầu khấn đều chẳng thể chữa lành. Khéo sao, Trương Chân Nhân[123] trở về kinh đô, chủ nhân dâng thư thưa trình. Chân Nhân sai đệ tử dùng bùa để trị. Người ấy [vừa tác pháp liền] lảo đảo lùi bước, còn cô gái cứ cuồng dại lõa lồ như không! Chân Nhân bèn tự đến làm pháp, triệu thỉnh thần tướng hiện hình trong đàn. Huyền Đế (Huyền Thiên Thượng Đế) vừa giáng hạ, cô gái ấy mới thay đổi nét mặt nói: “Ả đàn bà thường dân này nửa đêm trần truồng, phạm đến thần tướng của ta, đáng bị giết chết, còn làm phiền bậc thượng chân ngự tới, nên đã tha cho nó”. Cô ta nói xong, đột ngột ngã nhào xuống đất, bèn lành bệnh.

          Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông, Đông Chí là tám tiết. Trong những ngày ấy, chư thiên, các vị thần tiên, chân tiên chia nhau hóa độ trọn khắp, dạy bảo, cứu độ quần sanh, ghi chép rành rẽ từng điều tội phước. Mọi người hãy nên thanh tịnh, hòa bình, giữ lòng phản tỉnh, xem xét [chính mình hòng] tăng thêm điều lành, trừ bỏ điều ác, noi theo đường chánh, từ bỏ lẽ tà, ngõ hầu ứng hợp với tấm lòng khai thị, độ thoát của đức Thái Thượng và các vị chân tiên. Kẻ hành hình sao không kiêng dè mà dám làm như thế ư? Tổn thương hòa khí trong trời đất, tổn phước của chính mình và gia đình không gì quá đáng hơn nữa! Chớ nên không kiêng tránh!         

          Năm Vũ Đức thứ ba (620), Đường Cao Tổ xuống chiếu [quy định]: “Trong các tháng Giêng, tháng Năm, tháng Chín và trong mười ngày trai, không được hành hình”. Lại nữa, theo quy định chung của triều đại trước, vào ngày mồng Một mỗi tháng, cấm hành hình [tội nhân], giết mổ [súc vật]. Trong mỗi ngày tiết, thì giảm bớt hình phạt. Đấy cũng là một điều thuộc về lòng nhân của hoàng đế vậy. Nay những kẻ cai trị dân có từng thấu hiểu [tấm lòng ấy] hay chăng?

          Đời Đường, Đậu Quỹ là anh họ của Thái Mục Hoàng Hậu[124], làm Đô Đốc tại Lạc Châu, tánh tình cứng cỏi, nghiêm khắc, ưa giết chóc, đã hành hình nhiều nho sĩ và thường dân. Hễ gặp những vụ án đã phán quyết [tử hình], dẫu gặp tháng [triều đình hạ lệnh] thâu nhặt chôn cất tử thi, hoặc lúc [vua xuống chiếu] giảm nhẹ tù đày, bỏ gông cùm (giảm án), ông ta đều chẳng ngưng hay giảm bớt sự hành hình. Ông ta còn hại chết Thượng Thư Vi Vân Khởi. Năm Trinh Quán thứ hai (628), ông ta bị bệnh nguy ngập, bỗng tự nói có người cho ông ta ăn dưa. Kẻ hầu chung quanh thưa “chẳng có”. Đậu Quỹ nói: “Một mâm dưa ngon, sao lại bảo chẳng có?” Chốc lát, ông ta kinh hãi nhìn chòng chọc, kêu lên: “Chẳng phải là dưa, toàn là đầu người, đến đòi mạng ta”. Lại kêu: “Mau đỡ ta dậy để gặp Vi Thượng Thư”. Nói xong, chết ngắc. Hành hình trong tám ngày tiết, không chỉ là nói về chuyện giết chóc, dẫu là đánh đập cũng chớ nên! Khoan từ nhân hậu hay tàn nhẫn chỉ cậy vào một niệm chuyển dời, [kết quả là] tai biến hay cát tường khác biệt vời vợi một trời một vực. Kẻ làm quan hay người chủ trì gia đình đều phải nên kiêng dè cẩn thận!

 

          (Chánh văn) Thóa lưu tinh, chỉ hồng nghê, triếp chỉ tam quang, cửu thị nhật nguyệt.

          (正文)唾流星。指虹霓。輒指三光。久視日月。

          (Chánh văn: Hướng về sao băng khạc nhổ, chỉ trỏ cầu vồng, bộp chộp chỉ trỏ tam quang, nhìn mặt trời, mặt trăng thật lâu).

          Tinh tú ở trên trời xoay chuyển qua các cung [hoàng đạo], liên quan gì đến con người mà khạc nhổ để làm gì? Có kẻ ngu còn xằng bậy nói [tinh tú vận chuyển] là yêu quái, [hướng về chúng] phun nước bọt [nhằm biểu lộ] sự hết sức chán ghét! Những lời lẽ ấy đúng là xuất phát từ những lời bịa đặt vô căn cứ. Nếu dân chúng thất đức, trời ắt hiện bày sự chuyển biến. Sao chổi bay xẹt quả thật là do chính mình chuốc vời, chính mình hãy nên kinh sợ, tu tỉnh, tạo lập đức hạnh để giải trừ tai nạn; há có nên phỉ nhổ [tinh tú] hay chăng? Do Tống Cảnh Công nói ba câu tốt lành mà tai tinh Huỳnh Hoặc[125] lui mất. Sự cảm ứng do tu đức vằng vặc chẳng dối vậy!

          Trắng lẫn đỏ là Hồng (虹, cầu vồng), trắng lẫn xanh là Nghê (霓)[126]. Đấy chính là khí âm và dương giao tiếp. Kinh Thi nói: “Đế Đông tại Đông, mạc chi cảm chỉ” (Cầu vồng mọc ở phương Đông, không ai dám chỉ trỏ). Sách Xuân Thu Vận Đẩu Xu[127] chép: “Tinh tú tản mát là Hồng. Hãy nên biết cầu vồng thật sự là khí thừa của sao Bắc Đẩu được biểu hiện rất rõ rệt bằng hình sắc”. Vì thế, xưa kia Khổng Tử biên soạn xong kinh Xuân Thu và Hiếu Kinh, bèn tấu trình Bắc Đẩu. Ngay khi ấy, có cầu vồng màu đỏ giáng hạ và hoàng ngọc khắc văn[128]. Ai nói cầu vồng chẳng phải là khí thừa của sao Bắc Đẩu? Nếu chỉ trỏ, làm sao vô tội cho được?        

          Mặt trời, mặt trăng, và tinh tú là “tam quang”, còn gọi là “tam thần” (三辰). [Tam quang] được phân bố trên bầu trời nhằm chiếu soi thiên hạ, hòng nêu dạy pháp tắc. Đức Thái Thượng nói: “Nếu thấy mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, Bắc Đẩu, Nam Đẩu, ắt trịnh trọng dập đầu, cầu xin che chở, ắt sẽ được dung thứ tội khiên. Chớ nên khinh mạn, kẻo chuốc lấy ương lụy”. Trong Đạo Tạng (Đại Tạng Kinh của Đạo Giáo), dạy mọi người hiến tế mặt trời, mặt trăng. Ngày mồng Một tháng Hai mỗi năm chính là ngày tế mặt trời; ngày Rằm tháng Tám, tế mặt trăng. Hãy nên sắm sửa hương, hoa, cỗ chay, lễ bái, cầu đảo để báo ân, [làm như vậy] sẽ khiến cho con người tăng phước, kéo dài tuổi thọ. Như vậy thì có nên bộp chộp chỉ trỏ mặt trời, mặt trăng, tinh tú, có nên tùy tiện nhìn lâu hay chăng?

          Châu Hồng nói trong huyện của ông ta, nhằm lúc mọi người đang cùng nhau chè chén, thấy trên bầu trời, rìa ngoài mặt trời có ánh sáng lạ, mọi người cùng chỉ trỏ. Bỗng gió mưa sầm sập tràn tới, [từ trên trời] giáng xuống một vật giống như con khỉ, hai mắt sáng ngời. Mọi người kinh sợ, nằm mọp dưới đất, khoảnh khắc nó biến mất. Tai mọi người lấp đầy bùn, ai nấy đều thành bệnh hoảng sợ.

          Đời Tống, Thái Kinh có thể nhìn mặt trời khá lâu mà chẳng hoa mắt. Có người nói đó là điềm quý hiển, nhưng ỷ vào thị lực dám chống lại thái dương, người thông hiểu liền biết hắn ta chẳng có lòng nghĩ đến vua. Rốt cuộc, hắn chuyên quyền, khiến cho đất nước lầm than. Hắn bị biếm trích mà chết.

          Đời Nguyên, Tôn Cẩn tang cha, hết sức đau buồn. Trời mùa Đông rét buốt, ông đi chân trần. Quan tài còn quàn đó chưa chôn, ông chẳng tháo đai áo. Ông đưa quan tài qua sông, trời đất tối mù, Tôn Cẩn kiền thành cầu đảo tam quang, [tức thời] gió yên, sóng lặng, lại trông thấy mặt trời. Ông phụng sự mẹ kế là Đường Thị rất có hiếu. Mẹ kế từng bị ung nhọt, Tôn Cẩn đích thân hút mủ. Mẹ lại bị mù, Tôn Cẩn cầu khẩn tam quang, liếm [mí mắt], mắt mẹ được sáng lại. Đường Thị mất đã mười ngày, sắp sửa an táng; khi ấy, nhằm đúng tiết Xuân, khổ sở vì mưa dầm dề. Tôn Cẩn ban đêm khóc lóc, trời bèn tạnh mưa, mây quang đãng, mặt trời chiếu sáng. Đưa tới huyệt, [đã là lúc] đêm tối không có ánh sáng, Tôn Cẩn lại buồn bã gào khóc, ánh sao sáng ngời, mặt trăng chẳng nhằm ngày trăng tròn mà bỗng chiếu sáng ngời như ban ngày. Nhìn từ chuyện này, [ta thấy] tam quang ở trên cao, không chỉ là có ân chiếu soi, mà còn có thể ứng theo lời mong cầu, há có nên coi thường chỉ trỏ để rồi tự phạm lấy oan khiên, tai họa nặng nề ư?

 

          (Chánh văn) Xuân nguyệt liệu liệp, đối Bắc ác mạ, vô cố sát quy, đả xà.

          (正文)春月燎獵。對北惡罵。無故殺龜打蛇。

          (Chánh văn: Trong các tháng mùa Xuân, đốt rừng để săn bắn. Hướng về phương Bắc chửi rủa độc địa. Vô duyên vô cớ, đánh giết rắn rùa).

          Đốt rừng để săn bắn thì gọi là “liệu liệp” (燎獵). Đối với chuyện bắn chim, đuổi thú, đức Thái Thượng đã có lời răn rõ ràng. Huống hồ do đốt rừng săn bắn mà giết chóc chẳng cùng tận! Nhưng dùng “xuân nguyệt” (các tháng trong mùa Xuân) để nói, vì đấy là lúc tăng trưởng, sanh nở [của muôn vật], nếu làm chuyện này (săn bắn, đốt rừng), trên là trái nghịch sự vận hành của trời, dưới là giết chóc sanh mạng loài vật, càng là bất nhân quá đỗi! Chẳng phải là trong những tháng khác thì không cần phải kiêng tránh đâu nhé!

          Đời Đường, Lưu Ma Nhi một hôm và con trai cùng chết. Hàng xóm có người họ Kỳ, bị bệnh chết đi rồi sống lại. Do vậy, ông ta kể chính mình đã tới cõi âm, thấy cha con Ma Nhi đang ở trong vạc sôi sùng sục, da thịt đều rã hết, chỉ thấy xương trắng. Hồi lâu sau, khôi phục thân hình. Đã khôi phục [rồi lại bị nấu] chín rã. Một hồi lâu sau lại khôi phục, [lại bị nấu nhừ], chẳng có lúc nào ngừng. Diêm Vương phán: “Gã này chuyên thích phóng hỏa để săn bắn, cho nên hứng chịu quả báo này”. Chúng sanh đều có Phật Tánh, há có nên coi thường mà sát hại. Săn bắn đã là chớ nên, huống hồ còn thiêu đốt [núi rừng] ư! Vạn vật đều bị cháy khô, các loài sâu đang ngủ vùi đều cháy rụi. Nỗi hại ấy chẳng nỡ lòng nói nữa! Thiên Nguyệt Lệnh trong sách Lễ Ký đã chép những cấm đoán liên quan đến thời tiết và thời vụ rất tường tận; còn đức Thái Thượng lại răn cấm thêm, vì chuyện này liên quan đến sanh mạng. Vì thế, Ngài không chỉ dăm ba lượt ngăn cấm, giảng giải vậy!

          Phun nước miếng, hỉ mũi là chuyện nhỏ nhặt, hướng về phương Bắc mà làm thì còn là tội lỗi, huống hồ chửi bới hung tợn ư? Kẻ ngu bị cái tâm phẫn nộ sai khiến, chẳng màng cố kỵ, chẳng nghĩ: Ta giận bèn muốn xả giận, thần giận thì sẽ như thế nào?

          Khẩu nghiệp của người đời có bốn thứ, chửi rủa độc địa là nghiệp nặng nhất. Kinh dạy: “Phàm phu do tam độc hừng hực, lửa giận thường bùng cháy, gặp cảnh bèn sanh lòng sân, gặp duyên gây chướng. Vì thế, thốt lời giận dữ, buột miệng phun ra, [lửa giận] thiêu đốt cái tâm, tổn hại người trước mặt ta, [khiến họ] đau đớn như dao cắt, phần nhiều bị tổn thương, khổ não vô lượng. Giả sử chúng sanh tuy thân chẳng có tội lỗi, nhưng do không cẩn thận mà tạo khẩu nghiệp thì cũng đọa trong ác đạo”.

          Một người đàn bà ở Tân An tánh tình hung tợn, không có con, ghen ghét đứa con do người thiếp sanh ra. Mỗi lúc hoàng hôn đều hướng về phía Bắc nguyền rủa, chửi bới độc địa. Một hôm, mụ ta lại hướng về đó rủa xả, bỗng thấy một ngôi sao rơi xuống đất, hình thể to như cái đấu, tiếng rền vang như sấm. Mụ ta kinh hãi thành bệnh, bụng dần dần to phè như mang thai. Đến lúc sanh nở, bảy ngày chẳng sanh nổi. Thật ra, trong bụng chẳng có gì hết! Sám hối mới lành bệnh. Thần minh hiển hách, không đâu chẳng tồn tại, [Cảm Ứng Thiên] chỉ riêng nêu lên phương Bắc nhằm nhấn mạnh chỗ trọng yếu nhất. Vậy thì mọi người có nên chẳng nghĩ quỷ thần đông đảo, dày đặc [ở quanh ta] hòng kinh sợ, tu tỉnh ư?

          Ứng Thế Chân Nhân nói: – Chớ nên giết sanh mạng của hết thảy muôn vật, mà âm tinh của rắn và rùa lại thuộc về ngôi sao Chân Vũ ở phương Bắc, càng chẳng thể giết. Vô cớ giết hại, ắt chuốc lấy báo ứng thê thảm. Do vậy, người có lòng nhân thường lập cách cứu giúp, che chở.

          Một thôn dân ở Nhạc Châu tát ao bắt cá. Do bắt được rất nhiều rùa, bèn mổ rùa làm thịt, chở yếm rùa sang bán ở Giang Lăng, được lời to. Đến khi trở về, khắp thân bị ghẻ lở, đau đớn kêu gào. Người khác chẳng nỡ lòng nghe tiếng! Ắt phải đổ nước vào một cái bồn lớn, [ngâm kẻ ấy vào đó], người khác dùng tay xoa nắn mới hơi êm được. Về sau, da tróc lòi xương, biến thành hình rùa, nứt nẻ mà chết.

          Bên cạnh nhà một phú ông có một cái cây khô. Ông ta sắp chặt bỏ, mộng thấy một người dắt nhiều người đến cầu xin hãy thong thả, chờ cho họ dọn đi xong rồi hãy tùy ý chặt. Ông tỉnh giấc, sai người trèo lên cây xem, thấy trong bộng cây có rắn cuộn tròn vô số. Ông liền sai nổi lửa đốt rụi. Chẳng lâu sau, nhà ấy vào nửa đêm bỗng thấy lửa bay vào nhà; hễ thức dậy chữa lửa, bèn chẳng có động tĩnh gì. Nhiều lượt như thế, [người nhà ấy] chẳng thấy lạ nữa. Một tối, có đứa tớ gái làm rớt một đốm lửa vào đống củi, lửa cháy lan ra cánh đồng. Nhà ấy cứ tưởng lửa sẽ tự tắt như cũ, đều ngủ ngon lành, chẳng trở dậy. Do vậy, [tới khi lửa cháy bừng bừng], muốn trốn tránh nhưng chẳng kịp, cả nhà đều chết sạch.

          Cha của ông Lưu Ngạn Hồi làm Thứ Sử ở Hồ Châu. Có người từ Bạch Ngân Hàng (thuộc Toại Huyện, tỉnh Giang Tây) đến biếu một con rùa to, bảo: “Ăn con rùa này, có thể sống một ngàn năm”. Cha Ngạn Hồi liền ngầm thả nó về chỗ cũ. Cha mất, Ngạn Hồi làm Tư Sĩ[129] ở Phòng Châu, bỗng nước lũ từ trên núi tràn về, đất bằng ngập dưới mấy thước nước, cả nhà không có đường nào né tránh. Bỗng có một con rùa lớn dẫn đường, họ đều tới được chỗ cạn, thoát khỏi tai nạn ấy. Đến đêm, Ngạn Hồi mộng thấy một người áo trắng nói: “Tôi là con rùa được cha ông thả lại Bạch Ngân Hàng; vì thế, đến báo đáp”.

          Đời Đường, Tôn Chân Nhân (Tôn Tư Mạo) đi đường núi, thấy thôn dân đang đập một con rắn xanh, ông bèn mua lại, đem thả. Chẳng lâu sau, một thiếu niên đón Chân Nhân tới một vương cung. Có một người mặc áo đỏ bước ra, thưa: “Trước kia, đứa con út gặp nạn, may được tiên sinh cứu giúp. Vì thế, tôi sai đứa con cả đón ngài đến đây, hòng biểu lộ phần nào tấm lòng cảm tạ”. Người ấy dẫn ông Tôn vào trong thâm cung. Một phi tần dẫn một đứa bé áo xanh ra lạy chào, cảm ơn nhiều lần. Họ mời ông ở chơi ba ngày, các món ăn ngon quý, [dâng biếu] các món lụa là, châu ngọc chẳng thiếu thứ gì. Chân Nhân đều khước từ chẳng nhận, chỉ đem về ba mươi toa thuốc tiên do Thượng Đế ban tặng cho long cung, [nhờ những toa thuốc ấy] mà cứu sống vô số người. Sách Thiên Kim Phương hiện thời chính là do có được ba mươi toa thuốc ấy [mà Tôn Tư Mạo nghiên cứu, biên soạn ra các bài thuốc mới].

 

          (Chánh văn) Như thị đẳng tội, Tư Mạng tùy kỳ khinh trọng, đoạt kỳ kỷ toán, toán tận tắc tử, tử hữu dư trách, nãi ương cập tử tôn.

          (正文)如是等罪。司命隨其輕重。奪其紀算。算盡則死。死有餘責。乃殃及子孫。

          (Chánh văn: Đối với các tội như thế, thần Tư Mạng tùy theo tội nặng hay nhẹ mà trừ bớt tuổi thọ của người gây tội. Tuổi thọ đã hết, sẽ phải chết. Đã chết mà còn chưa hết nợ thì con cháu phải gánh tai ương).

          Câu “như thị đẳng tội” (những tội như thế) nhằm tổng kết đoạn văn trước đó. “Tội” chính là những chuyện đã nêu ngay sau câu “phi nghĩa nhi động” (làm chuyện trái nghịch đạo nghĩa). Từ chữ “Tư Mạng” trở đi nhằm nêu rõ chuyện tùy theo nghiệp mà chịu báo. Kinh dạy: “Nghiệp tùng tâm khởi, tâm vi nghiệp dụng, nghiệp dẫn tâm nhi thọ hình. Tâm tùy nghiệp nhi hiện cảnh, như ảnh tùy hình, nhi khúc trực du phân, do hưởng ứng thanh, nhi đại tiểu các dị, hào ly bất sảng, báo ứng vô sai” (Nghiệp bắt nguồn từ tâm, tâm lại do nghiệp [tác động] mà dấy lên tác dụng, nghiệp dẫn dắt cái tâm đi đầu thai, nhận lấy hình thể. Tâm thuận theo nghiệp mà hiện ra cảnh, như bóng theo hình, nhưng đúng sai khác biệt, ví như tiếng vọng thuận theo âm thanh mà có lớn nhỏ mỗi thứ khác nhau, trọn chẳng sai sót mảy may, báo ứng không sai chạy). Còn như nói “ương cập tử tôn” (hại đến con cháu) cũng là luận định khắp ba đời. Nói chung, sự báo ứng xa là con cháu, gần thì ở nơi chính mình, tức là báo ứng rạng ngời, chẳng sai chạy. Chính vì người đời tích tập điều ác, làm chuyện trá ngụy, tổn thương tấm lòng hiếu sanh của Thượng Đế, trái nghịch ý định bảo vệ, che chở của tổ tông. Do đó, dẫn đến tình cảnh con cháu gian nan, giòng dõi đoạn tuyệt. [Thế mà con người chẳng tự hiểu biết, cứ] đổ thừa cho số mạng, hoặc đổ thừa là do khí chất bẩm sanh. Ôi! Đức to lớn của trời đất là sanh thành, đối với cỏ, cây, chim, cá, còn chẳng nỡ tuyệt diệt chúng, huống hồ con người là “vạn vật chi linh” mà nỡ lòng dứt tuyệt con cháu của họ ư? Vì thế, nếu ai chẳng phải là hạng cực ác, sẽ chẳng tuyệt tự. Ác báo chẳng hết, sẽ lan đến con cháu lại chính là Sự Lý thường hằng vậy!

          Đời Tùy, Dương Tố[130] khuyên vua (Tùy Văn Đế) lập Dượng Đế làm Thái Tử khiến cho nhà Tùy bị nguy ngập. Con ông ta là Nguyên Cảm rốt cuộc bị Dượng Đế diệt tộc. Lý Tích[131] khuyên vua lập Vũ Hậu, khiến mạng vận nhà Đường bị cách trở. Cháu ông ta là Lý Kính Nghiệp cũng bị Vũ Hậu giết chết. Đấy chính hại đến con cháu! Ngạn ngữ có câu: “Ngươi do chuyện này bắt đầu thì cũng sẽ do chuyện này mà chấm dứt”. Sự báo ứng do ngươi tạo ra, sẽ hại ngược trở lại ngươi, cố nhiên là chẳng thể dối trá được! Người hiện thời căn cứ vào chuyện gần gũi trước mắt, thấy kẻ nào đó làm ác mà không hề hấn gì, bèn nói: “Trời không có mắt”. Thấy kẻ nào đó làm ác mà hưng vượng lừng lẫy, bèn nói: “Làm ác được phước”. Tích chứa điều thiện thì điều vui mừng có thừa, tích chứa điều ác thì tai hại có thừa. Nói “có thừa” thì phạm vi bao quát hết sức rộng. Suy luận từ bản thân, chính là nói [họa, phước] có thừa sẽ ứng vào con cháu, há có phải là nói “sáng tạo nghiệp, tối phải đền trả” ư? Nhưng Thượng Đế hiếu sanh, “họa ương còn sót lại sẽ hại đến con cháu” cũng là nhằm để trừng ác, khuyến thiện. Nếu như con hiếu, cháu hiền, tu tâm, tu thân, tích lũy điều thiện và công đức để cứu chuộc những nỗi oan khiên của tiền nhân, nghiêm ngặt chẳng khoan dung đối với chính mình, thì lại chính là điều mong mỏi sâu xa của đức Thái Thượng vậy!

          Xét theo thuyết nhân quả thọ sanh trong kinh Phật, thì một là thiên đạo, hai là tiên đạo, ba là A Tu La đạo, bốn là nhân đạo, năm là súc sanh đạo, sáu là ngạ quỷ đạo, bảy là địa ngục đạo. Trời, tiên, và Tu La cố nhiên là do tích tập các nhân cảm vời mà có, còn bốn đường như người, súc sanh v.v… càng là quả báo nhất định do nghiệp duyên [cảm vời]. Do vậy, khảo sát cặn kẽ theo đó, nói đến nhân đạo (人道, loài người) thì nhân (人) là nhẫn (忍), [nghĩa là] trong tình cảnh thuận hay nghịch, ắt đều có thể an nhẫn (yên phận chịu đựng). Đó là do xưa kia trong lúc tu nhân, tâm luôn vui sướng, tu tập Ngũ Thường, Ngũ Giới, hành trung phẩm Thập Thiện, mà cảm vời thân thể trong đường ấy.

          Kinh dạy: “Làm người có thế lực, sang cả, hoặc làm quốc vương, hoặc làm trưởng giả, là do lễ bái, phụng sự Tam Bảo mà ra. Làm người đoan chánh, dáng vẻ trắng trẻo, sạch sẽ, dung mạo bậc nhất, là do Nhẫn Nhục mà ra. Làm người tinh tấn, chẳng hề lười nhác, thích làm chuyện phước đức, là từ Tinh Tấn mà ra. Làm người an tường, lời nói và việc làm luôn cân nhắc kỹ lưỡng, chắc thật, thì là do từ Thiền Định sanh ra. Làm người có tài, sáng suốt, liễu đạt pháp sâu, giảng nói diệu nghĩa để khai ngộ kẻ ngu muội. Kẻ nghe nói những lời ấy, tin tưởng chúng là trân bảo, [người như vậy] là do từ THuệ mà ra. Tiếng nói trong trẻo, thấu triệt, là do ca vịnh Tam Bảo mà ra. Làm người sạch sẽ, chẳng bị bệnh tật, là do tâm TBi sanh ra. Làm người mà có nhiều nỗi sợ hãi, âm thanh rè đục, rạn vỡ, là do từ địa ngục mà ra. Làm người tối tăm, chậm lụt, lười nhác, ăn nhiều, nói năng chẳng rõ ràng, lại còn khiếp nhược, thích bầu bạn với người si dại, rất thích chỗ tối tăm, là do từ súc sanh mà ra. Làm người bẩn thỉu là từ loài lợn mà ra. Làm người hung ác là do từ loài rắn, rết mà ra. Tâm chẳng liêm khiết, do từ loài chó mà ra. Tánh luôn hung tợn là từ loài dê mà ra. Thích đồ ăn ngon, mặc tình giết hại sanh mạng loài vật, chẳng có từ tâm là do từ sói, lang, cáo, chim ưng mà ra. Chẳng thể an tường, chẳng thể nhẫn nại mọi sự, là từ loài khỉ mà ra”.

          Lại nói: – Làm người mà cao lớn là vì cung kính người khác. Làm người lùn xủn, nhỏ bé là vì khinh mạn kẻ khác. Làm người xấu xí là do thích nóng giận. Cả đời chẳng hiểu biết gì là vì không có học vấn. Làm người ngu đần là vì không dạy người khác. Yểu mạng, lắm bệnh là vì thích sát sanh. Chẳng có đồ dùng cần thiết cho cuộc sống, luôn khổ sở, nghèo nàn, túng quẫn là vì thích trộm cắp. Chẳng có con cái, con dâu là vì dâm loạn với vợ người khác. Con cái dâm loạn là vì loạn dâm với con gái chưa chồng của người khác. Góa bụa, mồ côi, trơ trọi, là vì ngược đãi con cái. Làm người đói khát là vì thích ăn một mình [không chia sẻ với người khác]. Làm nô tỳ của kẻ khác là vì thiếu nợ không trả, chẳng lễ kính Tam Tôn (Tam Bảo). Làm người xấu ác là vì che đèn cúng Phật. Sanh làm loài trâu cày là do làm quan tàn khốc, đối xử khắc bạc với bọn dân đen. Sanh trong loài nai, mễn, là vì làm cho người khác kinh sợ. Sanh trong các loài rồng, vì thích chọc ghẹo, ép bức [phụ nữ]. Thân thể sanh ghẻ độc, chữa trị không có hiệu quả, là vì đánh đập người khác. Người khác trông thấy ta bèn hoan hỷ, là vì ta đối xử vui vẻ với người khác. Người khác trông thấy ta chẳng vui vẻ, vì ta chẳng đối xử vui vẻ với người khác. Bị quan lại bỏ tù, trói buộc, thân mang gông cùm, là vì đã bắt nhốt chúng sanh. Làm người sứt miệng là vì thích câu cá. Sanh trong xứ sở trần truồng, là vì mặc áo mỏng đường đột vào tinh xá của đức Phật. Sanh trong xứ chân có móng guốc như ngựa là vì mang giày dép dẫm đạp đất Phật. Sanh trong xứ bị đâm thủng ngực là vì bố thí, làm phước, bèn sanh lòng hối hận. Những điều ấy đều là do đã tích tập từ trước, đền trả xong rồi mới lại được sanh làm người, đều là từ vô thỉ đến nay, do nghiệp lực và những toan tính điên đảo mà sanh ra nhau, giết chóc lẫn nhau. Chẳng gặp Như Lai, chẳng nghe chánh pháp, ở trong trần lao, vốn sẵn luân chuyển như thế ấy. Hạng người ấy chính là hạng người đáng thương xót vậy!

          Nói đến súc sanh đạo thì bẩm tánh ngu si, chẳng thể tự lập, được con người nuôi nấng. Vì thế, gọi là “súc sanh”. Do xưa kia trong lúc tu nhân, đã ngu mê, tham dục, tạo hạ phẩm Thập Ác, cho nên cảm thân trong đường này. Kinh dạy: “Nghiệp làm quỷ đã hết, mới sanh trong thế gian, sẽ gặp gỡ kẻ ta vốn đã thiếu nợ và kẻ oán thù, đối đầu, [chính mình] làm thân súc sanh để đền món nợ ”. Những hạng chúng sanh này đều do cái nghiệp hư vọng chiêu cảm, dẫn dắt. Nếu ngộ Bồ Đề thì [sẽ liễu giải] vọng duyên ấy vốn vô sở hữu.

          Nói đến ngạ quỷ đạo thì loài quỷ này gầy còm, xấu ác, luôn tham cầu được no lòng một bữa, luôn bị đánh đập, [phải làm những việc nặng nề như] lấp sông, ngăn biển, chịu khổ vô lượng. Đấy là do xưa kia trong khi tu nhân, đã tham lam, keo kiệt thành tánh, ôm lòng nịnh bợ, dối gạt, hành trung phẩm Thập Ác, cho nên cảm thân trong đường này. Kinh dạy: “Các chúng sanh ấy đều vì thuần tình mà đọa lạc, lửa nghiệp thiêu rụi, cho nên hiện ra hình hài loài quỷ. Những chúng sanh này đều do cái nghiệp vọng tưởng chuốc vời, dẫn dắt. Nếu ngộ Bồ Đề, sẽ diệu chứng viên minh vốn vô sở hữu”.

          Nói đến địa ngục đạo là nói đến tù ngục ở dưới đất; nhưng các địa ngục ấy to nhỏ khác nhau, tuổi thọ trong ấy cũng là dài ngắn mỗi ngục mỗi khác. Kẻ chịu khổ trong ấy sẽ tùy theo nghiệp đã tạo, ai nấy có kiếp số nặng nhẹ khác nhau. Kẻ nặng nhất sẽ là trong một ngày muôn lần sống, muôn lần chết, trải qua vô lượng kiếp. Do khi trước lúc còn đang tu nhân, mỗi niệm trong tâm đều là tham, sân, si, tạo nghiệp cực ác, hành thượng phẩm Thập Ác, cho nên cảm thân trong đường này. Kinh dạy: “Những chúng sanh ấy đều là do tự nghiệp (nghiệp của chính mình) cảm vời, tạo mười tập nhân, hứng chịu sáu thứ giao báo”.

          [Mười thứ tập nhân]:

          1) Một là dâm tập (婬習, tập khí dâm dục) giao tiếp, phát khởi thành tướng chà xát, nghiền, mài chẳng ngừng. Do như vậy bèn có ánh lửa sáng rực phát động trong ấy. Như người dùng hai tay tự chà xát vào nhau, tướng ấm nóng sẽ hiện tiền. Do hai thứ tập khí[132] cùng thiêu đốt, cho nên có những chuyện như giường sắt, cột đồng. Mười phương Như Lai đều đích thân trông thấy hình tướng [họa hại] của sự hành dâm, cùng gọi [những nỗi họa hại ấy là] “dục hỏa” (lửa dục). Bồ Tát trông thấy dục liền lìa tránh như [né tránh] hầm lửa.

          2) Hai là do tham tập (貪習, tập khí tham lam) ảnh hưởng lẫn nhau, phát khởi thành sự thu hút lẫn nhau để thu hút, lôi kéo không ngừng. Do như vậy mà tích tụ khí lạnh tạo thành băng cứng, lạnh buốt trong ấy. Như người dùng miệng hút lấy hơi gió, sẽ cảm thấy lạnh. Hai thứ tập khí lấn át nhau; vì thế, có những chuyện như [địa ngục] Trá Trá, Ba Ba, La La, Thanh, Xích, Bạch Liên, Hàn Băng v.v… Mười phương Như Lai trông thấy hình tướng của sự nhiều ham muốn, mong cầu, nên cùng gọi là Tham Thủy (nước tham). Bồ Tát thấy tham, bèn tránh né như [tránh né] nơi dầy đặc chướng khí.

          3) Ba là mạn tập (慢習, tập khí khinh mạn) lấn lướt lẫn nhau, phát khởi thành sự ỷ vào lẫn nhau, tuôn chảy không ngừng. Do như vậy mà có sóng cuộn tung lên, cuồn cuộn, sóng tích tụ thành nước, như người đưa đẩy cái lưỡi trong miệng, sẽ tự cảm thấy có mùi vị. Vì thế, có nước sanh ra (nước miếng). Hai thứ tập khí thôi thúc lẫn nhau, cho nên có [những địa ngục] như Huyết Hà (sông máu), Hôi Hà (sông tro), Nhiệt Sa (cát nóng), Độc Hải (biển độc), Dương Đồng (烊銅, nước đồng nung chảy), Quán Thốn (灌吞, rót nước đồng nung chảy, bắt nuốt hoàn sắt nóng) v.v… Mười phương Như Lai trông thấy sắc tướng của [nỗi họa hại] do ngã mạn gây ra, nên gọi là Ẩm Si Thủy (uống nước si mê). Bồ Tát thấy khinh mạn bèn tránh né như tránh né chỗ chết đuối to lớn.

          4) Bốn là do sân tập (瞋習, tập khí sân hận) xung động lẫn nhau, phát khởi thành sự chống trái lẫn nhau, xung đột không ngớt. Tâm nhiệt bốc lửa, nung đúc chất khí thành kim loại. Do như vậy mà có [các địa ngục] Đao Sơn (núi đao), Thiết Quyết (鐵橛, gậy sắt), Kiếm Thụ (cây có cành nhánh toàn là gươm sắc), Kiếm Luân (vòng kiếm xoay tròn), búa, rìu, thương, cưa. Như người ôm nỗi oán hận, sát khí bốc lên ngùn ngụt. Hai thứ tập khí công kích lẫn nhau; vì thế, có chuyện thiến, cắt, chặt, chém, giã, đâm, đập, quất v.v… Mười phương Như Lai trông thấy sắc tướng của sự sân hận, gọi nó là Lợi Đao Kiếm (đao, gươm sắc bén). Bồ Tát thấy sân, như tránh né tru lục.

          5) Năm là trá tập (詐習, tập khí gian trá) cùng dụ dỗ, phát khởi thành sự dẫn dụ chẳng ngừng. Do như vậy mà có dây và gỗ chằng buộc, bó chặt, như nước đẫm ruộng, cỏ cây sanh trưởng. Hai thứ tập khí duyên lẫn nhau; vì thế, có những chuyện như gông, cùm, xiềng, xích, roi, gậy, phang, quất v.v… Mười phương Như Lai trông thấy sắc tướng gian ngụy, cùng gọi nó là Sàm Tặc (讒賊, tên giặc gièm siểm). Bồ Tát thấy sự dối trá như sợ sài lang.

          6) Sáu là cuống tập (誑習, tập khí lừa dối) lường gạt lẫn nhau, phát khởi thành sự lừa đảo lẫn nhau. Dối gạt chẳng ngừng, mặc tình gian dối. Do như vậy mà có bụi, đất, phân, tiểu, ô uế bất tịnh như bụi tung theo gió, mỗi thứ đều chẳng thấy. Do hai tập khí dồn ép, cho nên có các sự chìm đắm, vọt lên, quăng ném, tung bay, rơi xuống, nổi trôi. Mười phương Như Lai trông thấy sắc tướng dối gạt, đều gọi là Kiếp Sát. Bồ Tát thấy dối gạt như đạp phải rắn rết.

          7) Bảy là oán tập (怨習, tập khí oán hận) hiềm nghi lẫn nhau, phát khởi thành sự ngậm hờn. Do như vậy mà có đá bay, ngói rớt, nhồi nhét trong chỗ hẹp, bị giam cầm trong xe tù, chứa trong vò, quăng vào túi, như kẻ âm độc nghĩ tưởng, chất chứa điều ác. Do hai tập khí cùng nuốt, cho nên có những sự ném, quăng, bắt giữ, đập, bắn, liệng, túm v.v… Mười phương Như Lai mắt thấy các hình tướng oán gia, gọi chúng là Vi Hại Quỷ (loài quỷ làm hại, trái nghịch). Bồ Tát thấy sự oán hận như uống rượu ngâm lông chim Trấm.

          8) Tám là kiến tập (見習, tập khí về kiến giải) soi rọi lẫn nhau, như Tát Già Da (Satkāya-dṛṣṭi, các kiến chấp), kiến giới cấm thủ, hoặc các nghiệp do ngộ giải sai lầm, phát khởi từ sự chống trái, sanh ra sự tương phản. Do như vậy mà có vương sứ, chủ lại[133] thẩm tra, quản trị sổ sách, như người đi đường qua lại trông thấy nhau. Do hai thứ tập khí giao nhau, cho nên có những sự thẩm vấn, khám nghiệm, quyền biến trí trá để tra khảo, hạch hỏi, xem xét, tìm tòi, vạch trần đến cùng hòng làm sáng tỏ v.v… Mười phương Như Lai trông thấy hình tướng của ác kiến, cùng gọi tên Kiến Khanh (見坑, hầm bẫy kiến giải). Bồ Tát thấy những điều thiên chấp (chấp chặt một bề) hư vọng như vào nơi hang hốc có khí độc.

          9) Chín là uổng tập (枉習, tập khí gây nên sự oan uổng cho người khác) vây bủa, phát khởi thành sự vu cáo, báng bổ. Do như vậy mà có núi ép lại, đá hợp lại, nghiền, xay, cày, mài. Như gã giặc sàm báng, ép bức, oan uổng người lương thiện. Hai thứ tập khí cùng an bài; vì thế, có các sự như đè, nén, nện, ấn, ép, lọc, đo lường v.v… Mười phương Như Lai trông thấy hình tướng của sự gièm báng oán thù, cùng gọi là Sàm Hổ (con cọp gièm siểm). Bồ Tát thấy sự oan uổng như gặp sấm, sét.

          10) Mười là tụng tập (訟習, tập khí thưa kiện) cùng tuyên nói, phát khởi nơi che giấu. Do như vậy mà có sự xét soi, chiếu tỏ. Như lúc giữa trưa, chẳng thể giấu diếm hình bóng. Do hai tập khí phô bày lẫn nhau, cho nên có những sự như bạn ác, nghiệp kính, hỏa châu, bộc lộ, túc nghiệp, đối chứng v.v… Mười phương Như Lai trông thấy sắc tướng của sự giấu diếm, cùng gọi tên là Âm Tặc. Bồ Tát thấy “che giấu” giống như đội hòn núi cao để đi vào biển rộng!

          Sáu giao báo (交報) là gì? Hết thảy chúng sanh do sáu thức tạo nghiệp, chiêu cảm ác báo, lưu xuất từ sáu căn.

          1) Một là Kiến Báo (見報, quả báo của cái Thấy), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là do nghiệp Thấy giao cảm; do vậy, khi lâm chung, trước hết, thấy lửa mạnh đầy tràn các cõi trong mười phương. Thần thức của người chết bay lên, đọa lạc, theo khói mà vào địa ngục Vô Gián.

          2) Hai là Văn Báo (聞報, quả báo của cái Nghe), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Do nghiệp của cái Nghe giao cảm, khi lâm chung, trước hết, thấy sóng cuộn nhấn chìm trời đất. Thần thức của người chết giáng xuống, tuôn chảy, nương theo sự tuôn chảy ấy mà vào địa ngục Vô Gián.

          3) Ba là Khứu Báo (齅報, quả báo của cái Ngửi), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là do nghiệp của cái Ngửi giao cảm, khi lâm chung, trước hết, thấy độc khí phủ kín xa gần. Thần thức của người chết từ dưới đất vọt lên, vào trong địa ngục Vô Gián.

          3) Bốn là Vị Báo (味報, quả báo của cái Nếm), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là do nghiệp Nếm giao cảm, khi lâm chung, trước hết trông thấy lưới sắt, lửa mạnh cháy hừng hực, chói ngời phủ trùm trọn khắp thế giới. Thần thức của người chết lọt xuống, xuyên mắc vào lưới, treo ngược đầu xuống dưới, vào trong địa ngục Vô Gián.

          5) Năm là Xúc Báo (觸報, quả báo của sự đụng chạm), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là cái nghiệp do sự đụng chạm giao cảm, khi lâm chung, trước hết, thấy núi lớn từ bốn phía ép lại, chẳng còn nẻo thoát ra. Thần thức của người chết thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp, sói, sư tử, ngục tốt đầu trâu, tay cầm thương, giáo, xua đuổi [tội nhân] chạy vào cửa thành, hướng tới địa ngục Vô Gián.

          6) Sáu là Tư Báo (思報, quả báo của sự suy nghĩ), chiêu cảm, dẫn khởi ác quả. Đấy là do cái nghiệp suy tư giao cảm, khi lâm chung, trước hết, thấy gió ác thổi tan nát cõi nước. Thần thức của người chết bị thổi vất vưởng xoay tròn trên không, rơi xuống, nương theo gió mà đọa vào địa ngục Vô Gián.

          Đấy gọi là mười nhân và sáu quả của địa ngục, đều do sự mê vọng của chúng sanh tạo ra. Do các thứ nhân quả khó thể nói trọn hết, nay chỉ trích dẫn những phần thiết yếu thuộc về sự báo ứng trong ba đời, ghép vào đây nhằm nói rõ lý “nặng, nhẹ, giảm bớt, tước đoạt”, ngõ hầu người đời nhìn vào điều răn rõ ràng này sẽ biết tỉnh ngộ, kiêng dè vậy!

 

          (Chánh văn) Hựu chư hoạnh thủ nhân tài giả, nãi kế kỳ thê tử gia khẩu dĩ đáng chi, tiệm chí tử táng. Nhược bất tử táng, tắc hữu thủy, hỏa, đạo tặc, di vong khí vật, tật bệnh, khẩu thiệt chư sự, dĩ đáng vọng thủ chi trực.

          (正文)又諸橫取人財者。乃計其妻子家口以當之。漸至死喪。若不死喪。則有水火盜賊。遺亡器物。疾病口舌諸事。以當妄取之直。

          (Chánh văn: Lại còn những kẻ cướp ngang tài vật của người khác thì vợ con, cả gia đình của hắn phải hứng chịu dần dần cho đến chết mất, tang tóc. Nếu không chết chóc, tang tóc, sẽ bị những chuyện như tai họa nước, lửa, trộm cướp, mất mát vật dụng, bệnh tật, khẩu thiệt để đền trả cái giá cướp càn).

          Câu trước đã nói rõ sự chịu báo theo từng sự, còn đoạn này lại nói về chuyện “ngang ngược đoạt lấy”, tức là nói về kẻ có thế lực. Chuyện này bất nhân bất nghĩa tột cùng, nhưng người đời lại khó thể tránh khỏi nhất. Vì thế, lại đặc biệt nêu ra để dạy mọi người. “Hoạnh” (橫) là tàn bạo, ngang ngược mà làm, dùng oai thế lấn lướt để uy hiếp. “Trực” (直) có nghĩa là “nguyên số” (原數, đúng với con số ban đầu). “Đáng trực” (當直) là phù hợp với số lượng vốn đã đoạt lấy. Những kẻ cướp ngang tài vật của người khác, phần nhiều vì mưu tính cho vợ, con, người nhà, chẳng biết thần Tư Mạng cũng tính toán [đòi nợ] ngay từ vợ, con, người nhà của họ để báo trả sự tham ác. [Như vậy thì cứ tưởng khiến cho vợ, con, người nhà] được lợi mà chính là làm hại họ vậy. Dùng tình cốt nhục hữu tình, đổi lấy kim tiền vô tình, cũng quá đáng tiếc lắm thay! Hơn nữa, do điều ác tích tập, tuổi thọ đã tận, thân ta cũng chẳng tránh khỏi chết chóc, chôn vùi, vậy thì muốn có món kim tiền ấy có ích gì đâu? Nếu toan hối lộ nhằm nhờ cậy bậc quyền thế trong chốn âm ty, chỉ sợ [âm phủ] chưa chắc đã khoan dung. Cho tới khi ấy, có ai còn chẳng đành chịu thấy hết thảy đều rỗng tuếch, [nay chưa trông thấy quả báo thảm khốc] chỉ là do [sự báo ứng] chậm trễ đó thôi! Sao bằng ngay trong lúc này, khi báo ứng còn chưa xảy đến, hãy sớm nghĩ đặt mình vào tình cảnh đó, may mà điều ác còn hơi nhẹ, chưa đến nỗi chết chóc, tang tóc; nhưng [các tai nạn về] nước, lửa, trộm cướp, mất mát đồ đạc, bệnh tật, khẩu thiệt, con cháu không ra gì, những cách thức khiến cho tài vật của ta bị hao hụt rất nhiều. Đối với những kẻ ngang ngược đoạt lấy tài vật của kẻ khác, người gảy bàn tính to lớn [để tính toán] trong chốn âm thầm cũng ngang ngược đoạt lấy [tiền tài của bọn họ]. Rốt cuộc tiền tài chẳng còn gì, mà nỗi kinh sợ do nước, lửa, trộm cướp, nỗi áo não, căm hận do bị mất mát đồ đạc, nỗi đau đớn, khổ sở do bệnh tật, niềm phẫn hận, nỗi nhục nhã do khẩu thiệt, nỗi xấu hổ, điếm nhục do con cháu không ra gì [đã sờ sờ ra đó], rành rành là chính mình bị thua thiệt, đã chẳng có cách nào bồi thường, lại còn thiếu nợ bao nhiêu tội lỗi oan nghiệt, chẳng được tự tại, bù đắp chẳng hết, biết làm thế nào đây? Kẻ đoạt lấy ngang ngược, hễ nghĩ đến chỗ này, sẽ không chỉ là tê buốt tấm lòng, mà cái tâm cũng sẽ nguội lạnh!

          Hình Thụ đi sứ Tân La[134], trở về, đi qua Thán Sơn, thấy có hơn một trăm khách buôn, chở theo mấy thuyền hàng hóa, giá trị mấy chục vạn mân[135]. Hình Thụ bèn tập kích, giết chết họ, đoạt lấy số hàng hóa ấy. Cho đến khi con hắn là Hình Tể cùng với Vương Hồng mưu phản, hắn bèn bị giết chết. Vợ, con, người nhà đều chết sạch chẳng còn gì!

          Vi Công Cán làm châu mục Quỳnh Châu hay ngang ngược chiếm đoạt tài vật. Tới khi hắn mãn nhiệm, trở về, thuyền lật trên sông, vật dụng, tài sản mất sạch, chỉ thoát được cái thân.

          Lữ Sư Tạo làm Thứ Sử Trì Châu, xâm phạm, chiếm đoạt tài sản của dân chúng, chở khẳm thuyền trở về, bỗng lửa đốt rụi những món tài vật ấy! Chỉ có thuyền và người là chẳng bị thương tổn.

          Đinh Vị[136] bị đày đi Châu Nhai, bị đạo tặc cướp bóc, mất sạch những thứ sở hữu. Không lâu sau, hắn chết ngắc.

          Mã Tương tánh tham lam, làm Tào Ty[137] ở Tây Xuyên. Gặp loạn Lưu Hu, Mã Tương bỏ vàng xuống giếng [để giấu]. Sau khi cuộc biến loạn được dẹp yên, chẳng thể tìm thấy đâu nữa, mất sạch tất cả.

          Hai gã Hồ Ứng Quế và Lục Nhất Kỳ kết bè đảng dụ dỗ một đứa con quan cờ bạc để chiếm gia tài của nó. Bỗng họ Hồ bị mù một mắt, còn gã họ Lục bị xụi một chân. Chúng nó tàn phế, nghèo nàn, túng quẫn suốt đời.

          Cường Hoài Nhân tham lam, do ngang ngược [chiếm đoạt] mà trở thành giàu có. Con cái hắn không ra gì, thích cờ bạc, gái gú, phóng đãng, không bữa nào chẳng có chuyện dính líu khẩu thiệt, thưa kiện, tù ngục. Chẳng đầy mười năm, gia sản khánh kiệt, lênh đênh, khốn khổ. Con cháu không ngóc đầu lên nổi.

          Những trường hợp [vừa nêu] trên đây đều là những chuyện về những kẻ ngang ngược chiếm đoạt tài sản của người khác, tùy theo từng sự việc mà thể hiện sự báo ứng xứng đáng [với tội lỗi của bọn chúng], nhưng nặng nề nhất chính là sự chết chóc, tang tóc của bản thân Hình Thụ và người nhà của hắn. Trong cõi đời có chuyện bất minh, chứ cõi trời chẳng có chuyện gì không báo ứng; con người có thể vận dụng cơ mưu xảo quyệt, cõi trời báo ứng càng hay khéo hơn. Ôi! Đáng sợ thay!

 

          (Chánh văn) Hựu uổng sát nhân giả, thị dịch đao binh nhi tương sát dã.

          (正文)又枉殺人者。是易刀兵而相殺也。

          (Chánh văn: Lại còn những kẻ giết oan người khác, sẽ đổi lại bị giết trong chiến tranh).

          Phần trước nói về chuyện ngang ngược chiếm đoạt, kế đó, nói về chuyện giết chóc oan uổng. Chuyện giết chóc oan uổng thường là do khởi nguồn từ yêu mến tài sản, tiếc nuối tài sản mà ra. So với chuyện chẳng phải là do chính mình mà giết chóc, có khác gì đâu?” như Mạnh Tử đã nói[138] thì ngữ ý giống nhau, một mực thẳng thừng, nhanh chóng, thống khoái nhất. Nói đại lược về nguyên do của chuyện giết chóc oan uổng thì có bảy điều:

          1) Một là xử án, do ăn hối lộ mà khiến cho kẻ khác bị oan khuất, bị vu hãm, mặc tình [hành hạ] thảm khốc.

          2) Hai là dẫn quân đội, [viện cớ tác chiến] để tàn sát, bắt bớ, cướp bóc tài vật, ngụy tạo lý do để chặt đầu người khác hòng mạo nhận chiến công.

          3) Ba là dùng thuốc, do mong cầu tài vật, [nhưng không thông thạo dược tánh], bèn cắt thuốc sai lầm, mê muội thiên lý mà công phạt chứng bệnh [khiến cho bệnh nhân bị tàn phế hay mất mạng].

          4) Bốn là phá thai, hoặc do tiếc nuối những khoản tiền tốn kém [để nuôi con thơ] mà dìm chết con gái. Do dục vọng phóng túng mà phá thai.

          5) Năm là bọn sâu mọt trong nha môn, lường gạt tài sản, hãm hại, giấu diếm cấp trên, hoành hành ngược đãi.

          6) Sáu là Phong Thủy, chuyển dời phần mộ hại người, [khiến cho người ta lâm vào] cảnh tuyệt địa, vướng mắc tai họa.

          7) Bảy là thầy dốt khiến cho người khác lỡ làng suốt đời, làm hại con em của người ta.

          Tuy chẳng giống như sát nhân, [nhưng khiến cho người ta bị] oan uổng, trắc trở giống hệt. Những tội lỗi ấy, luật lệ sẽ chẳng tha thứ. Nếu không mắc phải họa người, ắt sẽ bị trời trừng phạt. Tuy nói là giết người khác, rốt cuộc sẽ là giết mình vậy!

          Vào đời Tống, thiền sư X… lúc trẻ say rượu, cùng người khác tranh đoạt tài vật, dùng hết sức đánh người khác, kẻ đó chết ngay lập tức. Sư sợ tội, trốn xa, xuất gia tu hành siêng khổ, bèn triệt ngộ, trở thành đại thiền sư, khai đường thuyết pháp, học trò tới mấy trăm người. Lúc Sư bảy mươi mấy tuổi, bỗng một hôm, Sư tắm gội, thăng tòa, bảo đại chúng rằng: “Các vị đừng hành động, đừng nói gì, để xem một tầng công án của lão tăng từ hơn bốn mươi năm trước!” Sư ngồi tới giờ Ngọ, có một viên doanh biện (營弁, quan võ cấp thấp) đột ngột tìm tới, giương cung tên chực bắn. Sư chắp tay, bảo: “Lão tăng kính chờ đã lâu!” Viên doanh biện kinh hãi, bảo: “Ta và hòa thượng chẳng biết nhau, vừa trông thấy liền muốn giết, chính mình cũng chẳng hiểu duyên cớ!” Sư đáp: “Thiếu nợ phải trả tiền, giao dịch công bằng, chỉ xin Ngài ra tay, chẳng cần phải chần chừ, ngờ vực”. Sư ngoái lại, bảo đại chúng: “Sau khi ta chết, các vị hãy mời vị cư sĩ này dùng cơm, đưa tiễn. Nếu có nửa câu sân hận, hoặc kết tội, sẽ là nghịch trời, trái đạo, chẳng phải là đệ tử của ta”. Viên doanh biện càng nghi, kiên quyết vặn hỏi [nguyên do của] lời nói ấy. Sư đáp: “Ông là người đã trải qua hai đời, cho nên quên bẵng. Tôi là kẻ [chỉ mới sống] một đời cho nên chẳng quên”. Do vậy, Sư kể lại chuyện cũ; viên doanh biện vốn chẳng biết chữ, bỗng ngâm lớn rằng:

          Oan oan tương báo hà thời liễu,

          Kiếp kiếp tương triền khởi ngẫu nhiên,

          Bất nhược dữ Sư câu giải thích,

          Như kim lập địa vãng Tây Thiên”.

          (Oan oan tương báo bao giờ hết,

          Kiếp kiếp buộc ràng há ngẫu nhiên!

          Sao bằng cùng Sư trừ oán hận,

          Nay ta lập tức tới Tây Thiên).

          Nói xong, tay cầm cung tên, đứng sừng sững qua đời. Sư từ tòa bước xuống, xuống tóc, đặt pháp danh cho viên quan doanh biện ấy, thay quần áo, nhập liệm [cho người ấy] rồi cũng ngồi xếp bằng, từ biệt đại chúng mà hóa. Sát nhân từ bốn mươi năm trước, đền mạng vào bốn mươi năm sau; đòi nợ tuy chậm, trả nợ như nhau. May mắn là cả hai vị đều là người có bản lãnh to lớn; vì thế, oan gia trên đường, đúng lúc chạm mặt nhau, đối đầu ác liệt, đâm ra trở thành nhân duyên tốt đẹp. Cái chết của người ấy (tiền thân của viên quan doanh biện) đã ép người mắc nợ (vị hòa thượng) tu hành chứng đạo. Cách đối đãi của thiền sư đã thôi thúc chủ nợ cởi gỡ oán kết, sanh thiên. Đấy là duyên thù thắng, chuyện lạ lùng khó gặp gỡ trong ngàn đời vậy! Nếu chẳng phải là [vị thiền sư] thật sự đắc đạo, hoặc viên quan doanh biện không có bản lãnh ấy, ắt sẽ chẳng chịu xóa nợ không đòi. Vì thế, “giết người chẳng khác giết chính mình” cũng rõ rệt thay. Đối với bảy thứ giết chóc oan uổng đã được nêu bày trên đây; mọi người hãy tùy theo từng việc [để tự xét mình] mà răn ngừa, chớ nên vay mượn bừa bãi những món nợ rất nghiêm trọng vậy!

 

          (Chánh văn) Thủ phi nghĩa chi tài giả, thí như lậu bô cứu cơ, trấm tửu chỉ khát, phi bất tạm bão, tử diệc cập chi.

          (正文)取非義之財者。譬如漏脯救饑。鴆酒止渴。非不暫飽。死亦及之。

          (Chánh văn: Kẻ chiếm giữ tài sản phi nghĩa, ví như dùng thịt nhiễm độc[139] để cứu đói, dùng rượu ngâm lông chim Trấm để khỏi khát, không chỉ là chẳng tạm no mà còn phải chết).

          Đoạn này lại nói rõ sự tai hại do tham lợi. Do cái tâm ham lợi của người đời nặng nề, cho nên [đức Thái Thượng] chẳng kiêng nể dùng lời lẽ nặng nề, nhắc đi nhắc lại. Đức Thái Thượng lòng đau đáu, căn dặn nhiều lượt, [tấm lòng tha thiết] ấy đã đạt tới tột bậc. Những tội như dâm, giết, hung ác, phản nghịch v.v… người đời chẳng dễ làm, mà hạng người như vậy (hạng người phạm những tội ấy) cũng chẳng thấy nhiều. Chỉ riêng phương cách để chiếm đoạt tài sản [của người khác] là thiên biến vạn hóa, chẳng thể nói trọn hết được. Trong thiên hạ, không có ngày nào chẳng dùng đến tiền tài, cho nên trong thiên hạ, chẳng có ai không lấy tiền tài. Trong thiên hạ, [đã là] không có ai chẳng lấy tiền tài, nhưng phương pháp để đạt được [tiền tài] đúng đạo nghĩa thì ít ỏi, bất nghĩa thì nhiều, chẳng cần phải hỏi cũng biết. “Nghĩa” là gì vậy? Tình và lý đó thôi. Lấy mà người khác vui vẻ cho ta, thì gọi là đúng tình, gọi là “nghĩa”. [Người khác] chẳng vui vẻ cho ta thì sẽ chẳng hợp tình, mà cũng là phi nghĩa. Đã lấy rồi mà ta có thể nói với người khác thì gọi là “hợp lý”, gọi là “nghĩa”. Nếu chẳng thể nói cho ai biết, tức là bất hợp lý và phi nghĩa. Bất luận là ít hay nhiều, nếu có được [tài vật ấy] phi nghĩa mà vẫn có thể an nhiên sử dụng, [vậy thì] cũng chẳng ngại thuận theo lòng người mà cho phép làm như vậy. Thế nhưng, đức Thái Thượng ra rả răn dạy như vậy, là vì biết trong cõi đời, có kẻ lấy tiền tài bằng cách phi nghĩa, tức là có kẻ sẽ bị mất mát tiền tài một cách phi nghĩa. Một đằng thì vui sướng, một đằng thì đau lòng, hoặc một kẻ khoái trá, mười người đau lòng, hoặc trăm người đau lòng, hoặc ngàn vạn người đau lòng. Đạo trời khéo báo đền, có lẽ nào hậu đãi kẻ vui sướng mà đối xử bạc bẽo với kẻ đau lòng ư? Trong ngấm ngầm, đối với những nỗi bất bình, [thần minh] suy nghĩ bù đắp cho chuyện ấy, ắt đều xắn tay áo mà thực hiện.

Đức Thái Thượng biết nguyên do này, bèn nghiêm mặt răn dạy họ rằng: “Chớ đoạt lấy [tiền tài của người khác]”, người ta chẳng nghe theo! Dùng lời lẽ dịu dàng khuyên nhủ người ta mà chẳng thể được, họ chẳng tin, bèn dùng lời lẽ khiến cho họ kinh sợ để khuyên họ rằng: “Kẻ có được tài sản [bằng cách chiếm đoạt] sẽ gặp chuyện bất tường”, [thế mà] người ta vẫn cứ tham cầu những thứ trước mắt, chẳng rảnh đâu để suy nghĩ sâu xa. Không gì bằng đánh thức họ: “Đạt được và chẳng đạt được là như nhau”, như vậy thì lòng tham của con người may ra cũng giảm bớt đôi chút! Vì thế, dùng thịt ngấm nước, rượu ngâm lông chim Trấm làm thí dụ. Thịt ngấm nước, rượu ngâm lông chim Trấm hễ lọt vào miệng, sẽ chết ngay lập tức. Vì thế, kẻ tuy ngu cuồng chưa có ai nếu đã biết là thịt ngấm nước bị mốc, rượu ngâm lông chim Trấm mà vẫn cứ tham lam ăn uống, nhấc đũa, ngậm chén! Biết tài vật phi nghĩa là thịt ngấm nước, rượu ngâm lông chim Trấm, dẫu ngàn vạn lọt vào tay, cũng sẽ thấy là vật vô dụng, chẳng dùng đến, há chẳng phải là “đạt được” và “không đạt được” đều như nhau ư? Có được mà chẳng dùng được, sẽ là vật đáng bỏ đi, vô ích trong cõi đời. Trọn hết tâm thuật bại hoại, sử dụng trọn hết mưu mẹo hòng cầu vật bỏ đi, vô ích trong thiên hạ để làm gì cơ chứ? Nhưng thịt bị ngấm nước thơm tho như chả nướng, rượu ngâm lông chim Trấm ngon ngọt chẳng kém Đề Hồ.

Người ta thấy mùi thơm tho, vị ngon ngọt, lại dấy lên tâm niệm cầu may: “Chưa chắc đã thật sự có chất độc!” [Do vậy], dẫn đến tình trạng hiếm có kẻ nào không uống tít cung thang! Tới khi phun ra chẳng nổi, nuốt xuống chẳng thể, đứt ruột, nứt da, chết chẳng kịp trở tay rồi mới than thở: “Chẳng trông thấy sớm hơn, chớ nên ăn uống là được rồi!” Canh rau, cơm lúa mạch, rượu quê, rau núi, lọt vào miệng tuy chẳng có mùi vị gì cho mấy, hơi say lâng lâng, chưa trọn hết hứng thú, nhưng an bình no dạ, xoa bụng tự đắc. Sự khổ sở và niềm vui sướng ấy khác biệt như thế nào? Những câu chuyện nhằm chứng tỏ lời răn dạy này có thể thấy rải rác trong những đoạn văn trước, đã vừa tường tận, rõ ràng, vừa lại trọn hết; do vậy, ở đây chẳng cần phải ghi thêm nữa!

 

          (Chánh văn) Phù tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị vi, nhi cát thần dĩ tùy chi. Hoặc tâm khởi ư ác, ác tuy vị vi, nhi hung thần dĩ tùy chi.

          (正文)夫心起於善。善雖未為。而吉神已隨之。或心起於惡。惡雖未為。而凶神已隨之。

          (Chánh văn: Hễ dấy thiện niệm, tuy chưa làm lành, cát thần đã đi theo. Tâm móng niệm ác, tuy chưa làm ác, hung thần đã theo).

          Nêu ra chữ Tâm (心) nhằm dạy mọi người mầm mống thiện ác, ngõ hầu mọi người sẽ biết cẩn thận từ chỗ khởi nguồn. Hãy nghiền ngẫm chữ Phù (夫) và chữ Hoặc (或) [trong lời răn trên đây], [sẽ ngộ ra trong ấy] có ý nghĩa “hễ rời khỏi thiện liền đọa vào ác”. Hãy nên xem lời răn này, kèm thêm chương “kê minh nhi khởi” (gà gáy liền thức dậy)[140] trong sách Mạnh Tử nhiều lượt. Kinh Phật dạy: “Tam giới vô biệt pháp, duy thị nhất tâm tác” (Tam giới chẳng có pháp nào khác, chỉ do một tâm tạo ra). Lại nói: “Năng tùy duyên nhiễm tịnh, biến tạo thập pháp giới” (Có thể tùy theo duyên nhiễm hay tịnh, mà tạo ra trọn khắp mười pháp giới). Thế gian và xuất thế gian, chẳng ngoài tứ thánh lục phàm pháp giới. Mười pháp giới như thế vốn chẳng có tự tánh, đều do nhất tâm tạo ra. Vốn dĩ cái tâm này tuy nói là “bất biến”, nhưng nó thật sự tùy duyên. Do nó tùy duyên nên nói là “năng tạo” (có thể tạo). Vì thế, tâm có thể làm Phật, mà tâm [cũng] có thể làm chúng sanh, tâm tạo thiên đường, tâm tạo địa ngục. “Tâm khởi” tức là một niệm chớm nẩy. Một niệm tuy nhỏ bé, [có thể] cảm động trời đất, thông thấu quỷ thần. Ai có thể dấy lên một thiện tâm, chỉ một niệm ấy là lá bùa thiêng liêng để phá địa ngục, là gươm trí huệ để chém sạch các thứ tà, là thuyền Từ để vượt biển khổ, là đèn sáng soi tan tăm tối. Nếu dấy lên một ác tâm, ắt tam đồ hiện tiền, trầm luân chẳng dứt. Vì thế, cát thần hay hung thần tùy thuộc ý niệm mà đến, chẳng cần phải chờ đợi mảy may nào! Đời Minh, Hám Sơn đại sư nói: “Cần phải thấy thấu suốt từ chỗ niệm dấy lên, khi sự chưa xảy đến thì đừng lầm lạc sanh khởi. Khi ác niệm dấy lên, một đao chặt đứt phăng, ắt nghiệp căn lập tức tiêu trừ, vọng niệm có chỗ nào để an trụ? Đầu mối để siêu phàm nhập thánh hoàn toàn ở chỗ này”.

          Xưa kia, Nguyên Tự Thật hận gã họ Mâu phụ bạc ân nghĩa, canh năm muốn đến giết hắn. Trên đường, ông ta đi qua một cái am, am chủ là ông Hiên Viên, sáng sớm tụng kinh, thấy có mấy trăm con quỷ hình thù kỳ quặc, bộ dạng lạ lùng, con nào con nấy đều cầm đao hoặc búa theo Nguyên Tự Thật mà đi, khí thế hết sức hung ác. Chẳng mấy chốc, chúng nó lại lui về. Những người tùy tùng [của Tự Thật] đều đội mão vàng, giắt ngọc, đông đảo cỡ cả trăm người, [cầm theo] hương, hoa, tràng phan, dáng điệu và vẻ mặt hòa hoãn, vui tươi. Ông Hiên Viên gọi Tư Thật lại hỏi, Tư Thật bèn nói: “Họ Mâu phụ ân tôi, tôi muốn đến giết nó. Đến cửa nhà ông, [tôi lại nghĩ] tuy họ Mâu phụ bạc tôi, nhưng vợ con nó tội tình gì? Nó lại còn có mẹ già. Giết một mình nó, thật ra là giết chết cả nhà nó, sao nỡ nhẫn tâm! Bèn thay đổi ý niệm trở về”. Ông Hiên Viên kể lại những gì đã thấy, lại còn chúc mừng: “Chuyện ông đã làm, thần minh đã biết, ắt sẽ hưởng lộc sâu dầy”. Tự Thật bèn dũng mãnh hướng lành, gắng sức chẳng ngơi. Về sau, quả nhiên đỗ đạt, đạt tới địa vị khanh tướng.

          Lão Tử nói: “Thiện và ác khác biệt đến cỡ nào!” Tôi đã từng trộm nghiền ngẫm lời ấy, [hiểu rằng]: Nói chung, hai nẻo thiện ác, thoạt đầu chẳng cách xa nhau, đặc biệt là bắt nguồn từ một niệm trong cuộc sống hằng ngày có đúng và có sai. Có thể hiểu lý này, luôn thiết tha tu tỉnh, tự nhiên toàn thể sẽ là thiện, phước đức không gì chẳng tăng, họa hoạn không gì chẳng lui mất. Nhìn vào một niệm của ông Nguyên là thiện, bèn chuyển họa thành phước, nhanh chóng như thế đó. Nói “tâm dấy lên thiện hay ác, cát thần hay hung thần bèn thuận theo” đã được chứng minh ở đây, cũng chẳng đáng tin rành rành ư?

 

          (Chánh văn) Kỳ hữu tằng hành ác sự, hậu tự cải hối, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, cửu cửu tất hoạch cát khánh. Sở vị chuyển họa vi phước dã.

          (正文)其有曾行惡事。後自改悔。諸惡莫作。眾善奉行。久久必獲吉慶。所謂轉禍為福也。 

          (Chánh văn: Nếu kẻ đã từng làm chuyện ác, về sau sửa đổi, hối hận, chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, lâu ngày chầy tháng, ắt được cát khánh, đó gọi là “chuyển họa thành phước” vậy).

          Đoạn này nêu ra hai chữ Cải Hối (改悔), dạy mọi người phương pháp để hướng thiện, sửa lỗi, là then chốt để xoay họa, chuyển phước. “Cải” (改) là sửa lỗi. “Hối” (悔) là sám hối. Trong thiên hạ, người thuần thiện thì ít, kẻ đã từng làm ác thì nhiều, nhưng kẻ bất thiện đều có thể trở lại thành người chí thiện. Vì thế, đức Thái Thượng rát miệng rườm lời, trong phần kết thúc thiên sách này, Ngài bèn nói ra ý chỉ cội gốc của sự cải hối, hét to [để đánh thức kẻ vẫn lẩn quẩn] nơi cửa ải mê muội, khiến cho họ “quay đầu là bờ”. Kế đó, Ngài lại sợ người ta sẽ hiểu lầm hai câu “buông dao đồ tể xuống, ngay lập tức thành Phật” mà vọng tưởng dùng một chén nước để cứu cả xe củi đang cháy. Vì thế nói “đừng làm ác điều ác”, để mong khoét bỏ hết sạch [vọng tưởng] ấy. Lại nói “vâng làm các điều thiện” để mong [mọi người] sẽ tích lũy viên mãn [thiện hạnh], hành lâu ngày chầy tháng, sẽ có thể trừ khử những nỗi oan khiên trước kia, những mối họa còn thừa sót mới tiêu. Sau đấy, hành thiện ngày càng viên mãn, phước mới tự đưa đến. Những kẻ ngu trong hiện tại tự biết chính mình đã làm những điều bất thiện, hoặc là do lương tâm phát hiện, toan nhờ vào tăng nhân, đạo sĩ tuyên đọc, lễ bái sám văn hòng được tiêu tội, đúng là muốn dùng một chén nước để cứu xe củi [đang cháy] vậy! Há chẳng phải là lầm lạc to tát ư? Huống hồ thường là thoạt đầu hối hận; về sau, lỗi lại tăng thêm! Vì thế, rốt cuộc đến nỗi chìm lỉm trong biển khổ, táng thân, diệt tánh, buồn thay! Nếu kẻ nào hối cải kiểu đó, há chẳng phải là đã hết sức cô phụ ý ra rả bảo ban, răn dạy của đức Thái Thượng ư?  

          Than ôi! Đức Thái Thượng dạy người ta phương pháp sửa lỗi, phương pháp sám hối, mấy lời ấy hết sức trọng yếu, khẩn thiết, [đối với tội lỗi của con người, đúng là] đâm mũi kim nào cũng thấy máu. Đó gọi là một viên thần đan điểm sắt thành vàng, là một lời chí lý chuyển phàm thành thánh. Ai nấy hãy nên quyết chí thề nỗ lực thực hiện, ngõ hầu ứng hợp lòng Từ rộng lớn. Nay trước hết, nói rõ phương pháp sám hối; kế đó, nói rõ phương cách sửa lỗi. Sám hối là “cải vãng tu lai” (sửa đổi những sai lầm trong quá khứ, từ nay tu tập), là đạo trọng yếu để sanh ra điều thiện, diệt trừ điều ác. Vì thế, hãy nên vun bồi thiện căn, [ngõ hầu] các điều thiện đều sanh. Tội căn hãy nên phát lộ thì các tội đều diệt.

          1) Một là chánh tín nhân quả, chẳng mê, chẳng lầm lạc, [biết rõ] “làm thiện được phước, làm ác mắc họa”. Tuy [các nghiệp nhân] chẳng có tác giả, nhưng quả báo chẳng mất. Tuy niệm niệm đều diệt, nghiệp chẳng bại vong. Tín là cội nguồn của đạo, do trí mà có thể nhập. Đấy là căn bản của các điều thiện. Dùng sự chánh tín này để phá trừ cái tâm Nhất Xiển Đề.

          2) Hai là sám hối tội ác, hổ thẹn làm gốc: Thẹn vì ta phạm tội này, chẳng được dự vào loài người; xấu hổ “ta do tội này, ắt bị trời phạt”. Đấy gọi là bạch pháp nhằm phá trừ pháp “không biết thẹn”.

          3) Ba là sợ hãi vô thường. Một hơi thở ra, chẳng hít vào được nữa, mạng liền theo đó mà diệt, sẽ theo nghiệp chịu báo, luân chuyển vô cùng. Đã ngộ vô thường, đấy là [cơ sở để] phá dẹp cái tâm chẳng sợ ác đạo.

          4) Bốn là phát lộ, [tức là] hướng về người khác bộc bạch tội lỗi nặng nhẹ. Do phát lộ nên tội liền cháy khô, như chặt rễ cây, cành nhánh bèn xơ xác, rơi rụng. Đấy là phá trừ cái tâm che giấu vậy.

          5) Năm là đoạn cái tâm tương tục, rốt cuộc xả ác, quyết tâm dũng mãnh như đao thép chặt đứt mọi vật; hễ chặt xuống, thảy đều đứt rời. Đấy chính là phá trừ cái tâm tương tục vậy.

          6) Sáu là phát Bồ Đề tâm, dẹp trừ khắp hết thảy các nỗi khổ, ban trọn khắp hết thảy các niềm vui. Do cái tâm rộng lớn ấy, phá trừ cái tâm duyên trọn khắp hết thảy ác nghiệp.

          7) Bảy là tu công để bù lỗi, siêng năng sách tấn ba nghiệp, tinh tấn chẳng ngơi. Đấy là tu công lập đức để phá trừ cái ác tâm “chẳng tu ba nghiệp”, chẳng dấy khởi tội lỗi.

          8) Tám là thủ hộ chánh pháp, chẳng nghĩ tới tà sư ngoại đạo phá hoại Phật pháp. Đấy là [phương cách để] thay đổi cái tâm “phá diệt hết thảy các thiện sự”.

          9) Chín là nghĩ tới vô lượng công đức, thần thông, trí huệ của mười phương Phật xót thương gia hộ, trừ tội cho ta, [đấy chính] là thanh lương diệu dược. Đấy là [phương cách] thay đổi phá trừ cái tâm “nghĩ tới ác tri thức”.

          10) Mười là quán tánh của tội là Không. Tội từ tâm sanh, lại từ tâm diệt. Vì thế nói: “Nếu tâm diệt thì tội cũng mất”. Nếu biết tội phước vô chủ, tâm thể (bản thể của cái tâm) tự là Không, trở về nguồn cội, rốt ráo thanh tịnh. Đấy là phương pháp để thay đổi, phá trừ cái tâm vô minh điên đảo chấp trước. Kinh dạy: “Biển hết thảy các nghiệp chướng đều sanh từ vọng tưởng. Nếu muốn sám hối, hãy ngồi ngay ngắn niệm Thật Tướng, các tội như sương, móc, huệ nhật (vầng mặt trời trí huệ) có thể tiêu trừ. Do vậy, hãy nên chí tâm sám hối. Như cái áo dơ bẩn suốt trăm năm, có thể giặt sạch sẽ trong một ngày. Như tấm gương cổ ngàn năm, có thể trong một lúc lau chùi đến mức tỏa sáng, có thể giải trừ oan khiên ngàn đời muôn kiếp, có thể diệt tội Tứ Trọng, Ngũ Nghịch”. Sám hối như thế, có ác nào chẳng diệt, thiện nào chẳng sanh?     

          Ngài A Na Luật trong đời xưa kia vốn là một tên giặc cướp. Ban đêm tới chùa Phật, thấy ngọn đèn thờ Phật sắp tắt, bèn rút mũi tên khêu bấc đèn, đèn bỗng sáng bừng, chói ngời lóa mắt. A Na Luật sợ hãi, lập tức bỏ ác theo thiện, các điều ác dần dần tiêu diệt, muôn điều thiện đều tròn đầy, bèn được chứng quả.

          Đời Tống, Dương Trọng Hòa vốn giữ chức Thôi Tư ở Hứa Châu,

trong niên hiệu Thiên Thánh[141] bị sai tới Thái Châu để xét duyệt các vụ án. Do phán quyết oan uổng, ông bị Bắc Cực (Tử Vi Đại Đế) tấu trình [Thượng Đế], sắp bị [thiên đình] phạt nặng. Trọng Hòa hối hận, sợ hãi, lập tức bỏ chức quan xử án, thề tu một trăm điều thiện để chuộc lỗi. Mỗi lần gặp tăng đạo qua lại, người nghèo cùng thiếu thốn, góa bụa, mồ côi, trơ trọi, tang ma hoặc bệnh tật ngặt nghèo, ông không gì chẳng giúp đỡ, châu cấp. Chẳng đầy mấy năm, gia sản trống rỗng. Sớm chiều ông chỉ thờ phụng, dâng hương, thắp đèn cho Chân Vũ Chân Quân. Rốt cuộc, do ông dũng mãnh sửa lỗi, được Chân Quân thương xót, hóa thành đạo nhân, trao cho mười hai cây xăm thiêng của Chân Quân để giúp cho ông tu đạo. Kế đó, ông được Đông Nhạc thâu nhận, trọng dụng, bổ làm người ghi chép, trông coi sổ sách ở Ma Khê. Triều đình truy phong ông là Ngộ Bổn Chân Nhân.

          Đời Minh, Mạo Khởi Tông nói: – [Trong phần chú giải kinh Dịch về] sáu hào của quẻ Càn, sau cùng là nói cát tường, trước hết là nói “vô cữu” (không phạm lỗi). Có hối hận, có thể hối thì sẽ có thể bù đắp lỗi, sẽ là tốt lành. Lớn lao thay ý nghĩa của chữ Hối.

          Đời Minh, ông Trần Lương Mô lại nói: – Nghèo, giàu, sang, hèn, thọ, yểu của con người cho đến một hớp uống, một miếng ăn, mỗi hành vi, đều có vận số nhất định, chẳng thể trái nghịch được. Nhưng điều then chốt để chuyển dời họa, phước lại ở nơi con người, mạng số chẳng thể hạn cuộc được. Bởi lẽ, số mạng đã định là mạng trời, cảm ứng là lòng trời. Trời lấy “sanh thành muôn vật” làm tâm, tột bậc chân thành, không hư vọng. Nếu ai có một niệm “giúp người, lợi vật” xuất phát tự đáy lòng, thoạt đầu chẳng phải là do vì hữu vi mà làm, tuy là một chuyện nhất thời, nhưng do lòng tinh thành tột bậc, sẽ có thể cảm cách lòng trời, như tiếng vang ứng theo [âm thanh]. Đấy lại là lẽ tất nhiên. “Số” là số trời. Lòng trời đã cảm cách, số (vận số) cũng sẽ chuyển theo, làm sao có thể hạn cuộc cho được! Ví như pháp chế trừng phạt hay ban thưởng của nước nhà, nhất định là chẳng thay đổi. Nếu bầy tôi thật sự có thể dùng lòng trung thành khiến cho tâm vua cảm động, ắt là tuy đã bị biếm trích mà vua có thể gọi trở về, sắp bị hành hình mà được ân xá. Trong khoảnh khắc, mừng, giận khác hẳn, làm sao chẳng thể thay đổi cho được? Do vậy biết thiên lý và vận số ảnh hưởng lẫn nhau xưa nay chính là chuyện âm đức cảm ứng rất rõ rệt, chẳng hư dối vậy!

 

          (Chánh văn) Cố cát nhân ngữ thiện, thị thiện, hành thiện, nhất nhật hữu tam thiện, tam niên thiên tất giáng chi phước. Hung nhân ngữ ác, thị ác, hành ác, nhất nhật hữu tam ác, tam niên thiên tất giáng chi họa, hồ bất miễn nhi hành chi?

   (正文)故吉人語善。視善。行善。一日有三善。三年天必降之福。凶人語惡。視惡。行惡。一日有三惡。三年天必降之禍。胡不勉而行之。

          (Chánh văn: Do vậy, người cát tường nói lời lành, xem điều lành, làm điều lành, mỗi ngày có ba điều lành thì ba năm trời ắt ban phước cho. Còn kẻ ác nói lời ác, xem điều ác, làm điều ác, mỗi ngày có ba điều ác, ba năm trời ắt sẽ giáng họa. Sao không cố gắng thi hành vậy thay?)

          Đoạn này tổng kết toàn bộ thiên sách, chân thật dạy mọi người con đường thuận theo điều thiện, trừ khử điều ác. Chữ Cố (故) nhằm liên kết với hết thảy những câu văn trước đó. “Cát nhân” (吉人) là người do làm lành mà có thể được phước. “Hung nhân” (凶人) là kẻ do làm ác mà có thể mắc họa. Các điều ác, các điều thiện, chẳng thể kể trọn hết; nói tổng quát, sẽ là ba loại ngữ, thị, hạnh (lời nói, cách nhìn, việc làm). Đấy chính là chỗ thiết thực để đổ công dốc sức.

          1) “Ngữ thiện” (語善) là như lời phi lễ chớ nói, thích nói điều tốt lành của người khác, khơi gợi thiện tâm của người ta.

          2) “Thị thiện” (視善) là như phi lễ chớ nhìn, thích thấy người lành, thích xem thiện thư, luôn thấy lỗi ác của chính mình, chẳng thấy người khác sai trái.

          3) “Hạnh thiện” (行善) là như chuyện phi lễ chớ làm, chuyện phi pháp chớ dính dáng, dũng mãnh làm lành, luôn tạo thuận lợi [cho người khác], làm đủ mọi thứ âm công, xướng suất, hướng dẫn một phương, cho đến thấu đạt bốn phương, khiến cho ai nấy đều được cảm hóa mà có cùng chí hướng.

          Thiện nhân và những người giống như họ đều là [ngữ thiện, thị thiện, hạnh thiện] như thế; kẻ làm ác thì ngược lại (tức là ngữ ác, thị ác, hạnh ác). “Ba năm” là một ngàn ngày. Đấy là phương pháp từ thời Đường Ngu (Nghiêu, Thuấn) dùng để khảo hạch thành tích, là kỳ hạn để viên mãn. [Với thời hạn đó], thiện sẽ tích tập, mà ác cũng sẽ chứa đầy. Lòng người hết sức linh động, biến hóa bất thường. Nếu suốt ba năm mà cái tâm không thay đổi, tức là thiện và ác cũng đã thuần. Nêu ra chữ Thiên, đấy chính là vị đại chủ tể hưởng thiện phạt ác, ban phước, giáng họa, là chỗ quy kết trọng yếu của toàn thể thiên sách này, nhưng [ở đây phải hiểu] “Thiên” (天) chính là cái tâm của ta. Mạnh Tử nói: Tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tánh, sở dĩ sự thiên dã” (Giữ tấm lòng này, dưỡng tánh này; đó chính là thờ phụng trời). Hai chữ Tất (必) không nhất định là nói trời xanh thăm thẳm, không tiếng động, không mùi vị ắt sẽ làm như thế, mà là nói cái tâm ta đã phát khởi ngữ, thị, hạnh trong suốt ba năm [thì sẽ sanh ra tác dụng ấy]. Do vậy nói “không gì chẳng cầu từ chính mình” chính là nói về lý này. Bậc chí nhân vui với đạo, vốn chẳng phải là cầu phước. Do cầu phước mà làm lành, cái tâm đã dính dáng lẽ riêng tư. Vì thế, chỉ nên trọn hết sức mình, vâng thuận theo trời, chớ nên có một mảy tâm niệm mong mỏi, đón chờ. [Bởi lẽ, họa hay phước] chỉ là do cái tâm tự cảm vời, mà đạo trời khéo đáp đền. Lý họa phước vốn mênh mông, tràn đầy trời đất, chẳng sai sót mảy may. Người đời nếu coi chuyện “làm lành, trừ ác” là chuyện thuộc về bổn phận của chính mình, cố nhiên là thuộc về bậc thượng thượng; nhưng trên cõi đời, đại đa số là kẻ bình phàm, làm sao có thể trọn hết đều là bậc thượng căn cho được? Vì thế, do sợ tai họa, do cầu phước mà trừ bỏ điều ác, làm lành, thì cũng [ứng hợp] với lòng mong mỏi của đức Thái Thượng, chỉ sợ con người chẳng cầu phước! Nói “cầu chi hữu đạo, đắc chi hữu mạng” (có phương cách để cầu, nhưng đạt được hay không là do vận mạng) tức là cầu phước thì cũng có ích cho việc được phước. Cầu như thế, cố nhiên chẳng gây hại cho điều đang cầu mong. “Giáng phước” là như bản thân được hưởng phước lộc, con cháu thiện lương, vinh hiển, thịnh vượng, tăng thêm tuổi thọ, gia đạo hưng thịnh, vạn sự thuận hòa. Thậm chí làm thánh, làm hiền, thành tiên, thành Phật, triệt ngộ tự tánh, chứng thẳng vào Vô Sanh, độ người, độ vật, tạo thành chuẩn tắc tối cao cho muôn đời. “Giáng họa” (降禍) là như đích thân gặp phải những tai họa rõ rệt, con cháu nham hiểm, ác độc, thường bị dồn vào cảnh bại vong, tuổi thọ ngắn ngủi, gia đạo chìm đắm, mọi sự đều bị trở ngại, thậm chí chết rồi sẽ vào địa ngục Vô Gián, luân hồi trong dị loại, vĩnh viễn chịu tội, điều ác lan sang đời sau, muôn năm bị thóa mạ. Than ôi! Do vậy mà luận định, đạo họa phước to lớn thay, đúng là chẳng thể nghĩ bàn được.

          Câu cuối cùng nêu ra hai chữ “miễn hành” (勉行) chỉ nhằm nói đến ý “chúng thiện phụng hành” (vâng làm các điều thiện) trong phần trước; đó là điểm then chốt chung của toàn bộ Cảm Ứng Thiên. Chữ Miễn (勉) chính là bí quyết trọng yếu nhất để hướng thiện, sửa lỗi, há chẳng phải là từ ngữ trách móc, cảm thán ư? “Hành” (行) là bản thân nỗ lực thực hiện. “Miễn hành” là gắng hết sức nỗ lực thực hiện, thà chết chẳng lùi! Kinh Thư chép: “Phi tri chi nan, duy hành chi nan” (Biết chẳng phải là khó, chỉ có hành là khó). Ngạn ngữ có câu: “Thuyết đắc nhất xích, bất như hành đắc nhất thốn” (Nói cả thước, chẳng bằng làm được một tấc). Nếu biết mà chẳng hành, chắc chắn chẳng có thọ dụng gì! Đã chẳng được thọ dụng, chẳng tránh khỏi hướng vào biển sanh tử, tự làm tự chịu. Người đời mong cầu một sanh lộ, cần phải bỏ ra tử công (死功, công phu dẫu chết không lùi bước). Châu Tử nói: “Khi khí Dương phát khởi; vàng, đá cũng bị xuyên qua”. Tinh thần đạt đến khắp mọi nơi, có chuyện gì mà chẳng thành! Ai có thể như thế thì công hạnh sẽ viên mãn, thành chân (thành tiên), chứng thánh, há lẽ nào chẳng phải là chuyện tất yếu ư?

          Chẳng có điều thiện, sẽ không có phước; chẳng có điều ác, sẽ không có họa. Đấy là lẽ thường hằng trong đạo trời, nhưng báo ứng thiện ác có khi rơi vào bản thân người ấy, có khi rơi vào con cháu. Có kẻ là người ác trong đời hiện tại, nhưng do phước trong đời trước chín muồi, đáng phải chịu họa mà chuyển thành hưởng phước. Có người là thiện nhân trong đời hiện tại, do tội trong đời trước chín muồi, đáng hưởng phước mà chuyển thành chịu họa. Đợi cho tới khi đã hưởng phước hay chịu họa trong đời trước xong xuôi, thiện báo hay ác báo trong đời này mới sẽ mỗi mỗi đều tiếp nhận. Chuyện này chẳng qua là sớm hay muộn, trước hay sau đó thôi! Chẳng phải là báo ứng thiện ác bị mất đi. Vì thế nói: “Pháp luật dương gian nhanh chóng, có thể trốn thoát. Pháp luật cõi âm chậm chạp, nhưng chẳng bỏ sót!” Lưới dương gian thưa dễ lọt, lưới cõi âm kín kẽ, khó trốn. Người thời nay ngẫu nhiên làm một điều thiện, bèn mong được báo ứng; hễ hơi có điều gì chẳng vừa ý, liền bảo: “Đạo trời khó biết”. Nào có biết người không bị đói, chẳng bị rét, không tai, không họa, kẻ sĩ được đọc sách, nông dân được cày cấy, thợ thuyền được làm lụng, lái buôn được buôn bán, luôn toét miệng cười, hằng ngày ít phải chau mày, há chẳng phải là cái phước bình an đấy ư? Nếu không, nguyện vọng trong cõi đời không ngằn mé, thế giới khuyết hãm, há ai nấy đều có thể phú quý, thuận lợi, hiển đạt ư? Người đời chỉ nên tôn kính, tin tưởng Cảm Ứng Thiên, vâng làm theo từng chuyện, tự nhiên sẽ là phước lộc vô lượng, con cháu vinh hiển, hưng thịnh. Hành suốt một năm, muôn tội tiêu diệt. Hành suốt bốn năm, trăm phước đều nhóm họp. Hành suốt bảy năm, con cháu đỗ đạt. Hành cả mười năm, thọ mạng kéo dài. Hành mười lăm năm, vạn sự như ý. Hành hai mươi hoặc ba mươi năm, được ghi tên vào sổ tiên. Hành năm mươi năm, thiên thần cung kính, được xếp vào ngôi vị nơi thượng giới. Đấy là lời chân thật chẳng dối gạt của đức Thái Thượng, sợ người đời chẳng thể thật sự thực hiện đó thôi! Đại khái, bậc dốc chí nơi đại đạo, khi mới phát nguyện, liền chú trọng tự độ và độ người. Để tự độ và độ người khác, trước hết là phải phước huệ song tu. Tu huệ, ắt phải kiến tánh minh tông. Tu phước, ắt phải [chú trọng] nơi ngũ thường, bách hạnh. Hai thứ [phước và huệ] bổ trợ nhau, Thượng Đế ắt hạ chiếu thư cõi trời đối đãi, chư Phật nhất định dùng Tịnh Độ để nhiếp thọ. Không chỉ là siêu sanh thượng giới, mà thật ra, còn là mau chóng chứng Vô Sanh, bất sanh, bất diệt, sau đấy mới có thể nhập thế độ sanh. Liễu ngộ đại sự nhân duyên này, nếu khăng khăng mong cầu trường sanh, tu tánh mạng, đó chính là “chẳng tu tam-muội”; khi báo hết, sẽ trở lại, liền sanh vào Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, thọ tới tám vạn bốn ngàn đại kiếp. Rốt cuộc, lại vào trong các nẻo [của lục đạo], chẳng thể xuất thế, nhưng ở trong các đường ấy, đều là do chẳng liễu ngộ diệu minh chân tâm, những thứ hư vọng đã tích tập sẽ phát sanh, bèn hư vọng có tam giới, lầm lạc chìm đắm nơi bảy đường trong ấy! Do vọng nghiệp chiêu cảm, dẫn khởi tùy theo từng loài [mà sanh vào trong các đường]. Chỉ có triệt ngộ Bồ Đề thì các vọng duyên ấy vốn là vô sở hữu, hạnh lực Phổ Môn lại đủ để duy trì. Do vậy, người có thể liễu ngộ đại sự nhân duyên ắt sẽ nương về chư vị Phước Huệ Lưỡng Túc Tôn vậy!

          Trong Bàn Sơn Ngữ Lục[142] của Thê Vân Chân Nhân Vương Chí [Cẩn] có chép:

          – Nếu hỏi: “Làm thế nào để thoát khỏi tội phước nhân quả?” Thầy (Vương đạo sĩ) đáp: “Tội phước nhân quả là cái vỏ của âm dương. Nếu ông thoát khỏi cái vỏ âm dương, sẽ không có tội phước nhân quả. Cái vỏ âm dương là như thế nào? Phàm là trong tâm có một mảy ý niệm tư dục tự lợi, sẽ thuộc vào cái vỏ âm. Hễ có một mảy niệm thích làm thiện sự, sẽ thuộc vào cái vỏ dương. Nơi âm bèn có ác báo; nơi dương thì có thiện báo. Nếu có thể luyện sao cho tâm thể như hư không, chẳng thiện, chẳng ác, chẳng có mảy may vướng mắc, tự làm chủ được, ắt họa phước sẽ chẳng thể dính mắc người ấy, nhân quả chẳng thể ràng buộc người ấy được. Đó là bậc chân nhân thoát khỏi cái vỏ âm dương”.

          Đời Tống, ông Châu Hối Am nỗ lực thực hiện quy củ rất nghiêm, tạo thành sự bất tiện cho kẻ hậu học, nào có biết trong khi chưa thấu hiểu rõ ràng Lý Học, khi mô phỏng, học tập tâm tánh [theo khuôn khổ của thánh hiền Nho gia] trong cõi đời mà nếu bỏ sót, chán ghét điểm then chốt trọng yếu này, [Lý Học] sẽ bị ẩn mất ngay trong thuở đó. Nếu không do ông Châu một phen chống đỡ, duy trì, ắt Lý Học đã bị băng hoại, biến mất từ lâu rồi. Thuở ấy, Đạo học bị cấm đoán, bị quy kết là ngụy học, bị chỉ trích là tà khí (mang hơi hướng tà vạy). Trong những kẻ gây chuyện ồn ào, có gã hề Hàn Thác Trụ, có Lâm Lật Chi đánh phá những kẻ có ý kiến khác mình, có Vương Hoài, Trần Cổ báo thù oán xưa, khiến cho sáu kinh của Khổng Mạnh trở thành thứ bị cấm ngặt trong cõi đời, thuyết “chánh tâm, thành ý” bị những người ở địa vị cao chán ghét, chẳng muốn nghe. Những kẻ sĩ tuân theo quy củ đều nín hơi, lặng câm, còn bọn học trò xu thời phụ thế thì mạo danh thầy của bọn họ [làm ra vẻ mình là kẻ ưu thời mẫn thế]. Chỉ riêng mình Châu Hy gánh vác đạo thống, chẳng lo sầu, chẳng run sợ, cứ dâng biểu [lên hoàng thượng] phơi bày mọi lẽ chẳng sót, tiến cử, tiếp dẫn [bậc hiền tài] không bỏ lỡ ngày nào. Trong những tờ biểu tâu trình lên vua, ông đã khoét tủy, rỗng lòng [phơi bày nhiệt tâm thành ý], [đề nghị] các biện pháp như lập kho chứa thóc tại các châu huyện để phòng ngừa năm mất mùa, cứu người bị hỏa hoạn, cứu vớt người bị chết đuối. Ứng xử tiến thoái, chẳng cẩu thả bước nào! Ông bị kẻ khác sàm báng, đối với trăm nỗi vùi dập vẫn ung dung, tích cực dạy dỗ kẻ hậu học, cho nên có nhiều kẻ hiền tài đua nhau xuất hiện. Ông nghiêm cẩn kềm giữ chính mình, chẳng hề vi phạm Tứ Vật[143] [của Nhan Hồi]. Do vậy, cái học Trâu Lỗ Liêm Lạc[144] như mặt trời giữa trưa chính là hiệu quả do Châu Tử đã dốc sức thực hiện vậy!

          Đời Tống, Phạm Nghiễm là người xứ Nhân Hòa, tuổi tráng niên thi đỗ Tiến Sĩ, làm quan tại các quận, huyện rồi đạt đến chức khanh tá (卿佐, chấp chánh đại thần), làm quan suốt hai mươi mấy năm. Mỗi ngày, ông ắt suy nghĩ đạo “trung với vua, tạo ân trạch cho dân”. Thấy, nghe, nói năng, hành động, không dám cẩu thả mảy may. Tuy ở trong nhà tối, phòng kín, luôn luôn giữ mình dè dặt, kinh sợ, cảnh tỉnh. Đến khi con ông trưởng thành, ông liền từ quan, quy ẩn, áo vải, cơm rau, chẳng dính dáng đến duyên trong cõi đời, thanh tâm nhập đạo. Hằng ngày, niệm trì các kinh Pháp Hoa, Kim Cang; hễ rảnh rỗi thì Thiền Định, quán tưởng. Hết thảy Thế Đế, chẳng có mảy may [dính mắc]. Đạo đức và tánh mạng cũng đều quy về tự nhiên. Trong niên hiệu Đại Quán [thời Tống Huy Tông], ông đã chín mươi mấy tuổi, bỗng nhiên liễu ngộ, dặn dò người hầu:

          – Con người sống trong cõi đời, giống như một vở tuồng. Khi trống, phèng la vang rền, kép, đào, hề, kép râu[145]… ai nấy đều phô bày tài nghệ cho đến khi đuốc rụi, đèn tàn, thành ra hứng thú nỗi gì? Như ta đến thế gian, chín mươi năm như huyễn, như hóa, như sương, như chớp, may mà ngộ được điều ấy. Điều ấy chẳng có bờ mé, cũng chẳng vuông, tròn, lớn, nhỏ, cũng chẳng phải là đỏ, trắng, xanh, vàng, cũng chẳng phải là dài, ngắn, trên, dưới, chẳng sân, chẳng hỷ, không đúng, không sai, chẳng thiện, chẳng ác. Đó gọi là “chẳng có một vật mà muôn hình tượng thảy đều được bao gồm”. Điều này là chân thật nhất, cao tột nhất, là diệu đế chẳng đến chẳng đi, chỉ tại do lòng người chí thành, tinh tấn, tâm tâm tiếp nối, niệm niệm chẳng đoạn. Tam thế chư Phật đều từ lý này mà xuất hiện. Đó gọi là chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, phi cuống ngữ (lời lẽ chẳng dối gạt), phi dị ngữ (lời nói chẳng khác lạ). Các ngươi ai nấy hãy nên gắng hành.

          Nói xong, ông ngồi yên, chắp tay mà hóa. Nhất thời, mùi hương lạ đầy nhà, mây lành phủ khắp không trung, các thứ quang minh chiếu rọi thế giới mấy ngày chẳng an. Muôn mắt đều cùng nhìn vào, ngưỡng mộ.

          Những điều vừa nêu trên đây chính là đường lối để gắng sức thực hiện tam giáo từ hạ học cho tới thượng đạt, đều quy về “cùng lý, tận tánh, là chỗ cao tột nhất của bản tánh”. Tôi sao chép vào đây để mong làm khuôn phép tột bậc cho các hành giả trong tam giáo, người có chí hãy nên nghĩ tưởng!

          Trương Củng Thần nói: – Hết thảy các hành động, không gì là chẳng bắt đầu từ nhỏ cho đến lớn. Vì thế, phàm thuộc loài có huyết khí đều có thể chứng thẳng vào Vô Thượng Bồ Đề. Nhưng Vô Thượng Bồ Đề chỉ ở chỗ cẩn trọng đối với những ý niệm nhỏ nhặt vừa nẩy sanh, thận trọng ngay khi chỉ ở một mình, mở rộng ra cho đến trọn hết mới thôi. Ông Viên [Liễu Phàm] chẳng nói rồi đấy sao? Những thứ [trót gây tạo] trước kia, ví như ngày hôm qua đã chết. Những thứ từ nay trở đi, ví như sanh từ hôm nay, há nên tự đành lòng ruồng rẫy chính mình, để rồi phó mặc hết thảy họa phước cho mạng trời, chần chờ, cẩu thả cho xong một đời này vậy thay? Tôi đã gởi lòng nơi cửa Thích, đối với phần cuối của thiên sách này, chẳng e ngại đôi ba lượt múa lưỡi, mong sao những người đã có thiện căn sẽ đều nhờ vào đây mà tự mở rộng [đức hạnh của chính mình].

          Thiên hạ lớn tột cùng, muôn đời xa tột cùng. Dẫu dùng vạn tay, vạn mắt để cứu tế cõi đời này, vẫn chẳng thể đủ. Vì thế, chuyện cấp bách nhất chỉ là dạy dỗ người khác, há bắt buộc phải đều là thánh hiền rồi mới có thể dạy dỗ người khác ư? Nếu ai có thể thật sự nghe điều thiện mà hoan hỷ, thấy điều thiện bèn vui lòng, lúc nào cũng nói lời thiện, bàn bạc việc thiện, nói đến thiện báo, phân phát thiện thư, tức là đã giáo hóa khá nhiều. Còn [trong quá trình giáo hóa ấy], sẽ chuyển đổi linh hoạt, khéo léo, ứng dụng những mẹo vặt hay ho, sống động, đều là càng ngày càng tinh tấn, càng tinh vi hơn, đạt đến tột bậc biến hóa, khế hợp, mà chính mình chẳng tự biết. Dạy kẻ vụng về, tầm thường, lại chẳng bằng dạy bậc hào kiệt. Dạy được một người, sẽ xoay chuyển càn khôn, tiếp nối người trước, lưu truyền cho người sau, khiến cho người ấy lại dạy bảo người khác, ắt sẽ là dạy [một người] mà thành dạy trọn khắp. Bậc thánh hiền thuở trước, truyền lại kinh thư cho cõi đời, đều là vì một nhân duyên đại sự này. Nay thiên sách này, [chính là] lời huyền diệu độ đời của đức Thái Thượng, là mật đế (chân lý bí mật) cứu độ chúng sanh của chư Phật, [đúng là] trước tác mầu nhiệm nhân từ đời đời chẳng cùng tận. Những ai tụng thiên sách này, hành theo, ấn loát, lưu truyền, cũng đều là do có một đại sự nhân duyên trong ấy. Giác ngộ cõi đời, yên dân, bồi đắp nguyên khí, tạo phước, khiến cho mọi người cùng làm lành, trời đất trong lặng, yên ổn. Tâm lượng ức kiếp thường tròn đầy, quả thật chẳng thể nghĩ bàn được!

 

Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

Trọn Bộ

 

 

Thay lời kết & Hồi Hướng

 

          Có lẽ không có bộ thiện thư nào được chú giải, truyền bá rộng rãi bằng Cảm Ứng Thiên. Trong các tác phẩm chú giải Cảm Ứng Thiên, tổ Ấn Quang đặc biệt tán thán và ấn hành Cảm Ứng Thiên Vựng Biên với một số lượng khá lớn. Mỗi khi dạy người khác về nhân quả, Ngài luôn biếu tặng sách này và An Sĩ Toàn Thư. Tuy thế, mạt nhân vẫn không quan tâm lắm, cho đến khi có cơ duyên lui tới Tịnh Tông Học Hội Dallas, mạt nhân rất ngạc nhiên khi thấy trong các sách vở được cơ quan Hoa Tạng và Phật Đà Giáo Dục ấn hành thường xuyên có Cảm Ứng Thiên Vựng Biên và Cảm Ứng Thiên Đồ Thuyết. Tiếc rằng khi ấy, do thiếu tài liệu tham khảo, đối với những lời chú giải của các bậc túc nho do quá cô đọng, quá nhiều điển tích, dẫu có chú tâm đọc, mạt nhân vẫn không hiểu rõ cho lắm. Khi xem đến quyển Cảm Ứng Thiên Vựng Biên Bạch Thoại Tiết Bổn thì thấy đối với mỗi điều, sách chỉ trích yếu vài đoạn, không đủ giúp cho một kẻ học trộm, chữ nghĩa nhấp nhem như mạt nhân hiểu được phần nào các lời chú giải. Đến nay, như một duyên lành, trước là pháp sư Định Hoằng giảng đoạn mở đầu, sau là ông Hoàng Bách Lâm giảng trọn bộ Cảm Ứng Thiên Vựng Biên; những điển cố, những thành ngữ khó tìm, khó tra cứu đều được ông Hoàng giảng rất tường tận; do đó, những phần phải tự tra cứu đã giảm bớt rất nhiều. Càng đọc, mạt nhân càng hiểu phần nào lý do vì sao các vị tổ sư như Liên Trì, Ấn Quang đều đề xướng Cảm Ứng Thiên, Công Quá Cách, và Phật môn Trung Hoa coi trọng Cảm Ứng Thiên đến thế. Đến nay, cảo bản tiếng Việt đã hoàn thành, có người đọc những phần dịch đã chê “toàn là chuyện thần tiên hoang đường, toàn là tín ngưỡng Đạo Giáo, phí công dịch để làm gì”, nhưng chúng tôi dốc lòng tin tưởng lời Tổ đã dạy: “Hết thảy do tâm tạo”. Nếu chúng ta lãnh hội bằng cái tâm học Phật, sẽ thấy dẫu là pháp thế gian, vẫn là Phật pháp. Các vị thần, thánh, tiên, quỷ v.v… như sách này đã nói biết đâu đều là hóa thân của Phật, Bồ Tát, chư vị thánh hiền, nhằm ứng hợp với tâm tư tình cảm của người thuở ấy mà hiện thân dưới các hình tướng quen thuộc trong tâm khảm của đại chúng để dẫn dắt họ về nẻo giác. Hơn nữa, bàng bạc trong tác phẩm này, tư tưởng Phật giáo vẫn là chủ đạo. Có những điều thoạt nhìn thuần là Đạo Giáo, nhưng trong lời chú giải, đã được diễn giải theo cách nhìn duyên khởi của Phật giáo. Chúng tôi tin rằng, ngoại trừ những bậc thượng căn đại trí, dẫu chẳng chú trọng nhân quả mà vẫn bất muội nhân quả, chứ hàng phàm phu lè tè sát đất như mạt nhân, nếu chẳng do sợ quả báo, sợ địa ngục, ắt sẽ khó thể chẳng phạm những lỗi sai trái, khó thể làm tròn nhân đạo để mong tấn tu trên đường Phật đạo được. Chúng tôi trộm nghĩ, thường đọc Cảm Ứng Thiên, luôn giữ lòng dè dặt, kinh sợ, cẩn thận nơi từng tâm niệm nhỏ nhặt, phản tỉnh suy xét chính mình, chúng ta sẽ có thể thực hiện phần nào giáo huấn “nhàn tà tồn thành, đôn luân tận phận, tín nguyện niệm Phật, vãng sanh Tịnh Độ” như tổ Ấn Quang đã dạy. Tuy đã có sẵn một số tài liệu, nhưng do tâm trí chậm chạp, tối tăm, cũng như do những bận rộn vụn vặt trong cuộc sống thường ngày và việc làm, chúng tôi khởi sự chuyển ngữ từ ngày 14 tháng Giêng năm 2017 nhưng mãi cho đến ngày mồng Chín tháng Ba năm 2018 mới tạm xong cảo bản. Xin trân trọng cảm tạ ân đức giảng giải của pháp sư Định Hoằng và cư sĩ Hoàng Bách Lâm, cơ quan phát hành kinh sách Hoa Tạng, các vị đạo hữu Đức Phong, Huệ Trang, Hồ Xuân Trường, Trịnh Văn Lộc đã góp ý sửa chữa, luôn khuyên nhủ, sách tấn trong suốt quá trình chuyển ngữ. Chỉ sợ tâm huyết đau đáu thương đời, vệ đạo của bao thế hệ tiền nhân, nay được chuyển ngữ sang tiếng Việt qua cái nhìn hạn hẹp, ngu ám và trình độ Hán Việt nhấp nhem của mạt nhân đã bị sai lạc, biến tướng, tạo thành duyên chê cười, phỉ báng, gai mắt người đọc. Nếu việc làm liều lĩnh này có chút công đức hay phước đức nào, đều xin hồi hướng cho lịch đại tổ tiên, sư trưởng, phụ mẫu hiện thế, đa sanh phụ mẫu, các huynh đệ Đức Phong, Minh Tiến, Huệ Trang, Xuân Trường, Văn Lộc cùng các vị liên hữu và những ai tin tưởng nhân quả, tin kính Phật Di Đà, sẽ đều được nghiệp chướng tiêu trừ, thân tâm khang thái, nhất tâm nhất ý phát nguyện vãng sanh, cùng nhau hội ngộ nơi đài sen của đấng Từ Phụ Di Đà.

Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa ngưỡng bạch.

 

“Hoan nghênh ấn tống, công đức vô lượng”

 

 

[1] Lan Đình (蘭亭) là tên một cái đình nơi Vương Hy Chi cử hành tế lễ; nhân đó, sáng tác bài Lan Đình Thiếp lừng danh. “Hễ sự” (禊事) là một nghi lễ thời cổ, được cử hành vào tháng Ba. Thời cổ, khi tiết trời đã ấm, mọi người tụ họp tế thần, xuống chỗ có nước để vốc nước gột rửa, hàm ý tẩy trừ mọi nỗi xui xẻo, bất hạnh của năm qua. Trong phần đầu bài Lan Đình Tập Tự, Vương Hy Chi đã ghi rõ: “Vĩnh Hòa cửu niên, tuế tại Quý Sửu, mộ xuân chi sơ, hội ư Cối Kê Sơn Âm chi Lan Đình, tu hễ sự dã” (năm Vĩnh Hòa thứ chín, nhằm năm Quý Sửu, mới đầu tháng Ba, họp nhau ở huyện Sơn Âm thuộc Cối Kê để cử hành hễ sự). Đây là chuyện thuộc thời Tấn, thiếp Lan Đình nổi tiếng như thế, được ngưỡng mộ như thế, nhưng hiện thời đã chẳng còn là thời Tấn.

[2] Theo Đào Nguyên Ký, có người đi lạc vào Đào Nguyên, mới biết cư dân trong ấy là hậu duệ của những người do lánh nạn Tần Thủy Hoàng mà vào đó sống, cách biệt với nhân gian. Họ vẫn chê cười Tần Thủy Hoàng hà khắc, bạc ác, tuy Tần Thủy Hoàng đã chết lâu lắm rồi!

[3] Dịch Thừa (驛丞): Chức vụ quản lý các dịch trạm, truyền tải văn thư, tấu chương. Đời Minh – Thanh, mỗi phủ, châu, huyện đều có một người đặc trách quản lý dịch phu chuyển giao công văn, người ấy được gọi là Dịch Thừa.

[4] Ngô Tam Quế, tự là Trường Bạch, hay Trường Bá, làm Tổng Binh nhà Minh. Ngô Tam Quế được giao nhiệm vụ trấn giữ Sơn Hải Quan để chống quân Thanh. Năm Sùng Trinh thứ mười bảy (1644), Sấm Vương Lý Tự Thành làm phản, toan lật đổ nhà Minh, vua Sùng Trinh phong cho Ngô Tam Quế làm Bình Tây Vương, truyền hịch gọi hắn về kinh đô cứu viện. Ngô Tam Quế kéo quân về không kịp, Lý Tự Thành đã chiếm Bắc Kinh, vua Sùng Trinh tự vẫn tại Cảnh Sơn. Lý Tự Thành lên làm vua, đã nhiều lần dụ Tam Quế đầu hàng. Tam Quế do dự, muốn đầu hàng, nhưng khi hay tin Lý Tự Thành chiếm mất ái thiếp Trần Viên Viên, hắn bèn đầu hàng quân Thanh, mở cửa ải dẫn quân Thanh xâm chiếm Trung Hoa. Do công lao bán nước ấy, Ngô Tam Quế được phong làm Bình Tây Vương trấn thủ Vân Nam, cùng với Bình Nam Vương Thượng Khả Hỷ ở Quảng Đông và Tĩnh Nam Vương Cảnh Tinh Trung ở Phước Kiến là ba tên Hán gian làm phên giậu cho nhà Thanh, Thanh Sử thường gọi bọn chúng là Tam Phiên. Do ba người này đều là hàng tướng nhà Minh, đều nắm giữ binh quyền và có thế lực mạnh mẽ, lại thuộc những vùng đất trù phú, cho nên vua Khang Hy nhà Thanh quyết chí dẹp Tam Phiên. E ngại trước những biện pháp quyết liệt của triều đình, Ngô Tam Quế làm phản, chiếm giữ các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông, Phước Kiến, Hồ Nam, Tứ Xuyên v.v… Với chánh sách khôn ngoan, vua Khang Hy đã dần dần xé lẻ thế lực loạn quân, vây bức Ngô Tam Quế phải rút về Vân Nam cố thủ rồi chết ở đó vì tuổi già.

[5] Sách Quốc Ngữ (國語) còn gọi là Xuân Thu Ngoại Truyện, chép về sự tích, ngôn luận của các nhân vật thuộc tám nước Châu, Lỗ, Tề, Tấn, Trịnh, Sở, Ngô, và Việt thời Xuân Thu. Bộ sách này do Tả Khâu Minh biên soạn, có tác dụng giống như bộ Tả Truyện nhằm giải thích những sự kiện được chép trong kinh Xuân Thu. Khi biên soạn bộ Sử Ký, Tư Mã Thiên đã dùng nhiều dữ liệu từ bộ sách này.

[6] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của ông Hoàng Bách Lâm.

[7] Thi Ca La Việt (Śīgalovāda) là con của một vị trưởng giả, dịch theo nghĩa tiếng Hán, sẽ là Thiện Sanh đồng tử. Thi Ca La Việt mỗi sáng tuân theo lời cha dạy mà lễ bái sáu phương, nhưng chẳng hiểu vì sao phải làm như vậy. Đức Phật trông thấy, bèn dạy Thiện Sanh ý nghĩa của việc lễ sáu phương. Chẳng hạn như phương Đông là phải cung kính với cha mẹ… Những lời dạy ấy được chép lại thành bộ Phật Thuyết Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ Kinh.

[8] Viên Thị Thế Phạm là tác phẩm gồm ba quyển do Viên Thái biên soạn vào đời Nam Tống, thoạt đầu đặt tên là Tục Huấn, về sau đổi thành Thế Phạm (khuôn phép cư xử trong cõi đời). Sách ghi lại những lời dạy về cách đối nhân xử thế đúng lý, đúng tình, phù hợp đạo đức, và thuần phong mỹ tục.

[9] Hà Tiên Cô (何仙姑) là một vị trong Bát Tiên của Đạo Giáo. Cô vốn có tên là Hà Quỳnh (có thuyết nói tên là Hà Tú Cô, hoặc Hà Hương), người xứ Linh Lăng, Vĩnh Châu (nay thuộc tỉnh Quảng Đông) vào đời Đường. Thân thế của vị tiên này có nhiều thuyết. Thuyết phổ biến nhất nói Hà Tiên Cô lúc mười sáu tuổi vào núi hái trà, gặp tiên nhân chỉ điểm (có thuyết nói vị tiên ấy chính là Lữ Động Tân), cho ăn đào tiên và bột vân mẫu. Cô bèn phát thệ không lấy chồng, thường vào ở trong hang núi, tu luyện thành tiên. Tranh Đạo Giáo thường vẽ Hà Tiên Cô có hình dạng thiếu nữ xinh đẹp, tay cầm hoa sen, hoặc cầm giỏ đựng hoa (“lam hoa” (籃花) chỉ có nghĩa là đựng hoa. Thế mà có một giáo phái tu tiên tại Việt Nam lại nghiễm nhiên viết trong sách vở của họ là Hà Tiên Cô cầm giỏ đựng loài hoa “lam hoa”). Bát Tiên là Hán Chung Ly, Trương Quả Lão, Lý Thiết Quải, Tào Quốc Cữu, Lữ Động Tân, Hàn Tương Tử, Lam Thái Hòa và Hà Tiên Cô.

[10] Nguyên Hựu (元祐) là niên hiệu thứ nhất của Tống Triết Tông (Triệu Hú) từ năm 1086 đến năm 1094. Trong thời gian này, Triết Tông mới mười tuổi, triều chánh do Cao Thái Hậu quyết đoán. Bà quyết liệt bãi trừ tân pháp của Vương An Thạch, trọng dụng Tư Mã Quang, Phạm Thuần Nhân, Tô Thức v.v… Khi Cao Thái Hậu qua đời, vua lập tức cải nguyên, ngả theo đường lối tân pháp của Vương An Thạch.

[11] Lâu Đông (婁東) là một thị trấn thuộc huyện Thái Thương thuộc tỉnh Giang Tô. Do trấn này nằm ở phía Đông sông Lâu Thủy nên có tên như vậy.

[12] Sa bản (沙板) là những phiến gỗ dẹp, thường làm bằng gỗ sam, có tính chịu lực cao. Người xưa chôn “sa bản” xuống nền đất để giữ cho nền nhà hoặc các công trình xây dựng khỏi bị sụp lở do đất dịch chuyển.

[13] Chánh Lang (正郎) là danh xưng để gọi các Lang Trung làm việc trong Thượng Thư Tỉnh. Lang Trung là các quan chức cao cấp phụ tá cho vị Thượng Thư và Thị Lang. Thượng Thư và Thị Lang là hai quan chức đứng đầu ba cơ cấu hành chánh cao nhất thời ấy (Thượng Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh, và Trung Thư Tỉnh). Thượng Thư tương đương với bộ trưởng và Thị Lang tương đương với thứ trưởng trong hiện thời.

[14] Nguyên văn là “đệ” (娣), có nghĩa là em dâu. Một nghĩa khác là khi xưa, nhiều phụ nữ chung một chồng, người lớn tuổi hơn được gọi là Tự (姒), còn nhỏ hơn gọi là Đệ. Hán Thư chép Hồ Dương Công Chúa tên thật là Lưu Hoàng, là chị cả của Hán Quang Vũ (Lưu Tú). Do vậy, chúng tôi nghĩ chữ Đệ ở đây là do bị chép lầm. Khi cha mất sớm, Lưu Hoàng phải làm lụng cực khổ để nuôi em, nên đối với Lưu Tú, Lưu Hoàng vừa là chị vừa là mẹ. Đến khi Lưu Tú dựng cờ khởi nghĩa, lật đổ Vương Mãng, tái lập nhà Hán, trở thành Hán Quang Vũ Đế, ông đặc biệt ưu đãi bà, đến nỗi bà có những hành vi coi thường luật pháp.

[15] “Nhị phủ” (二府) là hai cơ cấu hành chánh cao cấp đời Tống, gồm Trung Thư Tỉnh và Xu Mật Viện.

[16] Thị Chế (侍制) là từ ngữ viết sai của Đãi Chế (待制), nhưng do thường dùng, cho nên trở thành đúng. Chức vụ Đãi Chế là quan văn có nhiệm vụ “đãi chiếu”, tức là từ đời Hán, những vị đại thần có tài văn chương, thông thạo kinh điển trong triều đình phải luân phiên làm người túc trực đợi mệnh lệnh của vua khi vua cần tham khảo ý kiến, giúp vua soạn thảo chiếu chỉ, hoặc nhuận sắc chiếu chỉ, cũng như giám sát việc thi hành chiếu chỉ. Về sau, trong cơ cấu Hàn Lâm Viện đặt ra một chức quan thường trực là Hàn Lâm Đãi Chiếu để đặc trách công tác này. Chức quan này còn chịu trách nhiệm huấn luyện nhân tài mới cho viện Hàn Lâm, cũng như quản thủ văn từ, sớ chương, biểu tấu. Đến đời Tống, do công việc quản trị hành chánh phức tạp, phải lập ra nhiều “các” (閣), tức là các tiểu tổ văn phòng (hoặc các phòng nghiệp vụ theo cách hiểu hiện thời), mỗi các đều có một vị Đãi Chế để đứng đầu trông coi, như Long Đồ Các Đãi Chế, Thiên Chương Các Đãi Chế v.v… Do ông Lưu từng giữ chức Chánh Tự, tức là một chức vụ tương tự như vai trò Đãi Chế, nên người thời ấy vẫn quen gọi ông Lưu An Thế là Lưu Thị Chế.

[17] Tứ Châu Đại Thánh (泗州大聖) chính là một vị cao Tăng được tôn xưng là “thần tăng”, sống vào đời Đường. Ngài từ Tây Vực sang Trung Hoa, hiệu là Tăng Già đại sư, còn có mỹ hiệu là Tứ Châu Văn Phật. Theo truyền thuyết, trong quá khứ vô lượng kiếp, Ngài đã dùng âm thanh làm Phật sự. Vào những năm đầu trong niên hiệu Long Sóc (661-663), Ngài đến hoằng hóa tại Lạc Dương và Trường An, trụ tích tại chùa Lâm Hoài ở Tứ Châu. Nhận thấy tứ chúng kính ngưỡng đạo hạnh của Ngài, Đường Trung Tông cung thỉnh Ngài về trụ trì chùa Tiến Phước ở Trường An. Ngài đã từng vì nhà vua cầu mưa rất linh nghiệm và lưu lại rất nhiều sự linh nghiệm khác. Do vậy, vua ban tặng tấm biển Phổ Quang Vương Tự cho chùa Lâm Hoài.

[18] Đại Trung Thừa (大中丞) là danh xưng khác để gọi chức Tuần Phủ vào thời Minh – Thanh. Chức Tuần Phủ thuở ấy thường trông coi hai hoặc ba tỉnh.

[19] Kỳ hiệu (旗校) tức là các quan võ trông coi kỳ quân. Kỳ quân là quân đội của các thân vương dưới đời Minh, kể cả quân đội bảo vệ hoàng thành. Chúng thường cấu kết với các thái giám nên rất lộng hành. Hiệu quan ở dưới cấp tướng, được chia thành ba bậc là thượng hiệu, trung hiệu và thiếu hiệu. Tần phủ là vương phủ của Tần Vương. Sau khi Châu Nguyên Chương lập ra nhà Minh, đã phong cho các con làm phiên vương để làm vây cánh ở những vùng xa. Con thứ hai của Châu Nguyên Chương là Châu Sảng được phong làm Tần Vương, đứng đầu các phiên vương, trông coi tỉnh Thiểm Tây, đặt vương phủ tại Tây An. Quyền hạn của Tần Vương khá lớn, ông ta có thể điều động lính từ các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ. Do Thành Hóa (1465-1487) là niên hiệu của Minh Hiến Tông, cho nên Tần Vương ở đây không phải là Châu Sảng, mà chỉ là cháu chắt của ông ta, vì tước vị Tần Vương được truyền đến mười một đời.

[20] Cẩm Y Vệ gọi đầy đủ là Cẩm Y Vệ Chỉ Huy Sứ Ty (錦衣衛指揮使司), là một cơ quan do Minh Thái Tổ đặt ra có chức trách như một cơ cấu an ninh mật vụ riêng do nhà vua trực tiếp chỉ huy. Cơ quan này có nhiệm vụ trinh sát, dò xét, tìm ra những quan chức bất trung, cũng như phát hiện những âm mưu chống đối triều đình. Cẩm Y Vệ có quyền bắt người, tra khảo và giam giữ. Những viên mật thám thân tín nhất của nhà vua thuộc Cẩm Y Vệ được gọi là Kiểm Hiệu. Đứng đầu cơ quan này là Tả Hữu Đô Đốc, phụ tá có Đô Đốc Đồng Tri, Đô Đốc Kiểm Sự, Đô Chỉ Huy Sứ và Đô Chỉ Huy Sứ Kiểm Sự.

[21] Nội thần (內臣) là các quan viên trực thuộc quyền sử dụng của hoàng đế, không do Tể Tướng cai quản. Thông thường là các quan viên giữ chức vụ bí thư, thái giám hoặc người đứng đầu, trưởng quan thị vệ v.v…

[22] Phân Thủ (分守) là danh xưng để gọi chung các chức vụ Án Sát Sứ và Án Sát Phân Ty (Giám Ty) vào thời Minh.

[23] Giáo Dụ (教諭) là chức quan trông coi về việc học vấn tại một huyện, đồng thời trông nom việc tế tự tại Văn Miếu.

[24] Phủ viện (撫院): Tiếng gọi tôn xưng quan Tuần Phủ.

[25] Huấn Đạo (訓導) là chức trợ tá của các chức quan trông coi việc học. Theo quy chế thời Minh – Thanh, người trông coi việc học tại một phủ gọi là Giáo Thụ (教授), tại cấp châu thì gọi là Học Chánh (學正), còn cấp huyện là Giáo Dụ (教諭). Mỗi cấp này đều có nhiều trợ tá, các trợ tá đều được gọi chung là Huấn Đạo.

[26] Minh Cảnh Đế (Minh Đại Tông Châu Kỳ Ngọc) chính là em trai của Minh Anh Tông (Châu Kỳ Trấn). Lúc Anh Tông lên ngôi, Châu Kỳ Ngọc được phong làm Thành Vương. Năm Chánh Thống 14, Minh Anh Tông thân chinh đánh giặc Mông Cổ Ngõa Lạt (Oirats), bị bắt làm tù binh tại Thổ Mộc Bảo. Hoàng Thái Hậu bèn lập Châu Kỳ Ngọc lên làm Giám Quốc. Về sau, nghe lời khuyến cáo, Châu Kỳ Ngọc bèn xưng đế, tôn Minh Anh Tông làm Thái Thượng Hoàng. Do trong bảy năm trị vì, Minh Đại Tông chỉ dùng niên hiệu là Cảnh Thái, nên thường được gọi là Cảnh Thái Đế hay gọi tắt là Cảnh Đế. Khi Anh Tông được quân Ngõa Lạt trả về, Anh Tông đã bị Đại Tông quản thúc tại Diên An Cung. Trong thời gian Minh Đại Tông cai trị, dưới sự phù tá của Vu Khiêm, nhà vua đã đặc biệt chú ý phát triển kinh tế, tăng cường quân đội. Khi Minh Đại Tông bệnh nặng, không thể lâm triều, đại thần Thạch Hanh cùng với các ông Từ Hữu Trinh, Dương Thiện và Tào Cát Tường đã cùng nhau mưu sự, đưa Anh Tông lên ngôi trở lại. Đại Tông bị giam lỏng trong Tây Uyển, một tháng sau thì chết.

[27] Theo Thọ Khang Bảo Giám, vào thời Tống Đoan Tông, quân Nguyên tấn công Thai Châu, vợ một người dân ở Lâm Hải là Vương thị rất đẹp, bị bọn giặc bắt đem vào trong quân doanh. Gã thiên phu trưởng Mông Cổ giết chết bố mẹ chồng và chồng cô ta, muốn ăn nằm với cô. Cô ta thà chết chẳng thuận theo, giả vờ nói: “Xin cho tôi để tang bố mẹ chồng và chồng một tháng rồi mới có thể hầu hạ bậc quân tử”. Gã thiên phu trưởng thấy cô không đòi chết nữa, bèn chấp thuận lời thỉnh cầu, nhưng vẫn sai nữ tù nhân canh giữ cô ta. Hôm quân Nguyên rút lui, hắn mang theo cô ta. Khi đi qua rặng Thanh Phong ở huyện Sơ, Vương thị ngửa mặt lên trời than: “Hôm nay, ta đã có chỗ để chết rồi”. Liền cắn ngón tay, [lấy máu] viết thơ lên đá, gieo mình vào vách đá mà chết. Chuyện đã cách nay tám, chín mươi năm, máu trên đá vẫn rõ nét như mới, chẳng bị mưa gió xóa nhòa. Bài thơ của ông Dương mang ý nghĩa hủy nhục, khinh bạc rất lớn, chê trách Vương Thị đã chịu để cho viên tướng Mông Cổ kèm cặp trên ngựa dẫn đi cả trăm dặm, đến cuối cùng mới viết huyết thư liều thân, sao không tiếp tục sống để hưởng lạc thú giống như Lưu Nguyễn vào chốn Thiên Thai. Dẫu có liều thân thì thân đã nhơ uế, đâu có trong sạch như nước dòng Hán Thủy ở Ba Lăng (Ba Lăng là tên gọi cũ của Nhạc Dương).

[28] Hậu Ngụy (386-534) còn gọi là Thác Bạt Ngụy, Bắc Ngụy, hay Nguyên Ngụy để phân biệt với nhà Tào Ngụy của Tào Phi (con trai Tào Tháo). Triều đại này do Thác Bạt Khuê người Tiên Ty sáng lập, lãnh thổ gồm trọn miền Bắc Trung Hoa, kinh đô là Lạc Dương và Trường An.

[29] Đô Lại (都吏) còn gọi là Đốc Bưu (督郵), là chức quan phụ tá Thái Thú (người đứng đầu một quận), đặc trách giám sát quan lại có xứng đáng với chức vụ hay không, kiêm nhiệm chưởng quản những vấn đề về dịch trạm (chuyển giao công văn), hình ngục. Về sau, do hành chánh phức tạp, mỗi quận đều có nhiều viên Đô Lại để coi một phân khu trong quận. Các chức vị phụ tá của Đô Lại bao gồm Đốc Bưu Duyện, Đốc Bưu Thư Duyện v.v…

[30] Trường Khánh là niên hiệu của Đường Mục Tông (Lý Hựu).

[31] Dực Thánh Chân Quân có danh hiệu đầy đủ là Dực Thánh Bảo Đức Chân Quân. Theo Đạo Giáo, trong niên hiệu Kiến Long đời Tống Thái Tổ, một người dân ở huyện Châu Chí, thuộc phủ Phụng Tường, tên là Trương Thủ Chân vào núi Chung Nam, gặp một vị tiên tự xưng là Cao Thiên Đại Thánh Ngọc Đế Phụ Thần vâng lệnh Ngọc Đế phù tá nhà Tống, xưng danh là Hắc Sát Thần. Vị thần ấy dạy ông ta cách lập đàn cầu khẩn. Sau khi lên ngôi, Tống Thái Tổ đã sai lập Thượng Thanh Thái Bình Cung để thờ vị thần ấy, gia phong tước hiệu là Dực Thánh Chân Quân.  

[32] Đề Hình (提刑) gọi đầy đủ là Đề Điểm Hình Ngục Công Sự, là chức quan được đặt ra từ thời Bắc Tống, đặc trách tư pháp tại các châu, kiêm nhiệm giám sát và chưởng quản nông nghiệp, tầm tang. Dinh thự của chức quan này thường được gọi là Hiến Ty. Đến đời Minh – Thanh, chức vụ này được đổi thành Đề Hình Án Sát Sứ.

[33] Nguyên Tinh (元精) theo nghĩa gốc chính là tinh khí của trời đất. Cổ nhân quan niệm: Con người do bẩm thụ nguyên khí ấy mà được sanh thành như Vương Sung đã viết trong bộ Luận Hành: “Thiên bẩm nguyên khí, nhân thọ nguyên tinh” (Nguyên khí vốn sẵn có trong trời đất được con người lãnh thọ mà thành nguyên tinh).

[34] Tam Tiêu (三焦) tuy được xếp vào một trong ngũ tạng, nhưng thật ra nó gồm có ba phần là Thượng Tiêu, Trung Tiêu, và Hạ Tiêu. Thượng Tiêu là phần ngực ở phía trên hoành cách mô (thoraci diaphgram), tức là phần bao gồm tim và phổi. Trung Tiêu là phần dưới hoành cách mô cho đến phía trên phần eo, bao gồm tỳ (tụy tạng) và bao tử. Hạ Tiêu là phần còn lại bao gồm thận, bàng quang, gan, ruột v.v…

[35] Mạng Môn (命門): Theo Nạn Kinh, chữ Mạng Môn chỉ quả thận bên phải. Trong Nạn Kinh, phần Tam Thập Lục Nạn có chép: “Tả giả vi thận, hữu giả vi Mạng Môn. Mạng Môn giả chư thần tinh chi sở hàm, nguyên khí chi sở hệ. Cố nam dĩ tàng tinh, nữ tử dĩ hệ bào” (Bên trái gọi là thận, bên phải là Mạng Môn. Mạng Môn là chỗ chứa đựng Thần và Tinh, duy trì nguyên khí. Vì thế, đàn ông thì phải chứa tinh (đừng phung phí tinh), đàn bà phải giữ cẩn thận tử cung).

[36] Vĩ Lư (尾閭, còn có tên gọi là Trường Cường) là một huyệt đạo nằm ở xương cụt, phía trên hậu môn. Vĩ Lư có nghĩa gốc là “chỗ quy tụ của các dòng nước biển”. Theo Trung Y, huyệt Vĩ Lư có tác dụng khống chế hai mạch Nhâm và Đốc.

[37] Câu này có nghĩa là mỗi lần hành dâm, tinh, khí, thần đều bị hao tán, tức là nguyên tinh trong hai mạch Nhâm và Đốc cũng bị hao tổn. Nếu phóng túng trong chuyện ân ái, tinh, khí, thần bị hao tán đến nỗi không kịp sanh ra để bù đắp, giống như nước biển bị cạn kiệt.

[38] Hoàng Đình (黃庭) thật ra là hai bộ kinh trọng yếu của Đạo Giáo, tức Thái Thượng Hoàng Đình Nội Cảnh Ngọc Kinh và Thái Thượng Hoàng Đình Ngoại Cảnh Ngọc Kinh. Hai kinh này xuất hiện vào thời Ngụy – Tấn, được xếp vào phần Động Huyền trong Chánh Thống Đạo Tạng. Nội dung chỉ cách tu luyện tinh, khí, thần. Nội Cảnh được phái Thượng Thanh rất coi trọng, tôn xưng kinh này là kinh điển căn bản để tu luyện nội đan. Theo đa số các nhà chú giải, Hoàng Đình có nghĩa là Trung Ương; nếu hiểu theo cơ thể, thì mỗi bộ vị đều có một vị thần cư trú. Hoàng Đình là nơi cư trú của vị thần chủ tể, trung ương, còn Hoàng Đình cụ thể ở đâu thì mỗi nhà có mỗi thuyết khác nhau. Do là kinh điển căn bản của cách tu nội đan, nên kinh Hoàng Đình rất được Đạo gia coi trọng. Thậm chí có người tin tưởng chỉ cần tụng kinh Hoàng Đình thì cũng có thể thành tiên. Do vậy, trong các bộ tiểu thuyết cổ của Trung Hoa, mang nặng tánh chất thần thoại, hay chép những chuyện như cây tre, cây thông, thậm chí những cái mõ gỗ, những cái linh bằng đồng lâu đời, do nghe đạo sĩ tụng kinh Hoàng Đình bao nhiêu năm bèn biến thành yêu quái!

[39] Văn Tuyển (文選) có tên gọi đầy đủ là Chiêu Minh Văn Tuyển, là một bộ sách tổng tập về thơ văn của Trung Hoa cổ đại. Bộ sách này do Chiêu Minh Thái Tử Tiêu Thống (con trai Lương Vũ Đế) đã lãnh đạo các văn nhân hữu danh thuở ấy biên soạn. Tác phẩm này gồm có sáu mươi quyển, bao gồm những tác phẩm nổi tiếng tính từ thời cổ cho đến thuở ấy, bao gồm đủ thể loại phú, thơ, tao (chẳng hạn như Ly Tao), chiếu, sách, lệnh, giáo, văn, biểu, thư, khải v.v… So với Ngũ Kinh, Văn Tuyển được người đọc sách hâm mộ đến nỗi người đời Tống còn nói: “Văn Tuyển lạn, Tú Tài bán” (Văn Tuyển hư nát thì tú tài chỉ còn một nửa). Tác phẩm này được chú giải rất nhiều.

[40] Bành Tổ (彭祖) tên thật là Bành Tiễn, là một người theo truyền thuyết sống rất thọ. Đạo Giáo coi ông là hóa thân của Nam Cực Tiên Ông. Tương truyền, ông sống đến tám trăm tuổi. Ông là “lai tôn” (cháu đời thứ năm, ta thường gọi là “chít”) của vua Chuyên Húc. Cha ông là Lục Chung, con trưởng của Ngô Hồi, mẹ là Nữ Khoái (em của thủ lãnh bộ tộc Quỷ Phương). Do Bành Tổ khéo nấu canh gà được vua Nghiêu ưa thích, nên Lục Chung được phong ở đất Đại Bành; do vậy, con cháu đều mang họ Bành. Bành Tổ từng làm quan cho các triều đại Hạ, Thương, và Châu.

[41] Tố Nữ (素女) tức là Cửu Thiên Tố Nữ, còn gọi là Bạch Thủy Tố Nữ, là một vị nữ thần trong truyền thuyết của Trung Hoa cổ đại, sống cùng thời với Hoàng Đế. Bà giỏi âm nhạc, biết rành về đạo âm dương, tinh thông phòng trung thuật. Bà cùng với Huyền Nữ (Cửu Thiên Huyền Nữ) làm thầy của Hoàng Đế. Tương truyền bộ Tố Nữ Kinh là những lời dạy bảo của bà dành cho Hoàng Đế về phòng trung thuật. Có một truyền thuyết về đàn cầm (cổ cầm) như sau: Vua Thần Nông chế ra đàn cầm có năm dây. Hậu nhân cải tiến dần dần, biến thành đàn cổ cầm có năm mươi dây. Tố Nữ giỏi đàn cầm, nhưng những khúc nhạc của bà quá bi thiết, Hoàng Đế nghe rồi buồn bực, bèn chặt cây cổ cầm của Tố Nữ làm đôi; do vậy, đàn cổ cầm chỉ còn hai mươi lăm dây.

[42] Tiết Thôi (節推) là gọi tắt của chức Tiết Độ Sứ Thôi Quan, tức vị quan phụ tá của Tiết Độ Sứ, chuyên lo về thẩm vấn, tra án, quản trị giam giữ, lao tù.

[43] Theo Đạo Giáo, cung điện của vua Diêm La (Diêm Vương) được gọi là Sâm La điện (森羅殿). Chữ Sâm La thường bị đọc trại thành Sum La.

[44] Ngũ Đế là năm vị Đại Đế trong Đạo Giáo. Những vị này đã được thờ phụng từ đời Châu. Năm vị ấy chính là Đông Phương Thanh Đế Linh Oai Ngưỡng, Nam Phương Xích Đế Xích Tiêu Nộ, Trung Ương Hoàng Đế Hàm Xu Nữu, Tây Phương Bạch Đế Bạch Chiêu Cự, và Bắc Phương Hắc Đế Diệp Quang Kỷ.

[45] Ngũ Hư (五虛) là năm chứng bệnh, thường gọi là năm hư chứng do tinh khí tại ngũ tạng bị hư tổn. Theo sách Tố Vấn, thiên Ngọc Cơ Chân Tạng Luận, mạch nhỏ yếu, da lạnh, thở yếu ớt, tiết tinh dầm dề đồng thời với thổ tả, chẳng ăn uống được thì gọi là Ngũ Hư. Hoặc có thể hiểu đơn giản hơn, Ngũ Hư là tim, phổi, gan, tỳ, thận đều bị hư tổn. Ngũ Hư không chữa trị thì sẽ chết.

[46] Lục Hao (六耗) là ngày có thể bị cảm nhiễm bởi sáu thứ bệnh do các yếu tố âm, dương, sáng, tối, gió, mưa theo Đông Y.

[47] Thiên đản (天誕) là sinh nhật của Ngọc Hoàng Thượng Đế.

[48] Tam Nguyên (三元) còn gọi là Tam Nguyên Đại Đế, hoặc Tam Quan Đại Đế, tức Thượng Nguyên Thiên Quan Tứ Phước, Trung Nguyên Địa Quan Xá Tội, và Hạ Nguyên Thủy Quan Giải Ách. Ngày vía của họ tương ứng với ba ngày Rằm lớn trong năm (tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười).

[49] Lưu Chân Quân, còn gọi là Lưu Chân Nhân. Ông họ Lưu, tên Tư Kính. Thuở trẻ, thích uống rượu, chuộng thuật trường sanh. Đến lớn, ông sang chơi Tứ Xuyên, được Linh Bảo Trần Quân truyền dạy bí quyết luyện đan, thực hành phép tu Hỗn Nguyên; sau đấy, vào núi Long Sơn làm đạo sĩ, có đạo hiệu là Chân Không Tử.

[50] Nguyên Đế ở đây chính là Huyền Thiên Thượng Đế, tức Huyền Vũ Đại Đế, hoặc gọi đầy đủ sẽ là Bắc Cực Trấn Thiên Chân Vũ Huyền Thiên Thượng Đế Ngọc Hư Tổ Sư Kim Khuyết Hóa Thân Đãng Ma Vĩnh Trấn Chung Kiếp Tế Khổ Thiên Tôn. Vị này còn được gọi là Nguyên Thiên Thượng Đế, Khai Thiên Thượng Đế, hoặc Bắc Cực Hựu Thánh Chân Quân, hoặc Hắc Đế, là thần thống trị phương Bắc theo Đạo Giáo, tương ứng với Huyền Vũ trong tứ phương và là hóa thân của Bắc Cực Tinh. Vị này được thờ phụng như thần bảo hộ thành Thăng Long (Hà Nội), và nơi thờ Ngài được gọi là đền Trấn Vũ, hay gọi nôm na là Quán Thánh, và đã bị đọc trại thành đền Quan Thánh.

[51] Theo ông Hoàng Bách Lâm, “ác thai” là thai nhi chết trong bụng mẹ, hoặc bị dị tật nặng nề, có sanh ra cũng khó nuôi sống được.

[52] Hạo Thiên Thượng Đế là danh xưng khác của Ngọc Hoàng Thượng Đế (còn gọi là Thiên Hoàng Đại Đế, Thái Nhất, Hạo Thiên Huyền Khung Thượng Đế, Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Chí Tôn Tự Nhiên Diệu Hữu Di La Chí Chân Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân Giả Ngọc Hoàng Xá Tội Tứ Phước Đại Thiên Tôn Huyền Khung Cao Thượng Đế), là vị thần tối cao trong tam giới, nhưng vẫn thấp hơn Tam Thanh (Ngọc Thanh, Thái Thanh và Thượng Thanh). Đạo Giáo coi vị này là một vị tôn thần do Tam Thanh ứng hóa.

[53] Nguyên Đàn (元壇) chính là Triệu Huyền Đàn, là vị Vũ Tài Thần trong Đạo Giáo. Ông còn được gọi là Triệu Nguyên Soái (Triệu Công Minh).

[54] Vị này là thần cai quản Trung Nhạc tức Tung Sơn, tôn hiệu đầy đủ là Trung Nhạc Tung Sơn Trung Thiên Sùng Thánh Đại Đế, là một vị trong Ngũ Nhạc Đại Đế, chủ trì khảo hạch thiện ác.

[55] Vị này có tôn hiệu là Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Tề Nhân Thánh Đại Đế, đứng đầu năm vị Ngũ Nhạc Đại Đế, chưởng quản sự sống chết, sang hèn của người trong cõi trần, đồng thời là cấp trên của Thập Điện Diêm Vương.

[56] Thương Hiệt (蒼頡) là người được coi là đã sáng tạo ra chữ Hán. Đạo Giáo tôn xưng ông là Thương Hiệt Tiên Sư, Chế Tự Tiên Sư, Chế Tự Tiên Thánh, hoặc Thương Hiệt Chí Thánh. Tương truyền, ông có đến bốn con mắt. Ông làm quan Hữu Sử của Hoàng Đế.

[57] Địa Lạp là một trong năm ngày Lạp của Đạo Giáo. Theo sách Vân Cấp Thất Thiêm, Đạo Giáo định ra năm ngày cúng tế cầu phước trong một năm, gọi là Ngũ Lạp, bao gồm Thiên Lạp, Địa Lạp, Đạo Đức Lạp, Dân Tuế Lạp và Hầu Vương Lạp. Thiên Lạp là ngày mồng Một tháng Giêng.

[58] Lôi Tổ là cách gọi tắt của dân gian đối với vị thần Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn trong Đạo Giáo. Vị này chưởng quản Ngũ Lôi (Thiên Lôi, Địa Lôi, Thủy Lôi, Thần Lôi, và Xã Lôi). Thuộc hạ dưới quyền là Cửu Thiên Lôi Môn Sứ Giả. Về nguồn gốc của vị này, có nhiều thuyết, phổ biến nhất là thuyết nói vị này do Trường Sanh Đại Đế hóa thân, thuyết thứ hai nói vị này là hóa thân của Hoàng Đế, nhằm trấn áp yêu ma, chưởng quản sấm sét.

[59] Theo Đạo Giáo, có tất cả sáu mươi vị thần lần lượt chưởng quản nhân gian mỗi năm. Sáu mươi vị thần ấy tương ứng với chu kỳ sáu mươi năm của một Hoa Giáp (tức là mười Thiên Can phối hợp với mười hai Địa Chi thành sáu mươi năm). Tùy theo vũ khí hoặc dụng cụ cầm trong tay của mỗi vị thần ấy (thường gọi là Trị Niên Thái Tuế hoặc Tuế Quân) mà người ta có thể dự đoán tình hình trong năm ấy. Chẳng hạn như năm Mậu Thìn, Thái Tuế là Triệu Đạt đại tướng quân, mang hình rồng, hai tay cầm rồng; năm Quý Dậu, Thái Tuế là Khang Chí đại tướng quân, có hình gà, tay cầm cờ lệnh v.v…

[60] Tăng Phước Tài Thần còn gọi là Tăng Phước Chân Quân, hoặc Tăng Phước Tướng Công. Theo Đạo Giáo, vào thời Bắc Ngụy, tại núi Ngũ Tùng thuộc Truy Châu, quan huyện lệnh Khúc Lương là Lý Quỷ Tổ liêm chánh, đạo đức, yêu dân như con, thường bỏ hết bổng lộc để thí xả nhân dân. Sau khi chết, ông được dân chúng tôn thờ thành thần. Về sau, ông trở thành thủ hạ của Đông Nhạc Đế Quân đặc trách xét đoán công và lỗi của người mới mất. Cho đến đời Đường, ông được sắc phong là Tài Bạch Chân Quân, rồi được phong là Thần Quân Tăng Phước Tướng Công. Đến đời Nguyên lại được phong là Phước Thiện Bình Thí Chân Quân.

[61] Vị này có tên gọi đầy đủ là Bắc Nhạc Hằng Sơn An Thiên Huyền Thánh Đại Đế, là thần núi của Hằng Sơn, trông coi sông, ngòi, hồ, suối, biển cả, cũng như các loài hổ, báo, rắn rết, độc thú v.v…

[62] Phong tục thờ phụng này thịnh hành tại phương Nam Trung Hoa, thường gọi là Cửu Hoàng Thắng Hội. Cửu Hoàng (còn gọi là Cửu Vương Gia, Cửu Vương) là chín vị thần tinh tú. Có nhiều thuyết, phổ biến nhất là thuyết cho rằng: Cửu Hoàng là chín vị tinh quân thuộc về tinh tòa Bắc Đẩu, tức Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, cộng thêm Tả Phù và Hữu Bật. Thông thường, Đạo Giáo tin chín vị tinh quân ấy do Đẩu Mẫu sanh ra.

[63] Kim Long Tứ Đại Vương vừa là thần núi Kim Long tại tỉnh Chiết Giang vừa là thủy thần tại khu Tào Vận tỉnh ấy. Tương truyền, ông là ẩn sĩ Tạ Tự sống vào thời Tống. Khi nhà Nam Tống bị diệt, ông đã để lại di huấn: “Sống đã chẳng thể báo đền đất nước, chết sẽ cầu khẩn Thượng Đế” rồi nhảy xuống sông tự sát, nên được tôn thờ thành thần. Sau khi chết, thân thể trôi ngược dòng, tấp vào chân núi Kim Long, nên được thờ làm thần núi tại đó. Vì ông là con thứ tư trong gia đình, nên gọi là Kim Long Tứ Đại Vương.

[64] Nam Nhạc Đại Đế có tên gọi đầy đủ là Nam Nhạc Hành Sơn Tư Thiên Chiêu Thánh Đại Đế, là thần núi Hành Sơn.

[65] Thiên Do Thượng Đế là một trong Bắc Cực Tứ Thánh của Đạo Giáo, tức là bốn vị chân quân ở phương Bắc. Bắc Cực Tứ Thánh bao gồm Thiên Bồng Đại Nguyên Soái Chân Quân, Thiên Do Phó Nguyên Soái Chân Quân, Dực Thánh Bảo Đức Trừ Khánh Chân Quân, và Chân Vũ Linh Ứng Hựu Thánh Chân Quân. Bốn vị này đều là thuộc hạ của Bắc Đế (Huyền Thiên Thượng Đế).

[66] Tam Phục là ba thời kỳ được coi là nóng nhất trong năm. Theo Âm lịch, từ sau tiết Hạ Chí cho đến ngày Canh thứ ba sẽ là Sơ Phục; ngày Canh thứ tư gọi là Trung Phục, từ sau Lập Thu cho đến ngày Canh thứ nhất là Hạ Phục.

[67] Thái Nguyên Độ tên thật là Thái Biện, là em trai của gian thần Thái Kinh (tể tướng nhà Tống), là con rể của Vương An Thạch. Về sau, hắn bất hòa với Thái Kinh, bị Thái Kinh hủy báng, gièm pha, vu cáo, phải bị biếm làm tri huyện tại Hà Nam. Do giao du thân thiết với yêu đạo Trương Hoài Tố, hắn bị trị tội, giáng chức.

[68] Trương Giác (?-184) là người ở quận Cự Lộc (nay là huyện Ninh Tấn, tỉnh Hà Nam), thủ lãnh của Thái Bình Đạo đời Đông Hán, và là chủ soái của giặc Hoàng Cân. Hắn tự xưng là vào núi hái thuốc, được Nam Hoa Lão Tiên truyền trao thiên thư Thái Bình Yếu Thuật. Thật ra sách này chỉ là bộ sách Thái Bình Thanh Lãnh Thư do Can Cát biên soạn, trá xưng được thần tiên trao tặng, chủ yếu là dùng phù chú để chữa bệnh. Đệ tử của Can Cát là Cung Sùng và Tương Khải đã từng dâng sách này lên hoàng đế, nhưng không được coi trọng. Khi sách lọt vào tay Trương Giác, hắn bèn khéo léo tuyên truyền để sáng lập Thái Bình Đạo, tự xưng là Đại Hiền Lương Sư. Nhân dịp một căn bệnh dịch lớn nổ ra vào tháng Giêng năm Trung Bình nguyên niên (184), Trương Giác chữa nhiều người lành bệnh, nên dân chúng tin theo, gọi hắn là thần tiên sống. Do đó, Thái Bình Đạo truyền khắp các vùng Thanh Châu, Từ Châu, Ký Châu, Kinh Châu v.v… tín chúng lên tới mấy chục vạn người. Hắn chia tín đồ thành ba mươi sáu phương, mỗi phương lập ra một thủ lãnh, tuyên bố “trời xanh đã chết, trời vàng đang thành lập, vào năm Giáp Tý, thiên hạ đại cát”. Lại truyền tín đồ dùng đất sét trắng viết hai chữ Giáp Tý lên cửa. Sau đó, cùng năm ấy, Trương Giác cùng với em là Trương Bảo, Trương Lương dựng cờ khởi nghĩa. Do loạn quân quấn khăn vàng nên Sử gọi là giặc Hoàng Cân. Không lâu sau, Trương Giác bị bệnh chết, Trương Bảo và Trương Lương chiến bại, đều tử trận. Loạn Hoàng Cân nhanh chóng tan rã.

[69] Tôn Ân tự là Linh Tú, quê ở quận Lang Gia, đệ tử của Ngũ Đấu Mễ Đạo, tôn Đỗ Tử Cung làm thầy, về sau kế vị thành giáo chủ của Ngũ Đấu Mễ Đạo. Hắn cùng chú là Tôn Thái dấy binh phản Tấn, ba lần tấn công vùng Tam Ngô, nhưng đều bị triều đình đánh bại phải chạy ra hải đảo ẩn náu. Năm Long An thứ năm (401), hắn lại kéo quân về tấn công Hải Diêm, nhưng bị Lưu Dụ đánh bại. Hắn chuyển hướng tấn công vùng Hỗ Độc, thừa cơ uy hiếp kinh đô Kiến Khang. Quân Đông Tấn dưới sự chỉ huy của Tư Mã Nguyên Hiển phản công mạnh mẽ, lại thêm bị Lưu Dụ tấn công, Tôn Ân dần dần thất thế, phải rút chạy về hải đảo. Đến năm Nguyên Hưng nguyên niên (402), do quyền thần Hoàn Huyền giết cha con Tư Mã Đạo Tử, giành được quyền hành tuyệt đối trong triều, Tôn Ân cho là thời cơ đã đến, bèn trở về đất liền, lại thất bại, thế cùng phải nhảy xuống biển tự trầm. Dư đảng tôn em rể của hắn là Lô Tuần lên làm thủ lĩnh, đánh nhau dây dưa mãi cho đến khi bị Lưu Dụ dẹp yên vào năm 411. Lô Tuần phải tự sát.

[70] Hoàng Bạch là từ ngữ chỉ thuật luyện đan dược, điểm hóa sắt thành vàng bạc v.v… Theo Nhị Khắc Phách Án Kinh Kỳ quyển mười tám: “Vì sao gọi là thuật Hoàng Bạch? Bọn phương sĩ luyện đan dụ người khác [bỏ tiền mua vật liệu cho họ] luyện đan, nói là chúng đã dưỡng thành Hoàng Nha, lại sanh ra Bạch Tuyết, dùng loại đan dược ấy để điểm hóa thì những loại như thủy ngân, chì sẽ biến thành hoàng kim, bạch ngân. Vì thế, thuật luyện đan được gọi là thuật Hoàng Bạch”.

[71] Quảng Lăng nay là thành phố Dương Châu thuộc tỉnh Giang Tô, còn Tây Khê thuộc phía Đông thành phố Đông Đài tỉnh Giang Tô.

[72] Nguyên văn “nam hóa điếm”, ta thường gọi là tiệm chạp phô (tức chữ “tạp hóa” mô phỏng cách phát âm trong tiếng Quảng Đông). Sở dĩ gọi là Nam Hóa vì thoạt đầu các sản phẩm bán trong các tiệm ấy đa số là sản phẩm của những vùng phía Nam Trường Giang. Về sau, hễ tiệm nào bán đủ thứ mặt hàng linh tinh đều gọi là Nam Hóa Điếm, hoặc Tạp Hóa Điếm.

[73] Ô mộc (Ebony) là một loại cứng, lõi đen bóng, thuộc họ Thị (Diospyros). Loại gỗ này rất nặng và bền, thả xuống nước sẽ chìm lỉm, nên đôi khi còn gọi là Trầm Mộc. Gỗ mun của ta thuộc loại này.

[74] Chế Trí Sứ (制置使) là chức quan trông coi việc binh bị tại các lộ (tỉnh) thời Tống, đa số thường kiêm thêm chức An Phủ Sứ.

[75] “Thập ác bất xá” bao gồm mười điều đại ác:

  1. Mưu phản (謀反): Có âm mưu làm phản, đảo chánh.
  2. Mưu đại nghịch (謀大逆): Mưu tính hủy hoại tông miếu, sơn lăng (lăng mộ của vua và hoàng tộc), cung điện.
  3. Mưu bội quốc tùng ngụy (謀背國從僞): Âm mưu phản bội quốc gia, làm tay sai cho ngoại bang.
  4. Ác nghịch (惡逆): Đánh đập, mưu sát cha mẹ, giết bác, chú, bác dâu, thím, ông bà, anh em của ông bà.
  5. Bất đạo (不道): Giết ba người chẳng đáng tội chết trong một gia đình, dùng những hình thức giết chóc tàn nhẫn như chặt tay chân, bùa chú, hoặc độc trùng để giết hại.
  6. Đại bất cung (大不恭): Trộm cắp đồ vật những vật dùng để cúng tế trong tông miếu của vua, tự tiện sử dụng những vật dụng như xe cộ, quần áo của vua, trộm cắp, hoặc ngụy tạo những đồ vật quý báu của hoàng đế, chế thuốc cho vua dùng không đúng toa, đúng liều, không bào chế thuốc thang đúng cách, nấu ăn cho vua mà phạm phải những món cấm kỵ, làm thuyền bè, xe cộ cho vua ngồi không kiên cố.
  7. Bất hiếu (不孝): Chửi bới, nói hỗn với cha mẹ, ông bà, chẳng phụng dưỡng chu đáo. Tội này còn bao gồm trường hợp cha mẹ hoặc ông bà vừa mới chết, mà con cháu đã làm đám cưới, đám hỏi, hoặc vui chơi, tiệc tùng, ca xướng, hoặc là có tang mà giấu diếm, lén lút chôn cất, hoặc vì mục đích nào khác bèn nói dối là ông bà, cha mẹ đều đã chết cả rồi.
  8. Bất mục (不睦): Mưu sát, đánh đập thân nhân, thưa kiện chồng, hoặc các bậc tôn trưởng.
  9. Bất nghĩa (不義): Giết hại trưởng quan ở địa phương như huyện lệnh, tri phủ, thứ sử… Cũng như giết chóc, làm hại thầy dạy, hoặc thuộc hạ giết cấp trên, hoặc chồng chết mà vợ giấu diếm không làm đám tang.
  10. Nội loạn (内亂): Gian dâm với nàng hầu, thê thiếp của trưởng bối trong nhà.

[76] Quảng Tế (廣濟) là kho chứa thóc của triều đình để dự trữ khi mất mùa sẽ bán ra với giá rẻ hoặc phát chẩn cho người nghèo.

[77] Khố dịch (庫役) là những người trông coi kho, chia thành các cấp bậc khố tử, thương tử, đấu tử, xứng tử. Họ trông coi việc nhập và xuất kho sao cho đúng số lượng, ghi chép hóa đơn, phiếu nhập xuất, biên lai thu thuế (thường gọi là “hộ sao”, 戶鈔).

[78] Phủ Phán ở đây là chức Thông Phán (通判) ở cấp phủ. Từ thời Bắc Tống trở đi, nhằm tăng cường sự kiểm soát, khống chế các quan chức địa phương, bên cạnh các quan đứng đầu các châu, nhà Tống đặt ra chức Thông Phán Mỗ Châu Quân Châu Sự, trong đó Mỗ là tên gọi của một địa danh nào đó. Chẳng hạn, Thông Phán Hàng Châu Quân Châu Sự. Thế tục thường gọi tắt chức vụ này là Thông Phán, Thông Châu, Giám Quận, Quận Tá, Châu Tá, Trị Trung, Biệt Hạ, Quận Thừa v.v… có nhiệm vụ giám sát các quan trên, cũng như trông coi về lương thực, vận chuyển gạo, muối, khai thác mỏ v.v… cũng như giám sát một phần quân sự. Từ thời Nguyên trở đi, triều đình đặt thêm chức Thông Phán tại các phủ. Đến đời Minh, dưới quyền trưởng quan mỗi quận, huyện đều có chức Thông Phán.

[79] Đây là một thành ngữ xuất phát từ một điển tích trong chương Thư Hư sách Luận Hành của Vương Sung đời Hán. Theo đó, Quý Tử ở Diên Lăng đi chơi, thấy trên đường có một túi vàng. Lúc ấy, đang tiết tháng Năm, khí trời nóng bức oi nồng, trên đường có một người mặc áo rất dày, đội củi, chắc là tiều phu. Quý Tử bèn gọi người ấy lại, bảo hãy nhặt vàng ở dưới đất lên đem về mà dùng. Người ấy trừng mắt, phẩy tay nói: “Ngươi sao dám coi mình là bậc cao khiết, coi rẻ người khác? Tướng mạo của ngươi trông đàng hoàng, cớ sao ăn nói tục tằn làm vậy? Ta đang trong tháng Năm mùa Hạ mặc áo dầy, đội củi, há có phải là hạng người nhận lấy vàng ư?” Về sau, cổ nhân dùng thành ngữ “phi cừu phụ tân” (披裘負薪, mặc áo dầy, đội củi) để hình dung bậc chí hướng cao cả, thanh khiết, ẩn dật, bần cư.

[80] Nguyên Tải quê ở huyện Kỳ Sơn, thuộc huyện Phụng Tường. Không rõ cha ruột là ai, mẹ tái giá với Cảnh Thăng. Cảnh Thăng vốn là gia nô của Nguyên Thị, Nguyên Thị là nguyên phi (vợ chánh) của Tào Vương Lý Minh (con trai Đường Thái Tông). Do thâu tô đắc lực, Cảnh Thăng rất được nhà họ Nguyên tin dùng; hắn bèn xin được mang họ Nguyên. Do vậy, Nguyên Tải cũng theo cha dượng đổi thành họ Nguyên. Nguyên Tải thông minh, nhạy bén, đọc nhiều sách vở, tinh thông sách vở của Đạo gia. Sau khi đậu Tiến Sĩ, nhờ Thái Phỏng Sứ Lý Sát Ngôn tiến cử, hắn được cử làm Phó Quan, con đường hoạn lộ rộng mở, cuối cùng ngoi lên chức Chi Độ Lang Trung. Do tài ăn nói, Đường Trung Tông rất coi trọng hắn. Hắn trở thành Trung Thư Thị Lang Đồng Bình Chương Sự (Tể Tướng) đời Đường Đại Tông. Do trước sau đã bày mưu tính kế giúp Đường Đại Tông tiêu diệt hoạn quan Lý Quốc Phụ (tuy trước đó, khi còn là Hộ Bộ Thị Lang, hắn đã từng xun xoe, xu nịnh Lý Quốc Phụ) và hoạn quan Ngư Triều Ân, hắn càng được Đường Đại Tông tín nhiệm. Do khéo đón ý vua, vua tin tưởng hắn tuyệt đối, khiến quyền hành của hắn ngày càng lớn, tự tung tự tác, thậm chí loại bỏ những người trung trực chẳng về hùa với hắn. Vua bèn sử dụng Lý Tế Quân làm người đứng đầu bộ Lại, dần dần chặn đứt vây cánh của Nguyên Tải. Cuối cùng, nhà vua thành công kết tội hắn tham ô và bắt giam Nguyên Tải. Sau khi hắn và các con bị xử tử, lăng mộ của tổ tiên hắn còn bị khai quật, lại còn bị đặt thụy hiệu là Hứa Xương Hoang Tử (kẻ ngang ngược, lộng quyền ở Hứa Xương). Một người con gái của hắn là Nguyên Chân Nhất do làm đạo cô nên được miễn tội chết, nhưng bị đuổi khỏi đạo quán, sung làm nô tỳ. Mãi cho đến đời Đường Đức Tông, do nhớ ơn hắn đã ủng hộ mình trở thành Thái Tử, vua hạ chiếu cải táng, khôi phục chức vụ cho hắn, đổi thụy hiệu của hắn từ chữ Hoang thành Thành Tổng (nghĩa là có tài năng, nhưng thiếu đức hạnh).

[81] Chung nhũ (鐘乳) ở đây là các nhũ thạch (Stalactite) lấy từ các thạch động. Người Hoa dùng nó làm thuốc, hoặc chế thành rượu ngâm nhũ thạch. Theo Đông Y, chung nhũ thạch được coi là tánh ôn, vị ngọt, đi vào các kinh Phế và Thận, có tác dụng khiến cho nguyên dương tráng kiện, trị bệnh lao suyễn, ho hen vì lạnh, tay chân tê lạnh v.v…

[82] “Phốc đầu” (幞頭) là một loại mão. Loại mão này thường dùng dây mây bện thành sườn mũ, bên ngoài phủ một lớp sa. Tùy theo chức quan mà phốc đầu có nhiều loại, nhưng loại “triển giác phốc đầu” thì giống như mũ cánh chuồn. Loại “dực thiện quan” không có cánh chuồn, thường được dành riêng cho nhà vua đội vào thời Minh.

[83] Tửu Cáo (酒誥) là bài văn khuyên răn nhắc nhở những họa hoạn về rượu do Châu Công soạn. Bài này được chép trong phần Châu Thư của sách Thượng Thư.

[84] Tác phẩm này có tên gọi đầy đủ là Tửu Đức Tụng do Lưu Linh soạn dưới đời Tây Tấn.

[85] Nguyên văn “nhất tước chi hiến”. Tước (爵) là dụng cụ để đựng rượu có hình dạng giống như con chim sẻ, chỉ chứa được một thưng rượu. Dụng cụ này cũng có thể dùng để uống rượu. Trong khi cúng tế, nói “hiến tước” (獻爵) tức là dâng rượu vậy. Ở đây, nói “nhất tước chi hiến” hàm ý chủ và khách mời nhau uống một lượt rượu, có chừng mực, trang trọng, cung kính như đang hiến rượu trong khi cúng tế.

[86] “Tửu lệnh” (酒令) tức là trong khi uống rượu, người “cầm đầu” sẽ đặt ra một quy tắc, chẳng hạn như dùng chén rượu, hay thẻ rút thăm, chuyền đến phiên ai, người đó phải làm gì đó, như giải đáp câu đố, hoặc ngâm thơ, ca hát, làm trò, hay gồng tay (so quyền). Kẻ thắng thì được thưởng rượu, người thua thì cũng bị phạt uống rượu. Mục đích chỉ là làm trò vui, gây náo nhiệt trong tiệc rượu mà thôi.

[87] Đề Học (提學) còn gọi là Học Chánh Sứ, là chức quan quản trị hành chánh về việc học, có trách nhiệm trông coi các cấp trường học và ấn định các nội dung thi cử, tổ chức các khóa thi tại địa phương theo mệnh lệnh của bộ Lễ. Từ đời Tống, triều đình đặt ra Đề Cử Học Sự Ty để quản lý các trường học trong mỗi quận huyện. Đến đời Thanh, trưởng quan của ty này được gọi là Đề Đốc Học Chánh, gọi tắt là Đề Học, Học Đài, hoặc Học Đạo, chưởng quản hành chánh về phương diện giáo dục trong một tỉnh, tức là tương đương với trưởng ty giáo dục hiện thời.

[88] Phán (判) là chức phó quan phụ tá người đứng đầu một địa phương, có địa vị thấp hơn Tri Phủ và Đồng Tri, cũng có thể là người đứng đầu một sảnh (cơ quan hành chánh) tại địa phương. Chức vụ này có nhiều cấp bậc như Châu Phán, Thông Phán…

[89] Bào Tuyên sống vào thời Tây Hán, là người xứ Bột Hải, học vấn lỗi lạc, thông thạo kinh điển. Ông làm Gián Nghị Đại Phu dưới thời Hán Ai Đế, thường dâng thư can gián vua chăm lo triều chánh, gạt bỏ gian thần, chủ trương cải cách những tệ nạn thời ấy. Về sau, ông bị kết tội, bãi quan. Ông bị ép tự sát khi Vương Mãng nắm giữ quyền hành.

Lương Hồng sống vào thời Đông Hán, gia cảnh hết sức nghèo nàn, khí tiết cao thượng. Ông học rộng, thông đạt, nhưng không thích theo đuổi văn chương. Sau khi từ quan trở về, ông lấy Mạnh Quang làm vợ. Mạnh Quang diện mạo hơi xấu, nhưng rất hiền thục, đảm đang. Về sau, hai vợ chồng vào núi Bá Lăng ẩn cư, chồng cày ruộng, vợ dệt cửi, luôn đối đãi kính trọng nhau rất mực.

Thiếu Quân tên thật là Hoàn Thiếu Quân, vợ của Bào Tuyên. Bào Tuyên theo học với cha của Thiếu Quân. Do nhà Bào Tuyên nghèo khổ, còn họ Hoàn rất giàu, nên của hồi môn mang theo rất nhiều. Bào Tuyên không vui, bảo vợ: “Thiếu Quân sống trong cảnh phú quý, quen trang điểm đẹp đẽ, ta rất nghèo hèn, chẳng dám nhận lễ vật”. Thiếu Quân nói: “Cha thiếp do biết tiên sinh là người tu đức, giữ cương thường, bèn sai tiện thiếp nâng khăn, sửa túi. Đã theo bậc quân tử, thiếp chỉ vâng mạng”. Bào Tuyên cười đáp: “Được như thế, chính là chí hướng của ta”.

[90] Động thiên phước địa (洞天福地) là chốn tiên cảnh trong nhân gian.

[91] Từ Viên (詞垣) là danh xưng khác của Hàn Lâm Viện Học Sĩ. Từ đời Nguyên trở đi, hễ được bổ vào Hàn Lâm Viện đều gọi là Từ Viên.

[92] Tĩnh Nạn (靖難) là cuộc nội loạn đầu thời Minh, do Yên Vương Châu Đệ khởi xướng nhằm cướp ngôi của cháu là Châu Doãn Văn (Minh Huệ Đế). Cuộc chiến này kéo dài suốt ba năm, kết thúc khi Yên Vương chiến thắng, trở thành Minh Thành Tổ (hoàng đế Vĩnh Lạc). Thái Tử Châu Tiêu (con trai Minh Thái Tổ Châu Nguyên Chương) chết trẻ, ngôi vua được truyền cho con trai của Châu Tiêu là Châu Doãn Văn. E ngại trước các phiên vương có thế lực quân sự mạnh mẽ, Huệ Đế tính đến chuyện triệt giảm các phiên vương. Do Châu Đệ là kẻ có quyền lực lớn nhất, ông đã trở thành cái gai trong mắt nhà vua. Trước các vụ án xử tử Châu Vương, Tề Vương, Hằng Vương, Mẫn Vương, Đại Vương liên tiếp, Châu Đệ quyết định mưu phản.

[93] Long Môn là một địa danh ở giáp ranh vùng Tây Bắc huyện Hà Tân của tỉnh Hà Nam và miền Đông Bắc của thành phố Hàn Thành tỉnh Thiểm Tây. Hoàng Hà chảy đến chỗ này nước xiết, hai bên đều là vách đá cao hiểm trở, trông giống như một cửa thành. Vì thế, gọi là Long Môn. Theo truyền thuyết, Đại Vũ đã đục thủng vách núi này để khơi dòng chảy cho Hoàng Hà.

[94] Y Khuyết (伊闕) là vùng đất ở phía Nam thành phố Lạc Dương. Theo truyền thuyết, thuở trước vách núi hiểm trở, châu vào nhau, nhìn xa như vòm cửa. Nước sông Y Thủy chảy qua hẻm núi này để tiến lên Bắc. Vì thế, nơi này được gọi là Y Khuyết.

[95] Nguyên văn “Đông chinh phá phủ” (東征破斧) là nói đến công lao của Châu Công đánh dẹp loạn chư hầu, giúp bốn nước kiến thiết, dốc sức xây dựng đến nỗi búa bị mẻ. Vì thế, người thời ấy làm bài thơ Phá Phủ (búa mẻ) để ca ngợi Châu Công. Xin trích dẫn khổ thơ đầu của bài thơ ấy như sau: “Ký phá ngã phủ, hựu khuyết ngã trạng, Châu Công đông chinh, tứ quốc thị hoàng, ai ngã nhân tư, diệc khổng chi tướng” (Búa của ta đã mẻ, rìu của ta lại khuyết, ông Châu Công đông chinh, bốn nước được hưng vượng, thương xót dân nước ta, cũng giúp xây to lớn).

[96] Chí Hòa (至和) là niên hiệu của Tống Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1054 đến 1056. Tống Nhân Tông có ba con trai, nhưng đều chết sớm, còn lại toàn là con gái. Nhân Tông đã nuôi Triệu Thự là con của Triệu Doãn Nhượng (anh họ của Nhân Tông. Doãn Nhượng là hậu duệ của Triệu Nguyên Phận. Nguyên Phận là con thứ tư của Tống Thái Tổ) từ bé; do vậy, các quan (đứng đầu là Văn Ngạn Bác) thuyết phục Tống Nhân Tông lập Triệu Thự làm hoàng tử kế nghiệp, tức Tống Anh Tông. Tống Anh Tông làm vua bốn năm thì mất, hưởng dương ba mươi bốn tuổi. Con trai ông là Dĩnh Vương Triệu Húc nối ngôi, tức Tống Thần Tông.

[97] Thạch Sùng tên tự là Quý Luân, là Thái Thú quận Thành Âm. Do có công đánh hạ Đông Ngô, cho nên được phong làm An Dương Hương Hầu, làm đến chức Thứ Sử Kinh Châu. Do tư thông với giặc cướp, cướp bóc những khách buôn, hắn trở thành giàu có. Sẵn tiền bạc, lại khéo kinh doanh, Thạch Sùng trở thành bậc cự phú, nhất là các mối lợi do vận tải hàng hóa bằng tàu bè khiến cho hắn giàu nhất thuở ấy. Vương Khải là em trai của Vương Nguyên Cơ (chánh thất của Tư Mã Chiêu. Về sau, Vương Nguyên Cơ được phong làm Văn Minh Hoàng Hậu). Do vậy, Vương Khải là cậu của Tấn Vũ Đế và cũng là một tay giàu có cực kỳ xa xỉ thời ấy. Hai bên đấu giàu đến mức hoang đường như Vương Khải dùng nước đường để chùi rửa nồi (đường thuở ấy rất mắc), Thạch Sùng sai gia nhân dùng nến đốt lò thay cho củi! Đến khi Tấn Huệ Đế lên ngôi, Thạch Sùng cùng Tướng Quốc là Triệu Vương Tư Mã Luân tranh giành kỹ nữ Lục Châu. Khi ấy, Thạch Sùng được phong làm chức Thái Phỏng ở đất Giao Chỉ. Tại đó, có một kỹ nữ lừng danh là Lục Châu, Thạch Sùng mua về, dựng một biệt thự đặt tên là Kim Cốc cho nàng ở. Tư Mã Luân mê đắm, tìm cách chiếm đoạt, nên lập kế gán tội cho Thạch Sùng, khiến cho Thạch Sùng bị tử hình. Trong dân gian, tương truyền Thạch Sùng vì tiếc của, hóa thành một loài bò sát hay chắt lưỡi, tức con thạch sùng.

[98] Tôn Tẫn không rõ tên thật là gì, do bị chặt chân (Tẫn, 臏), nên gọi là Tôn Tẫn. Chỉ biết ông là hậu duệ của danh tướng Tôn Vũ. Tổ tiên của Tôn Tẫn vốn họ Trần, là hậu duệ của công tử Trần Hoàn nước Trần. Đến đời Trần Thư, do giúp vua Tề đánh nước Cử lập đại công, nên được ban họ là Tôn, đất phong tại Lạc An. Trần Thư trở thành thỉ tổ họ Tôn. Đến đời cháu của Tôn Thư là Tôn Vũ do tránh nội loạn nước Tề, chạy sang Ngô, trở thành danh tướng tại đó. Tôn Tẫn là cháu năm đời của Tôn Vũ. Khi Bàng Quyên trở thành đại tướng tại nước Ngụy, tự biết tài năng không bằng Tôn Tẫn, bèn sai người thỉnh Tôn Tẫn đến nước Ngụy. Bàng Quyên trọng đãi hòng học lóm binh pháp của Tôn Tẫn, lại ngấm ngầm vu tội đến nỗi vua Ngụy tức giận hạ lệnh chặt chân Tôn Tẫn, thích chữ lên mặt. Khi sứ giả nước Tề sang sứ nước Ngụy, Tôn Tẫn bí mật dùng thân phận tù nhân bái kiến sứ giả, dùng lời lẽ thuyết phục khiến cho ông ta đồng ý lén giấu Tôn Tẫn đem về nước Tề. Khi về Tề, ông được tướng Điền Kỵ coi trọng. Tôn Tẫn bày kế khiến cho Điền Kỵ luôn thắng cuộc, thắng Tề Oai Vương cả ngàn lạng vàng. Do vậy, Tề Oai Vương biết tiếng, mời ông dạy binh pháp. Ông đã khiến cho quân nước Tề hùng mạnh, luôn chiến thắng, đánh bại nước Ngụy, giết sạch quân Ngụy và Bàng Quyên trong trận Mã Lăng. Trong dân gian, Tôn Tẫn được tôn là tổ của các nghề làm hài cỏ, thuộc da, đốt than, làm đậu hủ và đắp tượng.

[99] Theo thiên Bổn Mạng trong sách Lễ Ký, nếu phụ nữ phạm vào một trong bảy điều thì sẽ bị chồng bỏ, gọi chung là Thất Xuất (七出), tức là: 1. Chẳng hiếu thuận với cha mẹ chồng. 2. Không có con. 3. Phạm tội tà dâm. 4. Đố kỵ. 5. Có ác tật. 6. Nói quá nhiều, thèo lẻo, đâm thọc, dựng chuyện v.v… 7. Trộm cắp.

[100] Giả Sung, tên tự là Công Lư, người huyện Tương Lăng, quận Bình Dương. Hắn làm Thượng Thư Lang dưới đời Tào Ngụy. Về sau làm Tham Quân cho Đại Tướng Quân Tư Mã Sư, lập chiến công, được con của Tư Mã Sư là Tư Mã Chiêu rất tán thưởng. Hắn dốc hết tâm lực phục vụ Tư Mã Chiêu. Khi vua Tào Ngụy là Tào Mao đánh Tư Mã Chiêu để giành lại quyền bính, đội quân cấm vệ của Tư Mã Do (em trai Tư Mã Chiêu) thất thế, Giả Sung đã cầm quân chống lại, xúi vệ binh Thành Tế đâm chết Tào Mao rồi đổ tội giết vua lên đầu Thành Tế. Khi con Tư Mã Chiêu là Tư Mã Viêm ép vua Ngụy là Tào Hoán nhường ngôi, Giả Sung được phong làm Thượng Thư Lệnh, Thị Trung (tức vai trò Thừa Tướng thời ấy). Trước khi lấy Quách Thị (tức Quách Hòe, con gái của Quách Phối), Giả Sung đã lấy Lý Phu Nhân. Vì cha của Lý Phu Nhân chống lại Tư Mã Sư, bị kết tội, Giả Sung bèn bỏ Lý Phu Nhân nhằm tỏ lòng trung thành với giòng họ Tư Mã. Quách Hòe sanh được hai con gái là Giả Nam Phong và Giả Ngọ, một trai là Giả Lê Dân (tức là đứa bé bị chết đang nói ở đây). Thoạt đầu, Tấn Vũ Đế (Tư Mã Chiêu) muốn cưới Giả Ngọ cho Thái Tử Tư Mã Trung, nhưng Giả Ngọ còn quá bé, cho nên Giả Sung đã lấy Giả Nam Phong thay vào. Tuy Giả Nam Phong xấu xí, đen đúa, Tư Mã Trung lại mê mệt Giả Nam Phong, không thiết tha học tập chánh sự. Một vị đại thần là Vệ Quán đã khuyên vua Tấn Vũ Đế (Tư Mã Viêm) hãy phế Thái Tử vì Thái Tử trí huệ chậm lụt, kém phát triển. Tấn Vũ Đế bèn sai người đem các tấu chương cho Thái Tử phê trình để xem Tư Mã Trung có quá đần độn như lời Vệ Quán nói hay không. Giả Nam Phong đã khéo léo nhờ người tài giỏi phê các tấu chương, rồi bảo Tư Mã Trung chép lại, cho nên Tấn Vũ Đế vẫn tưởng Tư Mã Trung có năng lực. Giả Sung biết chuyện, xúi Giả Nam Phong ton hót với Tư Mã Trung nói khéo với Tấn Vũ Đế hòng lung lạc nhà vua, hại chết Vệ Quán. Cuối thời Tấn Vũ Đế, ba tên gian thần là Giả Sung, Bùi Tú và Vương Nhung đã lũng đoạn triều chánh. Khi Tấn Huệ Đế (Tư Mã Trung) lên ngôi, do quá nhu nhược, quyền hành hoàn toàn nằm trong tay các đại thần. Giả Hậu (Giả Nam Phong) thừa cơ cấu kết với Tư Mã Lượng lập mưu giết chết Dương Tuấn (ông ngoại của Huệ Đế) đang nắm quyền Thái Phó, giết chết cả Dương Thái Hậu (mẹ của Huệ Đế) và vợ Dương Tuấn (bà ngoại của Huệ Đế), Huệ Đế chỉ biết ngơ ngác nhìn họ bị hành hình. Sau đó, Giả Hậu mặc sức dâm loạn, công khai bắt thanh niên trai tráng vào cung hành lạc mỗi đêm, Huế Đệ chỉ biết câm lặng nín chịu cho đến khi chú vua là Tư Mã Luân khởi binh, giết chết Giả Hậu, tận diệt dòng họ Giả Sung. Sau đó, Tư Mã Luân cướp ngôi Tấn Huệ Đế. Về sau, nhờ Tư Mã Quýnh đánh bại Tư Mã Luân, Huệ Đế lại làm vua.

[101] Đạp Thanh (踏青) là đi ra ngoại thành chơi xuân. Do tản bộ du ngoạn, bước lên cỏ xanh, nên gọi là Đạp Thanh. Thuở xưa lấy ngày Thanh Minh làm hội Đạp Thanh, vừa đi tảo mộ, vừa đi chơi dã ngoại. Thoạt đầu, Đạp Thanh chỉ là dịp để du ngoạn chơi xuân sau những tháng tù túng vì mùa Đông, dần dần kết hợp với tảo mộ. Ngày này cũng là dịp để nam thanh nữ tú thừa cơ gặp gỡ, mắt đi mày lại, ngấm nghé chọn người phối ngẫu, cho nên sách Cảm Ứng Thiên mới chê trách chuyện mang tiếng tảo mộ, nhưng thật ra là diện quần áo xênh xang, ngoạn cảnh, ăn uống, trai gái ngắm nghía, tò vè nhau, trọn chẳng có lòng tưởng nhớ tổ tiên.

[102] Xu Bồ (樗蒲), còn gọi là Sư Bồ, Ngũ Mộc, Trịch Lô, hoặc Hô Lô, là một món cờ bạc, giải trí, từ ngoại quốc truyền vào Trung Hoa dưới thời Hán. Có người nói món cờ này có nguồn gốc từ trò chơi Chaupar của Ấn Độ. Bộ cờ này gồm có năm loại con cờ, nên gọi là Ngũ Mộc, tức là Bôi, Mã, Mộc, Trù, Thỉ, chia thành bốn màu đen, trắng, trĩ và độc (thật ra chỉ có hai màu là trắng và đen. Trĩ là quân cờ toàn màu đen, kèm thêm hai con cờ màu trắng có viết chữ Trĩ và Độc màu đen. Còn Độc là quân cờ toàn trắng, kèm thêm hai con cờ đen viết chữ Trĩ và Mộc màu trắng). Trò chơi này bị ngăn cấm dưới thời Tống, biến tướng thành cờ Đả Mã (gần giống trò lắc xí ngầu chơi cá ngựa hiện thời, nhưng phức tạp hơn rất nhiều).

[103] Tử Hãn là tên tự của công tử Hỷ (Cơ Hỷ), con trai của Trịnh Mục Công (Cơ Tử Lan). Trịnh là một nước chư hầu thời Châu, nay thuộc địa phận tỉnh Sơn Tây. Nước Trịnh được thành lập khi Châu Tuyên Vương (Cơ Tĩnh) phong cho em trai là Cơ Hữu đất Trịnh Yển. Cơ Hữu trở thành vua đầu tiên của nước Trịnh, tức Trịnh Hoàn Công. Khi Châu U Vương say mê Bao Tự, phế Thân Hậu và Thái Tử Nghi Cữu, cha Thân Hậu là Thân Hầu đã mượn quân Khuyển Nhung tấn công nhà Châu, giết chết Châu U Vương. Trịnh Hoàn Công do cứu giá, cũng chết trong cuộc chiến này. Trịnh Mục Công là vị vua thứ mười của nước Trịnh, có mười ba người con trai. Ngoại trừ hai người làm vua (tức công tử Di trở thành Trịnh Linh Công, công tử Kiên thành Trịnh Tương Công), Tử Khổng bị sát hại, Tử Nhiên lưu vong, con cháu Tử Vũ và Tử Chí không được làm quan Khanh, quyền hành nước Trịnh lọt vào tay con cháu của bảy vị công tử còn lại. Họ tranh giành quyền lực đấu đá nhau, sử gọi là Trịnh Quốc Thất Mục, tức con cháu của Tử Tứ, Tử Hãn, Tử Quốc, Tử Lương, Tử Ấn, Tử Du, và Tử Phong. Sử thường gọi họ là Tứ Thị, Hãn Thị v.v…

[104] Cao Tông tức là vua Vũ Đinh nhà Thương, còn gọi là Ân Vũ, tên thật là Tử Chiêu, là vua thứ hai mươi ba của nhà Thương. Hiếu Kỷ là con trai vua Vũ Đinh, hết sức hiếu thuận, nhưng do bị mẹ kế gièm siểm, nên bị cha xua đuổi, giết chết. Thi Tử đã chép về Hiếu Kỷ như sau: “Hiếu Kỷ sự thân, nhất dạ nhi ngũ khởi, thị y hậu bạc, chẩm chi cao hạ dã” (Hiếu Kỷ phụng sự cha mẹ, mỗi đêm thức dậy năm lần để nhìn xem cha mẹ mặc áo dầy hay mỏng, gối kê đầu cao hay thấp).

[105] Cát Phủ là đại thần thời Châu Tuyên Vương, ông được nhà Châu hết sức coi trọng, có thi tài, khéo làm thơ, phù tá Châu Tuyên Vương trung hưng nhà Châu, tu chỉnh đại nghiệp cả văn lẫn võ, từng đánh tan quân rợ Hiểm Doãn khi chúng tấn công kinh thành nhà Châu. Bá Kỳ là con của Cát Phủ. Do vợ đã chết, Cát Phủ bèn tục huyền. Vợ sau sợ Bá Kỳ sẽ được nối chức cha, bèn gièm siểm, khiến cho Bá Kỳ bị đuổi khỏi nhà, phải lang thang bẻ lá sen che thân, vớt bèo ăn cho đỡ đói.

[106] Năm vị thần (ngũ tự) trong nhà theo truyền thống xưa của Trung Hoa là môn thần (thần giữ cửa chánh), hộ thần (còn gọi là song thần, tức thần cửa sổ, hoặc hiểu theo nghĩa rộng là thần trông coi các cửa phụ), trung lựu (thần đất, còn gọi là địa chủ cơ, tức là người chủ của nền đất, nhỏ hơn thần thổ địa. Thần thổ địa tức thổ công cai quản cả một làng, một xã), táo thần (thần bếp) và hành thần (thần trông coi đường nẻo trong nhà. Do nhà xưa thường có nhiều gian, giữa các gian nhà thường có hành lang thông nhau, hoặc những khoảng sân rộng ngăn cách). Theo Bạch Hổ Thông Đức Luận, năm vị thần ấy lại là môn thần, hộ thần, tỉnh thần (thần giếng), táo thần và trung lựu. Theo Lễ Ký, thuở xưa chỉ hàng sĩ đại phu trở lên mới được thờ thần đất, như Khúc Lễ đã chép: “Thiên tử tế thiên địa, khanh, đại phu tế ngũ tự, sĩ tế kỳ tổ” (Thiên tử cúng trời đất, hàng khanh đại phu cúng tế năm vị thần, còn dân chúng chỉ thờ cúng tổ tiên).

[107] Theo Đạo Giáo, vị này được gọi là Vệ Phòng Thánh Mẫu, tên thật là Trần Tĩnh Cô, còn gọi là Lâm Thủy Phu Nhân, hoặc Thuận Thiên Thánh Mẫu, sống vào đời Đường, quê ở làng Lâm Thủy, huyện Cổ Điền, tỉnh Phước Kiến. Tương truyền, bà từ một giọt máu của Quán Âm Bồ Tát mà hóa thân, theo học đạo với Hứa Chân Nhân. Có nhiều sự tích linh dị về vị nữ thần này. Lời chú giải ở đây chắc là do một vị đạo sĩ hoặc người theo Đạo Giáo viết ra.

[108] Nguyên Hoa (芫花) là một loại cây có chất độc, có tên khoa học là Daphne Genkwa. Hoa của nó có thể dùng làm thuốc độc, còn gọi là Ngư Độc, có tánh chất tương tự như dây Thuốc Cá ở Việt Nam. Hễ nghiền nát hoa này vứt xuống nước, cá sẽ bị ngấm chất độc, chết nổi phình bụng lên mặt nước.

[109] Vào thời Hán Văn Đế, có một danh y là Thuần Vu Ý, do phạm tội bị áp giải đến Trường An. Ông chỉ có năm đứa con gái, không có con trai. Năm cô gái khóc lóc muốn theo cha đến Trường An. Ông thất vọng nói: “Chỉ toàn con gái, chẳng có nửa mống con trai nào. Khi hữu sự, cũng chẳng có ai giúp đỡ”. Đứa con gái út là Đề Oanh nghe cha nói vậy, hết sức đau lòng, một mực theo cha đến Trường An. Cô viết thư cho vua, xin vua tha tội cho cha, cô sẽ vào hoàng cung làm nô lệ suốt đời để cho cha có cơ hội sửa chữa sai lầm. Hán Văn Đế bị tấm lòng hiếu thảo của Đề Oanh cảm động, tha cho Thuần Vu Ý. “Nhục hình” (肉刑) là các hình phạt nặng nề, bao gồm Mặc (墨, xăm chữ kể tội vào mặt), Tỵ (劓, cắt mũi), Phí (剕, chặt chân), Cung (宫, thiến), và Đại Tịch (大辟, tử hình).

[110] Đường Hương là một tấm gương trong Nhị Thập Tứ Hiếu, mười bốn tuổi, cô thường theo cha mót lúa. Khi hai cha con bị cọp tấn công, cô không có tấc sắt trong tay, chẳng đoái hoài tánh mạng, chỉ lo cho tánh mạng của cha, bèn xông tới, kẹp chặt cổ cọp. Cọp hoảng sợ, lủi mất.

[111] Tào Nga là người huyện Thượng Ngu, quận Cối Kê, sống vào thời Đông Hán. Cha cô ta là Tào Hu sống bằng nghề thầy cúng. Một hôm, Tào Hu đi cúng, ngồi thuyền đi tế thần sông ở Thuấn Giang. Vô ý, té xuống nước, chết mất xác. Tào Nga đi dọc theo sông khóc lóc suốt mười bảy ngày. Cuối cùng, cô nhảy xuống sông trầm mình. Vài ngày sau, xác cô nổi lên còn cõng xác cha trên lưng. Dân chúng thương xót lập đền thờ.

[112] Theo Liệt Nữ Truyện trong Đông Hán Thư, cô này có tên gọi đầy đủ là Thúc Tiên Hùng. Cha cô là Thúc Tiên Nê Hòa sống vào thời Hán Thuận Đế, từng giữ chức Công Tào tại huyện. Ông vâng lệnh quan trên đến gặp Thái Thú Ba Quận. Ngồi thuyền ra đi, do nước xiết, thuyền lật, bị chết đuối. Con gái ông là Thúc Tiên Hùng thương xót, khóc lóc không ngừng, muốn tự trầm theo cha. Người nhà canh giữ nghiêm ngặt, nên cô không làm gì được. Hơn một trăm ngày sau, thừa lúc người nhà lơi lỏng, Thúc Tiên Hùng chèo thuyền đến chỗ cha chết đuối, khóc lóc đau xót, rồi gieo mình tự tử. Em trai cô được chị báo mộng sáu ngày sau sẽ đem xác cha nổi lên. Đến hẹn, quả nhiên xác hai cha con cùng nổi lên mặt nước ngay chỗ cô tự trầm. Huyện lệnh sai dựng bia kỷ niệm, lập đền thờ.

[113] Úy (尉) là một chức quan. Lão úy ở đây là một người làm quan đến chức Úy đã già. Không rõ Úy ở đây chỉ chức vụ nào, vì thời cổ, trong thời đại Xuân Thu, đã có các chức quan Quân Úy, Dư Úy. Từ đời Tần – Hán trở đi, có Thái Úy, Đình Úy, Đô Úy, Huyện Úy, Vệ Úy, Hiệu Úy v.v… đều gọi tắt là Úy. Nói chung đây là một chức quan võ; trong đó, Thái Úy lớn nhất, tương đương với Bộ Trưởng Quốc Phòng hiện thời.

[114] Theo Đạo Giáo, Ngũ Khí Thiên Quân còn gọi là Ngũ Phương Ngũ Lão Thiên Quân. Năm vị này được coi là thần linh tối cổ, do thiên địa tự nhiên sanh thành, địa vị dưới Tam Thanh (Thái Thanh, Thượng Thanh, và Ngọc Thanh), bao gồm Đông Phương Thanh Đế Thanh Linh Thỉ Lão Cửu Khí Thiên Quân, Nam Phương Xích Đế Đan Linh Chân Lão Tam Khí Thiên Quân, Trung Ương Hoàng Đế Huyền Linh Hoàng Lão Nhất Khí Thiên Quân, Tây Phương Bạch Đế Hạo Linh Hoàng Lão Thất Khí Thiên Quân, và Bắc Phương Hắc Đế Ngũ Linh Huyền Lão Ngũ Khí Thiên Quân.

[115] Huyền Đô (玄都) là cõi thần tiên, thường được gọi là Vô Thượng Huyễn Cảnh. Theo Đạo Giáo, đó là nơi ở của Thái Thượng Lão Quân. Do vậy, có truyền thuyết cho rằng đệ tử đích truyền duy nhất của Thái Thượng Lão Quân được gọi là Huyền Đô Đại Pháp Sư. Có thuyết nói Vương Thiền Lão Tổ (Quỷ Cốc Tử) chính là Huyền Đô Đại Pháp Sư.

[116] Vị này có danh xưng đầy đủ Bắc Âm Phong Đô Đại Đế, là vị thần chủ quản cõi địa ngục theo Đạo Giáo.

[117] Thái Âm Thiên Quân còn gọi là Thái Âm Đế Quân, Thái Âm Nguyên Quân, hoặc Thái Âm Tinh Quân, chính là thần mặt trăng trong Đạo Giáo.

[118] Nhũ Đầu Hương, còn gọi là Nhũ Hương (frankincense), Ma Lặc Hương, Mã Vĩ Hương, Tháp Hương, Tây Hương, Thiên Trạch Hương… Loại hương này chính là chất nhựa trích từ các loài cây thuộc họ Boswellia.

[119] Nguyệt Quý (月季) ở đây là một loại hoa hồng, có tên khoa học là Rosa Chinensis, có màu từ hồng cho tới đỏ đậm. Loại hoa này mọc nhiều ở Quý Châu, Hồ Bắc và Tứ Xuyên. Tùy theo vùng mà hoa này còn được gọi là Nguyệt Nguyệt Hồng, Nguyệt Nguyệt Hoa, Trường Xuân Hoa, Canh Thân Tường Vi v.v… Loài hoa này có nhiều chủng loại, nổi tiếng nhất là Mai Khôi (Rosa Rugosa), Hoàng Thứ Khôi (Rosa Xanthira), Thu Thủy Nguyệt Quý (Rosa Odorata). Cánh hoa dùng làm thuốc, chế tinh dầu, nhất là chi hoa Mộc Hương Hoa (Rosa Banksiae). Loài hoa này hoàn toàn không phải là hoa Nguyệt Quới như thường thấy ở Việt Nam.

[120] Chư Kinh Yếu Tập, còn gọi là Thiện Ác Nghiệp Báo Luận, do ngài Đạo Thế vào đời Đường biên soạn, trích lục những phần trọng yếu trong Tam Tạng về vấn đề thiện, ác nghiệp báo. Bộ sách này mang tánh chất tự điển Bách Khoa giống như bộ Kinh Luật Dị Tướng do ngài Bảo Xướng biên soạn vào đời Lương.

[121] Cảm Thông Truyện còn gọi là Đạo Tuyên Luật Sư Cảm Ứng Lục, hoặc Luật Tướng Cảm Thông Truyện do ngài Đạo Tuyên biên soạn vào đời Đường. Do ngài Đạo Tuyên hành trì giới luật tinh nghiêm, cảm được một vị trời giáng xuống, phụng sự, cùng Ngài vấn đáp về giới luật. Những vấn đề hỏi đáp ấy được tập hợp thành bộ sách này.

[122] Theo lệ xưa, một tạng là 5.048 bộ. Cứ tụng hết toàn bộ một bản kinh, bất luận kinh dài hay ngắn đều gọi là một bộ. Chẳng hạn tụng trọn bản kinh Kim Cang thì gọi là tụng một bộ Kim Cang. Tụng hết mười ba phẩm của kinh Địa Tạng thì cũng gọi là tụng một bộ Địa Tạng, tụng hết hai mươi tám phẩm kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì gọi là tụng một bộ Pháp Hoa. Khi nào tụng đủ số 5.048 bộ như thế thì gọi là tụng được một tạng. Như vậy, ông Lý Bát đã tụng 3×5.048=15.144 bộ Đại Bi Quán Âm Kinh.

[123] Trương Chân Nhân ở đây là Trương Khôn Hạc, sống vào thời Đạo Quang nhà Thanh. Năm hai mươi ba tuổi, ông quy y với Đoàn Chân Nhân ở Văn Xương Các, tu tập Đạo Giáo, đạt thành tựu to lớn.

[124] Thái Mục Hoàng Hậu (569-613) họ Đậu, sử không chép rõ tên, chỉ ghi bà là con gái của Thượng Trụ Quốc Đậu Nghị nhà Bắc Châu và Tương Dương Công Chúa (con gái của Vũ Văn Thái, tức con gái của Bắc Châu Thái Tổ Văn Hoàng Đế). Bà là vợ của Lý Uyên (Đường Cao Tổ). Bà xinh đẹp, thông minh, thông thạo binh thư. Ngay từ lúc bốn tuổi, bà đã khiến cho cậu là Bắc Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) kinh ngạc khi khuyên cậu phải sủng ái công chúa A Sử Na người Đột Quyết, hãy nên tấn phong A Sử Na làm Hoàng Hậu, vì nhà Châu còn có hai địch thủ đáng gờm là Bắc Tề và Nam Trần. Nếu sủng ái A Sử Na, nhà Châu sẽ có một lực lượng hùng mạnh là Đột Quyết làm hậu thuẫn. Bắc Châu Vũ Đế hết sức tán thưởng sự phân tích sáng suốt của cô cháu gái, hết sức khâm phục trí thông minh của cô. Khi bà mười tám tuổi, cha bà là Đậu Nghị kiên quyết chỉ gả bà cho người xứng đáng. Đậu Nghị cho vẽ hai con chim Khổng Tước lên bình phong, ai đến cầu hôn thì phải bắn trúng hai con chim ấy trong một phát tên, chỉ có Lý Uyên là thành công. Do vậy, bà lấy Lý Uyên. Bà qua đời trước khi Lý Uyên lên ngôi hoàng đế. Về sau, dù Lý Uyên có nhiều phi tần, không bao giờ lập người khác làm Hoàng Hậu. Bà là mẹ đẻ của Lý Kiến Thành, Lý Thế Dân (Đường Thái Tông), Lý Huyền Bá, Lý Nguyên Cát và Bình Dương Chiêu Công Chúa.

[125] Huỳnh Hoặc (熒惑) chính là Hỏa Tinh. Theo Lã Thị Xuân Thu, phần Quý Hạ Kỷ, vào thời Tống Cảnh Công (Tử Đầu Loan), Hỏa Tinh xâm phạm sao Tâm, đấy là điềm bất tường. Vua sợ hãi, triệu quan Thái Sử Tử Vi vào thương nghị. Tử Vi nói: “Huỳnh Hoặc là hình phạt của cõi trời, sao Tâm thuộc phận dã nước Tống. Vua sẽ mắc họa, nhưng có thể dời hiểm họa ấy sang Tể Tướng”. Vua đáp: “Tể Tướng là người giúp ta cai trị đất nước, ông ta bị chết, sẽ là điềm bất tường”. Tử Vi lại nói: “Có thể chuyển họa sang dân chúng”. Vua nói: “Dân chết thì trẫm làm vua với ai? Thà là một mình ta chết”. Tử Vi lại nói: “Có thể chuyển thành mất mùa”. Vua lắc đầu: “Mất mùa thì dân đói. Dân bị đói ắt chết, làm vua của dân mà giết dân để chính mình được sống, ai còn coi ta là vua? Mạng quả nhân cố nhiên đã tận rồi, ngươi chẳng cần phải nói nữa!” Tử Vi sắp rời đi, lại lạy vua, thưa: “Thần dám chúc mừng bệ hạ, trời ở trên cao, nhưng nghe thấu dưới thấp. Do ba lời đức hạnh cao tột của bệ hạ, trời cao ắt sẽ ban thưởng bệ hạ ba điều. Tối nay, sao Huỳnh Hoặc sẽ lùi lại ba cung. Vua sống thọ thêm hai mươi mốt năm”. Về sau, quả nhiên đúng như vậy.

[126] Tuy gọi tên khác nhau, nhưng đều là cầu vồng. Ánh sáng chiếu qua một viên nước nhỏ, bị khúc xạ thành bảy màu là đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh dương, chàm (indigo) và tím, phản chiếu lên bầu trời, tạo thành hình vòng cung. Khi màu đỏ ở ngoài, màu tím ở trong cùng thì gọi là Hồng, hoặc Hùng Hồng (cầu vồng đực). Khi màu đỏ nằm ở phía trong cầu vồng, màu tím ở ngoài cùng, thì gọi là Nghê, hoặc Thư Hồng (cầu vồng cái). Lời chú giải nói “trắng lẫn đỏ” là nói tới rìa ngoài của cầu vồng in trên nền trời màu trắng.

[127] Xuân Thu Vận Đẩu Xu là một bộ sách bói toán có tên gọi chính xác là Xuân Thu Vỹ Vận Đẩu Xu do các nhà Dịch học thời Hán viết về thuật bói toán, chiêm tinh, chiêm nghiệm thiên tượng (những biểu hiện trên bầu trời) dựa theo các ý nghĩa trong kinh sách của Nho gia, thường gọi chung là Vỹ Thư. Nội dung của Vỹ Thư bao gồm kiến thức về thiên văn, lịch pháp, địa lý v.v… kể cả những thần thoại.

[128] Theo Tống Thư, phần Phù Thụy Chí, sau khi soạn xong Xuân Thu và Hiếu Kinh, Khổng Tử cùng học trò làm lễ bẩm cáo với cõi trời. Trời kéo mây dầy đặc, sương phủ trắng đất, cầu vồng đỏ giáng xuống, hóa hiện thành một miếng ngọc màu vàng, dài ba thước, trên đó có khắc chữ. Khổng Tử quỳ nhận, đọc: “Bảo văn xuất, Lưu Quý ác, mão kim đao, tại Chẩn bắc, tự hòa tử, thiên hạ phục”. Các nhà chú giải giảng câu này là dự ngôn (lời tiên đoán) Tần Thủy Hoàng thống trị Trung Nguyên một thời gian ngắn, cuối cùng Lưu Bang sẽ thống nhất sơn hà. Chẳng hạn ba chữ Mão Kim Đao (卯金刀) ghép lại thành chữ Lưu (劉). “Tại chẩn bắc” là ngồi ở phương Bắc, ngoảnh mặt về phương Nam, tức là làm vua. Tự Hòa Tử là chữ Hòa (禾) và Tử (子) ghép thành chữ Quý (季), tức là dự báo Lưu Bang sẽ làm vua. Theo Sử Ký, Lưu Bang có tên tự là Quý; do đó, nhiều sách chép Hán Cao Tổ là Lưu Quý, thay vì chép tên ông là Lưu Bang.

[129] Tư Sĩ (司士) là một chức quan được đặt ra từ thời Tây Châu. Chức quan này cùng với Tư Mã, Tư Không, Tư Đồ, và Tư Khấu được gọi là Ngũ Quan, chịu trách nhiệm giám sát các quan. Về sau, chức vụ này được thay thế bằng chức Ngự Sử Đại Phu, nhưng người ta vẫn quen gọi Ngự Sử Đại Phu là Tư Sĩ. Thậm chí các quan Gián Nghị tại các cấp châu, huyện, phủ cũng đều được gọi là Tư Sĩ.

[130] Dương Tố là đại thần thời Tùy Văn Đế (Dương Kiên). Ông ta thông minh, tài hoa, học rộng, nghe nhiều, nhưng rất xảo trá. Do khéo dùng binh, Dương Tố lập nhiều chiến công. Vì vậy, ông ta được phong làm Thượng Thư Tả Bộc Xạ, nắm quyền ngang ngửa với Tể Tướng thời ấy. Tùy Văn Đế có ba đứa con trai, con trưởng là Dương Dũng. Tùy Văn Đế đã lập Dương Dũng làm Thái Tử, nhưng dần dần do thấy Dương Dũng thiếu tài trí, ham chơi, bèn phế đi, lập Dương Quảng làm Thái Tử (tức là Tùy Dượng Đế sau này) theo lời khuyên của Dương Tố. Dần dần, Tùy Văn Đế phát hiện Dương Quảng là người tàn nhẫn, hẹp hòi. Trong khi vua nằm bệnh, Dương Tố đến chầu hầu hằng ngày. Ông ta nghe vua muốn tái lập Dương Dũng, bèn hạ lệnh thay đổi quân túc vệ, khiến cho ý định của vua không thể thực hiện được. Do vậy, khi Tùy Văn Đế chết, Dương Quảng lên ngôi vua không trở ngại. Dương Tố ỷ vào công lao phù tá, kiêu ngạo, tự tung tự tác. Dượng Đế ngày càng ghét Dương Tố. Em út của Dượng Đế là Dương Lượng mượn cớ trừ khử Dương Tố, dấy binh làm loạn ở Tinh Châu. Dương Tố đem quân đi đánh dẹp, bắt được Dương Lượng. Về sau, do Dượng Đế ngày càng nghi kỵ, chèn ép giòng họ Dương Tố, con Dương Tố là Dương Nguyên Cảm sợ bị bức hại bèn dấy binh phản Tùy. Sau nhiều lần bị đánh bại, Dương Nguyên Cảm bị Dượng Đế sai người đánh thuốc độc giết chết, và tru di tông tộc của Dương Tố.

[131] Lý Tích là một danh tướng đời Đường, vốn tên là Từ Thế Tích. Do theo Đường Thái Tông lập nhiều công lao, nên được ban họ Lý. Vì sợ phạm húy Đường Thái Tông (Lý Thế Dân), Lý Thế Tích bỏ chữ Thế trong tên của chính mình. Ông làm đến chức Binh Bộ Thượng Thư dưới triều Đường Thái Tông. Ông ta là kẻ rất giảo hoạt, khéo luồn lách, khéo gió chiều nào che chiều ấy. Về sau, Đường Cao Tông (Lý Trị) muốn lập Vũ Chiêu Nghi (Vũ Tắc Thiên) làm Hoàng Hậu, đa số các đại thần phản đối. Vua bực bội, hỏi ý Lý Tích, Lý Tích đáp ngay: “Đó là chuyện riêng trong nhà bệ hạ, cần gì phải hỏi ý người ngoài!” Do vậy, Vũ Tắc Thiên rất coi trọng ông ta. Cháu nội ông ta là Từ Kính Nghiệp là danh tướng, do phù tá Đường Trung Tông chống lại sự chuyên quyền của Vũ Tắc Thiên, nên đã chiếm cứ Dương Châu dựng cờ khởi nghĩa. Vũ Hậu sai Lý Hiếu Dật cầm quân đánh dẹp. Kính Nghiệp bị đánh bại tại mặt trận Cao Bưu. Anh em Kính Nghiệp đều bị quân Đường truy bức, giết chết.

[132] Nhị tập (hai thứ tập khí) ở đây chính là chủng tập và hiện tập. “Chủng tập” là những chủng tử có sẵn do những thói quen từ trước hoặc do kinh nghiệm từng trải từ trước kết thành, khi gặp đúng duyên, chúng sẽ dấy lên hiện hành. Sự hiện hành ấy được gọi là “hiện tập”.

[133] Theo ông Hoàng Bách Lâm, “vương sứ” là sứ giả của Diêm Vương. “Chủ lại” là những viên quan chủ quản sổ sách trong cõi âm.

[134] Tân La (Silla) là một vương quốc cổ nằm ở phía Nam và một phần miền Trung bán đảo Triều Tiên (Joseon, Chosŏn), tồn tại từ năm 57 đến năm 935. Tân La cùng với Bách Tế (Baekje) và Cao Câu Ly (Goguryeo) hợp thành Tam Quốc trong cổ sử Đại Hàn. Vương triều này do Phác Hách Cư Thế Cư Tây Can (Bak Hyeokgeose Geoseogan) sáng lập. Cuối cùng, vương triều này thôn tính Bách Tế và Cao Câu Ly. Sau gần một ngàn năm thịnh trị, Tân La lại rơi vào tình trạng tam phân, tức là Hậu Tân La, Hậu Bạch Tế, và Thái Phong (Taebong). Sau đó, Tân La bị vương quốc Cao Ly (Goryeo) tiêu diệt.

[135] Mân (緡) là một ngàn đồng.

[136] Đinh Vị (966-1037) là một gã đại gian thần thời Bắc Tống. Hắn quê ở Trường Châu thuộc Tô Châu, có tài ăn nói, giỏi thơ, họa, tinh thông sách vở và cờ vây. Hắn xuất thân là môn hạ của Khấu Chuẩn. Nhờ khéo luồn lách, hắn làm đến Hộ Bộ Thị Lang, kiêm Tham Tri Chánh Sự. Khi đã nắm quyền, hắn tận lực hạ bệ, bài xích Khấu Chuẩn, khiến ông Khấu bị đày đi Lôi Châu. Đinh Vị cùng với Vương Khâm Nhược, Lâm Đặc, Trần Bành Niên và Lưu Thừa Khuê kéo bè kết đảng khuynh loát triều chánh, sử thường gọi bọn chúng là Ngũ Quỷ. Về sau, do đồng đảng là Lôi Doãn Cung phạm tội xâm phạm lăng tẩm của hoàng đế, hắn bị liên lụy, bị giáng chức làm Thái Tử Thái Bảo, rồi bị đày đi Nhai Châu (Châu Nhai).

[137] Tào Ty (漕司) là chức quan quản trị vận chuyển theo đường thủy.

[138] Đây là nói đến một đoạn trong thiên Tận Tâm Hạ sách Mạnh Tử: “Ngô kim nhi hậu tri sát nhân thân chi trọng dã. Sát nhân chi phụ, nhân diệc sát kỳ phụ. Sát nhân chi huynh, nhân diệc sát kỳ huynh. Nhiên tắc phi tự sát chi dã, nhất gián nhĩ” (Từ nay trở đi ta biết giết người thân của kẻ khác là nặng nề. Giết cha của người ta, người ta cũng giết cha mình. Giết anh của người ta, người ta cũng giết anh của chính mình. Tuy chẳng phải do chính mình tự giết, nhưng xét đến nguồn cội, có khác gì đâu?)

[139] Nguyên văn “lậu bô” (漏脯) nghĩa là thịt khô để nơi dột nát, hoặc bị ngấm nước, sẽ sanh ra nấm mốc rất độc.

[140] Đây là một đoạn trong thiên Tận Tâm Hạ của sách Mạnh Tử: “Kê minh nhi khởi, tư tư vi thiện giả, Thuấn chi đồ dã. Kê minh nhi khởi, tư tư vi lợi giả, Chích chi đồ dã. Dục tri Thuấn dữ Chích chi phân, vô tha, lợi dữ thiện chi gian dã” (Gà gáy bèn thức dậy, siêng gắng làm lành, đó là hạng người giống như vua Thuấn. Gà gáy bèn thức dậy, chăm chú làm lợi cho [bản thân], đó là hạng người giống như Đạo Chích. Muốn biết rõ để phân biệt giữa hạng người giống như vua Thuấn hay như Đạo Chích, chẳng có gì khác, chỉ là [sự khác biệt] giữa lợi và thiện).

[141] Thiên Thánh là niên hiệu của Tống Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1023 tới năm 1032.

[142] Bàn Sơn Ngữ Lục là tác phẩm do đệ tử của đạo sĩ Vương Chí Cẩn biên soạn vào cuối đời Kim, đầu đời Nguyên. Vương Chí Cẩn là đạo sĩ của Toàn Chân Giáo, đạo hiệu là Thê Vân Tử. Sách này ghi chép những lời dạy của Vương đạo sĩ về cách tu luyện trong Đạo Giáo dựa trên những luận giải về Thanh Tịnh Kinh. Do ông Vương tham khảo bộ Thiền Tông Tâm Tánh Luận, nên trong tác phẩm này có rất nhiều yếu tố Thiền.

[143] Tứ Vật (四勿) là “bốn điều đừng nên”, trích từ thiên Nhan Uyên trong sách Luận Ngữ. Sách chép: “Tử viết: ‘Khắc kỷ phục lễ vi nhân, nhất nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên, vi nhân do kỷ, nhi do nhân hồ tai?’ Nhan Uyên viết: ‘Thỉnh vấn kỳ mục’. Tử viết: ‘Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (Khổng Tử nói: “Khắc chế sự ham muốn của chính mình, khôi phục lễ nghĩa, đó là nội dung của nhân. Ngày nào mọi người đều khắc chế tư dục, tuân thủ lễ nghĩa, [ngày ấy] khắp thiên hạ đều là người có lòng nhân. Thực hiện lòng nhân phải từ chính mình, chứ [chờ đợi] người khác thực hiện lòng nhân thì làm sao được?” Nhan Uyên thưa: “Xin thầy dạy cho biết các điều mục [để thực hiện lòng nhân]”. Khổng Tử bảo: “Việc phi lễ chớ nhìn, điều phi lễ chớ nghe, chuyện phi lễ chớ nói, hành vi phi lễ chớ làm”).

[144] Trâu là quê hương của Mạnh Tử, nước Lỗ là quê hương của Khổng Tử, Liêm là nói đến Châu Đôn Di vì ông sống tại Liêm Khê thuộc Đạo Châu, Lạc là nói đến anh em Trình Di, Trình Hạo vì họ sống ở Lạc Dương. Trâu Khê Liêm Lạc là nói đến Tống Nho (Trâu Lỗ là học thuyết Khổng Mạnh, còn Liêm Lạc là nói về Lý Học).

[145] Nguyên văn “sanh, đán, sửu, mạt” (生旦丑末) là thuật ngữ dùng để phân loại các diễn viên tuồng:

  1. Sanh (生) là vai diễn viên nam (kép), thường vẽ mặt thanh tú, trắng trẻo, không vằn vện, chia thành tiểu sanh (các vai nam trẻ tuổi), lão sanh (vai nam già), vũ sanh (vai võ tướng đẹp trai như Tiết Nhân Quý, Tiết Đinh San, La Thông v.v…), oa oa sanh (kép nhí, tức các vai bé trai)…
  2. Đán (旦) là đào, chia thành chánh đán (thanh y) tức các vai đào chánh, hoặc đào thương, giữ các vai trò đoan trang, trang trọng, tiết liệt, chủ yếu là đòi hỏi giọng hát, không cần vũ đạo nhiều, hoa đán (đào mùi hoặc đào lẳng, tùy theo vở tuồng), vũ đán (nữ tướng), lão đán (đào mụ), thái đán (đào độc, chuyên đóng các vai gian trá, hung ác, ty tiện, hoặc những vai nữ tỳ hay bình dân tinh nghịch, có tánh cách chọc cười, ăn nói sắc sảo, hoạt kê).
  3. Tịnh (còn gọi là hoa kiểm) là các vai vẽ mặt vằn vện, thường là nam; đa số là vai vũ tướng, rậm râu như Hạng Vũ, Trương Phi v.v…
  4. Sửu (丑) là các vai hề.
  5. Mạt (末) là những vai nam đeo râu dài, nhưng không vẽ mặt vằn vện, thường đóng vai quan văn, ẩn sĩ, đạo sĩ…

File đính kèm

STT Tên File Tải xuống
1 Cảm Ứng Thiên Vựng Biên (file Word) Xem File