Cảm Ứng Thiên Vựng Biên | Quyển 3

Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

感 應 篇 彙 編

Quyển 3

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2000)

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Đức Phong – Huệ Trang

 

 

          (Chánh văn) Khinh miệt thiên dân, nhiễu loạn quốc chánh.

         (正文)輕蔑天民。擾亂國政。

          (Chánh văn: Khinh miệt dân chúng, nhiễu loạn nền chánh trị trong nước).

          Mạng lệnh của Thượng Đế lấy lòng dân làm chủ. Phàm những người dân đen đều là con đỏ của Thượng Đế. Vì thế gọi là “thiên dân” (天民, dân của trời). Trời yêu dân tột bậc; lập ra vua, lập ra Tể Tướng, lập ra các quan chức, không gì chẳng vì dân chúng! Sanh ra bậc hào kiệt, sanh ra thánh hiền, thành tiên, thành Phật, thành thần minh, cũng không gì chẳng vì dân vậy! Xếp đặt ngũ hành, tăng trưởng muôn vật, đặt định núi, sông, ấn định kiếp vận, mở mang [thời thế] bình trị hay loạn lạc, xét đoán báo ứng, cũng không gì chẳng vì dân vậy! Do đó, sách Châu Lễ chép: “Hễ có người dâng lên vua [bản ghi chép về] số lượng dân chúng, vua ắt lạy rồi tiếp nhận”[1]. Trọng Ni (Khổng Tử) [đang ngồi trên xe] bèn khom mình phủ phục xuống tấm ván chắn ngang trước xe [để tỏ lòng kính trọng] người cầm bản đồ lãnh thổ. Như vậy thì há có nên khinh miệt dân chúng hay chăng?

          Vua Nghiêu nói: – Ta quan tâm thiên hạ, dốc lòng lo nghĩ cho dân nghèo, đau xót vì nỗi hiểm nguy của muôn họ, lo lắng vì những điều bất thuận lợi của mọi người, thi hành điều nhân mà đạo nghĩa được thành lập, truyền rộng đạo đức, cảm hóa [dân chúng] rộng rãi. Vì thế, chẳng tưởng thưởng mà dân siêng năng [vâng giữ đạo nghĩa, đức hạnh]; chẳng trừng phạt mà dân yên ổn.

          Đường Thái Tông nói: – Dân là cội gốc của đất nước. Đức là cội rễ của thân[2]. Đức dầy thì mọi người sẽ mến mộ. Dân yên, ắt nước vững. Vì thế, kẻ đứng đầu nhân dân mà có đạo đức nhân hậu, dân sẽ nương về như cha mẹ, lẽ tự nhiên là sẽ có lãnh thổ, có tài sản vậy.

          Xét từ những lời này, [ta thấy] các bậc thánh vương xưa nay còn chẳng nỡ lòng khinh miệt dân chúng như thế ấy, huống hồ những kẻ thay vua cai trị dân mà chẳng thấu hiểu ý này ư?

          Đời Tống, Trịnh Thanh Thần tánh hà khắc, làm huyện lệnh ở Hòe Lý, ngược đãi dân chúng. Đến khi hắn rời nhiệm sở, dân chúng chặn đường thóa mạ. Thanh Thần dâng sớ về triều, hạch tội dân chúng thuộc vùng hắn cai quản đã dám khinh lờn, nhục mạ trưởng quan. Tống Chân Tông nói: “Cai trị cốt yếu là được lòng người. Lòng dân đã như thế, có thể biết ngươi cai trị theo kiểu nào rồi! Ngươi còn dám oán hận dân chúng, để rồi [dám ôm lòng] khinh nhờn triều đình mà tấu trình ư?” Hắn bèn bị hạch tội, bị biếm trích.  

          Đời Minh, ông Đào Đại Lâm nói: – Bọn ta đã được dự vào hàng quan lại, dẫu niệm nào cũng luôn nghĩ giúp người, lợi vật, nhưng đối với tội nghiệp trong cả một đời, vẫn chẳng thể chuộc một phần vạn được! Ta trước kia được vua sai phái [đi công cán], bèn rời kinh thành, từ kinh thành đến đất Nghi, đất Việt, rồi từ đất Việt trở về kinh đô. Phàm mấy ngàn dặm, đường thủy, đường bộ, ngồi thuyền, ngồi xe, sử dụng phu phen khiêng vác, chuyên chở, lôi, dắt [ngựa, lừa], chẳng biết là bao nhiêu người. Nghĩ tới dân chúng xanh xao, bụng rỗng, quần áo tả tơi, toàn là con cái của người ta. Đang trong lúc nóng hừng hực, mồ hôi tuôn đầm đìa như mưa, thở hồng hộc như sấm động. Gặp cơn rét buốt, họ bươn bả trên đường băng, xông pha mưa tuyết; do vậy, trượt ngã, mất mạng trên đường, chẳng thể kể xiết! Những tội lỗi ấy đều do ta tạo. Nếu cái thuyết báo ứng chẳng phải là bịa đặt, há chẳng đáng kinh sợ ư?

          Năm Đại Lịch[3] thứ hai (767) đời Đường, mùa Thu bị mưa dầm, mùa màng tổn hoại. Huyện lệnh Vị Nam là Lưu Tảo trình báo thóc lúa trong huyện chẳng bị hư hao. Quan trên nghi ngờ, sai người đến xem, [phát hiện] hơn ba ngàn khoảnh ruộng bị hư hoại. Quan trên than: “Huyện lệnh là quan cai quản dân chúng, dẫu không bị tổn thất, vẫn nên nói là bị tổn thất. Thế mà hắn bất nhân như thế đó”, bèn phạt hắn tội lưu đày!

          Đời Tùy, vào thời đầu niên hiệu Nghĩa Ninh[4], vùng Du Lâm bị đói to. Quận Thừa là Vương Tài chẳng lo cứu đói. Quách Tử Hòa hiệu triệu dân đói, bắt Vương Tài, hạch mấy tội, chém chết Vương Tài rồi khởi loạn. Tuy đấy là hành vi của lũ đạo tặc, rốt cuộc [chúng] cũng bị [triều đình] giết chết, nhưng chuyện này cũng đủ để răn dè những kẻ chẳng dốc sức cứu tế dân chúng vậy.

          Nước nhà cần phải bồi dưỡng phước khí hòa bình, chớ nên mặc sức biến cải [chánh sách]. Nếu có những đề nghị cải cách, phải mười phần [suy xét] tường tận, thận trọng. Nếu chỉ vì ý kiến riêng tư của một kẻ mà thay đổi, cứ bộp chộp, bàn bạc qua quít rồi thi hành một phen, ắt [dân chúng] sẽ có một phen bị nhiễu hại. Huống hồ các pháp tắc là do tổ tông đã định, những người có chức trách phụng hành đã lâu, dân cũng quen lệ tuân hành, cớ gì bày vẽ sửa đổi, gây nên nhiễu loạn vậy thay?

          Đời Tống, Lý Hàng làm Tể Tướng. Mã Lượng nói: “Người ta nghĩ ông là cái hồ lô không có miệng”[5]. Lý Hàng đáp: “Ta đối với việc cai trị chẳng có tài cán sở trường gì, nhưng trong ngoài hễ có ai trình bày điều lợi, lẽ hại, phàm là những kiến nghị thay đổi xuất phát từ tình tự xung động [nhất thời], hết thảy đều bác bỏ, ngõ hầu có lợi cho nước nhà. Nay những pháp chế của quốc gia đã hết sức chi ly, nếu cứ nghe theo những kiến nghị ấy, thực hành từng điều một, ắt sẽ gây tổn hại rất nhiều [cho đất nước và nhân dân]. Những gã gian ngụy may mắn được bổ dụng, có chịu suy nghĩ: [Do họ đề xướng những trò canh tân, cải cách ấy] mà dân chúng bị nhiễu loạn hay chăng?”

          Lý Lâm Phủ ra sức đề xướng cách sử dụng quân Khoắc Kỵ[6]. Triều đình bàn luận rất nhiều phen, Lâm Phủ vẫn dốc sức duy trì, cho nên quân đội đời Đường rời rã, chán nản. Vương An Thạch sáng chế, thực hiện tân pháp, phiền nhiễu dân chúng, nguyên khí của nhà Tống từ đấy bị suy vi. Những trường hợp ấy đều là do [những “sáng kiến”] nhiễu loạn mà gây nên tai hại vậy!

 

          (Chánh văn) Thưởng cập phi nghĩa, hình cập vô cô.

          (正文)賞及非義。刑及無辜。

          (Chánh văn: Khen thưởng kẻ phi nghĩa, trừng phạt người vô tội).

          Cách tưởng thưởng đúng lẽ vốn nhằm để đề cao phẩm đức, báo đáp công huân. Đấy là điển lễ to lớn của triều đình, nhằm khích lệ, khuyến dụ lòng người vậy. Không đáng thưởng mà cứ thưởng thì gọi là “phi nghĩa”. Trái nghịch là Phi (非). Lơi lỏng pháp lệnh, kỷ cương, tăng trưởng điều ác, a dua lẽ riêng tư, nâng đỡ kẻ gian tà, gạt bỏ kẻ chánh trực, sẽ khiến cho lòng trời tức giận nhất. Do vậy, kẻ trông coi việc tưởng thưởng thăng chức, há có nên chẳng thận trọng ư?

          Đời Châu, có thị thần[7] theo hầu Tấn Văn Công thuở còn lưu vong[8], hỏi Tấn Văn Công: “Chúa thượng định ra ba bậc thưởng công, chẳng thưởng cho thần. Dám xin hỏi thần mắc tội gì?” Tấn Văn Công nói: “Kẻ hướng dẫn ta hành xử đúng nhân nghĩa, khuyên ta dùng đức để ban ân, kẻ ấy được thưởng theo bậc thượng. Kẻ giúp ta thực hiện chánh sách, thành lập nước nhà, hạng người ấy được thưởng theo bậc trung. Gian khổ nơi tên đạn, dốc sức hãn mã[9], kẻ ấy được thưởng bậc thứ. Nếu [là kẻ] dốc sức phụng sự ta, mà chẳng bù đắp cho những chỗ ta thiếu sót, sau khi đã ban thưởng ba hạng người ấy rồi sẽ ban thưởng hạng người như ông”. Người nước Tấn vui vẻ. Về sau, [Tấn Văn Công] làm bá chủ chư hầu. Có thể nói Tấn Văn Công đã có thể ban thưởng phù hợp đạo nghĩa. Hễ là như thế, thì [ban thưởng] một chức quan, một tước vị, một sợi tơ, một hạt gạo, há có vướng thói tệ sơ sót chút nào ư? Tự nhiên là những gã bại hoại chánh sự, dùng các mối quan hệ để lo lót, sẽ không thể do đâu mà chen chân được! Những người đang giữ chức vụ sẽ đều khuyên bảo nhau dũng mãnh, ra sức lập công vậy!

          Hình phạt để trừng trị kẻ ác, thánh nhân bất đắc dĩ phải lập ra, vốn chẳng phải là chuyện cát tường, tốt đẹp! Xử phạt đúng tội trạng mà còn buồn thương, chẳng vui. Vì thế, cổ nhân thận trọng trong việc xử phạt, [trước khi dụng hình luôn] thẩm tra tường tận, biện định rành rẽ. Nếu lạm dụng hình pháp đối với kẻ vô tội, không chỉ là đánh mất công năng xét xử nghiêm minh, thích đáng, mà còn trái nghịch ý hiếu sanh của Thượng Đế. Huống hồ kẻ giết người phải bị phạt tội chết, pháp luật đã có điều khoản quy định rõ ràng. Nay hành hình kẻ vô tội, không chỉ là giết chết một người, nhưng kẻ hứng chịu báo ứng chỉ có một thân ta! Cách thức đền mạng chẳng biết sẽ là như thế nào! Ôi! Tội nghiệp như thế đó, dẫu là kẻ chuyên hành xử công bằng, liêm khiết, thật khó tránh gặp lúc ngờ vực, lưỡng lự. [Nếu như] cứ khăng khăng chấp chặt ý kiến [của riêng mình], chẳng trống lòng suy xét tường tận, sẽ đến nỗi có kẻ nuốt hận chốn dạ đài, oan oan chẳng xả! Huống chi kẻ lơ là, chẳng chú tâm ư? Đáng sợ thay!

          Đời Minh, Lữ Khôn tên tự là Thúc Giản, đã biên soạn Hình Giới Bát Chương, [trong ấy đã viết]:

          – Một là năm loại người chẳng đánh, tức chẳng đánh người già, chẳng đánh trẻ nhỏ, chẳng đánh bệnh nhân, kẻ nghèo túng cơm áo chẳng đủ thì không đánh. Người khác đánh, chứ ta không đánh.

          – Hai là năm hạng người đừng tùy tiện đánh: Tông thất[10] đừng không xét kỹ mà đánh. Hai là người thuộc giới quan chức, đừng tùy tiện đánh. Ba là sanh viên[11] đừng tùy tiện đánh. [Bốn là] những người được cấp trên sai khiến đừng tùy tiện đánh. [Năm là] đối với phụ nữ đừng tùy tiện đánh.

          – Ba là có năm tình huống đừng nên đánh ngay: Người đang gặp lúc gấp rút đừng đánh, người đang giận dữ đừng đánh, người đang say đừng nên đánh, người đi đường xa đừng nên đánh, người chạy đến còn đang thở hào hển, đừng đánh.

          – Bốn là có năm trường hợp hãy khoan đánh: Ta giận hãy khoan đánh, ta say hãy khoan đánh, ta bệnh hãy khoan đánh, ta thấy [có chỗ nào trong hồ sơ điều tra] chẳng đúng thì hãy khoan đánh, ta chẳng thể phân xử, hãy khoan đánh.

          – Năm là có ba trường hợp đừng đánh lần nữa: Đã bị phạt kẹp ngón tay thì đừng đánh nữa. Đã bị hình phạt kềm kẹp thì đừng đánh nữa. Đã bị gông cùm thì đừng đánh.

          – Sáu là có ba trường hợp bèn thương xót không đánh: Lúc trời rét buốt hoặc khi nóng bức dữ dội, bèn thương xót chẳng đánh. Vào những dịp lễ lạc bèn thương xót không đánh. Đối với những kẻ mới gặp chuyện thương tâm, sẽ thương xót không đánh.

          – Bảy là có ba trường hợp đáng nên đánh mà không đánh: Kẻ trưởng thượng, tôn quý đáng bị đánh, nhưng bị kẻ kém vai vế hơn hoặc kẻ còn thơ ấu kiện tụng thì không đánh. Dân chúng đáng bị đánh đòn, nhưng kiện tụng với kẻ thuộc về nha môn thì sẽ chẳng đánh. Nhân viên tạp dịch, kẻ làm cho các cửa tiệm đáng bị đánh, nhưng vì sửa chữa cửa tiệm, hoặc mua bán vật dụng để tự dùng [mà phát sanh tranh chấp với người khác] thì chẳng đánh.

          – Tám là có ba trường hợp cấm đánh: Cấm đánh bằng gậy nặng, cấm đánh kẻ dưới quyền, cấm thuộc hạ đánh người khác trái phép.

          Mã Bỉnh làm huyện lệnh huyện Gia Ngư. Có lũ cướp trộm đốt phá [quan phủ], cướp đoạt công quỹ rồi chạy mất. Kẻ cầm đầu [bọn cướp] lắm râu. Bỗng có tin báo tại trấn Đoàn Phong có chiếc thuyền chở từ mười đến hai mươi người, tung tích đáng ngờ. Trong số đó, có một gã râu dài, nhưng thật ra [gã ấy] chẳng phải [là kẻ trộm]. Rốt cuộc, họ Mã bắt họ về, trình báo quan trên “đã bắt được kẻ cướp”. Họ bị chết trong ngục. Họ Mã [nhờ báo công láo khoét mà] được phong làm Ngự Sử. Về sau, kẻ trộm thật sự bị bắt tại một huyện khác. Do quan huyện ấy thấy họ Mã là đồng liêu, nên không truy cứu. [Sau đấy], họ Mã được thăng làm Đô Ngự Sử, [lên đường phó nhậm], thuyền đậu tại trấn Đoàn Phong, ban đêm gặp cướp, cả nhà chết sạch!

          Ông Diêm làm tuần phủ Nam Kinh. Có kẻ vu cáo người dân ở Trấn Giang là Châu Chí Liêm cầm đầu lũ trộm cướp. Chí Liêm là kẻ giàu có, sợ bị tra khảo, bèn hối lộ kẻ quyền quý, [cậy nói với ông Diêm] nương tay. Ông Diêm càng ngờ, rốt cuộc do phạt trượng mà giết chết Chí Liêm. Về sau, ông Diêm rốt cuộc bị Chí Liêm [hóa thành lệ quỷ] đòi mạng mà chết. Do ngờ vực chuyện ông ta (Chí Liêm) hối lộ mà giết chết, tợ hồ vẫn đúng lẽ công chánh, nhưng vì giết chẳng đúng tội, [oan hồn] vẫn có thể biến thành lệ quỷ [đòi mạng ông Diêm]. Há có nên tự cậy chính mình vô tư để rồi quyết đoán xằng bậy ư?

          Lý Quy Chánh làm hiến chức[12] đã lâu. Từng có một hôm ra ngoài, tới cầu Tam Tỉnh, trông thấy mười mấy người đầu tóc rũ rượi, kêu gào oan uổng, dần dần ép sát ông ta. Họ Lý sợ hãi, vội vàng quay về, răn con cái: “Các con mai sau khi phải chọn lựa ngành nào để làm quan[13], đừng làm quan hình tào. Bởi lẽ, ta thanh liêm, cẩn thận, dè dặt, kiêng sợ, luôn noi theo luật định; mà còn đến nỗi khiến cho kẻ khác bị oan uổng như thế. Nay hối hận sao kịp!” Không lâu sau, ông chết. Xem chuyện này thì kẻ chẳng thanh bạch, chẳng cẩn thận, chẳng kiêng sợ, sẽ thành như thế nào đây?

 

          (Chánh văn) Sát nhân thủ tài, khuynh nhân thủ vị.

          (正文)殺人取財。傾人取位。

          (Chánh văn: Giết người cướp của, lật đổ người khác để chiếm đoạt địa vị).

          Giết người đoạt của, chưa chắc đã toàn là kẻ cường đạo. Như quan lại tham lam đoạt của, khiến cho kẻ khác chết trong hình ngục. Kẻ giàu có ham tiền, bức bách kẻ khác trong cơn khốn đốn. Kẻ tàn nhẫn ham cầu tiền tài, hại kẻ khác lâm vào nơi hiểm nạn. Thầy thuốc bất tài vì tiền bạc mà đẩy người khác vào cảnh nguy cấp, đều là do tiền tài mà ra! Chuyện ấy giống như giết người vậy, nhưng chẳng có kẻ nào không bị lệ quỷ đòi mạng rồi cũng tử vong. Thế mà tiền tài đoạt được, rốt cuộc cũng chẳng có lúc nào không bị mất sạch! Những tấm gương quan lại tham lam đã được trích lục khá nhiều trong những phần trước, ở đây, chỉ kể đại lược.

          Lưu Thược Thi làm nghề cho vay nặng lãi. Có những kẻ vay nợ nhiều năm hắn chẳng hỏi tới. Bỗng có một hôm, hắn xách bằng khoán vay nợ đến tính toán, món nợ đã tăng rất nhiều lần [so với món nợ ban đầu]. Đối với món nợ còn thiếu, hắn liền tính lãi theo từng năm, thường là chẳng có kỳ hạn, đến nỗi [người vay nợ] mất sạch gia sản. Kẻ mắc nợ thường bị ép uổng đến nỗi phải chết. Về sau, Thược Thi chết. Nhà hàng xóm có một con nghé sanh ra, trên bụng có ghi tên họ của Thược Thi. Hằng ngày nó bị người thiếu nợ đánh đập, sai khiến, thân thể [con nghé] không có chỗ da nào lành lặn! Những kẻ cho vay lời trong nhân gian, nếu có thể giữ tấm lòng khoan dung, cũng tùy lúc, tùy chỗ tạo thuận tiện cho người khác. Hiềm rằng có kẻ biết [lẽ ấy] nhưng chẳng chịu làm, là vì cớ sao vậy?

          Người lái thuyền trên sông Dương Tử là Cung Soạn, nương theo trận gió lớn, dìm chết một thương gia giàu có, chiếm đoạt tài sản của người ấy, trở thành người giàu có. Hắn sống tại Duy Dương, sanh được một trai. Con đã lớn bèn coi cha như kẻ thù. Cung Soạn tức tối, phẫn nộ, cầu tiên giáng cơ [chỉ dạy]. Tiên phán rằng:

          Canh Tý bát nguyệt Tây phong ác,

          Dương Tử giang trung ba lãng tác.

          Nhị thập niên tiền nhất niệm sai,

          Quý quân thí bả tâm đầu mạc.

          (Tạm dịch:

          Canh Tý, tháng Tám, gió Tây giật,

          Trường Giang sóng cuộn đã làm gì?

          Hai mươi năm trước một niệm quấy,

          Thử xét lòng ngươi chẳng thẹn ư?)

          Cung Soạn hết sức kinh hãi, bỏ nhà đi, chẳng được chết yên lành. Ôi! Mưu chiếm đoạt tài sản mà chẳng thể tự dùng, rốt cuộc vẫn do oán gia sở hữu. Cái giành được là suốt hai mươi năm bận lòng lo lắng và chẳng thể chết an lành. Đã thế, còn chưa tính nợ trong cõi âm ty, nỗi khổ ấy biết làm sao được?

          Một gã công sai xuất hành từ sớm, đến vùng đồng hoang gai góc. Có kẻ mang theo một món tiền, thấy gã công sai đi tới, ngờ hắn có dị tâm, bèn trốn trong đám cây rậm. Gã công sai cũng mờ mịt, chẳng biết là gì, vừa mới nghe tiếng bước chân, đến gần chẳng thấy ai, sợ là hổ, báo, bèn lấy ngọn thương đâm khắp lùm cây. Đâm trúng bèn lôi ra thì người ấy đã chết, mới biết là lầm lẫn. Đã không biết làm sao, bèn lấy tiền trong bọc người ấy, vứt xác kẻ ấy vào rừng gai, không ai hay biết. Nhờ đó, nhà gã công sai giàu lên. Vợ hắn sanh được một gái. Một hôm, gã công sai ở cửa chính, bỗng thấy người bị đâm mò tới, liền đóng chặt cửa, dòm lén. Rốt cuộc, người đó vào nhà người thợ da đối diện, người [thợ da] ấy bèn sanh được một trai. Gã công sai biết nhân duyên, đãi đằng người thợ ấy nồng hậu, yêu thương con trai người ấy, gả con gái cho. Người thợ da mừng rỡ, bảo con hãy phụng sự gã công sai như cha. Về sau, gã công sai uống rượu nằm ngủ, trời nắng gắt, hắn đổ mồ hôi đầm đìa. Đứa con trai người thợ da đứng hầu bên cạnh, nhẹ nhàng dùng lưỡi dao gạt mồ hôi. Trong cơn say, gã công sai không biết là vật gì, bèn lấy tay đập, đao cắm phập vào bụng, chưa chết ngay, bèn gọi người nhà, kể rõ nguyên cớ. Đứa con gái xuất giá, đem hết tài sản trong nhà trả lại cho người ấy (đứa con người thợ da).

          Tôn giả Mục Liên sáng sớm ra khỏi thành, thấy một ngạ quỷ khóc lóc, thưa rằng: “Thân này của con giống như một khối thịt, chẳng có tay, chân, mắt, tai, miệng, mũi, v.v… bị các loài chim và loài trùng thường xuyên cắn, nuốt. Do tội gì mà nên nỗi?” Ngài Mục Liên bảo: “Đời trước, ngươi làm thầy lang, chẳng tinh thông y thuật, cắt thuốc xằng bậy, khiến cho bệnh nhân chẳng thể sống nổi. Vì thế, thành ra nông nỗi này”.

          Đời Tống, ông Phạm Văn Chánh (Phạm Trọng Yêm) chẳng làm Tể Tướng, bèn nguyện làm danh y, vì sẽ cứu được nhiều người. Những gã thầy thuốc dốt trong thời gần đây, chẳng biết ý này, chỉ biết coi trọng tiền bạc, phần nhiều phạm vào bảy điều sát hại:

          1) Như chứng bệnh vốn có hoãn và cấp, nay họ dùng thuốc dành cho bệnh hoãn đãi để chữa chứng bệnh cấp tốc, dùng thuốc dành cho chứng bệnh cấp tốc để chữa bệnh hoãn đãi. Đấy là điều giết hại thứ nhất.

          2) Coi bệnh vặt là bệnh ngặt, coi bệnh nhẹ là bệnh nặng. Vì thế, dùng thuốc độc khiến cho bệnh nhân chịu đau khổ, mà chỉ thu được công hiệu chậm chạp. Đó là điều giết hại thứ hai.

          3) Thấy bệnh nhân có giàu, nghèo. Đối với kẻ giàu bèn dụng tâm, xem nhẹ kẻ nghèo. Đấy là điều giết hại thứ ba.

          4) Lười nhác, ham chơi, ham ngủ, né tránh lạnh, nóng [chẳng chịu đi thăm bệnh], đánh cờ, nhậu nhẹt, cờ bạc. Đấy là điều giết hại thứ tư.

          5) Ra toa, chẩn mạch chẳng tinh tường, đoán mò bệnh tật để thử thuốc. Các thầy thuốc gặp nhau bèn gièm báng lẫn nhau. Đấy là điều giết chóc thứ năm.

          6) Thấy người bệnh mà chẳng chữa trị, [người ta] đến mời chẳng đi, khiến cho bệnh tình [của bệnh nhân] nặng hơn. Đó là điều giết chóc thứ sáu.

          7) Chẳng tinh thông dược vị, chẳng bào chế đúng cách, hoặc tăng, hoặc giảm, đến nỗi lầm lạc gây tổn thương [cho bệnh nhân]. Đấy là điều giết chóc thứ bảy.

          Có bảy điều ấy, sẽ giết người còn hơn cầm dao bén [đâm người]! Dao bén đâm lút cán mà nếu chẳng phạm đến chỗ yếu hại, [người bị hại] còn có thể sống sót. Thế nhưng một viên thuốc lọt vào miệng, ngũ tạng đều bị nứt toạc. Vậy mà vẫn tự phụ bảo: “Ta là bậc danh y”. Còn như kẻ uống thuốc, càng chớ nên ẩn giấu gốc bệnh. Nếu giấu diếm chẳng nói, cũng như do thấy thuốc men đắt đỏ bèn bỏ chẳng dùng, thậm chí dùng bạc xấu vì tiếc tiền trả công thầy thuốc, ắt cũng là tự tìm đường chết đó thôi, còn oán trách thầy thuốc nỗi gì!

          Một quan, một chức đều có mạng trời. Kẻ thuộc hạ cấp thấp, do tu thiện mà có thể hiển đạt tót vời. Kẻ bình dân làm lành, có thể hưởng quan lộc. Nếu âm hiểm, khuynh đảo lẫn nhau, hãm hại người khác để chiếm đoạt địa vị, thì kẻ khuynh đảo vẫn bị kẻ khác khuynh đảo, kẻ chiếm đoạt của người khác rốt cuộc lại bị kẻ khác tước đoạt. Báo ứng mau chóng, có thể trông thấy trong một thời gian ngắn!

          Đời Tống, Di Đức Siêu thấy quan Xu Mật Tào Bân công huân, danh vọng long trọng. Do vậy, hắn bèn vu cáo ông Tào âm mưu phản nghịch. Vì thế, Tào Bân bị bãi chức, còn Đức Siêu được phong làm Xu Mật Sứ. Chẳng lâu sau, do Triệu Phổ tận lực biện định, xóa nỗi oan [cho ông Tào]. Vua hiểu ra, bèn đày Đức Siêu đi xa, đãi ngộ Tào Bân như cũ. Xem chuyện này, [sẽ thấy] “khuynh đảo người khác thật ra là khuynh đảo chính mình”, chẳng càng đáng tin ư? Nhưng hãm hại kiểu này vẫn còn nhỏ nhoi!

          Còn như Lý Lâm Phủ đời Đường ở ngôi Tể Tướng, phản phúc, khuynh đảo, hãm hại để củng cố địa vị của chính mình. Thuở ấy, những vị tướng soái ngoài biên cương đều là bậc danh thần. Những người có công lao rạng rỡ sẽ được vời về triều làm Tể Tướng. Lâm Phủ muốn chặn đường họ, bèn tâu rằng: “Các quan văn khiếp sợ tên đạn, xin hãy dùng người Hồ[14] để thay thế, họ sẽ có thể dốc trọn sức đến chết”. Do vậy, dẫn đến cuộc biến loạn của An Lộc Sơn. Đấy là vì ý niệm lo lắng cho tước vị mà làm hại người trong toàn thể thiên hạ vậy. Rốt cuộc, do mắc tội tư thông với kẻ phản nghịch, hắn bị [triều đình xử phạt] bửa quan tài, chém xác. Vốn hắn chẳng phạm tội ấy, nhưng vì khuynh loát bậc hiền tài để củng cố địa vị, trọng dụng An Lộc Sơn, cho nên [Lý Lâm Phủ] rốt cuộc bị kết tội phản nghịch! Há chẳng phải là hoàng thiên đã âm thầm ấn định bản án đấy hay chăng? Than ôi! Kẻ làm bầy tôi ăn lộc vua, phụng sự như thế nào mà đến nỗi ấy? Người xưa nói: “Khuất thân phụng sự vua, hãy nên coi tấm thân ấy chẳng phải là của chính mình nữa. Vì thế, niệm nào cũng nghĩ đến vua, đến đất nước, há còn nặng lòng vì gia đình của chính mình ư? Há còn lo lắng [chính mình] bất trung nữa ư!” Lời ấy có thể coi như là dược thạch[15] cho hạng người trên đây!

 

          (Chánh văn) Tru hàng lục phục, biếm chánh bài hiền.

          (正文)誅降戮服。貶正排賢。

          (Chánh văn: Giết hại kẻ đã đầu hàng, lưu đày người ngay, gạt bỏ người hiền).

          Binh đao hung ác, chiến tranh nguy hiểm, thánh nhân bất đắc dĩ phải dùng. Vì thế, người xưa do giết địch quá nhiều, bèn đau buồn, thương xót. Khi đã chiến thắng, bèn mai táng [địch nhân] theo đúng lễ. Đối với những kẻ đã đầu hàng, quy thuận, sẽ càng xót thương, phủ dụ. Nếu họ đã đầu hàng mà lại còn tàn sát, nhẫn tâm tạo nghiệp, họa lớn chẳng gì bằng!

          Đời Minh, ông Nhan Mậu Do nói: – [Nếu nói] “người có lòng nhân từ không nắm giữ binh quyền”, tức là kẻ làm tướng ắt sẽ tàn sát ư? Thưa, chẳng phải vậy. Người làm tướng do cứu dân mà ngăn dứt sự tàn bạo, dẹp loạn, giữ yên đất nước, ắt [dân chúng sẽ] có hy vọng sống còn trong ấy. Do vậy, vì sự sanh tồn [của toàn dân] mà giết [kẻ phản loạn] thì không ai có công hơn người làm tướng được! Vì sao? Giết một kẻ để cứu vạn người; so với chuyện làm lành lúc bình thường, cố nhiên là có sai khác! Nếu vì giết chóc mà giết chóc[16], ắt tội cũng không ai hơn kẻ làm tướng được! Cớ sao? Hễ thất bại thì phần nhiều là giết chính mình, hễ thắng lợi thì sẽ giết nhiều quân địch. Quân luật chẳng nghiêm, ắt [quân lính] sẽ giết nhiều người vô tội, toàn là trách nhiệm của chủ tướng vậy. Do đó, sai tướng [cầm quân chinh phạt], chẳng thể không thận trọng, mà vị tướng sai phái thuộc hạ lại càng chớ nên không thận trọng.

          Cổ nhân nói: “Ba đời làm tướng là điều kiêng tránh của Đạo gia”. Nhưng dùng giết chóc để ngăn dứt giết chóc cũng là chuyện [do tình thế] bắt buộc phải như vậy. Vì thế, tùy thuộc cách sử dụng như thế nào đó thôi!

          1) Thứ nhất là sợ vô sự mà sanh sự, dùng xương khô của trăm vạn người để đổi lấy cái ấn phong hầu!

          2) Thứ hai là sợ dùng hung bạo này thay cho sự hung bạo khác, lạm sát dân chúng, vì tranh công mà chặt đầu kẻ khác.

          3) Thứ ba là sợ đôi bên giao chiến kịch liệt, ra sức tàn sát, phe ta lẫn phe địch đều phải hứng chịu. Kẻ chỉ huy có thể nói: “Do lệnh ta mà giết người để phô trương oai thế”. Lại có thể nói: “Giết người là chuyện của kẻ khác, cho phép thuộc hạ lạm sát, cướp bóc để phô trương thanh thế. Vì đó, ta có thể coi đấy là chiến công của chính mình”. Bởi lẽ, đạo làm tướng thì trước hết là phải nghiêm cấm quân đội giết hại, chế ngự binh lính nghiêm ngặt, ắt binh sĩ sẽ chẳng gây hại, mà còn là có công. Do vậy, [nói] “dùng sống còn để hướng dẫn giết chóc” (vì mục đích bảo vệ sanh mạng của người dân mà giết địch hoặc kẻ phản loạn) là như thế đó.

          Đời Hán, Lý Quảng tay dài như vượn, có tài thiện xạ. Dân Hung Nô kiêng sợ, đặt biệt hiệu cho ông ta là Phi Tướng Quân (tướng quân bay). Nhưng ông ta vận số trắc trở, chẳng được phong tước hầu, đã từng nói với Vương Sóc là một tay tướng số chuyên xem khí sắc: “Quảng kể từ lúc búi tóc (hai mươi tuổi), giao chiến với Hung Nô, chưa hề chẳng giành đi trước. Hễ quân Hán đánh Hung Nô, Quảng chưa hề không tòng chinh. Nhưng những kẻ thuộc lớp sau đều được phong hầu, riêng mình Quảng chẳng thể! Vì lẽ nào?” Vương Sóc hỏi: “Tướng quân có chút gì ân hận hay không?” Lý Quảng đáp: “Đã có tám trăm người Hồ đầu hàng, Quảng đều giết sạch, khá là hối hận”. Vương Sóc nói: “Họa không gì lớn bằng giết kẻ đã đầu hàng. Đấy là lý do khiến cho Ngài chẳng được phong hầu vậy!” Về sau, Lý Quảng cũng vì đánh trận thất bại bèn tự sát. Cháu nội là Lý Lăng lại vì chuyện đầu hàng quân giặc mà cả họ bị tru di.

          Đời Nguyên, khi [quân Mông Cổ] vừa mới chiếm được vùng Giang Lăng[17], Liêm Hy Hiến[18] trông coi[19] vùng Kinh Nam, hạ lệnh: “Phàm kẻ nào bắt được tù binh mà dám tàn sát, sẽ bị luận tội giống như cố ý giết hại dân thường”. Trong quân đội, những tù binh do bệnh tật mà được [chủ nhân] thải ra, cho phép người khác nhận về nuôi. [Khi người tù ấy đã] lành bệnh, chủ cũ chẳng được giành lại. Nếu có kẻ nào gán vợ bán con, sẽ bị phạt tội nặng, mà còn chẳng nhận được món tiền gạ bán ấy. Ấy là vì Liêm Hy Hiến chẳng thích tàn sát, cho nên có thể làm như thế. Ông mất, thụy hiệu là Văn Chánh. Một người em trai của ông có sáu đứa con trai đều quý hiển.

          Đày đi xa thì gọi là Biếm (貶); hãm hại khiến cho kẻ khác bị mất địa vị thì gọi là Bài (排). Bậc chánh nhân hiền sĩ là rường cột của nước nhà, đáng nên trọng dụng, ngõ hầu triều đình có người, trong ngoài biết sợ. Nếu đố kỵ vì người ấy khác biệt [ý kiến, chí hướng] với mình, bèn dùng nhiều phương cách khiến cho người ấy bị đuổi, bị đày đi xa, trở ngại người hiền, khiến cho nước nhà suy vi, chẳng có tội ác nào lớn hơn thế!

          Đời có Bá Nhạc[20], sau đấy mới có thiên lý mã (ngựa ngàn dặm). Thiên lý mã luôn có, nhưng Bá Nhạc chẳng thường luôn có. Gặp gỡ nhân tài, cũng giống như vậy đó. Nếu kẻ đang nắm giữ địa vị đều như Bá Nhạc, ắt là bậc có khí lượng đạo đức, sẽ có thể làm Tể Tướng. Người hiểu biết đại thể sẽ có thể làm gián quan. Kẻ thông hiểu pháp tắc, sách lược, sẽ có thể giao cho binh quyền. Kẻ có thể trấn thủ, vỗ yên, sẽ có thể trao giữ chức vụ một phương. Kẻ có khí phách, sẽ có thể làm quan giám sát. Kẻ liêm khiết đối với tiền tài, có thể làm quản lý tiền bạc, thóc gạo. Kẻ biết yêu dân, sẽ đều có thể làm Thái Thú hoặc huyện lệnh. Như thế thì các chức vụ lớn nhỏ sẽ đều có người [xứng đáng đảm nhận], ngoài đồng nội chẳng bỏ sót nhân tài, mà trăm việc đều được thực hiện tốt đẹp vậy!

          Đời Minh, Nhan Mậu Do nói:

          – Phàm là kẻ mưu toan để biếm trích, hãm hại người khác mất chức và kẻ có thể rộng dung người hiền, vốn chẳng khác biệt cho mấy, [sở dĩ có khác biệt] chỉ vì ngã kiến gây lụy. Có trường hợp nghe danh tiếng, khá là yêu mến, hâm mộ, cho đến khi gặp mặt, cư xử, sẽ có một, hai chuyện chẳng thể nhẫn nại được. Chất chứa càng lâu, sẽ trở thành oán cừu, hiềm khích. Vì thế, rộng dung người hiền ở xa sẽ dễ dàng, rộng dung người hiền gần kề sẽ khó khăn. Dung thứ kẻ hèn kém dễ dàng, dung thứ người sang cả khó khăn. Dung thứ tạm thời sẽ dễ dàng, dung thứ lâu dài sẽ khó khăn. Vì sao? Tánh khí va chạm nhau, tài năng xung đột, danh vọng lấn át nhau, oai thế chèn ép nhau. Nhưng người hiền ấy cũng chẳng thể hoàn toàn bình tâm tĩnh khí, vô ngã được. Sau khi giao du lâu ngày, sẽ thật sự thấy kẻ hiền ấy có chỗ chẳng đúng, [bèn nghĩ ngợi]: “Xưa kia hâm mộ đức hạnh của kẻ ấy, chính là vì đã nhận biết sai lầm rồi sanh lòng kính trọng!” Ngày nay ghét kẻ hiền, vẫn cảm thấy là tâm ta đã lắng lòng [cân nhắc kỹ càng rồi]. Hễ [kẻ nào] nói “thật sự chẳng thể dung thứ”, thật ra là do kẻ đó chẳng thể tiêu trừ [cái tâm đố kỵ ấy]. Vì thế, có khi bậc quân tử gặp gỡ, rốt cuộc trở thành oán cừu, chống trái. Thói tệ khởi nguồn chính từ chỗ này. Thường ngày, cần phải chế ngự những thói xấu của chính mình, nhẫn nhục, vô danh, vô tướng, thật sự có thể xả thân vì nước, đối với hết thảy chê, khen, yêu, ghét, chẳng bận lòng mảy may, thì mới có thể tạo phước cho con cháu và lê dân vậy!

          Đời Tống, Tạ Bí hiểu biết người khác nhất, chẳng dễ dãi nhận lời ai [để tiến cử kẻ khác]. Suốt đời, ông chỉ tiến cử không quá vài người. Mỗi lần gởi thư tiến cử, ông ắt thắp hương, bái vọng cửa khuyết, lễ bái rồi tâu: “Lão thần lại vì bệ hạ cầu được một người”. Văn Chánh (Phạm Trọng Yêm) và Vương Đán đều do ông ta tiến cử. Ngày ông sắp mất bèn tắm gội, đốt hương, ngồi ngay ngắn, qua đời, đầu chẳng nghiêng vẹo tí nào! Đấy chẳng phải là đã “thi giải”[21] ư?

          Vào thời Xuân Thu nhà Châu, Yến Tử tâu với Tề Cảnh Công: “Nước có ba điều bất tường, nhưng chẳng dính đáng đến chuyện thần kỳ, quái dị! Hễ có người hiền mà không biết; đó là một điều bất tường. Đã biết mà chẳng dùng, đấy là hai điều bất tường. Dùng mà không tín nhiệm là ba điều bất tường. Nói ‘bất tường’ chính là như thế đó”[22]. Vậy thì có nên biếm trích người chánh trực, có nên bãi chức người hiền hay chăng?

          Đời Đường, Lô Kỷ ghét Nhan Chân Khanh, muốn trục xuất ông ta. Khi ấy, Lý Hy Liệt làm phản, Lô Kỷ bèn tâu vua: “Thần mong có bậc trọng thần tánh tình nho nhã, sẽ vì hắn ta (Lý Hy Liệt) phân tích lẽ họa phước, ắt sẽ có thể chẳng nhọc sức xuất quân mà hắn chịu phục. Xét ra, Chân Khanh là bậc cựu thần đã ba triều vua, trung trực, cương quyết, danh tiếng vang rền cả nước, mọi người tin phục, đúng là người đáng sai đi vậy”. Vua cũng nghĩ là đúng, xuống chiếu sai Chân Khanh đến khuyên nhủ Hy Liệt. Về sau, Hy Liệt muốn giữ Chân Khanh ở lại làm Tể Tướng, Nhan Chân Khanh bèn chết (tự sát). Cuộc biến loạn Phụng Thiên[23] thật sự là do Lô Kỷ gây ra. Lý Hoài Quang tấu trình, [hạch tội] Lô Kỷ tàn hại bậc trung lương, gian nịnh gây hại cho đất nước. Hắn bị đày ra Tân Châu rồi chết ở đó.

          Nhan Mậu Do nói: – Phường tiểu nhân đố kỵ, chỉ vì sợ người khác sẽ công kích mình, lấn lướt mình, chẳng biết mưu mẹo trí trá chẳng chống nổi tạo hóa. Khi số mạng đã suy bại, dùng hết mọi mánh khóe, chẳng thể làm gì được nữa! Những gã như Lô Kỷ chẳng phải là không biết [lẽ ấy], chỉ vì không biết làm thế nào được nữa! Thoạt đầu chỉ là một niệm [mong cầu] củng cố ân sủng [của nhà vua]. Chuyện đã đến nước ấy, lâm vào tình thế cưỡi cọp, chẳng thể xuống được! Vẫn là hãy nên thận trọng ngay từ lúc đầu!

 

          (Chánh văn) Lăng cô bức quả.

          (正文)凌孤逼寡。

          (Chánh văn: Lấn hiếp con côi, bức hại bà góa).

          Đối với ý này, trong phần chú giải cho câu “căng cô tuất quả” (thương xót con côi, châu cấp bà góa) trong phần trước đã có nhắc đến. Đức Thái Thượng đã khuyên thương xót, giúp đỡ trong phần trước, lại còn răn đe về chuyện lăng nhục, bức bách trong phần sau. Dặn đi, dặn lại, dụng ý đúng là tha thiết tột bậc. Bởi lẽ, mẹ góa, con côi là nỗi bất hạnh trong đời người, [họ là những người] được trời đất coi trọng. Há có nên rắp tâm vì họ không có nơi nương tựa, mà thừa cơ lường gạt, hãm hại. Hoặc là xâm chiếm, tước đoạt tài sản, hoặc dùng quỷ kế, cấu kết với bọn sai dịch, cậy thế khủng bố, dọa nạt, khiến cho mẹ góa con côi lưu lạc, chẳng thể nào kêu cứu, kiện cáo. Hãy khoan luận quỷ thần luôn dò xét, báo ứng chẳng khoan dung; hãy nghĩ “trẻ mồ côi cũng là con kẻ khác, bà góa cũng là vợ người khác”, xin hãy coi họ như con ta, vợ ta để xét lại.

          Củng Cố ở Phương Thành làm hàng xóm của một người nhà giàu họ Châu. Bỗng nhà họ Châu trai gái đều chết sạch, chỉ còn sót lại một bà già và đứa cháu bé bỏng. Củng Cố bèn mở tiệc rượu, dụ dỗ: “Cháu của cụ trơ trọi, yếu đuối, giữ lấy gia sản để tự sanh nhai, chẳng phải là kế sách vẹn toàn. Sao bằng bán hết cho tôi, tôi sẽ nuôi già, chăm trẻ”. Bà cụ mừng rỡ, lập bằng khoán, giá bán chưa đến một nửa [giá trị thật sự]. Củng Cố vừa nắm được bằng khoán, bèn [trở mặt], bức bách họ dọn nhà. Củng Cố mộng thấy một người quở trách: “Mày mưu toan chiếm đoạt cơ nghiệp của ta, xua đuổi vợ và cháu ta, ta đã tố cáo lên Thượng Đế. Sang năm, cả nhà mày chết sạch”. Năm sau, quân giặc kéo tới. Quả nhiên, cả nhà họ Củng đều chết hết. Bà cháu [nhà họ Châu] do lìa khỏi sản nghiệp, nên tránh khỏi tai nạn. Họ trở về, lấy lại tài sản, sản nghiệp trở về nguyên chủ. Họa giáng xuống cả nhà, những kẻ lấn hiếp mẹ góa con côi hãy nhìn vào gương này thì cũng có thể phản tỉnh, sửa đổi. Còn như anh em, người cùng họ lấn hiếp, bức bách nhau, diệt tuyệt mối thiên luân, sự báo ứng thê thảm càng to lớn hơn nữa, chẳng đành lòng nhắc tới!

 

          (Chánh văn) Khí pháp thọ lộ.

          (正文)棄法受賂。

          (Chánh văn: Coi thường pháp luật, tiếp nhận hối lộ).

          Từ chỗ này cho tới câu “kiến sát gia nộ” (thấy [người khác mắc tội] đã bị giết chết mà vẫn còn giận dữ), đều là nói về chuyện thẩm vấn, xử phạt. Phàm là nha dịch, thư lại, cũng đều được gộp vào trong ấy, chẳng phải là chỉ nói riêng về những vị hình quan[24]. Đức Thái Thượng nói đến chuyện đúng, sai, nặng, nhẹ, trước hết, nhắc đến chuyện coi thường luật pháp, nhận hối lộ. Bởi lẽ, đúng, sai, nặng, nhẹ đều có pháp tắc nhất định, nhưng [kẻ xét án] chỉ mong sao được tiền. Vì thế, bèn nghe theo lời xin của kẻ đã hối lộ mình mà hành xử điên đảo. Nếu chẳng biết đến pháp luật, mặc tình phán đoán lẽ sống chết [của người bị tố tụng theo ý riêng], thì dân chúng sẽ chẳng thể làm gì được! Cớ sao chẳng nghĩ đến chuyện trời giận, người oán, ắt sẽ vướng phải tai nạn lạ lùng vậy thay?

          Đời Minh, ông Nhan Mậu Do nói: – Kẻ làm quan, gia sản vốn từ thi, thư, lễ, nhạc mà có, há chẳng biết sự liêm khiết đáng nên tôn sùng ư? Chỉ vì đã quen thấy chuyện mưu cầu quan tước, trả nợ, biếu xén để được thăng thưởng, đề bạt, [bèn nghĩ] “chẳng làm như vậy sẽ không được!” Thoạt đầu là mới nhúng chàm, nhưng tích tập lâu ngày tiêm nhiễm, tánh tình đã lậm thói tanh hôi. Hơn nữa, lòng người có bao giờ chê chán! Đã được trăm lạng, ắt mơ ngàn lạng. Đã có được ngàn lạng, ắt mong vạn lạng. Thậm chí kẻ quyền thế lừng lẫy, vàng lụa chất đầy tận nóc. Đã chất chứa đến nỗi [bỏ mặc cho nó] cũ nát, mà vẫn [cảm thấy] chưa đủ. Kẻ bàng quan [trông thấy tình cảnh ấy] chẳng ai không nực cười, nhưng kẻ trong cuộc vẫn không hay biết. Ấy là vì thật sự mắc bệnh mê tiền vậy! Phần lớn [những kẻ say mê tích lũy tiền của như vậy] đều là vì tính kế lâu dài cho con cháu, chẳng biết bao nhiêu con em của những kẻ si mê làm giàu [đã gây họa] diệt môn, bao nhiêu kẻ thanh bạch, nghèo túng, đạm bạc mà lại khá lên. Huống chi, phước lộc có vận số, cứ thâu đoạt của cải bất nghĩa cho lắm, để lại món nợ oan nghiệt cho con cháu đền trả! Chẳng thể nói là phước được!

          Còn như lập miếu thờ phụng [tổ tiên], giúp đỡ dòng họ, cứu giúp họ hàng nghèo túng, cố nhiên là chuyện tốt đẹp. Nhưng nếu có cái tâm mong cho sự việc được hoàn thành trọn vẹn mau chóng, ắt sẽ phải thâu nhập trái lẽ quá đáng, làm sao có thể “tích đức, ngưng tụ cát tường, làm quan lâu ngày sẽ tự nhiên giàu có” dài lâu cho được? Phàm kẻ làm quan mà mê rượu, chuộng dâm, ưa giết chóc, đều bắt nguồn từ sự tham mê tiền tài. Căn bệnh mê tiền là do buông lung ý niệm đã thành thói quen. Khi thói quen đã hình thành, ruột gan sẽ thay đổi, sẽ liều chết theo đuổi, chẳng màng [tiền bạc có được do sự tham ô ấy] sẽ là hữu dụng hay vô dụng! Có kẻ khi mới chập chững bước vào quan trường, vẫn còn có thể kiềm chế, nhưng đến khi đã lõi đời, bèn hoàn toàn đảo ngược. Chỉ vì dần dần đã coi quan trường là nhà, coi tiền tài là tánh mạng, nhưng đông hơn cả vẫn là những kẻ vừa chen chân vào chốn vinh hoa, phú quý, bèn cầm ngay chiếc cuốc, cái ky, cái mai [để sẵn sàng đục khoét].     

          Hễ nhận hối lộ, ắt sẽ tàn khốc. Những kẻ đó cho rằng: “Chẳng đánh, ắt trong tâm quần chúng sẽ chẳng kinh hãi, sẽ chẳng có kẻ đút lót”. Nhận hối lộ, ắt sẽ ngang ngược. Kẻ đó cho rằng: “Chẳng điên đảo lẽ đúng sai, ắt lý lẽ sẽ thắng quyền thế, người dân do có chỗ nương cậy, sẽ chẳng sợ [oai thế của quan]”. [Những kẻ] ăn hối lộ, ắt sẽ xun xoe những kẻ thân tín, quen biết [của cấp trên] để nắm bắt ý chỉ [của bề trên]. Họ cho rằng, nếu chẳng tụ tập thành bầy hổ đói, ắt oai lệnh sẽ chẳng được coi trọng. Không bẻ cong [sự thật], bao che, thiên vị kẻ khác, ắt khi phạm lầm lỗi, sẽ chẳng có kẻ [thân tín] để trông cậy. Như thế thì khi phán quyết án lệ, ruột gan đã ngầm chứa điều khuất lấp. Do một điều tham mà sanh ra trăm nỗi khốc liệt! Một gã quan hung ác, lại sanh ra trăm gã nanh vuốt! Ôi! Há lẽ nào dân chẳng vì nghèo túng mà làm trộm cướp ư?

          Điều khó thể chịu đựng nhất chính là kẻ cướp bóc, cưỡng đoạt đã bị tống giam mà vẫn có thể dùng tiền [hối lộ] để chuộc ra. Kẻ nhận hối lộ đã làm trái pháp luật, lại ngược ngạo ra oai [hòng lấp liếm lỗi ấy]. Đối với những tội trộm cắp hàng hóa tại tiệm buôn là những tội vặt vãnh, bèn sử dụng những hình phạt tột cùng tàn độc thấu xương! Còn như kẻ quan tước càng to, cai quản dân chúng càng đông, một người ăn hối lộ, ắt ngàn người bẻ cong pháp luật. Mười người đùa bỡn với pháp luật, ắt vạn người làm tượng đất [để chôn theo]! Như tám trăm thạch hồ tiêu của Nguyên Tải[25], tám mươi vò đường sương (糖霜) của Giả Tự Đạo[26]. Cố nhiên là khiến cho thiên hạ loạn lạc; nhưng những gì bọn chúng nó đã chất chứa, há có còn hay chăng?

          Phàm là bậc trưởng quan, há nên nghĩ “ta cốt sao giữ mình trong sạch” là được rồi! Hãy nên nghiêm cấm thuộc hạ và những quan lại dưới quyền tham ô. Vì sao? Trưởng quan tai mắt hữu hạn, mọi chuyện toàn là do những nha lại trong công môn lo liệu. Nếu như [trưởng quan] luôn đối chiếu, luôn tra xét tường tận mọi vụ án, mọi hình phạt, xét xem trong ấy có những vụ nào mà người nghèo bị mắc lụy, oan uổng gánh tội, hoặc kẻ ngu bị lừa gạt, kẻ yếu thế bị kẻ khác khống chế, gào trời vỗ đất, không cách nào tố cáo được! Chỉ có người trong công môn, dưới là tiếp nhận nỗi đau của người dân, trên là thông hiểu những mối quan hệ trong chốn quan trường. Khi [người dân đang lúc] gian khổ, trơ trọi, nguy ngập, mà nâng đỡ một phần, sẽ hơn tạo phương tiện cho người khác mười phần! Khoan dung một phần, sẽ hơn tạo phương tiện cho người khác mười phần! Nếu có thể cứu giúp kẻ bần cùng, giải trừ oan ức, dạy kẻ ngu, nâng đỡ kẻ yếu thế, chẳng thừa dịp họ gặp nguy mà gạt gẫm, chẳng vì ăn của hối lộ mà đánh đập [phạm nhân hoặc nghi can] tàn khốc, chẳng cần hiểu biết cặn kẽ tình tiết mà đã cố ý oan uổng họ, chẳng điên đảo văn từ (chơi chữ, gài bẫy để kết tội), rối loạn pháp luật, ắt trong một ngày, có thể làm được mười mấy việc thiện. Tích lũy ba năm, sẽ có mấy vạn điều thiện. Người ta đang trong cơn khốn khó, ai mà chẳng biết cảm kích? Thần minh [ở cách đỉnh đầu] ba thước, có vị nào chẳng phù hộ? Tự nhiên hằng ngày chuyện cát khánh (tốt lành) sẽ xảy tới, con cháu hưng thịnh. Nếu chẳng như vậy, tài sản tom góp bằng sự oán độc, dẫu đạt được cũng chẳng phải là phước!

          Lại có kẻ nghèo túng chẳng có tiền tài để [quan trên, nha lại] có thể lừa gạt được; vì thế, bèn dùng hình phạt tàn khốc [để hành hạ họ, làm như thế] chỉ tổn âm chất, chất chứa oán hận để làm gì? Bất luận xưa kia hay trong hiện thời, bậc hào kiệt ẩn thân trong chốn nha môn cũng luôn cúng tế cô hồn, làm trai đàn, thâu nhặt chôn cất đầu lâu, hoặc cũng có kẻ thương xót người già cả cô quạnh, nghèo khó, bèn kêu gọi quyên góp châu cấp, nuôi nấng. [Những người như vậy] toàn là người tốt tâm lành, có ai chẳng phải là con hiếu, cha nhân từ? Chỉ sợ những kẻ coi tiền tài quá nặng, chắc là cõi âm sẽ quở phạt chẳng nhẹ! Sao bằng châm chước tài lực [của chính mình] có thể [giúp đỡ những kẻ nghèo khổ] hay không, lòng luôn nghĩ tạo thuận tiện [cho người khác], dẹp bớt oai thế hùng hổ, đừng buông lung tàn độc? Trong mạng mà có thì đến thời rốt cuộc sẽ có, mai sau ắt hưởng phước lâu dài! Trong ấy (trong số các quan lại, nha dịch), có những vị thiện tín, diệu nhân, hãy nên dùng ý này để khuyên bảo các đồng liêu, công đức càng là vô lượng.

          Phàm là những kẻ làm sai dịch trong chốn cửa công, quen thói bẻ cong pháp luật[27], quen tật đánh đập [tội nhân], giống như những kẻ làm nghề đồ tể, tích tập lâu ngày, ý niệm giết chóc ngày càng thêm lừng, ý niệm cứu sống ngày càng ít ỏi. Vì thế, có kẻ lúc mới vào nha môn, vẫn còn có lòng [trắc ẩn], lâu năm bèn biến thành gã giặc giảo hoạt, quên sạch tánh [hiền lương, nhân từ] thuở trước. Lại có kẻ chính mình còn là người tốt, nhưng do bị mọi người công kích, rốt cuộc đọa trong ác đạo. Vì thế, đối với tâm thuật [của chính mình], chẳng thể không cẩn thận. Những kẻ táng tận lương tâm quá mức, cáo mượn oai hùm, tự cho mình là bậc hào kiệt, làm những chuyện gian trá trái pháp, tranh nhau khoe khoang ta là kẻ đảm lược, mưu trí, chẳng biết là đang tạo ác, tạo nghiệp, con cháu sẽ phải hứng chịu, đời sau phải đền trả, cũng ích chi đâu? Khoan hãy nói đến những điều xa xôi ấy, hãy nhìn vào những gì ta [có thể] thấy nghe trước mắt. Kẻ hại người đã nhiều, lừa gạt quá mức, bị dân trong huyện cùng nhìn bằng nửa mắt[28], có kẻ nào chẳng mắc vào lưới pháp luật? Trong số đó, có kẻ ăn chay, tụng kinh để chuộc tội trước. Cố nhiên cũng là do lương tâm chớm nẩy, có thể giải trừ một, hai phần, nhưng nếu ỷ vào đó, bảo là “có thể chuộc lỗi ác” rồi cứ mặc sức làm bậy chẳng màng thì sai mất rồi! Tiền của do bất nghĩa mà có, bố thí vô ích! Hơn nữa, sám hối tội lỗi mà vẫn tạo tội, tội càng nặng thêm. Chẳng thà làm phương tiện này, khoan dung đối với kẻ bần cùng, cứu vớt người oan khổ. Mọi người biết kẻ như vậy là bậc trưởng giả trung hậu, ắt sẽ nương cậy nhiều, mà tài vật đạt được cũng khá. Gần thì là có pháp luật của nước nhà, xa thì là cõi âm trách phạt, hãy nghĩ kỹ nhé!

          Đời Minh, ông Cảnh Cửu Trù giữ chức Lưỡng Hoài Diêm Vận Ty[29], nổi tiếng liêm khiết. Có lần ông ngồi bên bờ nước, một đứa bé trai thưa: “Nước thanh khiết chẳng bằng sự thanh liêm của sứ quân”. Đầu niên hiệu Thiên Thuận[30], vua muốn đề cử quan viên liêm khiết để tuyên cáo cùng thiên hạ, bèn xuống chiếu phong ông làm Đô Ngự Sử. Về sau, ông làm Thượng Thư. Con ông là Dụ, tuân thủ lời cha giáo huấn, suốt đời vâng giữ sự thanh tu, cũng làm quan đến chức Thái Tử Thái Bảo, Lại Bộ Thượng Thư.

          Phàn Quang làm Quận Tá tại Giao Chỉ, đang làm việc tại nha môn, bỗng gió giật, sấm đánh dữ dội. Phàn Quang, con trai hắn và con chó đều bị sét đánh chết. Vợ hắn trong lúc sấm sét thấy một đạo sĩ nắm lấy thân bà ta, đặt sang chỗ khác, bèn được thoát nạn. Mọi người hỏi duyên cớ, bà vợ đáp: “Từng có hai người thưa kiện nhau, cùng bị tống giam. Kẻ đuối lý bèn hối lộ Phàn Quang, Phàn Quang liền thả kẻ ấy. Người đúng lý lại bị tra khảo dữ dội nhằm ép người ấy nhận tội oan uổng. Những thức ăn [do người nhà] gởi cho người ấy, Phàn Quang đều tước đoạt, đem cho con trai và chó ăn. Người tù ấy vì đói sắp chết, nghe nói ông ta ở trong ngục bèn xõa tóc tố cáo lên cõi trời. Chẳng đầy mấy bữa bèn xảy ra chuyện này”.

          Hầu Giám làm huyện lệnh ở Giang Hạ, làm bạn với một vị Tăng, mỗi khi rảnh rỗi ắt đến thăm. Hễ đến thăm, vị Tăng ắt đã bày tiệc sẵn. Ngẫu nhiên có một hôm đến thăm, Sư đãi đằng thiếu sót. Hầu Giám hỏi nguyên cớ, vị Tăng đáp: “Mỗi lần ông đến, thần Thổ Địa ắt báo trước. Lần này chẳng báo; do vậy, sơ sót trong tiếp đãi”. Hầu Giám kinh ngạc, bảo vị Tăng hãy hỏi Thổ Địa nguyên do chẳng báo. Đêm ấy, vị Tăng mộng thấy [thần Thổ Địa] nói: “Hầu Giám vốn đáng lẽ làm đến Tể Tướng, nhưng gần đây, hắn đã nhận sáu mươi lượng bạc [đút lót] của họ Hồ để xét xử oan uổng một chuyện. Thiên tào đã tước bỏ chức vị Tể Tướng của hắn, chỉ được làm đến chức Giám Ty[31], chẳng thuộc quyền thống nhiếp của tôi nữa, cho nên chẳng báo”. Ôi! Dùng sáu mươi lượng tiền hối lộ để đổi lấy địa vị Tể Tướng, là có trí hay ngu si vậy? Hơn nữa, thần minh không vị nào chẳng tận lực khuyên dạy con người “nhận của đút lót sẽ bị giảm phước”, nhưng kẻ chẳng tự biết đông lắm!

          Lại như thôi quan (推官, vị quan trông coi về hình pháp) là Ngụy Chiêu từng nhận của đút lót bốn trăm lạng, cố ý gỡ tội cho kẻ nọ, khiến người đã bị hại chết phải ngậm oan chẳng giãi bày được. Thượng Đế tước bỏ bổng lộc, ngạch trật, và tuổi thọ của hắn; năm sau, Ngụy Chiêu chết ngắc. Người thời nay thường bảo “gỡ tội đỡ hơn buộc tội” để bào chữa. Theo đúng pháp, chẳng thể dung túng [kẻ có tội], chẳng thể oan uổng người vô tội!

          Hạ Xán Nhiên ở Tú Thủy, làm nha lại trông coi hình sự[32], liêm khiết, chẳng tham. Xét án công bằng, khoan dung, xét theo tình cảm lẫn pháp luật đều thích đáng. Đối với những tội nhân đáng thương, ông thường rộng dung, khoan hồng. Gặp lúc hai tỉnh Sơn Đông và Hà Nam bị mất mùa, ông Hạ lại viết sớ, khuyên Diêu Tư Nhân [đang làm Công Bộ Thượng Thư thuở ấy] hãy xin vua phát chẩn, cứu sống ngàn vạn người. Về sau, ông Hạ đỗ Tiến Sĩ lúc bốn mươi tuổi, làm quan đến chức Lại Bộ Thượng Thư.

          Ông Trần Tài từng nằm mộng thấy thần bảo: “Tử túy khôi[33] dã, thả liên đệ, quan chí Tuần Phủ” (Con trai của ngươi sẽ đỗ đầu khoa Tân Dậu, đỗ đạt liên tiếp, làm quan tới chức Tuần Phủ). Ông tỉnh giấc bèn kể với người khác. Có người nói: “Túy là Tân Dậu”. Đến năm Tân Dậu, quả nhiên con ông thi đậu, nhưng thi Hội chẳng đỗ. Ông hoài nghi giấc mộng chẳng ứng nghiệm. Lại mộng thấy thần bảo: “Số trời là cố định, có sự chuyển dời là do con người. Như thiên tử sủng ái một đại thần, ban cho tước lộc trọng hậu. Nếu đại thần chẳng tận lực trung thành, há có thể nào chẳng bị đoạt mất chức tước, bổng lộc ư? Hoặc là cậy được vua sủng ái mà chuyên phóng túng dụng hình, giết chóc, ắt họa sẽ xảy đến thân! Số trời và phép nước giống nhau. Sau khi con trai của ngươi đỗ kỳ thi Hương, ngươi đã làm năm chuyện [sai trái], nhận tiền hối lộ của kẻ khác, tổn đức nhiều lắm! Há có nên oán trời tước đoạt phước của ngươi ư? Từ nay hãy nên tu đức, may ra còn giữ được tuổi thọ. Nếu không, sẽ đoạt mất tuổi thọ của ngươi!” Ông Trần khóc, lạy, tỉnh giấc, hối lỗi, hướng lành, [rốt cuộc con trai ông ta] chỉ làm tới chức Huấn Đạo[34] là hết mức!

          Phàm là người đã đỗ Cử Nhân, hãy nên tu thân như ngọc, chuyên chú làm những việc gieo bồi đức hạnh, ắt sẽ đỗ đạt và thăng chức đều dễ dàng. Hiềm rằng, kẻ đã bước chân vào chốn quyền thế, lợi lộc, chỉ mong thỏa lòng khoái ý, chẳng biết dẫu tài văn chương cao sâu mà chẳng gặp thời, công danh vẫn bị trở ngại! Thậm chí còn bị giảm thọ, chết yểu, đều thuộc hạng người này. Xin những ai có chí, hãy liền phản tỉnh tu thân. Còn như bậc hương thân là những người được dân chúng ngưỡng vọng, họ đã từ quan về nghỉ, hễ làm lành sẽ có thể khiến cả quận huyện bị cảm hóa, hưng khởi phong tục tốt đẹp cho cả châu lý[35], vun bồi cho thế hệ sau gấp trăm lần những kẻ đang làm quan. Vì thế, kẻ có thể thân cận người hiền, tuyên dương điều thiện, chủ trì phong tục, những người ấy là bậc thượng. Người giữ cho bản thân chánh đáng hòng hướng dẫn mọi người noi gương, tự giữ sự điềm tĩnh, sẽ kém hơn một bậc. Kém hơn nữa là hạng lo tậu ruộng mua nhà. Kém hơn nữa là hạng người lường gạt con côi, đối xử hung bạo với bà góa. Kém hơn nữa là hạng người mưu cầu tài lợi, nói đến chuyện gì cũng vòi tiền, khiến cho phong hóa biến đổi [ngày càng tệ hơn], chẳng dám nhắc tới nữa!

          Vương Tảo làm nha lại thuộc về hình pháp, mỗi ngày đều cầm tiền về. Bà vợ ngờ chồng ăn hối lộ trong khi thẩm tra, bèn sai đứa tớ gái đem mười cái móng giò lợn đem biếu. Đến khi chồng về, bèn nói: “Tôi sai người biếu ông mười ba cái”. Vương Tảo giận đứa tớ gái lấy trộm, bèn tra khảo nghiêm ngặt, đứa tớ gái bị ép uổng phải nhận tội. Bà vợ bèn nói: “Ông hằng ngày cầm tiền về, tôi ngờ ông giở mánh khóe gán ghép kết tội, cho nên dùng chuyện đứa tớ gái để thử ông. Hễ bị tra tấn thì [nghi can] có chuyện gì mà chẳng thừa nhận! Xin ông từ nay đừng đem một đồng nào về nữa! Nhận vật bất nghĩa, sau khi chết, ắt phải chuốc lấy tội vạ”. Vương Tảo run sợ, tỉnh ngộ, mồ hôi ướt đẫm lưng, đề thơ rằng:

          Già khảo truy lai chỉ vị câm (kim),

          Chuyển tăng oán nghiệp kỷ hà thâm.

          Tùng kim bất nguyện cố đao bút,

          Phóng hạ quy lai du trúc lâm.

          (Khảo tra rốt cuộc vì tiền,

          Tăng sâu bao nỗi oan khiên dường nào.

          Từ nay nguyện bỏ bút đao[36],

          Quay về rừng trúc tiêu dao tháng ngày).

          Ông liền chia hết của cải, bỏ nhà học đạo. Về sau, chứng đạo, thành Bảo Hòa Chân Nhân.

          Trương Nhất Tác làm sai dịch cho một vị hình quan ở kinh đô, [luôn] mưu mô để được lãnh trát đi bắt người. Hắn thường cầm theo một cái xích sắt rất lớn. Hễ nhận được tiền thỏa ý, mới thả cho đi. Hễ có chút gì chẳng vừa ý, nếu chẳng lén tra khảo, thì sẽ bịa chuyện bẩm báo quan trên: “Kẻ này tung tích quỷ dị, bí hiểm, hãy nên giam chặt”. Lại còn trên là cấu kết với bọn thư lại[37], dưới là cấu kết với bọn cấm binh[38], vu cáo, bịa đặt, đe dọa, dối trá, không chuyện gì chẳng làm. Ba năm hắn giàu sụ, ai nấy đều sợ. Cái danh hiệu Nhất Tác (一索, một sợi dây xiềng) do đó mà có. Hắn bị Khổng Tuần Án[39] bắt giữ, xử tử, tịch thâu tài sản giao cho quân đội, vợ và con gái bị giao cho giáo phường[40]. Nay những kẻ làm quan lại, sai dịch trong các nha môn đang mài răng hút máu [dân chúng] như Trương Nhất Tác rất đông. [Do vậy, đối với] kẻ chưa gia nhập [giới quan lại, sai dịch], xin khuyên hãy dốc sức cày bừa, buôn bán. Đối với kẻ đã gia nhập, xin khuyên hãy sửa ác theo lành. Đối với thân thích, bằng hữu, cũng đều nên khuyên họ lưu ý.

          Trương Hòa Tư làm ngục quan (quan trông coi nhà tù, thẩm tra phá án), tham ăn hối lộ, tàn khốc. Mỗi khi hắn thẩm vấn, ắt dùng đủ mọi cách tra khảo, gông, cùm, xiềng, xích, [hành hạ tội nhân] khốn khổ, đau đớn tột bậc. Tù nhân trông thấy, ai mà chẳng vỡ mật. [Do vậy, hắn có biệt hiệu] là Sanh La Sát (La Sát sống). Hắn sanh ra con trai, con gái, đều đeo gông thịt, cùm thịt, rơi xuống đất chết tươi. Về sau, Hòa Tư cũng do phạm tội mà bị tru lục.

          Lại có một gã lính canh ngục, tham lam, đối xử bạo ngược với tù nhân. Tù nhân chịu khổ chẳng thấu! Gã canh ngục ấy ắt phải nhận được tiền mới bớt hành hạ. Về sau, hắn sanh con, [đứa con] cũng đeo cái gông bằng thịt, chẳng đầy mấy năm, chết ngắc. Gã canh ngục ấy cũng bị phạt trượng mà chết.

          Trong những nỗi khổ của đời người, lao ngục là khổ sở nhất. Trong ấy, nỗi khổ vì bẩn thỉu, hỗn tạp, dịch bệnh, kiết lỵ nặng nề nhất vào những tháng nóng. Tại kinh đô, mỗi năm các quan vâng chỉ tiến hành nhiệt thẩm[41], nhưng chưa có người thật sự thực hiện đúng. Nếu là bậc quân tử có lòng nhân, xin hãy nhất quyết ấn định theo lệ, đối với những án chưa được giảm khinh, hãy giải quyết trọn vẹn một phen. Đối với những tù nhân phạm trọng tội đang bị xiềng xích, hãy chú trọng sai những nha lại thích đáng đến quét dọn nhà tù, rửa sạch gông cùm, ngõ hầu lòng nhân hiếu sanh của thánh chúa được lan rộng. Trong tháng nóng, chẳng được lạm dụng [quyền hạn để] lấy khẩu cung, chẳng được tùy tiện câu lưu [nghi can], chớ nên không thường xuyên xem xét sổ bộ của nhà tù, tra xét số lượng tù nhân. Nghiêm cấm bọn nha lại, sai dịch không được lạm quyền gán tội cho người khác, phải chú trọng sao cho hầm lửa trước mắt hóa thành thế giới thanh lương. Chuyện này chỉ cốt sao kẻ đang nắm giữ quyền hành, do ý niệm dấy động mà thốt lời, nhấc bút, chỉ trong chốc lát [sẽ có thể giải quyết những tệ nạn tồn đọng] đó thôi!

          Than ôi! Những chuyện vừa nói trên đây, tệ nạn [đối xử] tàn khốc đối với dân chúng của bọn nha lại, sai dịch, không đâu chẳng có! Kẻ cai trị dân đang ngủ say mộng yên trong chốn nha môn cũng nên suy lường chuyện này! Lành thay, ông Châu Thắng đã nói: “Bọn thư lại tham lam, ta chẳng giao án từ cho họ. Bọn sai dịch tham lam, ta chẳng xằng bậy giao cho họ bắt bớ. Kẻ canh ngục tham lam, ta chẳng dễ dãi giao cho họ giam giữ tù nhân”.

 

          (Chánh văn) Dĩ trực vi khúc, dĩ khúc vi trực.

          (正文)以直為曲。以曲為直。

          (Chánh văn: Coi đúng là sai, coi sai là đúng).

          Hai bên kiện tụng lên quan, đúng hay sai chưa định, phán quyết sống hay chết do một lời của ta, há nên khinh suất? Nay đúng sai điên đảo, nếu chẳng phải là do được kẻ khác hối lộ, ắt là vì xử sự theo tình cảm riêng tư. Nếu không, sẽ là vì ơ hờ, lỗ mãng! Hễ vướng vào thói ấy, há có đáng làm quan cai trị dân nữa chăng?

          Người họ Trương nọ làm quan ở đất Thục, xử sự tàn khốc hòng thỏa lòng tham. Hễ xử án cho dân, chẳng quản đúng sai, kẻ có thể đút lót, ắt hắn sẽ từ vô lý biến thành hữu lý. Kẻ chẳng thể hối lộ, dẫu đúng cũng thành sai! Dân chúng đều nghiến răng [căm hận]! Về sau, hắn bị bãi quan, về quê, bị thưa kiện về tội hại mạng người. Con hắn chẳng ra gì, tài sản trong nhà mất sạch. Hắn mắc bệnh ngặt nghèo mà chết.

          Lưu An Dân là một huyện lại, giữ lòng công bằng, được mọi người kính trọng. Hễ dân có chuyện kiện cáo, sẽ chẳng đến huyện ngay, mà ắt sẽ tìm đến ông trước để ông phán quyết đúng sai, vạch ra có nên thưa kiện hay không rồi mới làm theo. Ông ắt sẽ đảm nhận, tiếp nhận vụ án chẳng nề hà. Hễ đúng lý liền nói là đúng lý, đi thưa được. Hễ sai, sẽ phê rằng: “Chuyện này sai rồi! Có kiện cũng thua!” Do vậy, chuyện thưa kiện trong cả huyện giảm thiểu rất nhiều. Về sau, hai đứa con trai của ông đều đỗ đạt, cho đến nay vẫn là vọng tộc.

          Triệu Thời làm Giáo Thọ tại châu Vô Vi. Ông mộng thấy một tù nhân nói: “Tôi bất hạnh bị Tổ Tường làm hại”. Triệu Thời nói: “Tổ Tường thông hiểu pháp luật, lại liêm khiết, cẩn trọng, làm sao oan uổng ông cho được?” Tù nhân nói: “Tôi chết tuy chẳng do ý ông Tổ, nhưng vì ông ta hoài nghi, cho nên đến nỗi chẳng thể phân biệt đúng sai, rốt cuộc luận định tội chết [cho tôi]. Nỗi oán hận chẳng bắt nguồn từ Tổ Tường thì là ai đây? Tôi đã tố cáo dưới âm ty, Tổ Tường chẳng còn được bao lâu nữa đâu!” Hơn một tháng, quả nhiên [Tổ Tường] chết. Gần đây, chuyện thưa kiện vu khống người khác rất phổ biến, dẫu chẳng thể dùng đức cảm hóa, nhưng nếu luật lệ “kẻ vu cáo sẽ bị phạt tội nặng thêm ba cấp” được thực hiện nghiêm ngặt, ắt kiện tụng sẽ giảm bớt. Dẫu có kiện cáo, cũng sẽ chẳng đến nỗi phán quyết sai lầm quá nhiều! Sợ nhất là kẻ thuộc hạ đứng về phía nguyên cáo, tùy tiện sửa đổi nội dung thẩm vấn, hòng dấy động thói kiện cáo, bọn họ chỉ sợ các vụ án sẽ được giải quyết dễ dàng!

 

          (Chánh văn) Nhập khinh vi trọng.

          (正文)入輕為重

          (Chánh văn: [Kẻ đáng phán] tội nhẹ mà phán định nặng hơn).

          Kinh Thư chép: “Tội nghi duy khinh” (Khi có nghi ngờ, thì nên kết tội nhẹ). Lại nói: “Ninh thất xuất, vô thất nhập” (Thà tha tội sai, đừng kết tội sai). Vậy thì cố ý ghép tội nhẹ thành tội nặng, tâm ý thận trọng trong hình pháp của thánh nhân há còn hay chăng? Mạng người quan trọng bằng trời, [đấy là chuyện] hàng quan lại đáng nên lưu ý nhất. Trong cõi đời, vu cáo là chuyện thảm khốc cùng cực. Kẻ dưới dùng chuyện này để chơi đểu [người bề trên], cho đến kẻ nô bộc lấn hiếp chủ nhân, tá điền ngoan cố quịt nợ chủ ruộng, thê thiếp khống chế chồng, [không kẻ nào chẳng dùng thủ đoạn này]. Hễ chẳng cẩn thận, làng nước, họ hàng sẽ thừa dịp nhúng tay, bọn tấn thân[42] do vậy sẽ mài răng, xâu xé gia sản, làm nhục phụ nữ, giam trói thi thể dẫu xác chết đã rữa nát[43], xúm nhau đánh đập tàn nhẫn để đòi hối lộ. Do đó, [những đối tượng dễ bị vu hãm nhất là][44] con vì kích động mà giết chết mẹ, vợ vì quá giận mà giết chồng. [Có kẻ] ỷ mình có nhiều con trai để nương cậy, bèn giết trẻ nhỏ để làm bằng cớ vu cáo người khác, nhắm đến những nhà giàu có như miếng mồi thơm béo. Kẻ có học hoặc bậc thân sĩ tằng tịu với bọn nô tỳ, [đúng là bọn] ăn mày trong phường áo mũ[45], ngấm ngầm lập mưu tính kế, công khai giở trò, sáng giận, chiều vui[46]. Cho nên mới có chuyện ngược đãi thi thể, đốt xương, đạp cửa, phá nhà, kẻ nghèo cùng [chỉ đành] oán hận, khoanh tay đứng nhìn[47], hàng thân thích giàu có [cũng bị liên lụy] gặp phải tai ương, mắc tội. Đủ mọi lẽ chẳng dễ thuật trọn!

          Bậc trưởng quan trong cõi đời cứ riêng cho rằng hễ kiểm nghiệm thi thể và hiện trường vụ án, sẽ đủ để luận định kết án, hòng được ca ngợi là [phá án] mau chóng. Nào có biết bọn “cá rỉa thịt nát, kình ngư nuốt chửng, hổ xơi tái” đã đến mức cùng cực như thế ấy! Chẳng ngăn dứt thói tệ ấy, không chỉ là xô đẩy người khác tự sát, mà còn khiến cho cha, con, anh, em [do ôm lòng] cầu lợi từ cái chết [của người thân, dẫn đến những hành vi bạo ngược] như phơi thây, hủy diệt luật pháp! Xét theo những tình tiết ấy, có khác gì chính tay đâm chết [nạn nhân, những kẻ gây tạo những hành vi bạo ngược ấy] thật sự đáng bị lăng trì xử tử! Nay đã khó thể nhất loạt gạt đi chẳng quan tâm tới, chỉ cần nghiêm ngặt phạt tội vu cáo nặng thêm ba bậc. Chẳng luận đến những trường hợp bị oan uổng tột bậc hay bị áp bức cùng cực, phàm là do thuốc mà chết, chẳng thể kết luận là chết vì dùng thuốc; đối với kẻ treo cổ, hay tự gieo mình xuống nước, chẳng thể kết luận người ấy chết vì tự treo cổ hay tự trầm[48]. Phải thẩm vấn theo đúng luật, cốt sao trừng trị một người, sẽ khiến cho trăm người kiêng dè, yết bảng thông cáo: Người này bị thân nhân bức tử để mong ngụy tạo chứng cứ hòng vu cáo [người khác để kiếm lợi]. Đã khám phá sự tình, sẽ càng phải nên xử phạt nghiêm trọng. Có kẻ thừa dịp rối ren để lường gạt, mạo nhận, hòng kìm kẹp, đánh đập người khác, [đối với những trường hợp như vậy], phải nghiêm ngặt chiếu theo pháp lệnh [để thẩm tra] thì sự tình mới được sáng tỏ. Đã thấu hiểu sự tình, sau đấy mới có thể luận định đúng, sai, xét tội nặng, nhẹ, [làm như vậy thì tội nhân hoặc nghi can] sẽ sống chẳng đau khổ, chết sẽ chẳng ôm hận, thân thích chẳng ôm lòng kiếm lợi từ cái chết [của người nhà], phong tục sẽ chẳng có thói ác điên đảo thị phi, cướp đoạt tài vật. Âm đức ấy há có hạn lượng ư?

          Người thời nay hễ có chuyện liên quan đến án mạng, [quan lại, nha dịch điều tra vụ án] chẳng cần biết tình tiết là nặng hay nhẹ, [chẳng chú trọng] xem xét sự việc là thật hay giả, [đã đánh đập] bằng roi cật tre chưa đủ, [lại còn] chuyển sang kẹp ngón tay, lại chuyển sang dùng côn kép[49], thậm chí còn có trường hợp đánh hơn trăm gậy! Dưới sự thống khổ ấy, muốn cho tội nhân khai gì mà chẳng được! Sau đấy, liền kết án thành tội tử hình. Lúc đó mới cho tội nhân được thong thả chốc lát. Những người có lòng nhân trong cõi đời có thể động lòng thương xót đối với chuyện này hay chăng?

          Ông Châu Nhật Thăng nói: – Cái thói ngụy tạo những vụ án liên quan đến nhân mạng để vu cáo [người khác hòng kiếm lợi] hết sức sâu đậm ở phương Nam. Lúc tôi làm huyện lệnh ở Ô Trình, đã đau đáu trừng phạt [để ngăn dứt] thói tệ này. Ngoài ra còn ban hành mẫu đơn thưa trình án mạng, [trong đó] viết thẳng thừng ngày, giờ, lời khai, chẳng cho phép sử dụng những từ ngữ thêm thắt, điêu ngoa. Về sau, tờ cáo trạng được in thành hai mặt, lại chia thành bên trái và bên phải. Tờ đơn ghi những chỗ thương tích nơi tử thi do người đâm đơn tố cáo tự điền vào đó, [khi nha môn nghe] tiếng trống báo án, sẽ cho phép người ấy vào nạp đơn. Chẳng câu nệ thời khắc, [hễ nghe báo án], tôi tức khắc đích thân tới chỗ có thi thể, chiếu theo lời cung khai [trong đơn báo án] để thẩm vấn, chiếu theo hình vẽ [những chỗ thương tích do người đâm đơn vẽ ra] để kiểm nghiệm sơ qua, trọn chẳng giao phó thuộc hạ [khám nghiệm] mà cậy ngỗ tác[50] [kiểm nghiệm thi thể]. Nếu quả thật là do thương tích [mà chết], bèn theo đúng luật định tội. Nếu là vu cáo, dối gạt, sẽ quở phạt nghiêm ngặt. Còn như những trường hợp tự thắt cổ, gieo mình xuống nước, sảy chân ngã chết v.v… bèn chiếu theo tình huống của mỗi trường hợp mà phân định, sẽ phê công văn cho chôn ngay để dứt trừ nỗi khổ vì có kẻ mưu toan cướp đoạt, dối trá, cố tình kéo dài. Dẫu gặp lúc nắng gắt hay rét buốt, góc núi xa xôi, hay nơi đọng nước, cũng chẳng ngần ngại, chậm trễ chút nào! Vì thế, trong vòng hai năm, trọn chẳng có chuyện dùng án mạng để cáo giác kẻ khác. Ôi! Chuyện mạng người liên quan đến sanh tử, há chẳng nên cẩn thận ư?

          Lý Nhược Thủy làm Tư Lý[51] ở Hoài Nam. Khi ấy, có năm tên giặc cướp, do sự tình bại lộ bị tống giam. Chúng lại khai đã từng kết bè đảng với một nhà sư. Khi năm gã ấy bị hành hình, vị Sư mới xuất hiện thưa: “Tôi thật sự chưa từng trộm cướp”. Đối với chuyện này, Lý Nhược Thủy có thể bỏ qua, nhưng ông ta chấp chặt lời bọn cướp là thật, bèn thảm sát nhà sư. Hơn một tháng sau, gã lính canh ngục tên là Lý Năng vô cớ kêu ầm lên: “Hòa thượng ơi! Tôi chẳng liên can đến chuyện này, chỉ vì quan Tư Lý sai khiến tôi mà thôi!” Nói xong, chết ngắc. Hôm sau, viên Thôi Tư[52] là Lưu Nguyên cũng chết. Hôm sau nữa, Nhược Thủy chết bất ngờ. Cả một nha môn chết gần hết!

          Đời Tống, ông Triệu Thanh Hiến[53] làm Tiết Độ Thôi Quan[54] ở huyện Vũ An. Dân chúng có kẻ ngụy tạo ấn tín [của quan chức], bọn nha lại đều nói: “Đáng tội chết!” Chỉ riêng ông là nói: “Tạo ấn trước khi có lệnh đại xá, sau khi đại xá mới dùng. Trước khi đại xá chẳng dùng, sau khi đại xá chẳng tạo. Xét theo pháp luật, đều chẳng đáng chết”. Ông bèn coi đó là tội tình nghi, tha cho. Cho đến khi ông làm tri phủ Thành Đô, có gã Lý Hiếu Trung tụ tập hơn hai trăm người, tạo riêng phù điệp[55] để độ người khác làm Tăng. Có kẻ cáo giác hắn âm mưu phản nghịch, bọn họ đều bị bắt giam. Ông không nghe lời bọn pháp lại (法吏, nha lại trông coi về hình pháp) đề nghị [phán án tử hình toàn thể bọn họ], chỉ xử Hiếu Trung về tội lén tạo phù điệp, những kẻ khác đều được miễn tội chết. Chuyện bị đồn thổi ầm ĩ đến kinh thành, đồn ông tha cho lũ phản nghịch. Triều đình tái xét hồ sơ vụ án, rốt cuộc [cũng phán quyết] chẳng khác ông. Về sau, ông được phong làm Thái Tử Thiếu Bảo rồi hồi hưu. Con ông là Hoàn và Ngột đều quý hiển. Mạo Khởi Tông nói: “[Bọn nha lại cố ý kết tội] chẳng luận theo chuyện trước khi đại xá, mà dùng chuyện sau khi đại xá, chính là gán tội nhẹ thành tội nặng”. Ân Văn Trang đã nói hay lắm thay: “Vua đã xuống chiếu tha cho người có tội, thế mà [bọn nha lại] vẫn phán quyết theo lệ cũ. Vua xuống chiếu xóa tội thiếu thuế, mà [bọn nha dịch] vẫn thúc giục thuế má cấp bách. Ân đức [của hoàng đế] bị ngăn lấp, dân chúng không cách nào được hưởng ân trạch nhân từ. Đấy chính là điều khiến cho những vị chánh nhân quân tử đau lòng, nghiến răng vậy”.

          Đời Hậu Hán, Quách Hoằng học tập tinh thông bộ luật của Tiểu Đỗ[56]. Thái Thú Khấu Tuân cử Quách Hoằng giữ chức Quyết Tào Duyện[57]. Ông xử án suốt ba mươi năm, vận dụng pháp luật công bằng, khoan dung. Dân chúng chẳng hề oán thán. Họ sánh ví ông giống như ông Vu ở Đông Hải[58]. Ông mất lúc chín mươi lăm tuổi. Con ông là Cung, nối nghiệp cha từ trẻ, về sau được phong làm Đình Úy[59]. Gia tộc Quách Cung nhiều đời nắm giữ pháp luật, chú trọng khoan dung, công bằng. Khi ông làm quan phán xử, hễ phán án phần nhiều là thương xót, khoan dung. Ông lại thấy trong pháp luật đương thời có những điều khoản quá nặng, có thể giảm nhẹ, bèn tấu trình bốn mươi mốt điều luật [đáng nên sửa đổi], đều được [vua chấp thuận, cho phép] thi hành, trở thành pháp lệnh. Những đề nghị sửa đổi về luật lệ do Quách Cung tấu trình đã cứu sống nhiều người. Mấy đời sau đều nối nghiệp theo ngành tư pháp, quý hiển, hưng thịnh khôn sánh.

          Bài Tỉnh Hình Châm (省刑箴, châm ngôn về giảm thiểu tra tấn) viết: – Đừng mặc sức ra oai, hòng thỏa thích lòng riêng, chớ vận dụng phép nước thỏa lòng ta mừng, giận. Chớ thuận theo tình riêng mà vặn vẹo luật pháp, coi sanh mạng dân chúng hệt như lũ ruồi bọ. Đừng vì kẻ phạm nhân giận dữ trừng mắt nhìn, cứng cổ không chịu phục, nói năng chậm chạp, hoặc lắp bắp, bèn cố ý gài bẫy, trí trá gán tội họ. Đầu ngọn trượng giáng xuống, người sống biến thành ma. Dưới ngòi bút phán quan, phạm nhân đành chết ngóp. Bứt sợi tóc biết đau, cắn ngón tay biết xót. Một ngày bị đánh đấm, ba mùa nghỉ cuốc cày. Một chồng bị tống ngục, nhà tám mạng đói rách. Động vật hay thực vật, thảy đều là sanh mạng, huyết nhục thảy rền trời. Vì thế, Vu Đông Hải, tiếng nhân ức vạn năm!

          Bài Tỉnh Phạt Châm (省罰箴, châm ngôn khuyên giảm thiểu hình phạt): – Đừng dùng tiền bán con gán vợ của dân để nuôi béo vợ con ta! Đừng phạt dân tan nhà phá sản để tăng thêm ruộng nương, nhà cửa cho ta. Đừng cướp đoạt tài vật khiến dân oán thán, gào khóc vì đói lạnh, dập đầu than trời để cung ứng cho tiệc tùng ca múa, cười cợt. Để chuộc tội, dân phải tốn món tiền bằng khoản thuế cho trăm mẫu ruộng. Để nạp một tờ đơn, phải húp cháo mười ngày! Một hạt gạo đổi bằng máu của nông phu, bao nỗi gió sương chua xót, khổ sở. Một đoạn the là nước mắt của người phụ nữ dệt cửi, biết bao đêm quên ăn, bỏ ngủ! Kể từ ngày quan phủ tích chứa máu mỡ của dân, chính là lúc bắt đầu nỗi oán ghét của dân nghèo. Chẳng giấu diếm thần minh nổi đâu, đạo trời sẽ báo đền nhanh chóng! Do vậy, Dương Bạch Khởi[60], muôn năm tiếng thơm truyền.

 

          (Chánh văn) Kiến sát gia nộ.

          (正文)見殺加怒。

          (Chánh văn: Thấy [người khác mắc tội] đã bị giết chết mà vẫn còn giận dữ).

          Tăng Tử nói: “Như đắc kỳ tình, tắc ai căng nhi vật hỷ” (Nếu thấu hiểu sự tình, ắt sẽ buồn bã, xót thương, chẳng vui). Đấy là nói đối với kẻ có tội, khi kẻ ấy bị hành hình, vẫn nên tha thứ cho những chuyện kẻ ấy đã trót phạm, chớ nên tùy tiện tăng thêm hình phạt. Huống hồ kẻ đã chết, sẽ chẳng thể sống lại. Tuy tội lỗi do kẻ ấy tự chuốc lấy, nhưng mục kích [kẻ ấy bị hành hình], tâm sẽ đau đớn; do vậy, bưng mặt gạt lệ còn không xuể, tăng thêm lòng giận dữ để làm gì? [Kẻ giận dữ] tấm lòng tàn nhẫn cùng cực! Còn như đối với lục súc[61], chim, cá bị người khác giết mổ, hãy càng thêm thương xót chúng chẳng có tội tình gì, bèn tìm phương tiện cứu giúp, che chở. Nếu trông thấy mà càng thêm tức giận, ắt là kẻ tàn ác, bạo ngược, ham giết chóc mà thôi.

          Đời Tống, Lô Đa Tốn[62] bị đày đi Châu Nhai. Gián Nghị Đại Phu Lý Phù vào gặp Triệu Phổ thưa: “Châu Nhai tuy ở ngoài biển, nhưng thủy thổ không ác hiểm cho lắm, những kẻ bị lưu đày tới đó, phần nhiều vẫn sống sót. Xuân Châu tuy ở trong đất liền, kẻ đến đó ắt phải chết. Mong Ngài hãy sửa lại lệnh trước, bề ngoài là ra vẻ khoan dung, nhưng thật ra là đẩy hắn vào tử địa”. Triệu Phổ gật đầu. Hơn một tháng sau, [Lý Phù] do phạm tội, bị biếm trích tới Xuân Châu. Hắn mới tới nơi bèn chết.

          Dương Đạo Sanh làm Tham Quân[63] cho Thiệu Lăng Vương (Tiêu Luân), có người anh tên là Hải Trân làm thứ sử tại Trá Châu. Ông xin nghỉ phép về thăm anh. Khi chia tay, [người nhà] mở tiệc tiễn hành. Ông thấy một người bị trói ở gốc cây, khóc lóc, van xin Đạo Sanh: “Thứ sử Trá Châu muốn giết tôi, xin Ngài hãy giải cứu”. Đạo Sanh hỏi: “Ngươi phạm tội gì?” Thưa: “Xúi giục người khác bỏ trốn, làm loạn”. Đạo Sanh giận dữ, quát: “Chuyện ấy đáng căm phẫn nhất”. Liền lấy đao giắt nơi thắt lưng khoét tròng mắt người ấy, nuốt chửng. Trong chốc lát, anh ông ta tới, dặn thuộc hạ xử trảm [phạm nhân ấy]. Đạo Sanh bèn cảm thấy con ngươi [của gã tử tội đó] mắc nghẹn [ở cổ họng], chẳng nuốt xuống được, dần dần nó phình lên, gây tắc nghẽn. Trên đường đi, ông ta không ăn uống gì được bèn chết ngắc.

          Thời Xuân Thu, Cao Tử Cao[64] là người nước Vệ, [khi phải] chặt chân tù nhân, lúc sắp hành hình, bèn buồn bã. Về sau, gặp nạn Khoái Hội[65], Tử Cao phải chạy trốn. Lúc đó, người bị chặt chân đang canh giữ cửa thành, bảo: “Ở chỗ kia có chỗ [tường thành] bị khuyết”. Tử Cao nói: “Quân tử chẳng trèo tường”. Người đó lại nói: “Ở chỗ kia có lỗ hổng”. Ông đáp: “Quân tử chẳng chui qua lỗ hổng”. Lại nói: “Ở chỗ kia có một gian nhà”. Tử Cao bèn nấp vào đó, những kẻ đuổi theo [chẳng tìm thấy bèn] bỏ đi. Tử Cao nói: “Ta đích thân chặt chân ngươi, ngươi lại ba lần giúp ta bỏ trốn là vì lẽ nào?” Người bị chặt chân đáp: “Bị chặt chân cố nhiên là vì tội của tôi. Nhưng khi Ngài sắp hành hình bèn ủ dột, chẳng phải là Ngài có lòng cảm thông cho tôi hay sao? Ngài trời sanh là bậc quân tử, cố nhiên sẽ hành động như thế. Vì vậy, tôi cứu Ngài”.

          Trương Khánh là một nha lại coi ngục, luôn vâng giữ lòng thương xót, thận trọng. Đối với các đồ dùng trong nhà tù đều rửa sạch. Tháng nóng, ông càng siêng năng quét dọn. Thường răn dạy mọi người: “Người ta phạm pháp, há chẳng phải là chuyện bất đắc dĩ ư? Thức ăn, đồ trải đắp, ắt giữ cho sạch sẽ”. Ông luôn thờ Phật, mỗi khi có tù nhân bị tử hình, ắt sẽ vì kẻ ấy ăn chay, kiền thành tụng kinh, niệm Phật, nguyện cho người ấy được thoát khổ siêu sanh. Ngoài ra, ông còn có rất nhiều âm công, thọ tám mươi ba tuổi, không bệnh mà mất. Con cháu đều thành quan lại quý hiển!

          Đời Minh, Lưu Tích Nguyên từng mộng thấy một người bái lạy, thưa: “Tôi là Tào Hàn làm tướng đời Tống. Xưa kia, làm một gã nha lại nho nhỏ đời Đường; do nghe pháp sư giảng kinh bèn cảm ngộ, cúng dường trai tăng một bữa. Từ đó, cảm được báo ứng, đời đời luôn làm quan, dần dần tích tập nhân lành. Tới đời Tống, làm Phó Tướng, do tàn sát dân chúng trong thành, giết hại bừa bãi, đời đời làm lợn để đền tội giết chóc. Năm trước, có người tá điền đã đem tôi nạp cho Ngài để bù vào số địa tô bị thiếu, mong Ngài thương xót cho tôi được sống. Nay lại phải đền bồi quả báo ở nơi đây, đặc biệt đến cầu cứu nơi Ngài”. Ông Lưu hỏi: “Dùng cách gì để có thể cứu được?” Thưa: “Mỗi khi bị mổ xẻ, sẽ đau khổ không chịu đựng nổi. Chỉ có nghe tiếng niệm Phật thì mới giải trừ nỗi khổ ấy. Mong Ngài trong lúc thấy tôi bị giết mổ, hoặc trong lúc chặt xẻ, nấu nướng, hãy phát lòng đại bi, chỉ niệm A Di Đà Phật, hoặc trì chú Đại Bi, hay chú Chuẩn Đề, không chỉ là giải trừ nỗi khổ cho tôi, mà tôi còn được lợi ích siêu thoát”. Nói xong, buồn bã từ tạ ra đi.

          Lại nữa, Trình Lân bị chết bất thình lình. Do cõi âm bắt lầm, nên lại được thả về. Diêm Vương bảo: “Ngươi trở về dương gian, hãy nỗ lực làm lành. Thấy kẻ khác sát sanh, chỉ niệm nam-mô A Di Đà Phật, và Quán Thế Âm Bồ Tát, những con vật ấy đã được thọ sanh, mà ngươi cũng được phước”. Bèn biết là niệm Phật có thể siêu độ người chết, hiện đời có thể tăng phước thọ; sau này, ắt sanh về Tây Phương. Có kẻ nói: “Chỉ niệm danh hiệu Phật, cớ sao ta lẫn người đều được lợi?” Đáp: “Chúng sanh mê muội bản tánh, chẳng có thuở giác ngộ, vừa nghe danh hiệu Phật, như đang mê chợt tỉnh. Huống hồ kẻ kia vì lòng tàn nhẫn mà sát sanh, mà ta do từ bi bèn niệm Phật, tức là con đường để ‘xả ác theo thiện’ ở ngay tại đấy. Vì thế, thấy giết chóc bèn niệm Phật, công đức vô lượng”.

          Đời Minh, Hám Sơn đại sư nói: “Tôi trong lúc thường nhật, hễ nghe thấy tiếng giết chóc, bất giác đau lòng liền niệm Phật và chú Vãng Sanh, tự nhủ là trọn hết tấm lòng này mà thôi!”

          Nay xem những chuyện ấy, bèn biết là những kẻ chịu khổ đó, [do nghe tiếng niệm Phật hay trì chú], sẽ thật sự được lợi lạc. Từ đó mà suy, hễ thấy giết chóc, hoặc nghe tiếng giết chóc, hoặc thấy những con vật bị mổ, xẻ, chém, chặt, đun, nấu, ở bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu, đều phát ra cái tâm này, mắt trông thấy bèn dấy lòng từ bi, ngay lập tức nghĩ tưởng dẹp khổ. Nếu hết thảy người đời có thể phát khởi từ tâm tam-muội như thế, sẽ toàn là chuyện độ sanh của Bồ Tát, công đức ấy há có thể nghĩ bàn được ư?

          Hình ngục là đại sự của đất nước, liên quan đến sự sống chết của dân chúng. Vì thế, đức Thái Thượng ban lời giáo huấn, trước hết là nghiêm cấm hối lộ. Còn như chuyện [cân nhắc] đúng, sai, nặng, nhẹ, Ngài lại càng chú trọng nhắc nhở những kẻ đang giữ quyền tra vấn, hành hình, vì đang nắm quyền lực, sẽ dễ tạo phương tiện. Nhưng mỗi người thấy nghe hữu hạn, kẻ làm nha dịch, thư lại có thể trừ khử thói quen xấu ác, nhờ vào chức vị để hành thiện, cứu người trong cơn hoạn nạn, sẽ tạo công đức vô lượng vô biên. Phàm thiện ác phân chia đôi đường, chỉ trong một niệm. Nương theo gió để xoay cánh buồm, càng dễ ra sức. Kẻ khác nói “đừng vào chốn công môn”, ta nói “công môn dễ tu hành”. Cổ nhân dạy như thế, há lừa dối ta ư? Còn như giết người, giết vật, người khác giết, ta giết, đều là giết hại! Dẫu chẳng thể trông thấy con vật bèn cứu sống, chẳng lẽ dốc lòng kiền thành niệm Phật cũng sẽ tốn phí tài lực [đến nỗi] chẳng thể làm ư? Hãy suy nghĩ nhé!

 

          (Chánh văn) Kiến quá bất cải, tri thiện bất vi.

          (正文)知過不改。知善不為

          (Chánh văn: Thấy lỗi mà chẳng sửa, biết điều lành mà chẳng làm).

          Văn Thù Bồ Tát bạch Phật: – Tuổi thiếu niên tạo nên oan nghiệt, về già tu hành, có được thành Phật hay không? Đức Phật dạy: Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ!

          Thiền sư Viên Ngộ nói: “Ai mà chẳng có lỗi? Có lỗi mà có thể sửa, không gì tốt đẹp bằng!” Chỉ có bậc quân tử là có thể sửa lỗi, hướng lành, cho nên đức mỗi ngày một mới. Kẻ tiểu nhân giấu ác, che lỗi; vì thế, điều ác đầy dẫy. Tiểu nhân có điều ác thì cũng giấu diếm. Vì thế, đức Thái Thượng ra rả răn dạy. Ông Hà Long Đồ nói:

          – Có lỗi nơi miệng, có lỗi nơi thân, có lỗi nơi tâm. Kẻ khéo sửa đổi điều ác, chỉ nên linh mẫn, tỉnh táo, tận lực trừ khử thói chấp trước, keo kiệt, nghiên cứu, xem xét đến tận chỗ vi tế để trừ khử, sửa đổi [tập khí xấu ác] đến cùng. Tu sửa chuyên ròng chẳng ngơi, ắt sẽ chuyển tà vạy thành chân thành. Thánh học (Nho học), Phật học, huyền học (Đạo học), hễ nói đến chỗ uyên áo, vi tế, đều chẳng dễ gì diễn tả được, nhưng đối với cách thực hiện căn bản nhất thì xuyên suốt khắp cả ba giáo chỉ là sửa lỗi đó thôi!

          Đời Tống, Tư Mã Ôn Công lúc năm tuổi, lột vỏ quả hồ đào chẳng được. Đứa tớ gái [đem quả hồ đào] ngâm qua nước nóng bèn lột được. Chị ông ta từ bên ngoài bước vào hỏi han, ông nói: “Tự em lột được”. Cha liền quở: “Thằng nhóc này sao lại nói láo?” Ông kinh sợ, hối hận, suốt đời chẳng dám nói dối.

          Đời Tống, ông Tiết Hiếu Từ Tích[66], lúc mới đến gặp tiên sinh An Định[67], đầu cổ hơi ngoẹo, An Định lớn tiếng răn: “Đầu phải thẳng”. Ông liền tỉnh ngộ, thưa: “Đầu mà còn phải thẳng, há đâu tâm chẳng thẳng?” Từ ấy, cái tâm chưa hề cong vạy chút nào. Nếu có kẻ hỏi về yếu quyết để lập thân xử sự, ông ắt viết hai chữ Chánh Trực to đùng trao cho!

          Đời Tống, Tăng Tử Cố[68] chơi thân với Vương Kinh Công[69]. Tống Thần Tông hỏi Tử Cố về văn tài, phẩm hạnh, bản lãnh của Vương An Thạch [như thế nào]? Tử Cố tâu: “Văn tài, phẩm hạnh, tài năng của An Thạch chẳng kém Dương Hùng [đời Hán], nhưng do keo kiệt nên chẳng bằng”. Vua nói: “An Thạch coi rẻ phú quý, sao lại nói hắn keo kiệt?” Tử Cố thưa: “Thần nói là ‘keo kiệt’ là vì An Thạch tài năng có thừa, nhưng ít chịu sửa lỗi”. Tống Thần Tông gật đầu. An Thạch có đủ tài năng làm Tể Tướng, rốt cuộc do không chịu sửa lỗi, đến nỗi gây họa cho tông miếu, xã tắc, bị muôn đời thóa mạ, huống hồ người đời nay ương bướng, bất tài, hằng ngày luôn sái quấy, mà chẳng biết sửa đổi ư?

          Do gom từ cái nhỏ mà thành cái lớn, do tích tập từ một mà thành ức. Vì thế, quý ở chỗ tích lũy. Hễ biết bèn làm, hễ làm bèn dốc sức. Lão Tử nói: “Cái đài chín tầng khởi đầu từ dồn chứa đất. Đi ngàn dặm, bắt đầu từ một bước”. Người nếu mỗi ngày sửa một lỗi, ắt sẽ tiêu một tội nghiệp. Mỗi ngày làm một việc thiện, ắt sẽ tăng trưởng một nền phước.

          Tử Hư Nguyên Quân[70] nói: – Đạo từ an tĩnh mà sanh, đức sanh từ khiêm tốn, nhường nhịn, phước sanh từ thanh liêm, tiết kiệm, mạng sanh từ hòa thuận, thông suốt. Họa hoạn sanh từ lắm ham muốn, lỗi sanh từ sự khinh mạn. Hãy kiềm giữ mắt, đừng thấy kẻ khác sai trái. Kiềm giữ miệng, đừng bàn khuyết điểm của kẻ khác. Kiềm giữ tâm, đừng mặc sức tham, sân. Kiềm giữ thân, đừng theo bạn ác! Tánh mạng như ngọn đuốc trước gió, luôn nghĩ đến thân đời sau. Thân thể tạm gởi trong vòng trời đất, đừng ở trong nghiệp lại tạo thêm nghiệp. Vì thế, thiện và ác đều ở trong cái tâm của chính mình, sáng ngời chẳng có mảy may tăm tối! Dẫu người có thể mưu mẹo xảo trá, trời càng khéo báo ứng hơn!

          Do vậy, thấy rằng: Nếu ai trong một ngày mà được nghe một lời lành, thấy một hạnh lành, làm một việc lành, ngày ấy mới chẳng luống uổng! Nếu kẻ nào biết điều thiện mà chẳng làm, không biết ruột gan người ấy như thế nào? Tự cam lòng ruồng rẫy chính mình, phung phí tháng ngày, tự dứt tuyệt [sự che chở của] cõi trời, cũng là kẻ ngu muội lắm thay!

          Trong bài Phổ Thuyết của thiền sư Thiên Như Duy Tắc đời Nguyên có đoạn như sau:

          – Cổ nhân dạy: “Ta thấy người khác chết, lòng ta nóng như lửa. Chẳng phải nóng ai khác, hãy xem đến phiên ta”. Những lời giống như vậy, có ai mà chẳng biết! Biết thì dĩ nhiên là biết, chỉ là không chịu tu hành. Nói quý vị “không chịu tu hành”, cũng là oan uổng cho quý vị lắm! Các vị đại đức trong hiện tiền, phần nhiều là hạ thủ công phu đến cùng, chỉ là chưa đạt đến chỗ ngàn phần trọn vẹn, trăm phần thỏa đáng, lỗi ở chỗ nào? Lỗi ở chỗ không dũng mãnh, không tinh tấn, không kiên cố, không lâu dài. Tạm thời phát quyết tâm, chẳng bao lâu lại lui sụt. Vì thế nói: “Phật pháp vô đa tử, trường viễn nan đắc nhân” (Phật pháp ít có kẻ khai ngộ, người có chí dài lâu khó có lắm). Học đạo mà [giữ mãi cái tâm giống] như thuở đầu, sẽ thành Phật có thừa! Từ đầu đến cuối bất biến, thật sự là đại trượng phu, nay có được mấy người? Từ đầu đến cuối bất biến, thường là mười người thì có năm người biến đổi, toàn là đạo tâm lui sụt. Xét đoán nhân duyên khiến cho đạo tâm lui sụt, cũng là vì ai nấy đều có những điều phiền lụy riêng mà thành ra như vậy. Những điều phiền lụy riêng là gì? Có ba loại phiền lụy. Thứ nhất là bất luận tăng, tục, nam, nữ, ai nấy đều bị thân và miệng liên lụy. Kế đến là kẻ có quyến thuộc, sẽ bị quyến thuộc phiền lụy. Kẻ có gia sản, sẽ bị gia sản phiền lụy. Ba thứ phiền lụy ấy đã liên lụy chết người trong thiên hạ. Trọn hết người trong thiên hạ do gặp phải ba thứ phiền lụy ấy mà bận bịu suốt một đời, ầm ĩ suốt một đời, khổ sở suốt một đời, bợ đỡ suốt một đời, luống uổng suốt một đời. Huống hồ lại vì ba thứ phiền lụy ấy, dấy lên vô lượng tham, sân, si, tạo ra vô lượng ác nghiệp lớn nhỏ. Do nghiệp báo ấy, đọa lạc trong biển khổ tam đồ bát nạn, sanh tử luân hồi, chịu vô lượng khổ não, chẳng được giải thoát. Tuy gặp phải vô lượng khổ não, chỉ là từ đầu đến cuối chẳng tỉnh. Kẻ chẳng tỉnh ấy là vì có những điều chẳng ngộ!

          Chẳng ngộ những gì vậy? Chẳng ngộ thân thể, quyến thuộc, gia sản đều chẳng phải của quý vị! Nếu nay nói với quý vị “thân thể chẳng phải là của quý vị”, quý vị còn chưa tin! Sơn tăng tận tình vì các vị nói huỵch toẹt từ đầu. Thuở ban sơ, quý vị còn ở trong bụng mẹ, lúc đầu thai chỉ là một thần thức trơ trọi, chưa hề có thân thể. Thân thể ấy do xích bạch của cha mẹ hòa hợp, kết thành một khối thịt trơ trơ, vốn chẳng có tri giác, chẳng biết đau, chẳng biết ngứa, chẳng biết lạnh, chẳng biết nóng, chẳng biết đói, chẳng biết no, chẳng biết khổ, chẳng biết sướng. Do thần thức của quý vị chấp vào một khối thịt trơ trơ ấy, từ đấy trở đi, biết đau, ngứa, biết lạnh, nóng, biết đói, no, biết khổ, sướng. Cho đến khi ra khỏi thai mẹ, một mực thừa nhận, gọi đó là thân ta. Nếu bảo “thân chẳng phải là của ta”, chắc chắn [quý vị] sẽ không chịu tin. Do vậy, Phật, Tổ xót thương, lại rát miệng bảo ban quý vị: “Đấy chẳng phải là thân của quý vị. Đấy là cái đãy da thối do tinh huyết kết thành, chẳng do quý vị cai quản, chẳng do quý vị xếp đặt. Cho đến lão, bệnh, tử, đều chẳng do quý vị quyết đoán!”

          Vì sao biết là như vậy? Lại như thuở ban đầu, sau khi quý vị đã đầu thai, ở trong thai mẹ, cứ bảy ngày bèn biến đổi một lần. Lần lượt sanh trưởng, tức là ngũ tạng, lục phủ, bách hài (trăm lóng xương), chín lỗ, tứ chi, sáu căn, gân, xương, da, thịt, dần dần thành hình, cho đến khi được đẻ ra, đều là gió nóng thổi đến, do nghiệp lực sai khiến. Quý vị bất tri bất giác, chưa hề có điều gì do quý vị sắp đặt. Sau khi đã được sanh ra, trưởng dưỡng tới ba, bốn mươi tuổi bèn tóc bạc, răng lung lay, mặt vàng, bắp thịt teo tóp, dần dần biến đổi, dần dần già đi. Tướng già hiện hữu, từ đấy sanh bệnh. Bệnh đã đến, cái chết sẽ đến. Sự biến hoại như thế đó, mỗi mỗi đều chẳng do quý vị! Quý vị vốn chẳng mong như thế, hiềm rằng quản nó chẳng được! Xét ra, quý vị từ thuở sanh ra cho đến chết, đối với cái đãy da thối này, đã trút vào bao nhiêu ân ái tình nghĩa, đủ mọi thứ chăm chút nó, đủ mọi cách bảo vệ, trân quý, đủ mọi cách điều trị, an bài, [thế mà] nó vong ân phụ nghĩa. Như thế đã là đáng bị người khác ghét, huống hồ còn có chỗ khiến cho người ta càng ghét hơn!

          Ví như trong tháng mùa Hè nóng bức, có một chàng trai tráng kiện, bỗng vào lúc hoàng hôn bị bệnh nguy cấp, chết ngóp. Chết đến lúc canh hai nửa đêm, [người khác] sẽ cảm thấy thối bẩn không ai chịu nổi, chẳng thể đến gần được. Vội vã dùng quan tài đựng lấy, đậy chặt nắp hòm, đợi chưa đến lúc chuông khua báo sáng, đã vội vã khiêng đi thiêu. Dẫu là quyến thuộc thân ái nhất, cũng chẳng chịu ngăn giữ lại. Cứ nhìn vào đó, buổi tối hôm qua, vẫn còn là một người đàn ông khỏe mạnh, sáng nay thức dậy, đã là một vốc tro cốt! Biết thần thức của người ấy sẽ lại đến nơi đâu? Biến đổi cấp tốc như thế, hoàn toàn chẳng do quý vị! Đã là thân thể của quý vị, lẽ ra phải do quý vị cai quản. Đã chẳng do quý vị cai quản, sao lại lầm lạc ngỡ nó là tấm thân của quý vị? Uổng công bị nó phiền lụy, lui sụt đạo tâm. Quyến thuộc của quý vị cũng thế, đây kia đều là những cái đãy da thối tha. Đây kia chẳng tự do, chẳng quản lẫn nhau được! Vô thường ập đến, đôi bên chẳng thể thay thế cho nhau. Trước mắt là suốt cả một đời, đôi bên bị những mối ân tình quấn trói, gọi nhau là quyến thuộc. Sau khi đã nhắm mắt, đôi bên chẳng biết nhau! Cớ sao lầm lạc ngỡ họ là quyến thuộc, bị họ phiền lụy, lui sụt đạo tâm? Gia sản của quý vị cũng thế. Lúc mắt sáng, chân mạnh bèn so sánh, tính toán, lo toan, keo kiệt, canh giữ, cứ ngỡ là trăm ngàn vạn năm luôn hưởng thụ nó. Ai biết một hơi chẳng hít vào được, một xu cũng chẳng thể mang theo! Cớ sao lầm lạc ngỡ nó là gia sản của quý vị, bị nó phiền lụy, lui sụt đạo tâm?

          Nay mọi người ơi! Đã nghe lời này, hãy nên hồi quang soi thấu, thống thiết tự tỉnh ngộ. Đối với ba thứ phiền lụy ấy, đừng nên lầm nhận, đừng lưu luyến, đừng tham đắm, hãy xuôi theo phần phước [do nghiệp báo] đã định phân, tùy thuận cho qua ngày. Hãy nên xoay chuyển ý niệm, hướng về sự sanh tử, để phấn chấn, dũng mãnh, tinh tấn, kiên cố, lâu dài, thấu hiểu rành rẽ, ắt bậc thượng tọa sẽ tự thẹn bất tài, đã trót lảm nhảm, huyên thiên, thốt ra khá nhiều lời nông cạn, thô lậu, dung tục, hủ bại, chuốc lấy tiếng cười của bậc thông hiểu. Tuy vậy, nếu là bậc thông hiểu, sẽ chẳng thấy đáng cười, một khúc nhạc đồng quê, buồn vui ai nấy tự nghe!

          Đời Đường, Tô Thành tánh ương ngạnh, hèn kém, suốt đời chẳng làm một điều thiện nào! Hễ thấy trong sách vở có chép một lời tốt lành, hay một hạnh cao đẹp, ắt cho là nói tô vẽ. Thấy kẻ khác siêng tu thiện sự, ắt cười nhạo là phường gian tà. Tới tuổi tráng niên, thân thể dần dần rút nhỏ, dùng hai tay chống lê thân trên đất để đi, ăn ngủ cùng với chó. Được một năm, hắn bèn chết.

          Đời nhà Châu, Tề Hoàn Công đi qua mộ của họ Quách, hỏi người già rằng: “Vì sao họ Quách bị diệt vong?” Họ đáp: “Ưa điều thiện, ghét điều ác!” Tề Hoàn Công hỏi: “Ưa điều thiện, ghét điều ác, vì sao lại diệt vong?” Họ đáp: “Ưa điều thiện mà chẳng thể làm, ghét điều ác mà chẳng thể trừ”. Do vậy, có thể thấy là người thời nay tự mê muội thần thức, chẳng tỉnh ngộ bản tánh. Muôn duyên cùng nhau quấy nhiễu, thù tạc tám mặt (chỉ lo thù tạc về mọi phương diện). Một niệm vừa đi, một niệm khác liền đến. Một ngày một đêm, có tám ức bốn ngàn niệm, như gió thổi trên hư không, chẳng có nơi nương tựa. Như đá đè cỏ, vừa dứt lại sanh. Há có ngày nào chuyên tâm làm lành? Vì thế, dẫu biết là chuyện đáng nên làm, nhưng vì bị lòng ham muốn vật chất xoay chuyển, dẫu suốt ngày đàm kinh thuyết pháp, vẫn thường là “tốt lá, thối gốc”, rốt cuộc đổ nhào mà thôi, há chẳng đáng tiếc nuối sâu xa ư?

 

          (Chánh văn) Tự tội dẫn tha, ung tắc phương thuật.

          (正文)自罪引他。壅塞方術。

          (Chánh văn: Tự mình có tội, khiến cho kẻ khác liên lụy. Cản trở nghề nghiệp của kẻ khác).

          Tội do ta phạm, tới khi đổ bể, bèn lôi kéo, khiến cho kẻ khác bị liên lụy. Ngạn ngữ nói là “kéo kẻ khác xuống nước”. Ý kẻ đó chẳng phải chỉ là mong lấp liếm sai sót, mà còn là nhằm trả thù! Nào có biết rốt cuộc sẽ trọn chẳng thể che đậy lỗi của mình được, rốt cuộc chẳng thể vu vạ cho kẻ khác! Chỉ là tạo thêm oan nghiệt trong những nỗi oan nghiệt mà thôi! Dẫu trốn khỏi phép vua, khó tránh bị trời diệt!   

          Triệu Nghiệp từng xem Giả Dịch giết trâu. Giả Dịch chết, [bị Diêm Vương xử tội giết chóc, hắn đổ lỗi, xin Diêm Vương bắt] Triệu Nghiệp phải chia bớt tội lỗi. [Hồn của] Triệu Nghiệp bị bắt tới cõi âm, gần như chẳng thể biện định. Bỗng thấy một cái gương, đường kính to hơn cả trượng, treo trên không trung. Cõi âm thấy Giả Dịch vung đao, Triệu Nghiệp núp sau cửa nhìn, có ý bất nhẫn. [Khi ấy], Giả Dịch mới chịu phục, Triệu Nghiệp mới được tha về. Xét theo lời đức Phật dạy: “Hết thảy thế gian, sanh tử nối tiếp, khi sắp mạng chung, trước khi xả noãn xúc[71], thiện ác trong cả đời đều cùng một lúc hiện ra”. Đại khái, cảnh giới hiện ra trong lúc lâm chung, chính là cảnh giới nơi tâm địa trong thường nhật của chúng ta. Viên tội châu của ngài Địa Tạng chính là tâm châu của chúng ta. Nghiệp kính của Diêm Vương chính là tâm kính của ta. Nếu nay làm một chuyện bất thiện, có bao giờ chẳng in dấu trong tâm ta, há có thể lôi kéo người khác [liên lụy] ư?

          Phương Thuật (方術) là như nghề thuốc, bói toán, chiêm tinh, xem tướng, và mỗi kỹ năng, mỗi tài nghệ đều là [Phương Thuật]. Người bản lãnh nông cạn thì nhờ vào đó để nuôi thân, kẻ cao sâu thì có thể giúp đời. Nếu ngăn trở, khiến cho họ chẳng hành nghề thì cũng là tâm lượng của ta chẳng rộng rãi, mà bốn phương sẽ có lắm kẻ đói, rét, thất nghiệp! Còn như lũ tà sư, thầy thuốc dốt nát, làm tổn thương chánh giáo, hay khiến cho kẻ khác mất mạng, cũng như những lũ phương sĩ[72] đốt lò luyện đan, đều chẳng thể viện cớ này [để tự tung, tự tác], những hạng người ấy đáng nên bị ngăn cấm. Mà trong mọi nhà dân chúng hãy đều nên xét giữ nghiêm ngặt môn hộ, phàm là đối với bọn tam cô, lục bà[73] [đều nên] răn nhắc [người nhà] trọn chẳng giao du. Nếu có lui tới, cũng nên xét đoán [phẩm hạnh] của kẻ đó. Đấy mới là phương cách để giữ nghiêm căn bản, dứt tuyệt những mầm họa vậy.

          Lúc ông Trạch Càn Hữu[74] tại thế, do phù phép[75] mà nổi tiếng. Ông từng nghĩ cả huyện Vân An có đến mười lăm chỗ sông ngòi có đá ngầm bãi cạn, bèn triệu tập các vị thần nơi các bãi cạn giữa sông (thần sông) để san bằng. Ứng theo lời triệu thỉnh, có mười bốn chỗ [đã san bằng]. Chỉ riêng có một bãi cạn do một nữ thần [cai quản, cô ta đội] mũ cao, mặc áo rộng tay, cảm khái thưa rằng: “Xét ý ông chẳng qua là muốn cho thuyền bè [buôn bán] qua lại thuận tiện. Nhưng ông chẳng biết những người kinh doanh bằng thuyền bè, thường ngày kiếm lợi rất nhiều, dẫu có tốn kém đôi chút, chẳng đáng gây tổn hại cho họ. Những dân nghèo ven sông, cả ba, bốn trăm nhà, không có ruộng để cày cấy, không có dâu để nuôi tằm, hoàn toàn cậy vào chuyện kéo thuyền, vác thuyền [qua bãi cạn] để kiếm sống. Nay nếu san bằng hết những bãi cạn hiểm trở, đối với thuyền bè, cố nhiên hết sức thuận tiện, nhưng cơm áo của những người dân nghèo ấy thì sao? Ý của đức Thái Thượng ắt chẳng phải là như vậy! Tôi rất sợ khi khác, ông sẽ bị mắc tội, mà tôi cũng chẳng khỏi bị liên lụy, xin hãy cân nhắc thêm!” Thiên sư thở dài nói: “Điều bà lo lắng tôi chẳng nghĩ tới!” Do vậy, mười bốn vị thần đã vâng mạng [san bằng bãi cạn] đều hồi phục chỗ bãi cạn như cũ. Nhìn vào chuyện này, chẳng phải là riêng phương thuật chớ nên ngăn trở. Hễ là những người vắt sức kiếm chút cháo [để sống qua ngày], càng phải nên tìm cách khiến cho họ được thuận lợi. Đừng vắt kiệt sức họ, đừng khiến cho kỹ năng của họ bị phôi pha. Chỗ nào cũng đều chừa lại đất sống, khiến cho họ chẳng bị vây hãm trong cảnh đói rét. Đấy là cái tâm của người có lòng nhân vậy.

         

          (Chánh văn) San báng thánh hiền.

          (正文)訕謗聖賢。

          (Chánh văn: Chê bai, báng bổ thánh hiền).

          San (訕) là hý lộng, khinh miệt. Báng (謗) là phủ nhận, báng bổ. San báng thì có hai loại người:

          1) Một là vì ngu si, khiến cho họ mê mờ, chẳng hiểu sức ảnh hưởng của thánh nhân. Hạng người ấy đáng gọi ở trong vò nhìn trời rồi đâm ra oán ghét [trời cao hẹp hòi].

          2) Hai là hạng có tài ăn nói khuấy động sóng gió. Hạng người này đáng gọi là “mò trăng trong nước”.

          “Thánh hiền” là nói đến tam giáo Nho, Thích, Đạo. Nho dùng Chánh để lập giáo, Thích dùng Đại để lập giáo, Đạo dùng Tôn để lập giáo. Nhìn theo phương diện “hiếu sanh, ghét giết chóc”, thì là cùng một lòng nhân. “Coi người khác như chính mình” là cùng một niềm công bằng. “Khắc chế lòng phẫn nộ, dứt trừ ham muốn, ngăn lỗi, ngừa sai” là cùng một sự luyện tập, tu dưỡng vậy. [Giáo pháp] như sấm rền [thức tỉnh] kẻ u mê, [chân lý sáng tỏ như] nhật nguyệt chiếu sáng lũ mù, có cùng một công năng giáo hóa vậy. Luận định theo những sự tướng thô thiển, thì lý trong thiên hạ chẳng qua là hai đường thiện và ác. Dụng ý của tam giáo không gì chẳng nhằm dạy mọi người sửa ác, theo lành! Luận định theo pháp môn tâm địa, ắt chẳng khỏi quy về một. Vì thế, trong tác phẩm Nguyên Đạo Biện[76], Tống Hiếu Tông đã nói: “Dùng Phật trị tâm, dùng Đạo trị thân, dùng Nho trị thế”, đúng là đã hiểu biết cái tâm vậy. Thân cũng vậy, mà cõi đời cũng vậy, chẳng thể có một thứ nào không điều phục. Vậy thì tam giáo, há có giáo nào mà có thể chẳng lập ư? Những nho sĩ trong hiện thời, hoặc là dùng Nho để bài bác Phật, hoặc là dùng Phật giáo để chèn ép Nho. Tăng sĩ, đạo nhân ngày nay hoặc là vì Phật mà diệt Đạo, hoặc vì Đạo mà phê phán Phật giáo. Nói chung là vì ngã kiến năng sở, lầm lạc phân chia đại đạo, nào có biết tam giáo vốn chẳng có đồng hay dị. Chỉ lo kẻ lầm lạc nẩy sanh ý kiến ức đoán, dùng ý riêng để suy lường, dùng cái tâm hời hợt để biện định cưỡng từ đoạt lý. Bậc thượng trí nếu thật sự có thể bình tâm dung hội, tham cứu thẳng thừng vào cội nguồn, ắt sẽ biết Phật là minh tâm kiến tánh, trừ mê, cầu ngộ; Đạo là giữ cho tâm thanh tịnh, giảm thiểu ham muốn, tích lũy công hạnh; Nho thấu hiểu nguồn tâm, trừ khử vật dục, chánh tâm, thành ý. Nhiều phương diện nhiếp hóa, chẳng có gì trái nghịch! Nói chung, đều nhằm tiếp dẫn con người nhập đạo mà thôi, có danh tướng gì để có thể chấp chặt nữa ư? Vì thế biết chánh pháp của tam giáo đều cùng là nhãn mục muôn đời cho các sanh linh. Kẻ khinh miệt, gièm báng chẳng phải là tự tạo cái nhân bị rút lưỡi hay chăng? Còn như kinh điển, sách vở, giấy có chữ viết, chính là những thứ ký thác tinh thần của thánh hiền, kẻ giẫm đạp sẽ có cùng một tội với kẻ khinh miệt, gièm báng.

          Từng thấy Trung Hoa có tam giáo. Do thiên, địa, nhân gọi là Tam Tài, “vua tôi, cha con, vợ chồng” là Tam Cương, những thứ ấy chẳng thể có một khắc nào không có. Ấy là kể từ khi Phục Hy vạch ra các quẻ [của Bát Quái], Nho giáo đã được khởi đầu. Tại Trung Hoa, Nho có thể khiến cho cương thường được chánh đáng, các mối quan hệ chánh đáng của con người được tỏ rõ, lễ, nhạc, hình pháp, cai trị, bốn món ấy đều được phổ biến rộng khắp, chẳng trái nghịch, rốt cuộc cho tới muôn vật trong trời đất đều đâu vào đấy. Đạo Nho đã có công giúp đỡ cõi đời to lớn. Vì thế, Tần Thủy Hoàng muốn trừ bỏ đạo Nho, mà rốt cuộc chẳng thể trừ bỏ Nho được. Chẳng thể trừ khử, há có nên gièm chê, báng bổ hay chăng? Có kẻ vì thấy học vấn cong vạy của Công Tôn Hoằng nhằm a dua cõi đời, Chúc Khâm Minh khiến cho ngũ kinh lè tè quét đất, Dương Tử Vân ngộ được lẽ huyền diệu của Thái Huyền, mà lại xiểm nịnh phụng sự Tân Mãng, Hứa Kính Tông đã biết đạo nghĩa trung thành với vua, mà lại thất thân phụng sự Ngụy Vũ[77], những kẻ đó đều xuất phát từ Nho, bọn họ thật sự là tội nhân trong làng Nho. Há có nên vì những kẻ ấy là phường không ra gì, bèn gièm chê, báng bổ những bậc thánh hiền lập giáo ư?

          Kể từ khi Lão Tử vào cửa ải, Đạo đã được khởi đầu. Đạo tại Trung Hoa [có thể khiến cho người học] tự gìn giữ sự thanh hư, đạm bạc danh lợi, khiêm nhượng để tu trì, gột sạch những tập khí rối ren, chằng chéo, cốt sao đạt đến tĩnh lặng, vô vi, khôi phục thiên chân. Do vậy, Đạo có công tột bậc đối với sự giáo hóa trong cõi đời. Vì vậy, Lương Vũ Đế tận lực muốn diệt trừ Đạo, mà Đạo chẳng thể trừ. Đã chẳng thể trừ, há có nên gièm báng hay chăng? Hoặc là do chỉ thấy gã đạo sĩ chuột nhắt dùng Tý Dạ Thuật (子夜術) lừa gạt Tô Đông Pha[78], hoặc Lâm Linh Tố dùng chuyện Thần Tiêu để mê hoặc Tống Huy Tông[79] [nhằm giải thích câu thơ] “thiên thượng thần tiên trịnh hóa cơ” [do nhà vua đã nằm mộng thấy], bất quá là nói lớn lối để dối đời, [hắn nói] “địa hạ thần tiên hà đắc nhất” (dưới đất, thần tiên há được ai), rốt cuộc là bịa đặt để trộm danh. Những gã ấy đều xuất phát từ Đạo, mà thật ra là bọn tội nhân trong Đạo. Há có nên vì bọn chúng thuộc vào tà thuật, bèn gièm chê, báng bổ những bậc thánh hiền hưng khởi giáo pháp ư?

          Cho tới thời Hán Minh Đế, trong mộng cảm ứng người vàng, Phật giáo bèn hưng khởi [tại Trung Hoa]. Có thể nói là Phật giáo ở Trung Hoa đã khiến cho [dân chúng] vứt bỏ những thứ hoa mỹ để hướng về chân thật, bỏ hư ngụy, giữ lấy chân thật, do nỗ lực hành trì mà đạt tới an trụ, từ thuở đầu là tự lợi, [sau khi tu tập đã lâu], đến cuối cùng là lợi tha. Rốt cuộc là đạt tới mức từ bi “coi muôn loài [và bản thân ta] như một, oán thân bình đẳng”. Đấy là chỗ nương tựa cao tột của dân chúng vậy. Vì thế, Ngụy Vũ Đế[80] cực lực toan diệt Phật, nhưng Phật chẳng thể diệt! Chẳng thể diệt, há có nên gièm chê, báng bổ ư? Hoặc là do chỉ thấy chú thuật của Hồ tăng chẳng thể ảnh hưởng đến Phó Dịch (Phó Dịch[81] báng Phật, xằng bậy bịa chuyện; người đời sau chẳng thông đạt, tưởng là kinh sách thật sự, đáng thương xót thay), tượng Phật bằng đá hiện quang chẳng thể khiến cho ông Trình Di động lòng[82], răng Phật là vật linh thiêng, mà bị sừng linh dương phá nát[83]. Răng Phật là thần vật mà bị hư hoại dưới búa của Triệu Phượng. Lại còn bọn Bạch Liên, Vô Vi[84] tung hoành, [các tín đồ] tin theo, quy phục những lời lẽ hư vọng, dối trá của họ La (La Thanh)[85]. Một kẻ xướng suất, bao người hùa theo. [Những thứ đó] đều xuất phát từ Phật giáo, mà [bọn chúng] thật sự là bọn tội nhân trong nhà Phật. Há có nên vì bọn chúng thuộc hạng tà ma, ngoại đạo, bèn gièm chê, hủy báng bậc thánh hiền truyền giáo ư?

          Đời Minh, Lý Trác Ngô thích phủ nhận, hủy báng thánh hiền, thường chế ra lời hai người [đối đáp]. Một người nói: “Trời chẳng sanh Trọng Ni (Khổng Tử), muôn đời như đêm dài”. Người kia đáp: “Vậy thì kể từ thời Hy Hoàng[86] trở đi, toàn bộ [mọi người] đều phải đốt đuốc mà đi à?” Kế đến [châm biếm] Mạnh Tử, đối với Trình, Châu, hắn gièm chê, báng bổ càng dữ dội hơn! Về sau, hắn phạm tội, chết trong ngục.

          Văn Xương Đế Quân nói: “Kẻ sĩ được ghi danh vào sổ bộ của ta đều là do kính trọng văn tự mà ra”. Đời Tống, cha của Vương Nghi Công (Vương Tăng) hễ trông thấy [giấy tờ] có chữ viết bị vứt bỏ, ắt nhặt lấy, dùng nước thơm rửa sạch rồi đốt. Một tối, ông mộng thấy đức Tuyên Thánh (Khổng Tử)[87] vỗ lưng ông ta bảo: “Ngươi kính trọng giáo pháp của ta, tiếc là ngươi đã già, ta sẽ sai Tăng Sâm sanh trong nhà ngươi”. Lúc tuổi già, ông Vương bèn sanh con; do vậy, đặt tên là Tăng. [Vương Tăng] là một vị Tể Tướng hữu danh. Lại như Dương Bách Hạnh ở Lô Châu do ngồi trên kinh văn mà cả nhà bị cùi. Tiên Ư Khôn ở Xương Quận do tàn hại sách Mạnh Tử mà cả nhà diệt vong. Dương Toàn Thiện do chôn giấy có chữ [bị người khác vứt bỏ] mà năm đời đều đỗ đạt. Lý Tử Tài do chôn giấy có viết chữ mà được làm quan vinh hiển. Báo ứng chói ngời trước tai mắt mọi người, há có nên chẳng kính trọng, quý tiếc [giáo huấn, sách thánh hiền, giấy chữ] ư? Thơ rằng:

          Thế gian tự chỉ Tạng Kinh đồng,

          Kiến giả tu tương phó hỏa trung,

          Hoặc tống trường lưu, mai tịnh thổ,

          Tứ quân phước thọ vĩnh vô cùng.

          (Giấy chữ trong đời hệt Phật kinh,

          Nếu như trông thấy đốt cho nhanh,

          Hoặc bỏ xuống sông, chôn đất sạch,

          Thì ngươi phước thọ mãi khôn ngằn).

          Lại nói:

          Kính tích tự chỉ phó thủy hỏa,

          Nhân nhân tri đạo thiện nhân quả,

          Giáp hài dạng bạc ná gia vô,

          Hoán tương bạch chỉ phương vi thỏa.

          (Kính tiếc giấy chữ, nhặt thiêu đốt,

          Hoặc bỏ trong sông ở chỗ sâu,

          Ai nấy đều biết nhân quả lành,

          Lột sổ lót giày ai chẳng phạm?

          Đổi thành vải trắng, ắt yên lành).

          Cao Chi Thụ chẳng tin tiên, Phật, phỉ báng hết mức. Hắn từng dùng kinh Pháp Hoa để dán vách. Có người tặng hắn một pho tượng Phật bằng ngọc. Chi Thụ nói: “Khối ngọc này có thể làm thành đồ vật”. Do vậy bèn cưa tượng, làm thành mười cái nhẫn. Về sau, do hắn gièm chê, phỉ báng việc triều chánh, vua xuống chiếu sai Hình Bộ tra vấn. Hắn bị xử chém ngang lưng ở giữa chợ.

          Đời Minh, Thích Kế Quang chuyên trì kinh Kim Cang. Bỗng mộng thấy một người lính đã chết, xin ông tụng giùm một quyển để giúp phước cho kẻ ấy trong cõi âm. Buổi sáng, ông thức dậy, tụng xong, lại thấy người ấy báo mộng: “Đội ân đức to lớn của ông, nhưng chỉ được nửa quyển vì trong ấy xen tạp hai chữ Chẳng Dùng”. Ông ngẫm nghĩ nguyên cớ, thì ra là đứa tớ gái mang trà, bánh lên [trong khi ông đang tụng kinh]. Ông phẩy tay từ chối, miệng tuy chưa nói, trong tâm đã sẵn có hai chữ “chẳng dùng”. Sáng hôm sau, ông đóng cửa tụng kinh, lại mộng thấy người lính cảm tạ: “Đã được siêu độ rồi!” Một niệm xen tạp mà còn không được, huống hồ hý lộng, khinh miệt ư?

          Triệu Cư Dịch trì kinh Ngọc Hoàng, chưa kiêng rượu thịt, bỗng chết đi. Vua cõi âm hỏi: “Thường ngày nhà ngươi làm điều gì tốt lành?” Thưa: “Trì kinh Ngọc Hoàng từ nhỏ”. Vua đứng dậy, chắp tay nói: “Công đức như thế thật là bậc nhất, sẽ được tăng tuổi thọ thêm một kỷ (mười hai năm)”. Lại nói: “Trọng tội sát sanh, sao lại nấu nướng lợn, dê?” Do vậy, vua bèn sai ngục tốt lấy đinh dài đóng vào đầu Cư Dịch. Cư Dịch thầm niệm bảo hiệu của Ngọc Đế, kim quang trùm khắp thân, [quỷ sứ] chẳng thể đóng đinh được. Đã tỉnh lại, ông bèn bỏ nhà nhập đạo. Về sau, thành tiên.

          Lại nghe nói Cánh Lăng Vương (Tiêu Tử Lương) bệnh tình nguy kịch, do ông ta tin tưởng, ngưỡng mộ kinh Lăng Nghiêm, mà Kim Tý thần (thần có cánh tay bằng vàng) rưới thuốc [liền lành bệnh].

          Lô Cảnh Dụ bị nhốt vào ngục, do chuyên tụng Tâm Kinh mà tự thoát gông cùm. Do sớm chiều nương theo kinh Kim Cang mà người phu đào quặng thoát khỏi tai ương khi sụp hầm. Do tâm niệm kinh Pháp Hoa chẳng ngớt mà người thiếp nhà họ Tô thoát khỏi tai ách sóng bủa trên sông[88]. Ấy là vì kẻ tin tưởng, ngưỡng mộ thánh hiền, chẳng có ai không được thánh hiền báo đáp!

 

          (Chánh văn) Xâm lăng đạo đức.

          (正文)侵凌道德。

          (Chánh văn: Xâm phạm, lăng nhục bậc đạo đức).

          Bậc đạo đức trong thế gian như Nho sĩ đọc sách hiểu lý, tăng nhân hay đạo sĩ khắc khổ tu hành, lời nói là pháp tắc, hạnh là khuôn mẫu, vượt trỗi những kẻ cùng hàng, do chánh khí trong thiên địa hun đúc, kính yêu còn chẳng xuể, há nên xâm phạm, lăng nhục ư?

          Thiền sư Quốc Thanh[89] thuyết pháp, có gã giữ chức Phân Thủ Đạo[90] trọn chẳng tin Phật, trói Sư, đánh hai mươi trượng. Đến đêm, gã đó mộng thấy người vợ đã mất, vừa khóc vừa giận dữ nói: “Sao ông dám làm nhục thiền sư? Vua cõi âm phạt tôi hai mươi roi sắt, lại còn tước bỏ chức quan của ông!”

          Thuần Vu Sùng Đức lúc hai mươi tuổi vào trường huyện, tánh tình tà vạy, ngang ngược. Hễ bậc nho sĩ nào có đạo đức, Sùng Đức ắt sẽ mặc tình hiếp đáp, vu vạ. Một đêm, hắn bỗng nhiên mộng thấy một vị thần nói: “Mày trăm kế xâm phạm, lăng nhục bậc đạo đức. Vì thế, tao đến đoạt trí huệ của mày!” Nói xong, cầm đao chém xuống. Sùng Đức ngã lăn ra hôn mê rồi tỉnh lại. Rốt cuộc sau đấy, hắn như kẻ ngu đần, được mấy năm bèn chết ngóp.

          Đời Hán, khi Trương Lương còn trẻ, sang chơi Hạ Bi. Trên cầu có một cụ già, làm rơi dép xuống gầm cầu, bảo Trương Lương: “Này nhóc! Mày xuống lấy dép cho ông”. Trương Lương nghĩ cụ già cả, ráng nhịn, xuống nhặt lên. Ông lão lại giơ chân bảo: “Nhóc tì! Mang dép cho ta”. Trương Lương bèn quỳ xuống đi dép cho cụ. Cụ già bảo: “Nhóc con dễ dạy!” Lấy ra một quyển sách, bảo: “Đọc rồi sẽ có thể làm thầy vua chúa” rồi bỏ đi không quay lại. Xem sách ấy, thì ra là Thái Công Binh Pháp. Do vậy, Trương Lương học tập, giúp Hán Cao Tổ lấy thiên hạ, được phong là Lưu Hầu. Xem chuyện này, ắt biết là bậc nhân tài thành tựu đạo đức trong thiên hạ đông lắm. Những kẻ xâm phạm, lăng nhục ví như ngược gió tung bụi, toan dùng tay ngăn trời, phần nhiều là kẻ chẳng biết lượng sức vậy.

 

          (Chánh văn) Xạ phi trục tẩu, phát trập kinh thê, điền huyệt phúc sào, thương thai phá noãn.

          (正文)射飛逐走。發蟄驚棲。填穴覆巢。傷胎破卵。

          (Chánh văn: Săn bắn chim thú, phá tổ côn trùng, kinh động nơi chim đậu, lấp hang, lật tổ, phá thai, hại trứng).

          “Xạ” (射, bắn) không chỉ là dùng cung, tên. Phàm là súng ngắn, súng trường, nõ máy[91], ná, gậy dính[92], bẫy rập, lưới chăng, đều thuộc trong phạm vi này. Hoặc bán để lấy tiền bạc, hoặc vì tham ăn tục uống, vì ý niệm giết chóc mà xếp đặt [các thứ dụng cụ săn bắt, bẫy rập] khắp nơi. Loài chim bay bị mất mạng, có con bị gãy cổ, khiến cho cả bầy kinh hoảng. Có con vật bị đâm thủng ức, chảy cả tủy ra, khổ sở đến mức nào? Người có lòng nhân hãy nên phát lòng Từ gấp bội. Kẻ ăn chúng, sao nỡ kết thành mối oán cừu ắt bị đền trả chỉ nhằm thêm vào cỗ bàn thịnh soạn [một vài món] mà ta có thể giảm bớt? Kẻ sống bằng nghề ấy, sao lại khổ sở tạo nên oán nghiệt vô cùng để đầy túi tiền hữu hạn của ta?

          Người họ Đổng nọ thích giăng lưới bắt chim. Hễ bắt được, bèn dùng tre xuyên qua não chim, dùng rơm để thui sạch lông đem bán. Hắn giết chóc không biết bao nhiêu mà kể! Tuổi già, hắn mắc bệnh lạ, khắp mình sanh lớp da thô tháp, nổi vảy sần sùi như vỏ cây. Hễ bị ngứa bèn đốt rơm [dí vào chỗ ngứa] để nướng. Lại còn bị nhức đầu, thường bảo kẻ khác lấy tre đập [vào đầu cho đỡ đau]. Rốt cuộc, hắn do chứng bệnh ấy mà chết.

          Lại có gã Lưu Đông Nhi chuyên dùng nỏ và tên, tổn thương các sanh mạng rất nhiều. Một hôm, gã tựa cửa bắn chim sẻ. Ngẫu nhiên tai bị ngứa, bèn dùng đầu mũi tên để gãi chỗ ngứa. Bỗng gió thổi cánh cửa đập vào tay, mũi tên đâm xuyên qua lỗ tai, tuôn máu như trút nước mà chết. Ôi chao! Nỏ tự bắn mình, rơm tự đốt thân, mỗi mỗi đều đúng như những gì đã làm, sao mà báo ứng được thể hiện xảo diệu làm vậy?

          Đời Đường, Vi Cao nuôi một con anh vũ (két, vẹt). Mỗi lần nghe niệm Phật, nó bèn thôi lăng xăng, ngoan ngoãn. Bảo nó niệm Phật, nó bèn lớn tiếng niệm “nam-mô A Di Đà Phật”. Một hôm, nó đứng yên qua đời, chẳng ngã lăn quay. Đem thiêu, thu được mười hạt xá-lợi. Vi Cao bèn lập tháp để chôn cất.

          Lại nữa, trong niên hiệu Nguyên Hựu[93] đời Tống, có vị Tăng nuôi một con cù dục (鴝鵒, con sáo mỏ ngà). Nó thường niệm Phật theo vị Tăng. Một hôm, nó cúi đầu, xếp cánh, đứng qua đời. Vị Tăng chủ nhân của nó thương xót, đem chôn, bỗng từ chỗ chôn mọc lên một đóa hoa sen xanh, thơm ngát lạ thường. Đào lên xem, [hóa ra] hoa mọc từ cái lưỡi của con sáo mỏ ngà. Cả quận kéo đến xem. Viên quan Thái Thú viết kệ rằng:

          Thiên sản linh cầm bát bát nhi,

          Giải tùy Tăng khẩu niệm A Di,

          Phi cầm thượng chứng Vô Sanh Nhẫn,

          Ngã bối vi nhân khởi bất như!

          (Trời sanh con sáo tánh khôn lanh,

          Biết niệm Di Đà theo tiếng Tăng,

          Loài chim còn chứng Vô Sanh Nhẫn,

          Lũ ta làm người sánh nổi chăng?)

          Gộp lại những chuyện ấy để xem, [sẽ thấy] loài vật lớn bé trong thiên hạ đều là những chúng sanh có linh tánh, đức Phật từ bi, bình đẳng phương tiện che chở, mà sao con người tàn sát như thế đó, vì lẽ nào vậy?

          Đời Minh, ông Nhan Mậu Do nói: – Người thời nay ai nấy đều nói: “Tạo hóa sanh ra muôn vật để nuôi con người, theo đúng lẽ, hãy nên săn bắt để ăn”. Chẳng biết con người cũng là một sinh vật trong vòng trời đất, có thể tu chân, hiếu sanh, thì mới là thông linh hơn các loài vật. Nếu không, có khác gì những loài động vật [tăm tối]? Hơn nữa, người chưa theo lẽ chánh để tu tập, sẽ khó tránh khỏi luân hồi trong các nẻo. Những chúng sanh nay mang thân dị loại, có thể là đời trước làm thân người. Kẻ nay đang làm người, đời trước có thể là dị loại. Tham sân, tham giết, mượn tay kẻ khác [giết chóc] để ăn. Nẻo đường sanh tử, đáng kinh sợ nhất! Vừa vào cõi âm, những kẻ săn đuổi trong hiện thời, lẽ đâu chẳng bị săn đuổi? Hãy suy nghĩ nhé!

          Có kẻ bảo: “Nếu ai nấy đều chẳng giết, ắt cầm thú đầy ắp thế gian, còn như các loài sài lang, hổ, báo sẽ lại ăn thịt con người, há chẳng phải là nuôi dưỡng những con vật để hại người ư?” Đáp rằng: Đức Phật dạy: “Nếu là người có từ tâm, có công đức, hết thảy binh đao, nước, lửa chẳng thể tổn thương, hết thảy ác thú, độc trùng chẳng thể làm hại”. Xưa kia có gã vua ác xua voi hung dữ toan hại Phật, nhưng đức Phật khởi từ tâm thương xót, lũ voi thấy năm ngón tay của đức Phật hóa thành sư tử rống to. Do vậy, các con voi đều phủ phục xuống đất, quy hàng. Vì lẽ này, kinh Niết Bàn tột bậc tán thán công đức của người có từ tâm. Ấy là vì lòng Từ tột bậc có thể cảm hóa kẻ tàn bạo nhất trong thiên hạ.

          Xưa kia, vào thời Hán Quang Vũ Đế, tại quận Hoằng Nông[94] có nhiều hổ. Thái Thú ra lệnh cho dân chúng đặt bẫy rập, dùng cung nỏ để trị. Nạn hổ càng dữ dội hơn! Đến khi Lưu Côn làm Thái Thú, bèn nói: “Do chánh sách tàn bạo mà ra!” Ông truyền dân chúng lấp các hầm bẫy, phá bỏ cung nỏ, chỉ chú trọng cai trị bằng lòng nhân từ, giải quyết những nỗi đau khổ của dân. Hổ bèn cùng nhau vượt sông bỏ đi. Lưu Côn chưa hề đích thân chứng đại đạo, chỉ vì một niệm có lòng nhân mà có thể nhanh chóng dẹp hết loài hổ tàn bạo, huống hồ người học theo lòng từ bi của đức Phật ư?

          Lại như bậc thánh tăng khuất phục hổ, hàng phục rồng, chói ngời tai mắt người đời, chẳng phải là chuyện bịa đặt vậy. Nếu ai nấy đều có thể học Phật, học theo thánh tăng, dẫu hổ, báo… đầy dẫy thế gian, chúng nó vẫn chẳng thể gây hại, lo chi cầm thú sẽ hại người vậy thay? Bởi lẽ, kẻ tàn bạo đều hóa thành từ bi hết rồi, những loài vật độc hại cũng đều hóa thành lân, phượng. Do vậy biết con vật tuy là hung mãnh, tàn độc nhất, cũng đều có chỗ có thể cảm hóa, chỉ sợ con người chẳng thể từ bi đó thôi.

          Họ Trình ở Đức Hưng nhiều đời sống bằng nghề săn bắn, giết hại sanh mạng chẳng thể kể xiết. Một ngày, vào chợ, hắn mua mấy cái mặt nạ quỷ, cho mỗi đứa cháu nội đeo một cái. Bỗng trong chốc lát mấy chục con chó săn do hắn nuôi trông thấy [lũ cháu đeo mặt nạ] bèn tranh nhau cắn xé, đuổi cách nào chúng cũng chẳng chịu lùi. Mấy đứa cháu đều chết!

          Một người vào núi bắt vượn con đem về, vượn mẹ đuổi theo đến tận nhà. Kẻ ấy trói vượn con trên cây để chơi. Vượn mẹ dập đầu tha thiết cầu xin, chỉ là miệng chẳng thể nói được. Rốt cuộc kẻ đó chẳng thả, đập chết vượn con, vượn mẹ ngồi chồm hổm, đau đớn chết đi. Nhà ấy trong vòng nửa năm, bệnh dịch dấy lên, cả nhà chết sạch!

          Dù thông minh hay ngu xuẩn, đều cùng có giác tánh, người hay thú đều có cha con, há có nên dấy lên nhân duyên sát hại? [Quả báo] trong đời sau chẳng sai chạy, có khi cũng thấy ngay trong tình hình hiện tại, ở ngay trước mắt, đáng sợ thay! Hơn nữa, dân chúng các ngươi chẳng có gia đình ư? Chẳng có cha, mẹ, vợ, con ư? Giả như ra lệnh cho những kẻ làm quan dùng chánh sách tàn bạo để phá nhà của ngươi, dùng hình cụ độc dữ để tàn phá thân thể ngươi, khiến cho các ngươi chồng chẳng còn vợ, cha chẳng còn con nữa, có kẻ nào chẳng ngửa mặt lên trời gào khóc, oán hận sâu đậm chẳng thể cởi gỡ ư?

          Loài trùng kéo kén, ngủ đông, hễ đào xới, ắt chúng sẽ bị tổn thương. Vì thế, đức Thái Thượng viết lời răn dạy người đời, mà chư Phật càng thêm yêu tiếc chúng. Con người chớ nên không lãnh hội ý này để rồi cứ đào xới bừa bãi vậy! Đời Tống, Tào Bân hễ trời rét buốt bèn chẳng sửa chữa tường, nhà. Có kẻ hỏi nguyên do, ông bảo: “Sợ tổn thương những loài trùng đang ngủ Đông”. [Dòng họ] ông Tào đời đời được phong vương chính là vì đã gieo cái nhân không chịu làm tổn thương những loài trùng đang ngủ Đông. Nay thì có kẻ vô cớ đốt đồng hoang nhằm thỏa thích thói vui đùa trong chốc lát, tổn thương muôn loại sanh linh. Sao không dùng chuyện ông Tào để thưa trình, răn nhắc họ? Nếu gặp phải, hãy nên dập tắt ngay. Còn như dân quê, trẻ nít, do vì họ vô tri, càng phải nên khéo léo chỉ bảo. Nếu có kẻ nào đổ tro nóng, hoặc nước nóng xuống đất, và kẻ do cúng bái tổ tiên bèn đốt giấy tiền vàng mã, hãy đều nên lưu tâm trong lúc ấy để giữ vẹn mạng sống [cho các loài trùng nhỏ], lòng nhân sẽ to lớn không gì bằng!

          Chim đã đậu, như người đã ngủ, bỗng dưng bị kinh động, há chẳng phải là cả nhà nhiễu loạn ư? Đức Thái Thượng răn nhắc có cùng một ý với [lời dạy] “dặc bất xạ túc” (chẳng bắn chim đã đậu) của Khổng Tử. Tiên kinh chép: “Hễ ai tùy thời tạo phương tiện cứu loài vật, ắt sẽ được quả báo phước đức, trường thọ”.

          Lý Hề Tử là một bà cụ ở trong núi, mỗi khi tuyết đổ dầy, chim không có chỗ trú, thường cho chúng núp trong nhà, lấy gạo cho chúng ăn, lại còn chẳng dám kinh động chúng. Thượng Đế bảo bà cụ có lòng nhân, cụ thọ tới năm trăm tuổi.

          Người họ Dương nọ, sống bằng nghề bắt chim. Một hôm, có một con chim khách tránh rét đậu trên cây, bèn cầm gậy dính trèo lên cây [toan bắt nó]. Cành cây bị gãy, hắn ngã xuống, đầu đâm vào cành trúc, máu chảy ồ ạt mà chết.

          “Huyệt” (穴) là chỗ tụ tập sinh sống của hết thảy các loài hàm linh. Nhìn theo phía con người, nơi đó cố nhiên chỉ là một cái hang mà thôi, nhưng đối với chúng, đó là chỗ cư trú an ổn, chẳng khác gì [nhà cửa đối với] con người. Há có nên san lấp, cắt đứt đường sống, đoạn tuyệt đường ra, lại còn vùi lấp tông tộc của chúng, tàn nhẫn đến cỡ nào?

          Xưa kia có một vị tỳ-kheo đắc lục thần thông, ở chung với một chú bé sa-di. Từ trong Định, Sư thấy bảy ngày nữa chú sa-di sẽ chết. Do vậy, Sư tạo phương tiện, bảo chú trở về [thăm nhà]. Tám ngày sau, chú sa-di quay lại. Vị tỳ-kheo lấy làm lạ, nhập Định để xem, biết là chú sa-di trên đường trở về, thấy một tổ kiến sắp bị nước xoáy vào, bèn vội cởi ca-sa hốt đất ngăn nước, không cho nước xoáy vào ổ kiến. Vì nhân duyên ấy, [chú sa-di] được tăng thọ mười hai năm. Do vậy, chú sa-di tinh tấn, chứng đắc Tứ Quả.

          Ở Hàng Châu có một người đàn bà nọ thích sát sanh, rất ghét kiến. Hễ chúng làm bẩn, làm hư thức ăn, liền đốt lửa giết chúng. Tìm thấy ổ kiến, nếu chẳng lấp phá, ắt sẽ dùng nước sôi dội vào, giết kiến khôn xiết! Về sau, bà ta sanh được một đứa con, mới còn ẵm ngửa. Nó bị lũ kiến cắn xé, khắp mình phù nề, lở loét mà chết. Châu Cơ nói: “Phụ nữ thường coi con cái như tánh mạng, hãy khuyên họ kiêng giết. Hãy nên nói cho họ biết câu chuyện này, ắt họ sẽ tự biết sợ”. Vì thế, trong lời thề Giới Sát (đừng giết chóc) của ông Châu Cơ có hai câu: “Nếu lại vung dao, sẽ giống như giết con cái của ta vậy”. [Hai câu nói ấy] một là tự răn dè mình, hai là răn dè vợ vậy!

          “Sào” (巢) là chỗ hết thảy chim chóc lớn nhỏ nương náu, bú mớm, sanh nở, nhờ vào đó mà tránh gió, mưa, sương, tuyết, hoặc dùng để ẩn náu tránh bẫy rập, ná bắn, tên bay. Nếu kẻ nào bất nhân phá đổ tổ chim, có khác gì phá cửa, đốt nhà? Há chẳng đến nỗi dồn chúng vào chỗ chết ư? Trong bài Bảo Tự Chương (保嗣章, chương sách dạy về cách bảo vệ con cháu), đức Thái Thượng đã bảo: “Con cháu của phàm nhân suy vong, tuyệt diệt, đều là do những kẻ trong đời trước đã lật tổ, hủy trứng, đốt núi, tát cạn chuôm, đầm, phá thai, giết con, phạm vào quy định gồm một ngàn sáu trăm hai mươi điều vậy”. Xét theo lời ấy, những kẻ không có con nối dõi, hãy càng nên dũng mãnh tỉnh ngộ!

          Đức Phật dạy: “Nếu thấy hết thảy người trong cõi đời trèo lên cây lấy trứng, xuống nước bắt cá, hãy nên thầm niệm danh hiệu Bảo Thắng Như Lai mấy chục câu, chúng nó sẽ được thoát chết. Đấy cũng là phương cách để cứu sống vậy”. Có người nói: “Nhân từ với người rồi mới yêu thương loài vật, nay sao lại chỉ dạy yêu thương loài vật?” Thưa: Nhân từ với người dễ dàng, yêu thương loài vật khó lắm! Tàn nhẫn hại loài vật, ắt sẽ tàn nhẫn hại người. Chẳng nỡ lòng hại vật, ắt đối với loài người cũng sẽ biết [từ bi]. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Ta còn chẳng nỡ lòng làm khổ một con kiến”, huống chi đối với con người? Vua Thành Thang[95] mở rộng tấm lòng “[do thương xót loài vật] mà mở lưới” đến tận con người; vì thế, lòng nhân bao trùm thiên hạ. Vua Tề (Tề Tuyên Vương) chẳng nỡ lòng [hạ lệnh giết] một con trâu đang sợ hãi, run rẩy[96], [lòng nhân từ] đầy ắp đủ để bảo vệ bốn biển. Nếu Bạch Khởi[97] có lòng yêu thương muôn vật, ắt bốn mươi vạn người ở Trường Bình sẽ chẳng bị hãm hại! Vì thế, kẻ yêu thương loài vật, sẽ yêu thương con người, có cùng một lòng nhân. Đức Như Lai khi tu nhân, thương xót một con bồ câu [bị chim ưng săn đuổi, bèn tự cắt thịt mình thí cho chim ưng]. Mở rộng đến tột cùng, lòng từ bi tràn ngập mười phương, dạt dào trong muôn kiếp. Ai có thể nói là kẻ yêu thương loài vật, chẳng thể yêu thương con người ư? Nhưng tâm luôn nghĩ cứu khổ, sẽ chính là đức Quán Âm xuất hiện. Niệm nào cũng nghĩ hành Từ, tức là Phật Di Lặc hạ sanh vậy!

          Đời Tống, Tô Thức tên tự là Tử Chiêm, do dựng nhà ở Đông Pha[98], bèn lấy hiệu là “cư sĩ Tô Đông Pha”. Trước cửa phòng sách, có tre, bách, các loại hoa mọc um tùm khắp sân, các loài chim làm tổ trên đó. Do vậy, ông cấm con cái, tôi tớ không được săn bắt. Trong vòng mấy năm, chim đều làm tổ ở những cành thấp, hễ cúi xuống có thể trông thấy trứng của chúng. Xưa kia, nghe nói các loài chim hễ làm tổ ắt gần người để tránh rắn, chuột, cú, diều; người thời nay ăn thịt chim non, phá tổ của chúng, há chẳng phải là bất nhân hơn các loài rắn, diều hâu ư?

          Một đứa trẻ nhà họ Tiết ở Kế Châu trèo lên cây, thăm dò tổ chim thước để bắt chim non. Trước đó, đã có con rắn to ăn chim non nằm sẵn trong tổ. Đứa trẻ vừa trông thấy rắn bèn kinh hãi, há hốc miệng. Rắn bò vào trong miệng đứa trẻ, nó ngã rơi xuống nước. Cứu lên, rắn đã cắn tim nó, đứa trẻ và rắn đều chết.

          Lại vào đời Tống, có gã họ Châu thích phá tổ, rất ghét ong. Hễ thấy tổ ong, dẫu ở chỗ cao, ắt bắc thang để phá nát. Về sau, hắn sanh hai đứa con, hậu môn đều bị bít chặt, chúng đều chết ngay, rốt cuộc tuyệt tự. Thiền sư Từ Thọ nói: “Người đời do sát sanh nhiều nên mới có đao binh kiếp. Do ngươi thiếu mạng bèn giết thân ngươi, do ngươi thiếu tiền bèn đốt nhà ngươi, ly tán vợ con ngươi. Từng phá sào huyệt của chúng, sẽ bị ảnh hưởng gần giống như vậy! Hãy rửa tai nghe lời đức Phật dạy”.

          Ông Nghiêm Thiệu Đình nói: – Thánh nhân răn kiêng giết, tâm hết sức thiết tha. Kỳ lân là một con thú, do nó không giẫm đạp cỏ tươi, không ăn các con trùng còn sống, nên được coi là điềm lành, được xếp đứng đầu Tứ Linh[99]. Bậc vương giả có lòng nhân đức, ắt kỳ lân sẽ tới.

          Lại nói: – Chỗ nào có kẻ mổ bụng lấy thai, giết trẻ nhỏ, ngay cả nơi lân cận chỗ ấy, kỳ lân cũng chẳng tới. Tát cạn đầm để bắt cá, ắt giao long chẳng ở nơi vực sâu ấy. Lật tổ, phá trứng, ắt phượng hoàng chẳng bay đến huyện ấy. Vì thế, những điều đó cho thấy phường hiếu sát chẳng sánh bằng cầm thú! Như thế mà nói là thánh nhân chẳng kiêng giết” ư? Từng thấy phường vô lại hôm nay trộm cắp, ngày mai bị trói, vẫn cứ trộm cắp chẳng ngơi, [ắt là vì kẻ ấy] nghĩ là “do trộm cắp, sẽ ngay lập tức có được tiền bạc, của báu; còn bị trói là chuyện của ngày mai, cứ mặc kệ, rảnh đâu mà lo tới! Ăn uống sẽ ngay lập tức sướng bụng miệng, còn tội lỗi ở tận đâu đâu ngoài hình hài trong kiếp sống này!” Chẳng trách những lời khuyên “đừng giết” dẫu nói tường tận cách mấy, vẫn chẳng thể cứu vãn nổi chuyện tàn sát! Chỉ mong những ai trong lúc cầm đao đuổi bắt, hãy tạm thử hồi tâm quan sát, xét xem những chúng sanh ấy trốn chạy, tung bay tán loạn, chạy vào chỗ tối, chui vào kẽ nứt, chẳng có thang để trèo lên trời, không có lỗ nào để rúc xuống đất, giống như lũ chúng ta kinh sợ phép vua, hễ nghe có lệnh truy bắt, bay hồn bạt vía, có khác gì chăng? Hãy xem những chúng sanh ấy như cùng một loài [với chúng ta] mà thương xót, ăn ở cùng với nhau. Như cắt cổ một con gà, cả bầy gà ré lên kinh hãi. Mổ một con lợn, cả đàn lợn bỏ ăn. Giống như chúng ta bị bắt lên quan, cả nhà bàng hoàng, hoặc trong lúc sanh ly tử biệt (lúc bị hành hình), cả họ khóc rống. Thường ngày yêu thương, quyến luyến, khó thể chia cắt, khó lòng bỏ lìa, có gì khác chăng? Xem những chúng sanh ấy, bị trói, bị chém, quằn quại, gào thét bi thương, chỉ mong được tha, máu me đầm đìa, mạng đã dứt rồi, tiếng gào vẫn còn bi phẫn. Có lúc còn co giật, giống như chúng ta bệnh tật không biết làm sao được, gào thần, niệm Phật mong được bảo vệ. Thần thức lìa khỏi, mắt trợn trừng, môi mấp máy, quơ tay nắm níu mong sao được sống, có khác gì chăng? Suy xét kỹ càng, chẳng cần phải luận định quả báo ngàn đời vạn kiếp, mà ngay trong một niệm hiện tại, há còn dám nhẫn tâm giết hại, thương tổn nữa chăng?

          Bạch Quy Niên có được một bộ sách lạ, [học tập theo sách ấy] có thể hiểu ngôn ngữ của loài chim trong chín phương trời và tiếng nói của loài thú trong chín phương đất. Một ngày, họ Bạch ngồi cùng Thái Thú Lộ Châu, nhằm lúc có người xua bầy dê đi qua sân. Trong ấy có một con dê, dẫu bị đánh đập, vẫn không chịu đi, còn kêu lên bi thương. Thái Thú hỏi: “Dê nói gì vậy?” Họ Bạch thưa: “Dê nói trong bụng có dê con, chờ sanh xong, sẽ cam tâm chịu chết”. Thái Thú bèn giữ dê lại, chẳng giết. Quả nhiên nó sanh ra hai con dê con.

          Văn Lập sống bằng nghề giết mổ, nấu nướng, đã từng giết một con nai. Con nai quỳ khóc, ông ta cho là điềm bất tường. Con nai ấy có thai, sắp sanh nở, chạy vào bếp, ai oán [tỏ ý] cầu xin. [Nó vẫn bị] giết mổ [như những con vật khác]. Về sau, Văn Lập bị chứng bệnh lạ, tóc rụng, da nứt, dấy lòng hối hận sâu xa, vét sạch nhà cửa, mua đất, dựng chùa Tiểu Trang Nghiêm, bèn lành bệnh. Ông ta liền suốt đời tu hành. Cái tội mổ thai, giết chết con vật còn non lớn tột bậc, nhưng vẫn có cách sửa đổi. Xin hãy nhìn vào câu chuyện này.

          Đức Phật dạy: “Nếu kẻ nào bạo ác chẳng tin tội phước, bắt chim non, ăn trứng, khiến cho các loài chim chóc đều bị mất con, khiến cho chúng kêu gào đau đớn đứt ruột, tròng mắt chảy máu, sẽ mắc phải báo ứng cô độc, không có con”.

          Dương Tự mộng thấy thần nói: “Hơn mười ngày nữa, ngươi sẽ chết. Nếu có thể cứu sống ức vạn sanh mạng thì sẽ có thể thoát chết”. Dương Tự thưa: “Kỳ hạn cấp bách, chẳng làm kịp!” Vị thần dạy: “Đức Phật bảo, nếu cá con hoặc trứng cá không bị thả vào nước muối, ba năm còn có thể sống sót”. Dương Tự tỉnh mộng, hằng ngày mua cá con hoặc trứng cá đem thả. Lại còn viết lời thần dạy bằng chữ to dán ở các ngả đường để người khác biết mà kiêng dè. Hễ thấy người khác giết cá, bèn đem trứng cá thả trong sông. Vài hôm sau, lại mộng thấy thần nói: “Con số ức vạn đã mãn, có thể kéo dài tuổi thọ”.

 

Ghi thêm cách thả cá con của ông Thí Ngu Sơn:

          Hễ cá đã chết, bèn nhẹ nhàng gỡ lấy trứng, đừng làm tổn hoại, đừng bỏ vào nước muối, dùng rơm rạ phủ lên trên, chờ vết bọt nước hơi khô, hãy đem vùi trong chỗ bùn cát nơi mé nước để khỏi bị cá khác nuốt mất, chúng sẽ được sống sót toàn bộ, nhưng chỗ chôn trứng chẳng thể rời khỏi nước. Một cách khác là trộn với bùn khô, để cho ánh mặt trời chiếu hơi ấm bèn đem cất, từ cuối Đông cho đến ba tháng mùa Xuân, cất cho tới sau ngày Rằm tháng Tư bèn thả xuống bãi sông chỗ có nước cỏ, không khi nào chẳng sống toàn bộ. Những tháng khác thì có thể tùy lúc mà thả, hết sức thuận tiện!

          Châu Dự đã có lần nấu lươn, thấy có con lươn uốn cong mình lên trên, đầu và đuôi thì ở trong nồi canh, ấy là vì trong bụng nó có con. Do đó, ông ta kiêng giết.

          Đường Văn Tông thích ăn uống. [Kẻ hầu] chuẩn bị ngự thiện[100], có món trứng luộc. [Trong lúc đang luộc], bỗng nghe trong cái đỉnh có tiếng rì rầm cùng nhau hô Quán Thế Âm Bồ Tát, hết sức thê lương, thảm thiết. Viên giám tể[101] nghe tiếng, [tâu lên vua], vua sai kiểm nghiệm thì đúng là như vậy. Vua than: “Ta chẳng biết thần lực trong đạo Phật có thể làm như thế!” Do vậy, nhà vua sắc truyền: “Từ nay, đừng dùng trứng gà nữa!” Phàm “cứu khổ, cứu nạn” chính là bổn hạnh của Quán Thế Âm. Trong nồi mà còn có tiếng cùng nhau hô [thánh hiệu của Ngài], kẻ làm người mà lại chẳng cung kính niệm ư?

          Đời Lương có kẻ dùng lòng trắng trứng hòa vào nước để gội tóc, muốn cho tóc bóng mượt dễ coi. Kẻ ấy phá trứng rất nhiều. Khi sắp chết, trong tóc chỉ nghe tiếng mấy ngàn con gà kêu chiêm chiếp!

          Hồ Gia Đống nói: – Loài vật bay hay chạy giống như con người hành động. Loài vật ngủ Đông giống như con người nằm ngủ. Sào huyệt của loài vật giống như nhà cửa của loài người. Thai, trứng của loài vật giống như con người thai nghén, sanh nở. Há có nên tàn hại đủ mọi cách, dứt bặt lòng Từ của trời, đất, tạo hóa, trái nghịch lòng nhân muôn vật có cùng một Thể” vậy thay? Nhưng tám tình huống ấy, khắp nơi đều có, chẳng thể nhất loạt mong sao hoàn toàn chẳng có cho được! Chỉ khuyên khắp người đời, hễ có tiền, bèn lấy phóng sanh làm chuyện chánh yếu. Không có tiền thì ngoài chuyện chính mình kiêng giết, còn phải khéo léo khuyên thân thích, xóm giềng, bạn bè, khiến cho họ chẳng còn gây tạo nỗi oan nghiệt ấy nữa! Hãy làm theo cách này, ngõ hầu sẽ có rất ít [hành vi] sai lầm!

          Trong bài văn Phóng Sanh của Liên Trì đại sư đời Minh có đoạn:

          – Từng nghe thế gian coi trọng sanh mạng nhất. Điều thê thảm nhất trong thiên hạ là giết hại, tổn thương. Do vậy, [động vật] hễ sắp bị bắt giữ, ắt rảo chạy; rận, rệp còn biết tránh né cái chết. Trời sắp mưa, sẽ di tản, dế, kiến còn tham sống. Huống chi lưới giăng trong núi, chài quăng nơi vực, [kẻ săn bắt] lắm cách che giấu hòng bắt lấy. Móc câu cong, mũi tên thẳng, trăm kế vây bủa, khiến cho loài vật vỡ mật, tan hồn, mẹ con ly tán. Hoặc giam cầm trong lồng, trong cạm, giống như ở trong tù. Hoặc bị đao chặt, giống như bị lâm vào cảnh chém giết. Nai thương con, liếm vết thương mà ruột non đứt rời từng khúc[102]. Con vượn sợ chết, nhìn thấy bóng cây cung từ xa mà tuôn hai hàng nước mắt[103]. Cậy ta mạnh, hiếp đáp kẻ yếu, sợ rằng chẳng đúng lý! Ăn thịt kẻ khác để bồi bổ thân mình, sao lại nỡ lòng? Do vậy, trời cao rủ lòng thương xót, cổ thánh bủa lòng nhân, Thành Thang tháo lưới giăng bẫy, Tử Sản[104] đề xướng nuôi cá. Thánh thay, trưởng giả Lưu Thủy[105], dùng túi đựng nước suối giúp đỡ bọn cá đang bị khô hạn. Từ bi thay đức Thích Ca, lãnh nguy vong [giùm chim bồ câu] bèn tự cắt thịt[106]. Thiên Thai Trí Giả đào ao phóng sanh. Đại Thụ tiên nhân[107] bảo vệ những con chim đậu trên thân. Chuộc những loài có vảy mà đắc độ, lòng yêu thương của Thọ thiền sư (ngài Vĩnh Minh Diên Thọ) còn đó. Do cứu rồng con mà được truyền phương thuốc, phong thái từ bi của Tôn Chân Nhân[108] chẳng mất. Cứu sống kiến, sa-di đổi đoản mạng thành trường thọ, thư sinh đổi hạng kém thành đỗ bậc thượng[109]. Do thả rùa, Mao Bảo[110] gặp nguy mà thoát nạn, Khổng Du[111] chức kém mà được phong hầu. Khuất Sư thả cá chép tại Nguyên Thôn[112], tăng thọ mười hai năm. Tùy Hầu giúp rắn ở ngoài đồng nước Tề, được báo đáp viên châu ngàn vàng. Cứu con ruồi suýt chết đuối, người thợ làm rượu được miễn án tử hình[113]. Thả con ba ba sắp bị nấu, đứa tớ gái nấu bếp bệnh ngặt được lành[114]. Chuộc mạng con vật sắp bị giết từ nhà đồ tể, Trương Đề Hình hồn siêu thăng thiên giới[115]. Đổi mạng thừa nơi ghe câu cá, Lý Cảnh Văn giải độc bằng đan sa[116]. Tôn Lương Tự giải trừ mối nguy do bị chằng buộc [trong bẫy rập], cho nên được loài chim tìm giùm đất an táng tốt đẹp[117]. Huyện lệnh họ Phan lập lệnh cấm giăng lưới bắt cá trên sông hồ, lúc bị đổi đi trấn nhậm nơi khác, thủy tộc khóc gào đau xót[118]. Cụ Đạo Tín cứu con vật sắp bị giết bởi ngu dân để cúng tế, điềm lành ứng hiện, trời tuôn mưa ngọt[119]. Ngài Tào Khê (Huệ Năng) giữ lưới thợ săn, đạo thống vượt trỗi Thần Châu (Trung Hoa). Chim sẻ được giải cứu, bèn ngậm vòng đến báo ân. Cáo có thể vào giếng truyền trao đạo thuật[120]. Cho đến trường hợp thân tàn được sống, bám trên vách trắng để nghe kinh; cầu được sống ở nơi hoạn nạn, hiện thân hoàng y báo mộng[121]. Hễ thí đều có báo ứng, chẳng phải là chuyện không có bằng chứng, [những chuyện ấy được] chép trong sách vở, rạng ngời tai mắt. Xin nguyện khắp mọi người, hễ thấy những con vật, hãy phát tâm từ bi, bỏ ra tiền tài chẳng kiên cố[122], để làm chuyện thuận lợi, hoặc là tạo ân giúp đỡ nhiều mạng, tích lũy âm công to tát. Nếu ban ơn cho một con trùng, có lẽ nào cũng chẳng phải là một việc thiện ư? Nếu tháng ngày tích lũy tăng dần, thực hiện rộng rãi, phước sẽ cao vòi vọi, lòng Từ đầy ắp nhân gian, tiếng thông thấu cõi trời, dẹp sạch làu oán chướng, nhiều phước đức sẽ tụ tập trong kiếp này, vun bồi, chất chứa thiện căn, những điều may mắn lan sang đời khác! Nếu lại còn giúp [những con vật mắc nạn ấy] xưng niệm Phật hiệu và tụng kinh văn, vì chúng hồi hướng Tây Phương, khiến cho chúng được vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo. Ôm tấm lòng càng to, gieo bồi đức càng sâu. Đạo nghiệp nhờ đó mà chóng thành, sẽ sanh về phẩm vị thù thắng nơi đài sen!

 

          (Chánh văn) Nguyện nhân hữu thất, hủy nhân thành công.

          (正文)願人有失。毀人成功。

          (Chánh văn: Mong cho người khác phạm sai lầm, hủy hoại sự thành công của người khác).

          Người khác phạm sai lầm hay thất bại, đó là điều bất hạnh. Chẳng xót thương mà còn ngược ngạo mong cho họ [gặp phải]; đấy chính là vui sướng khi người khác mắc họa! Những kẻ đã coi tai họa là chuyện đáng vui thích, há tai họa không theo sát họ ư? Như vậy là sự thất bại chẳng giáng xuống người khác, mà đâm ra rơi vào chính mình! Người dẫu chí ngu, cũng sẽ chẳng làm như thế!

          Lý Sĩ Hành vâng lệnh đi sứ Cao Ly, Du Anh làm phó, những tiền bạc, vải vóc thu được, [Sĩ Hành] đều giao cho Du Anh. Du Anh sợ [tiền bạc, vải vóc của chính mình do] vượt biển sẽ bị ướt, đem hết những đồ vật của Sĩ Hành để dưới đáy thuyền, đem đồ vật của chính mình phủ lên trên. Chẳng ngờ gặp gió to, thủy thủ xin quăng bớt những vật chở theo. Trong lúc bối rối, họ tiện tay nắm được vật gì bèn quăng vật đó. Đến khi gió lặng, kiểm điểm những vật đã ném đi thì toàn là đồ của Du Anh! Những đồ vật của Sĩ Hành đều ở đáy thuyền, chẳng mất một vật nào! Có ý niệm riêng tư giống như vậy, kẻ nào chẳng có? Đều là do chẳng thể bình đẳng vậy! Kinh Niết Bàn dạy: “Các người tu hành hãy nên lấy sáu pháp trí lực bình đẳng để thâu nhiếp, chế ngự tự tâm, ắt phải sao cho trong lúc vận dụng bèn bình đẳng đối với hết thảy”. Thiệu Khang Tiết có thơ rằng:

          Mỗi nhật thanh thần nhất chú hương,

          Tạ thiên, tạ địa, tạ quân vương,

          Đản cầu xứ xứ điền hòa thục,

          Duy nguyện nhân nhân thọ mạng trường.

          Quốc hữu hiền thần an xã tắc,

          Gia vô nghịch tử não gia nương,

          Tứ phương ninh tĩnh can qua tức,

          Ngã nhược bần thời dã bất phương.

          (Mỗi sáng ta đều thắp nén hương,

          Tạ trời, tạ đất, tạ quân vương,

          Chỉ mong khắp chốn mùa màng tốt,

          Chỉ nguyện người người thảy mạng trường.

          Nước có hiền thần yên xã tắc,

          Nhà không nghịch tử, mẹ cha vui,

          Bốn phương yên ổn, không chinh chiến,

          Ta dẫu nghèo hèn, quản ngại chi).

          Do vậy biết tâm của tam giáo đều bình đẳng. Lũ chúng ta phải nên có tâm lượng ấy, khắc chế tư dục, đối trị cái tâm. Chớ vì niệm nào cũng nghĩ đến lẽ riêng tư mà tạo ác tầng tầng!

          “Hủy” (毀) có hai nghĩa, một là hủy hoại, hai là hủy trấm (毀譖, vu vạ, miệt thị, phỉ báng). Kẻ muốn lập công, bất luận lớn, bé, ai nấy đều dốc sức mong đạt thành công, nhưng ta ắt ngăn trở, hủy hoại, tâm thuật đúng là như rắn, rết!

          Đời Tống, ông Chân Tây Sơn[123] nói: “Nếu ai nghe một điều thiện của kẻ khác, hãy nên khen ngợi, phụ họa. Nghe các điều ác, ắt dốc sức che giấu, khiến cho kẻ ấy thành công, [có như vậy thì mới] chẳng đến nỗi sai sót về mặt đức hạnh”. Cổ nhân có tấm lòng như thế, huống gì đối với người đã thành công mà còn hủy báng ư?        

          Đời Minh, Tăng Tiễn là Tổng Đốc Tam Biên[124] muốn chiếm lại vùng Hà Sáo. Nghiêm Tung[125] đố kỵ sự thành công của ông, ngược ngạo gièm siểm Tăng Tiễn và Hạ Ngôn tự tiện gây hấn nơi vùng biên cảnh, khiến cho họ đều bị giết tại chợ Tây [thành Bắc Kinh]. Về sau, Nghiêm Tung chết, con trai hắn là Thế Phiên bị chặt đầu.

          Đời Tống, Tuyên Kỳ Anh tánh hiểm độc. Hàng xóm xây nhà sắp xong, gã họ Tuyên đố kỵ, đến đêm bèn qua chặt chân cột. Bỗng kèo nhà rơi xuống, đè chết hắn. Than ôi! Hủy người khác là tự hủy đó thôi! Người thời nay đối với mỗi chuyện, mỗi vật, hoặc là cho đến giao dịch, vay mượn v.v… thường nói cho sướng mồm, hủy hoại sự thành công của người khác, là cái tâm như thế nào vậy? Ta biết những kẻ như thế ấy chỉ tự hủy chính mình mà thôi! Phàm là những người lương dân, hãy nên răn nhắc lẫn nhau!

 

          (Chánh văn) Nguy nhân tự an, giảm nhân tự ích.

          (正文)危人自安。減人自益。

          (Chánh văn: Khiến cho người khác lâm nguy để chính mình an ổn. Giảm trừ lợi ích của người khác để chính mình được lợi).

          Ngàn kinh vạn điển chỉ luận định một chữ Tâm. Nay cùng kẻ khác ở trong cảnh họa hoạn, rốt cuộc muốn cho kẻ khác đương đầu nguy hiểm, còn ta được yên thân ư? Trước hết là đã chôn vùi bản tâm vậy!

          Ông Vu Thiết Tiều nói: – “Bỏ nguy, tìm an” là lẽ thường tình, nhưng trời ghét thói ấy, vì sao? Chẳng phải là ghét kẻ tự [tìm cách] an thân, mà là ghét kẻ khiến cho người khác gặp nguy hiểm. Đối với những tình cảnh phải trải qua trong đời người, có ai mà chẳng biết phán đoán là an hay nguy? Nếu chỉ biết an ổn cho riêng mình, chẳng đoái hoài kẻ khác gặp nguy hiểm, ý niệm giết chóc đã ẩn sẵn trong ấy, sẽ có thể là không gì chẳng làm! Nếu mưu kế ấy (mưu kế đùn đẩy người khác hứng chịu hiểm nguy) thực hiện được, ắt kẻ quỷ quyệt sẽ đều gối cao [yên giấc không áy náy], mà kẻ thật thà sẽ chẳng có đường nào sống sót được, há có phải là tấm lòng của trời đất hay chăng? Huống hồ, lẽ an nguy như chiếc vòng luôn xoay chuyển, rốt cuộc chẳng để cho kẻ ôm lòng riêng tư mà hòng hiểu biết xuyên suốt được. Vì thế, có khi chỗ hướng đến [hòng tránh hiểm nguy] lại đâm ra là nơi hiểm địa, còn chỗ mong né tránh đâm ra lại là chỗ bằng phẳng. Nếu bình tâm nơi [sự lợi hại giữa] ta và người, đến bất cứ nơi đâu mà chẳng phải là [vững vàng như đi] trên tảng đá ư?

          Đời Tống, Lý Tự [được phái về] trông coi Vĩnh An quân[126]. Khi ấy, bọn cướp to lớn mới dấy lên, hắn sợ mắc họa, bèn quỷ quyệt tiến cử người bạn là Phạm Hình thay thế. Do vậy, Phạm Hình cai quản Vĩnh An, Lý Tự được rời khỏi chức ấy. Về sau, cả nhà Phạm Hình bị bọn cướp làm hại. Không lâu sau, Lý Tự được điều về trông coi Lâm An, trên đường gặp cướp, cũng chết cả nhà. Than ôi! Thấy người khác gặp nguy, bậc quân tử còn nghĩ cách cứu giúp, há nên nhẫn tâm để người khác gặp nguy hiểm hòng ta được an ổn ư? Đấy là hành vi của phường khắc bạc, tiểu nhân, mắc họa to nhất!

          Trong thiên hạ, chỉ tạo lợi ích cho người khác thì chính mình mới có thể đạt được lợi ích. Nếu chẳng có ích cho người khác, chỉ kiếm lợi ích cho riêng mình, còn chẳng phải là lợi ích thật sự, huống hồ kẻ giảm tổn người khác! Đó gọi là “chỉ cốt sao ta giàu có, chẳng màng kẻ khác nghèo nàn”.

          Ông Vu Thiết Tiều nói:

– Người thời nay đối với những chuyện tiền bạc, vải vóc, ruộng nương, nhà cửa v.v… thường làm như thế, há có biết đấy chính là đã riêng vay nợ mà chẳng viết bằng khoán. Tiền lời sẽ ngày càng tăng, sẽ có ngày đến hạn kỳ [phải trả nợ], có gì đáng gọi là lợi ích hay chăng?

          Đầu niên hiệu Sùng Trinh đời Minh, có hai người là Giáp và Ất chơi thân với nhau. Gặp khoa thi võ, do mỗi nơi chỉ có thể tiến cử một Võ Cử Nhân, Giáp bèn nhờ cậy huyện lệnh, Ất trông cậy quan Tư Lý. [Theo quy định, khi được tuyển, ứng viên] phải biếu xén tạ ơn mỗi chỗ năm mươi lạng. Giáp suy đoán: “Danh vọng của huyện lệnh khá nhẹ, ắt việc chẳng thành; quan Tư Lý danh vọng cao trọng, chuyện ắt thành”. Do vậy, hắn muốn bóc rỉa Ất để làm lợi cho mình, lập kế bảo Ất: “Hai người bọn ta đồng tâm, đáng nên đồng cam cộng khổ. Nếu [quan trên] chỉ tuyển lấy một người trong hai đứa mình, chớ luận ta hay ngươi [được tuyển], đều phải chia đôi phần lễ biếu tạ [quan của người không được tuyển]”. Ất đồng ý. Tới khi yết bảng, người nhờ cậy quan Tư Lý không được tuyển, còn người cậy quan huyện được chọn. Do món tiền dành để biếu xén đều ở chỗ Ất, Giáp chẳng thể nuốt lời, chỉ đành uất nghẹn mà thôi! Giáp muốn lợi mình, đâm ra làm lợi cho Ất[127]. Từ chỗ này suy ra, phàm quan lại muốn bóc lột dân, nhà giàu bóc lột lợi tức [từ người nghèo], cứ mong căng đẫy túi mình, chẳng có kẻ nào đâm ra không bị tổn hại!

 

          (Chánh văn) Dĩ ác dịch hảo, dĩ tư phế công.

          (正文)以惡易好。以私廢公。

          (Chánh văn: Dùng thứ xấu thay cho đồ tốt [trong khi giao dịch]. Vì lòng riêng tư mà phế trừ lẽ công).

          “Lấy thứ xấu thay cho đồ tốt”: Như dùng sắt thay cho vàng, dùng đá thay cho ngọc, lấy vải thay cho lượt là v.v… Chuyện ấy chẳng đáng cho người thông đạt nhìn vào cười xòa một tiếng, nhưng cái tâm ấy đã gần với [cái tâm] trộm cắp vậy. Tứ Tổ nói: “Cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu từ tâm khởi”. Nếu cái tâm chẳng cưỡng chia danh tự (tức là tâm có phân biệt), vọng tình khởi từ chỗ nào? Pháp sư Nguyên Hiểu từ Đông Hải (Đại Hàn) đến đất Đường (Trung Hoa) tìm thầy [xin học đạo], ban đêm ngủ nơi mộ hoang. Do khát, muốn uống nước. Sư trông thấy cạnh chỗ ngồi có một dòng nước trong, vốc uống, thấy [vị nước] rất ngọt. Tới sáng, nhìn lại thì ra là nước chảy từ tử thi vừa chết! Khi ấy, Sư ghê tởm ói ra, bèn hoát nhiên đại ngộ, nói: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, tốt hay xấu là do mình, liên quan gì đến nước!”

          Đời Tống, ông Tô Đông Pha cất giữ, nâng niu một viên ngọc đẹp. Có gã Chương Trì[128] đòi xem, ngầm lấy đá Yên Sơn tráo vào. Đông Pha chẳng biết, khi bị điều tới Hoàng Châu, mở ra xem, mới biết là Chương Trì đã đánh tráo, chỉ đành cười khan. Không lâu sau, Chương Trì bị lưu đày chết ở Thai Châu, chẳng biết mỹ ngọc lại về tay ai?

          “Tư” (私) là nói theo tâm tình, Công là nói theo Lý. Do sự mừng, giận, ân, oán trong ý riêng mà phế trừ lẽ đúng sai theo công đạo. Trên là chẳng thể phân biệt trung, nịnh, ắt triều đình mắc họa chia bè kết đảng. Dưới là tà chánh chẳng thẩm định, ắt trong vòng bạn bè, làng nước, sẽ có mối trở ngại kéo bè kết cánh công kích những kẻ khác ý ta! Nặng hơn nữa là do yêu ghét chẳng thích đáng, ắt người cùng một nhà như cha với con, cốt nhục chí thân cũng trở thành một lũ oán hận nhau! Thói tệ trong vòng tình cảm giữa con người với nhau, không gì quá đáng hơn chuyện này! Bất luận hiền, ngu, sang, hèn, ai ấy đều mắc phải căn bệnh này, chỉ là nghiêm trọng hay không mà thôi! Người biết thói tệ này, hãy suy xét lý để tiêu trừ tánh thiên chấp, lắng lòng để hóa giải thành kiến trong tâm. Đó là người có đại học vấn, có đại bản lãnh vậy.

          Đời Tống, Triệu Biện và Phạm Trấn do bàn luận sự việc [trong triều chánh] mà có hiềm khích. Tới khi Vương An Thạch làm Tể Tướng, oán hận Phạm Trấn [trong quá khứ] đã tâu trình những lời lẽ công kích hắn, thừa dịp vua hỏi [ý kiến của hắn] về Phạm Trấn, bèn tâu: “Triệu Biện biết rõ người này!” Vua hỏi Triệu Biện, Triệu Biện thưa: “Phạm Trấn là bậc trung thần!” Vua hỏi: “Vì sao biết là trung?” Triệu Biện tâu: “Khi Nhân Tông bị bệnh, Phạm Trấn là người đầu tiên xin sách lập Hoàng Thái Tử để yên định xã tắc, đã dâng sớ mười chín lượt đợi mạng lệnh trong suốt một trăm ngày, râu tóc đều bạc phơ. Chẳng phải là trung thần thì là gì?” Khi đã lui ra, Vương An Thạch trách: “Chẳng phải là ông với hắn có hiềm khích hay sao?” Triệu Biện đáp: “Há dám vì hiềm khích riêng mà phế trừ công đạo!”

          Huyện lệnh Lạc Dương là Khổng Dực đốt lửa trước sân, hễ có thư từ nào nhờ cậy đều vứt vào lửa, nói: “Quan huyện gần dân nhất. Trên con đường làm quan có khá nhiều kẻ nhờ vả, cứ làm theo, ắt dân sẽ bị hại. Chẳng làm theo, không tránh khỏi chuốc lấy oán cừu. Chỉ có cách là thư gởi tới không mở, ném ngay vào lửa. Ắt là nơi ta chẳng biết là chuyện như thế nào? Mà nơi họ cũng chẳng thấy ta ngỗ nghịch. Đúng hay sai là do dân, phán xử công bằng đúng pháp! Sao đến nỗi vì riêng tư mà phế trừ [công đạo] ư?” Về sau, một đứa con của ông mười chín tuổi đã đỗ Tiến Sĩ.   

          Ngưỡng Tư Trung tinh thông thuật Địa Lý. Có lần vì [một vị quan chức] hiển đạt mà chọn được cuộc đất rất tốt, ông vừa mới điểm huyệt[129], bỗng trời đổ mưa rào, bèn xuống núi. Ban đêm, ông Ngưỡng nằm mộng, thấy thần bảo: “Đừng cho hắn cuộc đất này. Hắn làm khảo quan (quan giám khảo trong trường thi), đã ăn của đút để chấm đậu ba sĩ tử, sẽ mắc họa nơi cõi âm. Ông cho hắn cuộc đất này, sợ rằng trái nghịch ý trời”. Ông Ngưỡng tỉnh giấc, bèn mượn cớ quay về. Chẳng lâu sau, do tranh chấp cuộc đất tốt, gã quan chức ấy bị dính vào kiện tụng, chưa chôn [tổ phụ vào cuộc đất tốt nào cả] mà nhà cửa đã nghèo nàn, suy sụp!

 

          (Chánh văn) Thiết nhân chi năng, tế nhân chi thiện.

          (正文)竊人之能。蔽人之善。

          (Chánh văn: Trộm cắp tài năng của kẻ khác. Che lấp điều lành của người khác).

          “Thiết” (竊, trộm cắp) có nghĩa là chẳng phải là chính mình có, mà lấy [làm của riêng mình]. Như trộm văn của kẻ khác, coi như chính mình soạn ra, trộm mưu của người ta, coi như do chính mình hoạch định, cướp công của kẻ khác, coi như chính mình hoàn thành, trộm cắp những lời dạy bảo của thầy coi như kiến thức của chính mình, đều là những chuyện lừa mình dối người, ắt sẽ bị quở phạt.

          Đời Châu, Lương Sơn bị lở, vua Tấn (Tấn Cảnh Công) cho vời đại phu Bá Tông. Trên đường [vào gặp vua nước Tấn], Bá Tông gặp một người phu đẩy xe, hỏi: “Ngươi có nghe tin gì hay không?” Thưa: “Lương Sơn bị lở, khiến cho nước sông bị nghẽn không chảy được, [nhà vua] cho vời đại phu Bá Tông [vào cung thương lượng]”. Bá Tông hỏi: “Nên làm như thế nào?” Thưa: “Vua hãy dẫn quần thần [đến chỗ núi lở] mà khóc lóc, coi như là đã tế bái, nước sông sẽ chảy xuôi được”. Bá Tông đem lời ấy tâu với vua, [vua thật sự làm theo], nước sông chảy trở lại. Vua Tấn hỏi Bá Tông: “Vì sao ngươi biết?” Bá Tông thưa: “Thần tự biết”. Khổng Tử nghe chuyện, bảo: “Bá Tông sẽ không có người nối dõi vì đã cướp công của người khác”. Về sau, Bá Tông quả nhiên mắc hại, mất hẳn chức khanh [đại phu]. Hễ ăn trộm một lời của kẻ khác, còn bị quở phạt như thế, như vậy thì cũng có thể biết [tội ác] lớn hơn [sẽ có quả báo như thế nào!]

          “Tế” (蔽) là che, khiến cho chẳng tỏ lộ. Kinh Phật dạy: “Một chữ Thiện có thể thành tựu hết thảy các hạnh nguyện của người thế gian mạnh nhất”. Vì thế, đối với người có một lời nói, một hành vi tốt lành, hãy nên biểu dương, chỉ sợ [ngôn hạnh tốt đẹp ấy] chẳng được tỏa rạng. [Làm như thế], không chỉ là tạo thành tiếng thơm cho người ấy, mà còn có thể khơi gợi thiện niệm của người khác. Những người lan truyền lời khuyên ấy, sẽ dấy khởi thật nhiều [người khác làm theo], đấy cũng là chuyện đáng vui mừng. Hiềm rằng [điều thiện ấy] bị che lấp! Kẻ che lấp ắt trong tâm chẳng có mảy may yêu thích điều thiện, lại còn mang ý niệm ganh ghét. Vì thế, chẳng muốn hiển lộ điều tốt lành của người khác, kẻo điều ác của chính mình bị phô bày. Đấy chính là kẻ bất tường trong thiên hạ vậy!

          Đời Tấn, Trần Thọ soạn bộ Tam Quốc Chí, bảo Đinh Lương Châu rằng: “Nếu ông cho tôi vay một ngàn hộc gạo, tôi sẽ viết tiểu sử đẹp đẽ về cha của ông”. Lương Châu chẳng đáp ứng lời xin của ông ta, Trần Thọ bèn chẳng viết về cha của Lương Châu. Bộ sử hoàn thành, mọi người đều chê trách Trần Thọ [có lòng riêng tư]. Về sau, Trần Thọ mắc hại.

          Có hai người học trò ở Giang Âm tu chỉnh huyện chí. Bỗng thấy [trong bản huyện chí cũ] có ghi chuyện hai tiết phụ (người đàn bà trinh tiết), [cho là] tầm thường, chẳng lạ lùng gì, bèn gạt bỏ. Đạo sĩ ở miếu Thành Hoàng ban đêm nghe tiếng hai người đàn bà khóc lóc, tố cáo: “Bọn thiếp suốt đời khắc khổ giữ tiết hạnh, chết rồi được chép tiểu sử trong huyện chí. Nay vô cớ bị người ta gạt bỏ”. Thần bảo: “Hai gã học trò ấy lẽ ra sẽ đỗ Hoàng Giáp[130], do đã che lấp sự tiết nghĩa của người khác, sẽ bị tước bỏ lộc ấy”. Hai người đàn bà khóc lóc bái tạ, ra đi. Hai người học trò nghe chuyện, bài xích là [đạo sĩ] nói dối. Năm sau, quả nhiên do kết quả thi cử quá kém, bị cắt bỏ trợ cấp [dành cho] Lẫm Sanh, đều cùng phẫn uất mà chết.

 

          (Chánh văn) Hình nhân chi xú, kiết nhân chi tư.

          (正文)形人之醜。訐人之私。

          (Chánh văn: Phô bày những điều xấu của người khác. Rêu rao chuyện riêng tư của người ta).

          Đối với hạnh xấu của kẻ khác, đáng gọi là “nói ra sẽ khiến cho người ta bị nhục nhã, chớ nên để người khác nghe thấy”, ngươi lại phô bày, bộc lộ, ắt lòng đôn hậu bị tổn thương, âm chất cũng bị tổn hại theo. Bàn Sơn Ngữ Lục[131] có đoạn ghi: “Người tu hành kỵ nhất là nói chuyện đúng, sai, tốt, xấu của kẻ khác. Thậm chí đối với hết thảy sự đời, nếu chẳng liên can đến chính mình, miệng chớ nên nói, tâm đừng nên nghĩ. Chỉ cần miệng nói, tâm nghĩ, tức là chính mình đã bị mê muội. Nếu chuyên luyện tâm, sẽ luôn xét lỗi mình, há có công sức để quản chuyện trong nhà kẻ khác? Nát xương, tan thân, chỉ cốt sao tâm đừng động. Thâu liễm tự tâm, thời thời khắc khắc tham cứu, lãnh hội chỗ rốt ráo nhất nơi bổn mạng nguyên thần của chính mình. Vì thế, xét theo đó, con người hãy nên gấp rút đối trị chính mình, niệm nào cũng sợ thân tâm của chính mình phạm lỗi, còn rảnh đâu để quản chuyện người khác ư?”

          Trong đêm tân hôn của Lưu Trọng Phụ, có gã trộm vào nhà. Ông hoảng hốt, trông ra, [thấy gã trộm] chính là kẻ ông nhận biết, bèn nói: “Ngươi nghèo hả?” Lấy hai món trang sức cho nó. Lại hứa: “Ta trọn chẳng nói, ngươi đừng tái phạm”, bèn thả cho nó đi. Về sau, bà vợ hỏi tên tuổi của gã đó, ông bảo: “Ta đã hứa không nói, sao cứ hỏi miết?” Ông mất rồi, có một người trước kia là phường vô lại, về sau là người làm lành, mặc tang phục[132], khóc lóc hết sức bi thương. Người nhà nghi kẻ ấy là gã trộm khi trước. Cháu ông là Toại, làm quan đến Thượng Thư, thụy hiệu là Trang Tương.

          Có thầy xem tướng nói Tịch Khuông sẽ chết vào năm nọ, Tịch Khuông rất lo âu. Ngẫu nhiên gặp người bàn chuyện trong buồng the, đối với người ấy, Tịch Khuông biểu lộ vẻ tức giận, khiến cho người tán chuyện có lòng hổ thẹn mà ngưng nói. Chuyện ấy bèn được ẩn đi. Tới năm ấy (năm tiên đoán sẽ bị chết), Tịch Khuông vẫn không sao. Về sau, ông làm quan tới chức Đài Phụ[133]. Cổ nhân nói: “Trong khi tụ tập trò chuyện, ắt có đạn bắn trúng kẻ khác, riêng ta ngồi ngay ngắn, im lặng để tiêu trừ”. Đấy chính là lời dạy đừng nói [chuyện xấu của kẻ khác] vậy. Như ông Tịch có thể coi là gương mẫu!

          Nhiếp Tùng Nghi thích chòng ghẹo. Hễ kẻ khác có hành vi gì xấu, ắt rêu rao bằng thơ phú, ca dao, khiến cho chuyện được lan truyền rất rộng, khó thể giấu diếm. Thậm chí phá hoại hôn nhân của người khác, khiến kẻ trong khuê môn bị mang nhục, chia cắt quyến thuộc của kẻ khác. Về sau, hắn mắc tội, phải bị đày, chết ở Đăng Châu. Than ôi! Cái tội rêu rao điều xấu, những chuyện khác còn có thể dung thứ, chứ chuyện trong khuê môn, liên lụy càng trọng đại. Gièm chê, cười cợt, đồn đại, sủa hùa theo bóng, ta đã tạo thành cái nhân [đọa trong địa ngục] Rút Lưỡi. Nhất là họ lại ôm nỗi sỉ nhục mà thác, cốt nhục chia lìa, con cháu lãnh vết nhơ, liên lụy chẳng bé! Oan nghiệt to tát, khó thể siêu được!

          Trịnh Tuyên tánh trầm mặc, ít nói. Ông từng nói: “Trong chốn đông người chen chúc, chớ nên lớn tiếng mặc tình nghị luận. Không chỉ là chuốc lấy sự ghen ghét, mà còn có thể tổn thương người khác. Há chẳng có người trót đã làm chuyện xấu trong ấy hay chăng? Bàn luận đến họ, họ chẳng nói, nhưng trong tâm bực bội. Như đối với quan bèn nói phải thanh bạch, ắt kẻ chẳng thanh bạch sẽ giận. Đối với bạn mà nói thẳng, ắt kẻ chẳng thẳng thắn sẽ ghét. Họ cho là ta cố ý làm như vậy. Chỉ nên ít nói, vẻ mặt hòa nhã, hễ hỏi bèn đáp, như thế thì được”. Lời ấy đã đạt được đạo ứng xử sâu xa. Vì thế, chép thêm lời này.

          Chỉ trích, công kích người khác thì gọi là Kiết (訐). Tư (私) là chuyện ám muội, chẳng quang minh chánh đại. Con người chẳng phải là thánh hiền, ai mà chẳng có chuyện kín đáo, riêng tư [chẳng thể nói ra]. Ta vốn không nên soi mói, tìm tòi. Nếu dòm ngó chuyện trong chốn riêng tư, rêu rao rộng khắp, khiến cho kẻ ấy không có chỗ dung thân, thì là hiểm độc nhất, người người oán trách, gieo họa chẳng nhỏ, hãy nên kiêng dè!

          Tô Tụng [làm quan] ở Hàng Châu. Có kẻ mách lẻo chuyện riêng tư, ông không nghe. Về sau, kẻ ấy làm ngôn quan (gián quan, quan viên chuyên trách việc đàn hặc, can gián) do ôm hận mà [đối trước thượng cấp] bêu xấu ông. Có người khuyên ông hãy viết thư trình lên cấp trên chuyện [mách lẻo] trước kia của gã ấy, ông nói: “Công kích chuyện riêng tư của kẻ khác, há ta nên làm ư?” Hư Tĩnh Chân Nhân[134] nói: “Hễ giấu lỗi, che sai, chính mình chớ nên có; nhưng đối với người khác, chẳng thể không làm như thế. Ấy là vì che giấu lỗi của chính mình thì điều thiện chẳng đạt được; che giấu cho người khác thì là chuyện đức dầy”.

          Vào thời Vũ Tắc Thiên nhà Đường, cấm ngặt giết mổ. Quan Thập Di[135] Trương Đức sanh con trai, lén giết dê, tụ họp đồng liêu [nhậu nhẹt]. Đỗ Túc giấu [một miếng thịt, cầm đi] tố cáo. Hôm sau, Vũ Hậu (Vũ Tắc Thiên) hỏi Trương Đức: “Nghe nói khanh sanh con trai rất vui?” Trương Đức bái tạ. Vũ Hậu: “Từ đâu mà có thịt vậy?” Trương Đức khấu đầu nhận tội. Vũ Hậu nói: “Trẫm cấm giết mổ, [lệnh cấm ấy] chẳng áp dụng cho các trường hợp cát (cưới hỏi, ăn mừng), hung (ma chay). Từ nay có mời khách thì cũng cần phải chọn người!” [Vũ Hậu] đưa tờ biểu tố cáo của Đỗ Túc cho [Trương Đức] xem. Đỗ Túc hết sức hổ thẹn, cả triều đình muốn nhổ vào mặt hắn! Về sau, Đỗ Túc dần dần bị suy bại.

          Vào đời Lương, ông nội của Đáo Khái là Đáo Ngạn Chi từng gánh phân để nuôi thân. Đến khi Đáo Khái làm Lại Bộ Thượng Thư, gã Hà Kính Dung có chuyện nhờ cậy, chẳng được đáp ứng, bèn nói với người khác: “Cho đến đời Khái Thượng Thư vẫn còn sót lại mùi thối, nay bèn học đòi làm bậc quý nhân”. Đáo Khái nghe nói, hết sức căm hận. Em trai của Đáo Khái là Đáo Hiệp, một hôm hỏi Lưu Hiếu Xước: “Tôi rất muốn mua đất của hàng xóm bên phía Đông, nhưng người chủ làm khó dễ, làm sao đây?” Hiếu Xước nói: “Chỉ cần để mấy xe phân bên cạnh nhà hắn để làm khổ hắn, hắn sẽ dọn đi”. Hiệp tức giận, rốt cuộc dùng kế để hại [Hiếu Xước]. Than ôi! Do một lời nói mà tổn thương hòa khí trong trời đất, do một chuyện mà ươm thành mối họa chung thân. Vì thế, chúng ta sống trong cõi đời, chớ nên nói lời kích động, châm biếm khiến cho kẻ khác oán sâu tận cốt tủy. Ngạn ngữ có câu: “Đánh người đừng đánh đầu gối; nói với người khác, đừng nói sự thật”, có lý lắm!

          

          (Chánh văn) Hao nhân hóa tài.

          (正文)耗人貨財。

          (Chánh văn: Làm cho kẻ khác hao tổn tài vật).

          Đấy là nói đến hạng người gian ác, tiểu nhân mê hoặc kẻ ngu si, dụ dỗ họ làm những chuyện chơi gái, cờ bạc, đấu đá, thưa kiện, luyện đan v.v… để mình kiếm lợi từ đó. Hạng con em không nên thân bị hạng người này làm cho ngu muội, chẳng đoái tưởng cha ông sáng lập cơ nghiệp gian nan. Một mai đến lúc phá sạch [gia sản], nhà tan, thân chết, truy cứu nguyên do thì là lỗi của ai? Những kẻ ấy có tránh khỏi ác báo [vì dụ dỗ người khác hao tổn tài vật] hay chăng?

          Văn Kỳ là người đất Thục, cậy vào thuật luyện đan, những người quyền quý đều bị hắn lường gạt. Một thương gia giàu có tên là Lý Thập Ngũ bị mê hoặc bởi thuật luyện đan của Văn Kỳ, ba năm sau, tan nhà nát cửa, thắt cổ chết. Văn Kỳ lại đến Kiếm Châu, thuê một căn nhà để luyện thuốc. Ngẫu nhiên bị hỏa hoạn, cháy lan một vùng. Văn Kỳ chạy vào núi trốn, bị thú dữ đuổi ra, hắn bị bắt giải lên quan. Quan theo đúng luật xử trảm!

          Vào đời Minh, Từ Trì giàu có, tàn bạo, muốn chiếm nhà của Từ Bát, bèn sai người dụ con ông ta ăn chơi phóng đãng, mắc nợ rất nhiều, quả nhiên chiếm được căn nhà ấy. Về sau, hai con và năm cháu của Từ Trì đều nhiễm bệnh. Đồng cốt nói là do âm hồn Từ Bát quậy phá. Từ Trì kinh sợ, làm trai đàn, đến miếu Thành Hoàng cầu giải cứu. Một người ăn mày đón hắn, thưa: “Ông chẳng phải là Từ Trì chứ? Đêm qua, tôi ngủ tại chỗ vắng của miếu. Có người hướng về thần gọi tên ông, [tố cáo] ông đã hại kẻ ấy. Thần cũng hết sức giận dữ”. Từ Trì kinh hoảng, trở về rồi chết. Con cháu chẳng có ai sống sót.

          Thanh lâu [là nơi chốn] để đền trả nghiệp nhân thiếu nợ. Bọn gái đẹp thật sự là biển oan nghiệt phá nhà! Người thời nay đều biết [đạo lý ấy], vừa chung chạ với thể chất nhơ bẩn ấy, ghẻ độc phát ra, ngũ quan đổi chỗ, gây hại tới ba đời. Do vậy, cớ sao người hiểu biết mà lại đem thân mình ra thử, chẳng tránh né?

          Có người họ Tiền ở Vô Tích, kết bè lập đảng gồm mười mấy người, dụ dỗ con em nhà giàu. Chúng sử dụng dược đổ (藥骰, xúc xắc (hạt xí ngầu) rỗng ruột, bên trong đổ thủy ngân lỏng để kẻ cờ gian bạc lận có thể khống chế muốn đổ ra mấy điểm tùy ý) để gieo súc sắc, hễ đánh bạc với ai đều thắng. Về sau, bọn chúng so tài đánh bạc với một thiếu niên, thắng tới mấy chục vạn. Bỗng những con xúc xắc văng ra khỏi bồn, họ Tiền ngã lăn đùng ra đất, miệng và mũi đều tuôn máu mà chết. Khi ấy, có một đạo sĩ thỉnh thần tướng, Quan Thánh giáng đàn, chỉ dạy: “Ta đã trừ kẻ hung ác nơi đó, lại còn quăng ba con xúc xắc lên xà nhà hắn”. Đạo sĩ liền hỏi thăm, tìm tới nhà ấy, kịp lúc thấy mọi người còn đang xúm xít kinh ngạc, bèn bảo họ bắc thang lên xem [trên xà nhà, quả nhiên] tìm được [ba con xúc xắc ấy]. Do vậy, đạo sĩ bèn kể tường tận lời Quan Thánh chỉ dạy. Lũ ác hết hồn! [Sau đó], chúng nối tiếp nhau mắc bệnh dịch mà chết!

          Lại có gã Đinh Thực được thầy tướng số từng đoán sẽ đỗ đầu thiên hạ. Về sau, y gặp lại ông thầy tướng ấy, ông ta kinh hãi nói: “Ông đã làm chuyện gì vậy, [tước lộc] đã mất sạch cả rồi!” Đinh Thực suy nghĩ, [nhận biết chính mình] đã từng giở trò bạc bịp, thắng được sáu trăm vạn. Do vậy, bèn thật tình kể lại. Thầy tướng số nói: “Là vì lẽ ấy!” Họ Đinh hết sức hối hận, cấp tốc trả lại món tiền đã thắng để chuộc tội. Về sau, hắn đỗ gần chót bảng. Hiện thời, khắp nơi đều có kẻ phạm tội này; nhưng hương thân, sĩ tử đều say sưa chuyện này, thật đáng thống hận! Tục ngữ có câu: “Làm tú tài như gái trinh, phải sợ người. Làm tiến sĩ như nàng dâu, phải nuôi nấng người khác. Ở trong rừng (đã nghỉ hưu), giống như mẹ chồng phải dạy người khác”. Bọn họ đã chẳng thể dưỡng người, dạy người thì thôi, lại còn muốn làm hại con em kẻ khác, cái tâm như thế nào vậy?

          Đời Minh, ông Mạo Khởi Tông là người huyện Như Cao, tỉnh Giang Tô, từng soạn lời cảnh tỉnh người đời như sau:

          – Tôi thường thấy con cháu nhà quyền quý và giàu có là hạng chẳng ra gì, dâm đãng, phóng túng, phí phạm. Hoặc là thân chưa chết, mà tài sản đã ngầm bán cho nhà khác. Hoặc xác thịt chưa lạnh mà kẻ khác đã chia vụn nhà ấy. Người đời trước tiện tặn tích cóp, kẻ đời sau vung vãi như bùn, cát. Nhưng những kẻ không ra gì ấy quá nửa lại là người thông minh, là do vì lẽ nào? Ấy là vì thuở ấy, [người đời trước] đã ra oai, cậy vào mưu mẹo, áp bức, gài bẫy người khác vào chốn lao lung để hao tán tài sản của họ vô số, để tom góp thành của cải cho nhà mình giàu có. Thoạt đầu là tổn hại người khác, về sau là bị người khác phá tán. Tục ngữ có câu: “Có được bất minh, mất đi vừa khéo” chính là nói về chuyện này! Nhìn từ chuyện này, bèn biết người hiện thời bị kẻ khác hao tán [tài sản] chính là kẻ đã hao tán [tài sản của] người khác thuở trước! Tức là kẻ hao tán [tài sản] của người khác trong hiện thời, có kẻ nào chẳng chớp mắt sẽ bị kẻ khác hao tán!

         

Phụ lục mười câu răn dè cờ bạc:

          1) Tâm thuật bại hoại. Vừa vào sòng bạc, sẽ là nơi tranh đoạt lợi lộc. Tính toán trăm kế, luôn là một tấm lòng tham. Đôi bên đều dùng thủ đoạn triệt hạ nhau, chuyển sanh ác niệm chẳng có cùng tận. Tuy là kẻ chí thân mà cờ bạc với nhau, ắt đều ngầm giở trò đen tối. Dẫu là bạn tốt mà trên cùng một chiếu bạc, cũng nghiễm nhiên coi nhau như cừu địch, chỉ cốt sao chính mình thắng bạc, mặc kệ người khác phá sản. Há chẳng phải là tâm thuật hết sức bại hoại ư?

          2) Chôn vùi phẩm hạnh. Phàm là người thì tốt, xấu, cao, thấp, ai nấy vốn tự khác nhau. Ở trong sòng bạc, chỉ cần biết tiền nhiều hay ít, há quản ai sang, ai hèn? Ngồi hỗn độn, chẳng tuân theo luân lý, thứ bậc, kẻ tôi tớ cũng biến thành bầu bạn, chẳng phân tôn ty. Nô bộc nghiễm nhiên là anh em, mặc sức cười đùa, xưng hô luông tuồng, há có thể thống gì, thành ra phẩm hạnh gì?

          3) Tổn thương tánh mạng. Kẻ thắng tùy hứng tìm đến, chẳng phân biệt ngày đêm. Kẻ thua liều mạng quay lại, chẳng màng đói, lạnh. Từ đó trở đi, tinh thần hao tổn, mệt mỏi, ắt đến nỗi tổn hại thân thể, táng mạng. Lỡ mắc nợ khó trả, không mặt mũi nào nhìn nhau, muối mặt, ngậm hờn. Vì thế, dẫn đến lắm chứng bệnh quấn thân, hết cách, cùng đường, đành liều chết cho xong nợ. Đường dẫn đến Uổng Tử Thành là do noi theo sòng bài mà trở về vậy! Há chẳng đáng thương ư?

          4) Điếm nhục tổ tông. Tặng tiền bạc cho người khác, còn bị chê cười là lãng tử ngớ ngẩn. Phá sạch gia sản, [cha mẹ] than thở đứa con ngu si làm bậy! Chẳng thể khiến cho tổ tiên rạng mày nở mặt, lại ngược ngạo điếm nhục dòng họ, suy bại gia đình. Xóm giềng đều đổ lỗi cho tổ tông, ắt cha ông đã chết mà còn ngậm oán!

          5) Đánh mất sự dạy dỗ trong gia đình. Chuyện cờ bạc dụ dỗ dễ dàng nhất. Trong vòng gia đình, thấy nghe tột bậc thân thiết. Thông thường [cha anh] giáo huấn con em đều bảo phải học theo gương tốt. Nhưng trộm thấy tại sòng bài, cha anh còn bảo [con em] hãy theo quy cách của chính mình. Cha con cờ bạc, anh em cờ bạc, tôi tớ cờ bạc, đùa bỡn với pháp tắc như thế thì thành ra gia pháp kiểu nào đây? Ban ngày đánh bạc, đêm thâu đánh bạc. Đánh bạc trong phòng kín, phong khí bài bạc ươm thành dâm phong, gia giáo bại hoại quá đỗi, đáng nguội lạnh cõi lòng!

          6) Phá tan gia sản. Thoạt đầu để biểu lộ hào khí, ắt vung tiền như đất. Rốt cuộc do tình thế cấp bách, ắt bỏ cả sản nghiệp [vào trò đen đỏ]. Cha ông suốt đời vất vả mới tạo dựng môn hộ, con cháu tiêu xài huy hoắc trong phút chốc, khiến cho danh tiếng gia đình bại hoại. Cầm cố hết sạch xiêm áo, chỉ còn trơ lại cái thân. Thân thích, bạn bè ai tiếc? Ruộng nương, nhà cửa bán sạch, mà còn mắc nợ, còn góc trời nào để lui về? Nghĩ đến tình cảnh ấy, há chẳng đáng thương ư?

          7) Nẩy sanh tai biến. Suốt ngày cờ bạc, thâu đêm đỏ đen, cửa rả chẳng đóng, đạo tặc thường hay thừa cơ trà trộn. Đèn, đuốc chẳng tắt, phòng ốc do vậy dễ bị cháy. Thậm chí lôi cuốn phường lãng tử thừa dịp tính kế, bọn trộm cướp thường tìm dịp giở trò gian. Khi tắt đèn có kẻ gõ cửa, sẽ chẳng phân biệt chủ, khách. Dứt đứt giải mũ, cởi áo lót mình [trao tặng nhau], nam nữ buông tuồng, mầm họa ẩn sẵn, sao người ta chẳng lo?

          8) Cốt nhục chia lìa. Sĩ, nông, công, thương, ai nấy siêng năng chức nghiệp. Cha, mẹ, vợ, con, vui vẻ với nhau, đấy là niềm vui thiên luân, mà cũng là lẽ thường trong tình người. Từ khi vào sòng bài, [gia đình] biến thành bể khổ. Cầm cố, gán nợ bằng thoa, xuyến, vợ nín thinh nuốt hận. Bán tháo ruộng nương, nhà cửa, cha mẹ mòn mắt, nhăn mày trông ngóng. Chỉ một kẻ tỏ ra hào sảng, chẳng màng cả  nhà  oán  than!

Lắng lòng tự vấn, làm sao yên được?

          9) Trái phạm phép nước. Cấm đoán cờ bạc, lệ mới rất nghiêm. Nhẹ thì phạt một trăm trượng, cùm hai tháng, thương tổn tận da thịt. Nặng thì bị đày ba năm, lưu đày xa quê nhà ba ngàn dặm! Hạng thân sĩ thì theo thường lệ sẽ bị bãi truất, còn mặt mũi nào! Đối với kẻ lại dịch thì xử tội gấp bội. Phải nghĩ tới gia đình mình, chứ để chuyện đã lỡ rồi mới hối, sao bằng kiêng dè trước?

          10) Sẽ bị trời quở trách. Xem khắp những kẻ mở sòng, thường gặp nhiều tai họa ngang trái. Những kẻ thắng tiền, thường [rốt cục] đến nỗi nghèo đói lạ lùng. Nói chung là do cắn xé huyết nhục của người khác hòng no đẫy ruột gan ta, thâu tóm sự oán sầu của họ để ta được vui cười. Vì thế, quỷ thần ôm lòng giận, sẽ báo thù chẳng chịu khoan nhượng tí nào! Đạo trời báo đáp, sẽ cùng nhau chết sạch.

          Nhìn chung, sòng bạc rốt cuộc có ích chi đâu? Mười điều như trên, ngôn từ, dụng ý tột bậc thiết tha. Muôn phần mong mỏi người đời, hãy lắng lòng suy nghĩ, sẽ dũng mãnh đại ngộ. Một đao chặt phăng, thề chẳng còn tay nhúng chàm nữa! Có thể xoay người nhảy khỏi ổ sài lang, may mắn chi hơn! Ôi! Cờ bạc hại người còn quá nước, lửa, giặc cướp, nhưng người ta cứ mãi chấp mê chẳng ngộ, liều chết theo đuổi, đáng thương quá đỗi! Xót thay, đau thay! Do vậy, tôi đau đớn khóc ròng thưa thốt, những ai trông thấy những lời này mà chẳng quay đầu, há chẳng phải là phường hạ ngu ư?

          

          (Chánh văn) Ly nhân cốt nhục, xâm nhân sở ái, trợ nhân vi phi.

          (正文)離人骨肉。侵人所愛。助人為非。

          (Chánh văn: Chia lìa cốt nhục của kẻ khác, xâm phạm những thứ yêu thích của người khác, giúp kẻ khác làm quấy).

          “Ly” (離) có hai nghĩa. Một là truy bức những kẻ thiếu nợ, và quan lại, nha dịch vơ vét tài sản, khiến cho kẻ khác phải bán chác con cái. Một nghĩa nữa là ôm lòng riêng tư xúc siểm, xúi giục, ly gián, khiến cho kẻ khác chia lìa. [Những hành vi ấy] đều là bất nhân quá mức! Chẳng biết tình cốt nhục thuộc về quan hệ huyết thống, thuộc về thiên tánh, có mối thiên luân trong ấy. Vì thế, người có lòng nhân trông thấy cốt nhục của người khác nghèo khó, quẫn bách, khó sống, bèn dùng tài lực giúp đỡ, khiến cho họ được an toàn. Đối với những kẻ [có tình cốt nhục mà] ôm niềm oán cừu, hiềm khích, bất hòa [với nhau], bèn điều đình, hóa giải, khiến cho họ hòa thuận, tốt đẹp với nhau. Đấy là con đường trọng yếu của kẻ tu chân vậy.

          Tông Truyện nghe người đàn bà hàng xóm và con cái ôm nhau khóc suốt đêm. Hỏi thăm, thì ra người chồng mắc tội, [người vợ] tính bán mình để chuộc tội cho chồng. Ông kinh ngạc, bỏ tiền giúp đỡ, khiến cho vợ chồng, mẹ con họ được như xưa. Khi ấy, ông hiếm muộn con, ngay trong năm đó bèn sanh được một đứa. [Về sau], con cháu ông đông đúc.

          An Đình Bách thích ly gián. Hắn lại có tài ăn nói. Tuy chí thân mà bị hắn ly gián, lập tức biến thành oán cừu, hiềm khích. Anh em Lý Trung Phủ hòa thuận, do Đình Bách xúc xiểm mà đến nỗi đấu đá nhau! Thái Luân và Trương Nghĩa là anh em con cô, con cậu thân thiết với nhau, nghe theo, tin lời Đình Bách [đâm bị thóc, chọc bị gạo] mà tuyệt giao. Những chuyện khác chẳng thể nêu trọn! Về sau, Đình Bách bị trắc trở, nghèo túng, khốn đốn, hai bên má lở loét, họng và lưỡi rữa nát, chẳng ăn uống được, kêu gào rồi chết.

          Tống Anh Tông[136] lên ngôi, gặp phải tình cảnh do ít ban ân cho bọn nội thị, họ nhiều lượt sàm tấu, ly gián trước mặt Thái Hậu, khiến cho hai cung (nhà vua và Thái Hậu) trở thành hiềm khích. Một hôm, Hàn Kỳ và Âu Dương Tu tâu trình chánh sự trước rèm, Thái Hậu nghẹn ngào, rơi lệ, kể lể cặn kẽ nguyên do. Hàn Kỳ tâu: “Đấy là vì [hoàng đế] bệnh tật mà thành ra như thế. Bệnh lành, ắt sẽ chẳng như vậy”. Ấy là vì khi đó, hoàng đế bị kinh nghi mà thành bệnh. Âu Dương Tu tâu rằng: “Thái Hậu phụng sự tiên đế mấy chục năm, nhân đức rạng rỡ thiên hạ. Xưa kia Ôn Thành[137] được [tiên đế] sủng ái, Thái Hậu vẫn cư xử hòa dịu, khoan dung. Nay giữa mẹ và con, sao lại chẳng thể dung thứ cho nhau ư?” Hàn Kỳ lại tâu: “Thái Hậu không có con ruột, hoàng đế từ bé đã được nuôi nấng trong cung. Hoàng Hậu lại là cháu bên ngoại[138]; đấy là trời đã xếp đặt đứa con trai ấy và con dâu cho Thái Hậu, há chẳng đáng yêu thương ư?” Tâm Thái Hậu mới dịu bớt. Hàn Kỳ lo sẽ có biến, bèn nói thẳng cho Thái Hậu động tâm: “Bọn thần ở ngoài, chẳng được gặp quan gia[139], sự bảo vệ trong cung hoàn toàn cậy vào Thái Hậu. Nếu quan gia chẳng được chiếu cố và dạy bảo, Thái Hậu sẽ chẳng tránh được trách nhiệm ấy!” Thái Hậu hoảng sợ, bảo: “Tể Tướng! Sao ông lại nói vậy khiến cho tâm ta càng áy náy hơn”. Những người cùng hiện diện nghe [nói như vậy], không ai chẳng toát mồ hôi!

          Hôm khác, Hàn Kỳ một mình gặp vua, tâu: “Bệ hạ lên ngôi đều là do ân của Thái Hậu, chẳng thể không báo đáp. Xin hãy càng chú ý hầu hạ thì sẽ vô sự”. Vua đáp: “Ta kính cẩn vâng theo lời dạy”. Mấy hôm sau, Hàn Kỳ lại vào gặp vua, vua nói: “Thái Hậu ít đối xử với ta bằng ân nghĩa”. Hàn Kỳ tâu: “Từ xưa, bậc thánh đế hiền vương chẳng thể nói là ít, chỉ riêng vua Thuấn được khen là đại hiếu, chẳng lẽ những vị khác đều bất hiếu ư? Cha mẹ nhân từ mà con hiếu thuận, đấy là chuyện thường, chẳng đáng nói đến. Chỉ có cha mẹ chẳng nhân từ mà con có thể hiếu thì mới đáng ca ngợi, chỉ sợ bệ hạ chưa phụng sự hết mức đó thôi! Cha mẹ há có ai chẳng nhân từ ư?” Vua hết sức cảm ngộ. Thuở ấy, triều đình có lắm biến cố, kẻ tiểu nhân ly gián đủ mọi cách. Rốt cuộc khiến cho hai cung hòa thuận là nhờ sức của Hàn Kỳ và các vị hiền thần vậy.

          Con người có điều yêu thích riêng, như ruộng, đất, nhà cửa, sách vở, những vật quý lạ, dụng cụ, quần áo, trang sức v.v… ắt muốn lập mưu kế xâm đoạt, như thế thì có khác gì bọn giặc cướp cho mấy? Ông Vu Thiết Tiều nói: “Vật không có đẹp hay xấu, đối với người yêu thích thì sẽ là trân quý. Kẻ khác xâm phạm thứ ta yêu thích, lòng ta sẽ như thế nào?” Lỗ Tử Tấn nói: “Nếu trong lúc ấy, cứ nghĩ vật ta yêu mến bị kẻ khác xâm phạm, chiếm đoạt, sẽ chẳng sợ tham niệm không dứt vậy”.

          Trương Cai có một tòa nhà to lớn, do thiếu tiền tiêu dùng, bèn cầm cố tòa nhà ấy cho Trương Tuấn với giá một ngàn mân[140]. Trương Tuấn yêu thích, muốn chiếm đoạt, bèn biếu xén trọng hậu người môi giới để kẻ ấy [sửa văn khế cầm cố] thành văn khế bán đứt. Về sau, Trương Cai túng quẫn, muốn bán đứt; [Trương Tuấn] đưa văn khế cho xem, chính là văn khế đã bán đứt. Trương Cai trào nước mắt, nguyền với trời rằng: “Tao nguyền cho con cháu của mày rồi cũng giống như tao!” Về sau, con cháu của Trương Tuấn đều mất tiếng mà chết. Phàm ruộng nương, nhà cửa là vật ngoài thân, vì xâm chiếm, lường gạt, mà phải đền trả bằng con cháu yêu thương nhất, còn ngu gì bằng? Kẻ thích chiếm đoạt của người khác, hãy nên răn dè!

          Giúp người khác làm quấy, và thành tựu điều ác cho người khác, [cũng như] chẳng thể hướng dẫn người khác hành thiện, đều thuộc phạm vi [của lời răn này]. Đức Phật dạy: “Thuyết pháp, giáo hóa thì gọi là Pháp Thí. Có thể khiến cho chúng sanh nghe pháp, do nhân duyên ấy, sẽ đắc vô lượng thiện báo”. Công Quá Cách nói: “Dạy người khác làm quấy, cứ mỗi chuyện là một lỗi. Đối với chuyện to lớn thì tùy theo từng chuyện mà luận định tội lỗi. Tích tập cái nhân xấu ác ấy, sẽ bị vô lượng ác báo”. Ngu ý cho rằng: Hướng dẫn người khác làm lành thì điều lành của người khác sẽ đều là điều lành của chính mình, mà điều thiện của chính mình ngày càng thuần. Giúp kẻ khác làm ác, điều ác của kẻ khác sẽ đều là điều ác của chính mình, nhưng điều ác của chính mình ngày càng tăng. Điều thiện, lẽ ác sẽ quy về [những quả báo khác biệt] vời vợi một trời, một vực! Vì thế, sự báo ứng họa phước rạch ròi như mây và bùn! Người biết lẽ này, sẽ biết bỏ [điều ác] và theo [điều lành] như thế nào?

          Dương Khai làm huyện lệnh Đan Dương, tánh tình hung bạo, ngang ngược. Dương Tuần là mạc khách[141], khéo suy đoán ý kẻ khác, mong được họ ưa thích, tuy biết rõ người khác sai trái, cũng chẳng dám trái ý. Đối với những chuyện Dương Khai đã làm, [Dương Tuần] chỉ khen ngợi mà thôi! Một hôm nắng gắt, Dương Khai phạt trượng bọn nha dịch và giam tù hơn bốn mươi người, hai người bị chết, Dương Tuần vẫn a dua, khen ngợi. Đến đêm, [Dương Tuần] mộng thấy thần quở trách: “Kẻ giúp Dương Khai làm ác thật sự là ngươi, đáng có cùng tội”. Chẳng lâu sau, Dương Tuần bị bệnh ngặt mà chết. Nhìn vào việc này, những kẻ làm mạc tân trong hiện thời có thể tỉnh ngộ.

          Ông Ngô ở Tô Châu nhà nghèo, không có tài sản, đến chơi nhà người phú quý, thường khuyên những người sang cả làm chuyện phương tiện. Nếu gặp kẻ tánh tình tham lam, tàn bạo, ắt dốc nhiều công sức dùng điều thiện để khuyên bảo họ. Thấy người làm lành, ắt khen ngợi, tán thành. Ông có thiện đức cực nhiều, chẳng thể thuật trọn. Con ông là Tùng Châu đỗ đạt trong tuổi thiếu niên. Ông hưởng thượng thọ.

          Trong mười đại nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, có một điều là “tùy hỷ công đức”, tức là thấy người khác làm các công đức, sẽ vì họ tùy hỷ, tán dương. Kinh nói: “Phước của tùy hỷ, như một người bán hương, một người mua hương. Người bên cạnh nhuốm mùi hương, đối với hai người ấy, [mùi hương] chẳng hề giảm bớt”. Quả báo của tùy hỷ công đức giống như thế đó. Như vậy thì đối với kẻ giúp người khác làm quấy, [quả báo sẽ] có thể suy ra được!

 

          (Chánh văn) Sính chí tác oai, nhục nhân cầu thắng.

          (正文)逞志作威。辱人求勝。

          (Chánh văn: Phô trương oai thế cho thỏa chí, làm nhục người khác để giành phần thắng).

          Bậc quân tử chánh trực kiềm chế bản thân, đối đãi ôn hòa, ân huệ với người khác; người khác tuy sợ, nhưng yêu mến. Nếu cứ hở ra bèn phô trương oai thế, dẫu được kẻ khác nín chịu, nhưng người ta chẳng mến mộ đức, làm sao có thể cao hơn kẻ khác cho được?

          Đời Minh, Sử Lương Tá ở Nam Kinh làm Ngự Sử ở Tây Thành, nhà ông ta ở Đông Thành. Mỗi lần ông ta ra vào, tức giận vì người làng chẳng đứng lên [tỏ vẻ cung kính], bèn bắt mấy người, giao cho quan Ngự Sử Đông Thành xét xử. Ngự Sử Đông Thành cật vấn, họ thưa: “Dân chúng đều bị Nghê Thượng Thư làm cho sai lầm!” Hỏi: “Lầm như thế nào?” Thưa: “Thượng Thư cũng là người Nam Kinh. Khi ông ta chưởng quản bộ Binh, nếu mọi người [chạm mặt ông ta] mà tránh đường, ông sẽ liền sai người ngăn lại, bảo: ‘Ta cùng các vị là người cùng làng quê. Ta không thể qua cổng làng bèn xuống xe, há phiền quý vị phải đứng dậy ư?’ Lũ dân quá ngu, cứ nghĩ ông Sử cũng giống như ông Nghê cho nên chẳng đứng dậy, chẳng ngờ ông ta nổi giận”. Quan Ngự Sử Đông Thành cười xòa, tha cho họ. Thượng Thư [được nói ở đây] là nói tới Văn Nghị Công Nghê Nhạc. Ôi! Ông Sử nghe lời ấy cũng sẽ hổ thẹn trong lòng.

          Than ôi! Gần đây thói ỷ vào quyền thế của quan lại để ra oai, hống hách với kẻ khác, há chỉ là như vậy mà thôi ư? Có kẻ dùng bản án nặng nề, cực hình ngặt nghèo để đối xử tàn độc với người vô tội. Có kẻ mặc tình thuận theo sự hỷ nộ [cá nhân] để phán tội kẻ khác nhẹ hay nặng. Có kẻ do ăn hối lộ bèn phán án nặng hay nhẹ. Có kẻ nhờ vào chuyện này để tính kế đền ân hay báo cừu. Có kẻ bao che phường gian tà để chúng nó độc chiếm thị trường, chẹn đường những người buôn bán. Tuy đủ mọi lẽ sai biệt khác nhau, nhưng nói chung đều là những kẻ nhằm thỏa chí mà ra oai, mắc tội với trời! Nhưng phô trương quyền thế một ngày, tức là đã ươm mầm oán nghiệt trong mai sau. Khi quyền thế đã hết, báo ứng sẽ đưa tới, há chẳng khỏi “dẫu hối đã muộn” ư? Chỉ mong hãy vận dụng lòng hối hận ấy sớm hơn đôi chút, ắt sẽ được sự tốt lành to tát.

          Khấu Lai Công (Khấu Chuẩn) nói: “Quan làm chuyện riêng tư, cong vạy, khi thất thế sẽ hối hận. Giàu mà chẳng tiêu dùng tiết kiệm, khi nghèo sẽ hối hận. Nghề khéo chẳng học từ bé, thì khi lớn tuổi sẽ hối hận. Khi thấy mà chẳng học, thì lúc cần dùng tới sẽ hối hận. Khi say thốt lời ngông cuồng, khi tỉnh sẽ hối hận. Lúc an nhàn mà chẳng nghỉ ngơi, khi bệnh sẽ hối hận”. Bài minh này đúng là pháp tắc to lớn để hối lỗi, mọi người hãy nên luôn đọc.

          Dùng lý để chiết phục kẻ khác, vẫn sợ gây nên cái tâm tranh giành phần thắng nơi kẻ khác; do vậy, dẫn đến sự chống trái, chẳng tiếp nhận. Huống hồ [trong trường hợp] vốn đuối lý mà cứ ương ngạnh ngang ngược lăng nhục để mong thắng ư? Lỗ Tử Tấn nói: “Ai nấy đều có cái tâm sợ bị sỉ nhục, ai chịu cam tâm bị nhục? Kẻ cầu thắng bằng cách [ngang ngược lấn hiếp kẻ khác], đạo trời sẽ báo ứng. Làm nhục người khác vẫn là tự nhục mình!”

          Thượng Thư  Lâm  Thoái  Trai  khi  sắp  mất, đã  giáo  huấn  con

cháu: “Các ngươi chỉ cần học chịu đựng thua thiệt”. Ôi! Từ xưa, bậc anh hùng chỉ vì chẳng thể hứng chịu thua thiệt mà đã làm hại khá nhiều chuyện! Cũng chỉ vì có thể chịu nhục, chịu thua thiệt, mà đã thành tựu nhiều chuyện. Như Hàn Tín chịu nỗi nhục luồn dưới đũng quần [gã hàng thịt], chịu thua thiệt cùng cực. Về sau, [Hán Vương Lưu Bang] đắp đàn bái tướng [phong cho Hàn Tín làm nguyên soái. Dẹp tan quân Sở, Hàn Tín] được phong làm Tam Tề Vương[142]. Những gã thiếu niên ở Hoài Âm [từng làm nhục ông ta khi trước] trở thành thuộc hạ dưới trướng. Vì thế có thể thấy kẻ an hòa, chịu nhục, ngày sau chẳng phú quý ư? Còn kẻ làm nhục kẻ khác, đâm ra chẳng bị kẻ khác làm nhục ư? Kẻ hiếu thắng hãy suy nghĩ nhé!

 

          (Chánh văn) Bại nhân miêu giá, phá nhân hôn nhân.

          (正文)敗人苗稼。破人婚姻。

          (Chánh văn: Hủy hoại mùa màng của người ta, phá hoại hôn nhân của kẻ khác).

          Dân coi ngũ cốc như tánh mạng. Huống hồ nông dân Xuân cày Hạ cuốc, bao nhiêu nỗi siêng năng, cần cù. Thuế má, nợ nần riêng tư đều trông cậy vào đấy, há có nên ngăn trở thủy lợi, khiến cho [ruộng đồng] khô hạn, phá hoại đê đập khiến [mùa màng] bị ngập, thả rong súc vật giày đạp, ăn hại [hoa màu], khiến cho những thứ do trời đất sanh thành chẳng thể thâu hoạch, sức người phí uổng chẳng có công lao gì! Sao mà bất nhân quá đáng vậy? Nhưng không chỉ là như vậy, kẻ làm bề trên của dân chúng mà không coi trọng thời vụ, chẳng chú trọng thủy lợi, thì cũng thuộc loại phá hoại mùa màng, cũng có thể dùng tội danh này để định tội vậy!

          Vào năm Đinh Mùi (1667) đời Khang Hy nhà Thanh, gã hương dân Lý Giáp ở Hồ Quảng[143] làm nghề buôn trâu. Muốn cho trâu mập mạp, hắn thường chờ đến khi lúa chín, vào lúc canh tư, cưỡi trâu cho nó ăn lúa thỏa thích, đi xa tới mấy dặm, coi đó là chuyện thường. Đất rộng, người thưa, người ta không nhận biết. Bỗng có một hôm, hắn bị sét đánh chết, lưng có đề bốn chữ bằng son: “Túng ngưu hại giá” (Thả trâu hại mùa màng).

          Cao Bân làm tri châu Đường Châu, đất rộng, người thưa, đồng ruộng hoang vu. Ông tới trấn nhậm, bèn xem xét tận cùng ruộng đất, biết vùng ấy có thể canh tác, chỉ hiềm thiếu sức người. Do vậy, ông chiêu mộ những lưu dân (người dân lêu bêu) thuộc Lưỡng Hà[144], tính theo nhân khẩu mà cấp ruộng. Số hộ dân tăng thêm là một vạn ba ngàn ba trăm hộ, cấp ruộng hơn ba vạn một ngàn khoảnh. Thậm chí đất đai ở các vùng rừng núi gai góc đều biến thành ruộng tốt.

          Hứa Quy làm tri huyện Đan Dương, gặp phải trận hạn hán to, ông bèn trái nghịch lệnh cấm, phá đê ngăn Luyện Hồ[145] để lấy nước cứu ruộng cho dân. Năm ấy, hơn một vạn khoảnh ruộng được mùa lớn.

          Vương Tế làm Chủ Bạ ở Long Khê. Huyện có một cái ao chứa nước dài dằng dặc mấy chục dặm. Trước đó đã có gã thổ hào độc chiếm [cái ao ấy] để chuyên trục lợi. Ông bèn đoạt lấy cho dân dùng, cả huyện chẳng còn lo lắng tai nạn hạn hán lâu ngày.

          Miêu Thời Trung làm Chủ Bạ ở Ninh Lăng. Trong huyện có con sông cổ, bỏ hoang lâu ngày. Ông sai phu phen khai thông, ruộng trong huyện bèn trở thành phì nhiêu. Tấm lòng của mấy vị ấy là làm lợi cho trăm đời; những kẻ có tâm phá hoại [mùa màng], và ngồi điềm nhiên nhìn [dân chúng nheo nhóc vì] hạn hán hay lụt lội, chẳng lập ra phương cách [cứu giúp], hãy nên nhìn vào những tấm gương trên đây!

          Có vợ chồng rồi mới có cha con; đạo hôn nhân to lớn thay! Phá hoại [hôn nhân] có mấy loại. Có kẻ dùng trăm phương kế phỉ báng, hủy nhục, hoặc là phá hoại trước khi họ nên duyên, có khi là tìm nhiều cách ngăn trở, quấy nhiễu để phá hoại lúc họ sắp kết hôn. Có khi là vô cớ dấy động sóng gió nhằm phá hoại sau khi họ đã kết hôn. Nào có biết hôn nhân là do trời định, con người làm sao có thể phá hoại cho được? [Những cuộc hôn nhân] bị kẻ khác phá hoại, [thật sự là do] rốt cuộc họ chẳng có mối quan hệ hôn nhân. Nhưng ly tán hay kết hợp là do cõi trời, dấy lên cái tâm phá hoại là do nơi con người, cái tội ấy giống như tội sát nhân. Ôi chao! Kẻ tạo ác sao lại táng tận lương tâm, tự chuốc lấy nỗi oan nghiệt to tát vậy? Còn như vợ chồng đã lấy nhau, hoặc là bố vợ chê chàng rể kém hèn mà sanh lòng ly gián, hoặc do bố mẹ chồng thấy con dâu nghèo nàn bèn tin theo lời gièm siểm, sàm báng! Lại nữa, phá hoại tình yêu thương giống như sát nhân, còn [nặng] gấp mấy lần [cái tội] cầm dao gươm đâm chém, chớ nên không răn dè. Nếu như vì ngại [dâu rể] nghèo nàn mà từ hôn, hoặc cậy mạnh chiếm đoạt người phối ngẫu [của kẻ khác], càng có hại cho lẽ trời. Nếu như quan lại phán xử cong vạy do thuận theo tình cảm riêng tư, bèn dựa trên những lời cung khai [chẳng đúng sự thật] mà kết thành án xác quyết, liền cấp giấy ly hôn, âm chất sẽ bị hao tổn to lớn, ắt bị [trời đất] khiển trách sâu nặng! Kẻ làm quan thông hiểu tình đời, hãy lại nên dè chừng chuyện này!

          Tiểu Lý Nhi ở Đức Châu lúc trẻ nghèo nàn, lái thuyền cho người ta, ngẫu nhiên nhặt được mười hốt[146] vàng. Chủ thuyền bảo: “Ta có đứa con gái, gả cho ngươi làm vợ”, bèn đính ước. Một hôm, chủ thuyền đi vắng, người mất vàng tới hỏi. Lý Nhi hỏi han, biết là đích xác, bèn trả lại. Chủ thuyền có gã thân thích, muốn đoạt vợ của Lý Nhi [để cưới cho con trai mình], bèn thừa dịp ly gián, phá hoại nói: “Gã ấy là kẻ bạc phước, rốt cuộc sẽ chết đói”. Chủ thuyền bèn xua đuổi Lý Nhi. Gã thân thích ấy vừa sắm sửa lễ vật hỏi cưới, bỗng con hắn chết đột ngột, [phải hủy hôn lễ]. Lý Nhi bị đuổi đi, vẫn chở thuyền cho người khác. Tháng nóng, anh ta tắm dưới Lỗ Kiều, có vật ngáng chân, chính là mấy chục đĩnh bạc, bèn nhặt lấy, đem buôn bán ở chợ. Gặp một người chủ tiệm chính là người đã đánh mất tiền khi trước, ông ta bèn tận tâm [giúp đỡ] họ Lý đổi thành hàng hóa, được lời gấp mấy lần. Chủ thuyền khi trước biết anh ta giàu có, rốt cuộc gả con cho. [Lý Nhi] còn sanh được hai đứa con đều quý hiển!

          Cát Đảnh Nãi ở Tứ Minh lúc còn làm chư sanh[147], mỗi khi đến trường, ắt đi ngang miếu Thổ Địa. Ông Từ trông miếu mộng thấy thần dạy: “Cát trạng nguyên đi qua, ta ắt phải đứng dạy. Hãy vì ta dựng tường ngăn để che lại”. Ông Từ theo đúng lời, vừa mới nhóm họp thợ, [chưa khởi công], lại mộng thấy thần bảo: “Chẳng cần tốn công nữa! Chàng Cát viết thư ly hôn cho kẻ khác, đã bị tước sạch công danh trên đường khoa cử”. Ấy là vì có kẻ trong làng bỏ vợ, chẳng thể viết [giấy ly hôn], bèn kèo nài chàng Cát viết giùm. Chàng Cát nghe [ông Từ kể lại lời thần], hết sức hối hận, tận lực khiến cho vợ chồng họ tái hợp. Anh ta chỉ đỗ khoa thi Hương, làm quan tới chức Phó Sứ.

          Tôn Hồng từng viết giấy ly hôn cho người khác. Cha một người bạn nằm mộng thấy Tôn Hồng do chuyện này mà bị tước sạch công danh. Tôn Hồng biết chuyện, hết sức hối hận, vội khuyên nhủ người bạn, tận lực giúp cho họ đoàn tụ. Từ đấy, anh ta chuyên dốc chí giúp cho hôn nhân của người khác được toàn vẹn. Hễ có chuyện ly hôn, ắt khéo léo hòa giải, bảo vệ cuộc hôn nhân ấy. Do âm công đó, anh ta được làm Thị Lang, sanh hai con trai.

          Quan lệnh doãn xứ Hoài An là Phạm Dưỡng Ngô thấy có gã học trò là Thí Kỳ Phân do vợ chồng kiện cáo nhau, theo đúng pháp, phải nên xử cho họ ly hôn, nhưng ông dốc sức giúp cho họ chẳng bỏ nhau. Đến khi cáo lão hồi hưu, ông bị bệnh. Cháu nội là Thụy Chi xin tiên giáng cơ. Đến khi vị tiên giáng đàn thì ra là Thí Kỳ Phân, phê rằng: “Nhờ ơn sâu nặng của ông khéo léo giữ vẹn cuộc hôn nhân cho vợ chồng ta, sanh được bốn đứa con, nay chúng đều vào trường huyện; vì thế, đặc biệt đến cảm tạ. Hơn nữa, ông là người nhân đức, sẽ vĩnh viễn hưởng phước lâu dài, chẳng đáng phải lo âu”. Về sau, quả nhiên ông Phạm sống thọ, con cháu hết sức hưng thịnh.

          Hà Nguyên Ích đã ước định kết thông gia với Triệu Minh Phu, nhưng con gái họ Triệu bị mù, gia sản ít ỏi, Nguyên Ích bèn từ hôn, kết thông gia với nhà Đơn Tử Văn. Năm sau, hai cha con Hà Nguyên Ích đều chết, con gái họ Triệu lấy chàng học trò Diệp Duy Tiên. Duy Tiên đỗ đạt, chưởng quản tam điển[148] tại một quận lớn.        Trịnh Thúc Thông từ bé đã có hôn ước với con gái họ Hạ; đến khi đỗ đạt, con gái họ Hạ bị bệnh trở thành câm. Chú bác khuyên đừng cưới, Thúc Thông kiên quyết nói “chẳng thể”, thưa: “Cháu không cưới cô gái ấy, cô ta sẽ đi về đâu? Hơn nữa, khi chưa bị câm bèn đính hôn. Đã bị câm bèn bỏ, cái tâm sao mà tàn nhẫn vậy?” Ông vẫn cưới cô ta. Về sau, họ Trịnh làm quan tới chức Thị Tùng[149], con trai lại đỗ đạt.

          Dương Hoành giận thằng rể là Diêu Hồng thất học, đuổi hắn đi. Diêu Hồng xin từ biệt vợ, chẳng được [chấp thuận]. Cô con gái oán hận, phẫn uất thành bệnh mà chết. Dương Hoành sai người đưa quan tài tới [quàn ở] chùa. Chàng rể tới chỗ quàn quan tài, khóa cửa tự bung ra, cánh cửa cũng tự mở. Mẹ cô Dương nghe chuyện bèn cảm khái, bi thương, chết luôn. Mười mấy năm sau, Dương Hoành tới chỗ quàn con gái, cũng chết đột ngột.

          Tư Mã Ôn Công đời Tống đã huấn thị rằng: – Phàm ước định hôn nhân, trước hết hãy nên xem xét tánh tình, phẩm hạnh của thằng rể và đứa con gái, cũng như gia pháp như thế nào, đừng chỉ hâm mộ phú quý. Nếu thằng rể thật sự là người hiền, nay tuy nó nghèo hèn, biết đâu mai sau nó phú quý không chừng? Nếu như nó là thứ không ra gì, nay tuy phú quý, không chừng mai sau nó nghèo hèn thì sao? Người vợ là cội nguồn khiến cho gia đình hưng thịnh hay suy bại. Nếu chỉ hâm mộ phú quý nhất thời mà cưới về, cô ta sẽ cậy mình phú quý, hiếm có khi chẳng khinh rẻ chồng, hống hách đối với bố mẹ chồng, dưỡng thành tánh kiêu căng, ghen ghét, họa hoạn mai sau há có cùng cực ư? Giả sử do tài sản của vợ mà trở thành giàu có, dựa vào thế lực của nhà vợ để làm quan, nếu là bậc trượng phu có chí khí, há có thể chẳng thẹn ư? Lại nữa, thế tục thích lúc trẻ còn đang ẵm ngửa, non nớt đã dễ dãi hứa hôn, cho đến khi con cái đã lớn, hoặc là phường không ra gì, vô lại, hoặc thân bị bệnh ngặt, hoặc nhà nghèo đói rét, hoặc phải làm quan ở nơi xa. Vì thế, đến nỗi chẳng giữ chữ tín, trái nghịch hôn ước, dẫn đến chuyện thưa gởi, kiện cáo khá nhiều! Do vậy, đối với con cái nhà người ta, ắt phải chờ đến khi chúng đã khôn lớn rồi mới bàn định hôn nhân. Đã gởi thư xin cưới, nạp sính lễ, chẳng đầy mấy tháng, hôn sự bèn hoàn tất. Do vậy, chuyện chung thân mới chẳng có việc từ hôn, thay đổi, đấy chính là cách thức đời sau đáng nên tuân thủ vậy.

 

          (Chánh văn) Cẩu phú nhi kiêu, cẩu miễn vô sỉ.

          (正文)茍富而驕。茍免無恥。

          (Chánh văn: Vừa mới giàu có mà đã kiêu căng, tùy tiện trốn thoát không biết hổ thẹn).

          “Cẩu” (茍) chính là “cẩu phú” (茍富) như Luận Ngữ đã nói, có nghĩa là chưa chắc đã giàu to, chỉ là giàu có tạm thời, hoặc tạm coi là giàu có mà đã kiêu căng. Rõ ràng là nói đến tình huống vô tri làm xằng của phường tiểu nhân vừa mới giàu có. Bởi lẽ, giàu mà kiêu, kiêu bèn xa xỉ, do xa xỉ bèn phí phạm. Do phí phạm sẽ tham lam đoạt lấy của cải bất nghĩa, bóc lột kẻ khác để béo thân mình, ắt sẽ dẫn đến chuyện ỷ vào [của cải] rồi hung hăng, ngạo mạn, lấn hiếp xóm giềng, khinh rẻ thân thích, bằng hữu, để tự hưởng thì có thể vung tay ngàn vàng, nhưng đối với người ngoài bèn “một sợi lông chẳng chịu nhổ”! Nhưng sự rực rỡ (phô trương oai thế) dễ hết, đạo trời chẳng ưa sự sung mãn [quá lố], thói kiêu ngạo còn chưa kịp ảnh hưởng tới người khác thì họa đã giáng xuống chính mình trước. Chuyện này muôn phần chẳng sai sót một!

          Một phú ông ở Dương Khê tánh tham lam, thô bỉ, bạc, lụa, tiền tài, thóc gạo, ngày càng chất chứa đầy ắp. Ông Trần Đống Đường khuyên nhủ: “Chất chứa tài sản mà chẳng chia ra, ắt sẽ có tai ương lạ lùng. Sao không thí xả một, hai phần để làm thiện sự hòng làm kế lâu dài”. Hắn chẳng nghe lời. Hai, ba năm sau, ông Đống Đường nói với kẻ khác: “Họa của gã này đã tới rồi. Hắn ta một mực tham lam, keo kiệt đáng khinh. Gần đây, nghe nói hắn càng thêm mặc sức kiêu căng, ngang ngược, ngạo mạn, bóc lột hà khắc, không chuyện gì chẳng làm, chẳng phải là sẽ nhanh chóng gặp họa ư?” Không lâu sau, quả nhiên hắn ta bị giặc giết. Cổ nhân nói: “Cung kính, kiềm chế là nền tảng của phước. Còn kẻ kiêu căng, keo kiệt, ngạo mạn, đó là điềm tai họa”. Kẻ nương vào nền phước, sẽ dần dần được an ổn. Kẻ dẫn khởi nguồn họa, sẽ bỗng dưng bị đổ nhào. Gương sáng vằng vặc xưa nay, hãy răn dè nhé!

          Đức Phật dạy: “Ta có hai bạch pháp có thể cứu hết thảy chúng sanh. Hai bạch pháp là gì? Một là thẹn, hai là hổ”. Phu tử (Khổng Tử) nói: “Hành kỷ hữu sỉ” (Lập thân hành xử, biết xấu hổ). Lễ Ký chép: “Lâm nạn vô cẩu miễn” (Gặp nạn chẳng tùy tiện trốn tránh). Nay đã cẩu thả trốn tránh, lại còn chẳng biết hổ thẹn, hạng người như vậy thấp kém lắm!

          Đời Đường, Ca Thư Hàn và An Lộc Sơn cùng làm tướng của nhà Đường, thường ganh nhau, chẳng ai chịu thua ai. Cho đến khi An Lộc Sơn làm phản, Ca Thư Hàn bị bắt, An Lộc Sơn hỏi: “Ngươi thường khinh ta, nay thì như thế nào?” Ca Thư Hàn quỳ mọp dưới đất, thưa: “Thần là gã mắt thịt, chẳng biết bậc thánh nhân”. An Lộc Sơn cười, phong cho Ca Thư Hàn làm Tư Không[150] của hắn. Về sau, [sau khi loạn An Lộc Sơn bị dẹp tan], những tướng của nhà Đường đã hàng giặc đều bị [triều đình] giết sạch, Ca Thư Hàn rốt cuộc bị chết.

          Đời Tống, Phạm Thuần Nhân đã từng cùng Tư Mã Quang bàn luận chánh sự không hợp ý. Về sau, đến khi triều đình trừng trị phe Tư Mã Quang, do Hàn Duy khi còn nắm quyền đã không hợp ý Tư Mã Quang nên chẳng mắc tội [với phe đảng mới]. Có người khuyên Thuần Nhân hãy dùng trường hợp của Hàn Duy để làm cớ chạy tội. Thuần Nhân nói: “Xưa kia ta và Quân Thật (tên tự của Tư Mã Quang) [làm bạn] cùng triều bàn luận chánh sự không hợp ý thì được. Chứ hiện thời, cẩu thả mong được thoát tội thì không thể được. Ôm lòng nhục nhã mà sống, sao bằng chết đi mà cái tâm chẳng xấu hổ ư?” Thuần Nhân bèn bị [phe cầm quyền mới trong triều đình] đày đi xa.

          Lỗ Tử Tấn nói: – Chẳng đáng thoát khỏi mà may mắn thoát khỏi thì gọi là “cẩu miễn”, hãy nên tự thẹn, tự trách sâu xa! Có một hạng người do nương cậy [các mối quan hệ] mà mưu toan [thoát tội] được thành, bèn ngược ngạo cười mũi những người vì trung lương mà bị chém giết, chê bai sâu xa những vị vì tiết nghĩa mà bị tử hình. Hạng người ấy tuy [do hành xử] cẩu thả mà giữ tròn tánh mạng, cái tâm đã chết trước mất rồi, cũng chẳng có mặt mũi nào mà nhìn người khác, chứ chẳng cần nói đến chuyện bị [thiên hạ] thóa mạ sau lưng! Còn như những kẻ tiểu nhân đầu đường xó chợ, làm xằng, làm quấy, may mắn thoát khỏi tai họa trừng phạt, chẳng biết là trời sẽ giáng họa sâu hơn, vẫn quen thói chẳng hổ thẹn, làm ác chẳng hối cải, rốt cuộc tới lúc chẳng thể tránh khỏi tai họa mà vẫn chẳng tỉnh ngộ, cũng chẳng đáng buồn ư?

 

          (Chánh văn) Nhận ân thôi quá, giá họa mại ác.

          (正文)認恩推過。嫁禍賣惡。

          (Chánh văn: Mạo nhận ân huệ, chối bay tội lỗi. Giá họa, ác ý).

          Ân chẳng phải do mình làm ra mà mạo nhận, bất quá là mưu kế nhất thời hòng mua chuộc hảo cảm của người khác. Xét đến cùng, nhất định [là người chịu ân] sẽ biết sự thật, họ sẽ chẳng cảm kích, mà đâm ra coi thường sự dối trá ấy. Lỗi thật sự từ chính mình mà ra, nhưng đùn đẩy trách nhiệm, bất quá là mưu kế nhất thời hòng chữa lửa! Xét đến cùng, nhất định kẻ khác sẽ biết sự thật, họ không chỉ chẳng dung thứ, mà càng chán ghét thói gian giảo ấy! Đó gọi là “kẻ tiểu nhân oan uổng tự làm tiểu nhân”.

          Đời Tống, Vương Tăng làm Tể Tướng, có kẻ xin cất nhắc, ông ắt nghiêm mặt từ khước. Hễ cất nhắc, ông trọn chẳng nói cho kẻ ấy biết. Đệ tử hỏi: “Sao thầy không cho kẻ đó biết?” Ông đáp: “Dùng người hiền là chuyện của hoàng đế. Nếu để cho họ biết, sẽ thành chuyện thuận theo tình riêng để ban bố ân huệ riêng tư. Xưa kia có một người, muốn tặng khách ngàn vàng, sợ rằng nếu công khai trao tặng, sẽ có kẻ khác ganh ghét, bèn bỏ vàng trong vò rượu, niêm kín lại đem biếu. Người ấy phát hiện vàng, bèn hỏi nguyên cớ, [người cho] bèn đáp: “Tôi không biết! Rượu này mua ngoài chợ, chẳng biết là do ai giấu vàng vào đó! Đấy là vận số đã định, [món vàng ấy] phải thuộc về anh. Sao lại hỏi tôi?”

          Một gã huyện lại (nha lại làm việc ở huyện) tại Hưng Sơn giỏi gạt người. Mỗi khi quan trên ban ân trạch cho người khác, gã huyện lại ấy bèn nói: “Đó là do ta dốc sức đệ trình”. Hoặc là người khác bị trách phạt, bèn nói: “Là do công lao duy trì [chánh nghĩa] của ta”. Hễ có chánh lệnh tốt đẹp nào, hắn đều nhận là do ân huệ của chính mình. Mọi người đều ca tụng hắn có sức xoay chuyển càn khôn. Về sau, quan huyện phạm lỗi, quan trên cũng bắt hắn luôn, bảo: “Quan huyện nghe lời ngươi, chuyện này do ngươi gây nên, đều là do ngươi chủ trương sai khiến, tội há có thể dung tha, thoái thác ư?” Rốt cuộc hắn bị phạt trượng mà chết.

          Đời Minh, trạng nguyên Vương Hoa lúc làm quan, có kẻ dùng chuyện của kẻ khác để vu cáo ông. Người ta khuyên ông nên biện bạch, ông đáp: “Đấy là chuyện của người bạn cùng lứa tuổi với ta. Nếu ta biện bạch, sẽ là công kích bạn ta”. Rốt cuộc, ông chẳng biện bạch. Về sau, con ông là Thủ Nhân, tức tiên sinh Vương Dương Minh, đang làm quan tại kinh đô, nghe hàng nho sĩ bàn luận tơi bời về chuyện ấy, toan dâng sớ tấu trình [hoàng đế] để biện định, ông vội gởi thư ngăn lại, bảo: “Con tính dùng chuyện này để sỉ nhục cha ư? Cha vốn không thể sỉ nhục. Nay con bèn vô cớ công kích, bêu riếu người bạn của cha, tức là đã ngược ngạo khiến cho cha bị sỉ nhục to lớn!” [Vương Dương Minh] bèn thôi [dâng sớ]. Ôi! Thà nhận là lỗi của mình, chẳng phô bày sự sai lầm của bạn, há chẳng phải là đã vượt trội hạng tầm thường muôn vạn phần ư? Như thế thì há có thói tệ “mình có lỗi bèn đùn đẩy cho người khác” hay sao?

          “Giá họa” (嫁禍) là như gả con gái cho người ta, người ta cũng chịu cưới. “Mại ác” (賣惡) là như bán vật gì cho kẻ khác, người ta cũng bằng lòng mua. Những mưu toan kiểu này quá sâu, ắt phải chịu báo ứng thê thảm, rốt cuộc sẽ là “họa tự đưa đến, ác tự dồn về”, cũng có ích gì chăng?

          Đời Tống, Quách Hoàng Trung coi Vân An quân[151]. Một hôm, ông đến Thê Hà Cung dâng hương. Mộng thấy thần bảo: “Ông rủ lòng chăm sóc nơi này, ai nấy đều chịu ân. Nhưng có chuyện gian dối, chẳng dám không báo cho ông biết. Ngày mai sẽ có những kẻ phạm tội mổ trâu bị giải tới, ngoài chín người ra, hãy nên tra xét”. Đến sáng, Tuần Kiểm Ty[152] quả nhiên giải chín người đến. Có một gã lính tự xưng là đã bắt được bọn trộm, xin lãnh thưởng. Con trâu ấy do gã lính ấy giết, giá họa cho chín người kia, lại còn bắt giữ họ để mong được thưởng. Ông vừa cật vấn, hắn bèn chịu tội.

          Trình Thất ở Việt Trung[153] vốn là kẻ vô lại. Làng xóm hễ có người đấu đá, hắn ắt nói: “Có thể cho ta uống rượu say, trả tiền công cho ta, ta sẽ dốc hết sức làm thay”. Người ta ưng chịu, hắn sẽ thừa cơn say, thay mặt [người mướn] đến chỗ [đối thủ] nhục mạ, đánh lộn hăng tiết, không gì chẳng làm! Lại còn có thể lập gian kế thay cho người khác, chỉ cần có lợi thì không gì chẳng làm. Một hôm, hắn được kẻ khác thuê mướn để lên phủ chịu trách phạt thay cho người đó, [hắn bị tra khảo] trọng thương đến nỗi chết, phơi thây ngoài đường. Người ta trông thấy, không ai chẳng vừa chửi bới vừa cười nhạo: “Điều ác có thể bán được thì tánh mạng cũng có thể bán được luôn!”

 

          (Chánh văn) Cô mãi hư dự, bao trữ hiểm tâm.

          (正文)沽買虛譽。包貯險心。

          (Chánh văn: Mua bán danh hão, ôm lòng sâu hiểm).

          Mạnh Tử nói: “Hữu chư nội, tất hình chư ngoại” ([Những ý niệm] có ở bên trong, ắt biểu lộ ra ngoài). Trang Tử nói: “Danh giả, thật chi tân giả” (Cái danh nhằm biểu lộ thực chất bên trong), làm sao có thể mua bán cho được? Mua bán [hư danh] thì có kẻ hao tốn tiền của để chuốc vời, bày mưu tính kế để lôi kéo [cái danh], có ý tưởng vận dụng những mánh khóe để lung lạc! Thường thấy từ xưa, những bậc tôi trung, con hiếu, phụ nữ tiết hạnh, kẻ sĩ chân chánh, hễ có danh tiếng vẻ vang, ắt sẽ gặp chuyện khốn khó, vùi dập. Vì cớ sao vậy? Danh cũng là phước; tạo vật (tạo hóa) chẳng chịu trao phước vẹn toàn cho con người; được cái này, mất cái kia, đó là lẽ tất nhiên. Huống hồ là kẻ không có thực chất, mua danh, sẽ gặp những chuyện vùi dập đến mức nào?

          Ông Vu Thiết Tiều nói: “Kẻ sĩ trong hiện thời, văn chương có thể được khắc in, nhưng nhiều lượt thi trượt. Kẻ làm quan cai trị nhân đức được khắp nơi ca tụng, nhưng suốt mười năm chẳng được điều động [thăng thưởng], không ai là chẳng phải vì lẽ này!”

          Đời Tống, Trần Hy Di đã răn dạy Chủng Phóng[154]: “Danh là món vật đẹp đẽ xưa nay, bị tạo vật đố kỵ sâu nhất. Vì thế, trong vòng trời đất, chẳng [một ai] hưởng tiếng thơm toàn vẹn. Khi danh tiếng của ông dấy lên, ắt có những sự vật khiến cho cái danh ấy bị suy bại”. Về sau, quả nhiên tiết tháo [của Chủng Phóng] vào lúc tuổi già do chuyện ngồi xe trang hoàng xa xỉ mà thanh danh bị chôn vùi. Như Chủng Phóng là người hiền, còn vì danh tiếng lừng lẫy mà suy bại. Những kẻ sĩ giả danh, văn chương giả dối, đạo học giả dối, tiết nghĩa giả vờ trong hiện thời cứ đề cao danh tiếng của nhau, [gắng sức] làm cho tiếng tăm được lưu truyền rộng rãi, khi [thực chất bị] bại lộ, sẽ biết làm như thế nào? Thường thấy bậc danh sĩ mắc họa, thường [gặp những cảnh ngộ] bi thảm hơn kẻ bình thường. Như thế thì kẻ chú trọng hư danh không chỉ là tổn phước mà thôi, há chẳng đáng răn dè ư? Còn như làm lành mà cũng chú trọng [vun đắp] công đức ngấm ngầm, ắt trời sẽ báo đền chẳng tầm thường vậy!

          Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Hãy nên bình lặng tâm địa, ắt đất trong thế giới hết thảy đều bình”. Bởi lẽ, sự gian hiểm trong tâm địa đều được chứa đựng trong ấy, khiến cho con người chẳng giác. Ẩn giấu giáo, mâu trong câu nói tiếng cười, đặt bẫy rập liên hoàn, xảo trá kín nhiệm, dẫu núi sông [hiểm trở] vẫn chẳng đủ trỗi hơn sự hung hiểm trong những mưu kế ấy. “Bao trữ” (包貯) có nghĩa là “kiên cố, chẳng thể phá, dày đặc, chẳng thể lén nhìn ra được”. Tiên sinh Liễu Phàm nói: “Tạo vật ghét nhất không gì hơn kẻ mưu mẹo. Vì thế, trời sẽ báo phục kẻ thâm hiểm [đến nỗi] có khi người khác phải nghĩ [sự báo đền ấy] quá đáng, xác thực là như thế!”

          Đời Đường, Lý Nghĩa Phủ làm Tham Tri Chánh Sự, dung mạo ôn hòa, cung kính, nói chuyện với kẻ khác ắt sẽ mỉm cười, nhưng [lòng dạ] giảo trá, thâm hiểm, đố kỵ, khắc bạc, giỏi nghề khuynh đảo, hãm hại. Người thời ấy bảo trong nụ cười của hắn có đao. Hắn lại dùng sự mềm mỏng ấy để hại mọi người, nên lại được gọi là Lý Miêu (李猫, con mèo họ Lý). Về sau, hắn phạm tội, bị lưu đày, chết ở Huề Châu, con cháu suy bại!  

 

          (Chánh văn) Tọa nhân sở trường, hộ kỷ sở đoản.

          (正文)挫人所長。護己所短。

          (Chánh văn: Ém tài người khác, giấu diếm sự kém cỏi của chính mình).

          Quân tử thích nói đến điều lành của người khác, chẳng che giấu sở trường của người ta, vun quén, hun đúc chánh đáng, khiến cho người ta đạt tới chỗ hoàn mỹ, hay khéo tột cùng, hòng tài năng của người ấy được [thi thố] trọn hết. Nếu vùi dập, chèn ép, khiến cho họ nhụt chí, ngã lòng, [tài năng] chẳng được mở rộng; đấy là do cái tâm đố kỵ tạo thành, hết sức hiểm độc nhất!

          Đời Tống, Mục Tu nổi tiếng về tài làm thơ, thường sang chơi kinh đô và Lạc Dương. Có lần ông ta đề thơ trên vách tường nơi cung cấm. Tống Chân Tông trông thấy bèn thích thú, khen ngợi, hỏi là thơ của ai. Lại bảo: “Có văn tài như thế, sao hàng công khanh [trong đám triều thần] chẳng tiến cử?” Đinh Vị gièm báng rằng: “Gã ấy phẩm hạnh chẳng được như văn tài”. Do vậy, chúa thượng không hỏi thêm nữa. [Do Đinh Vị] lập tâm như thế, cho nên [về sau] hắn chết chẳng có chỗ chôn. Ôi! Kẻ ém tài người khác chỉ biết giấu nhẹm sở trường của kẻ khác, sao chẳng bận tâm đức hạnh của chính mình bị chôn vùi ư?

          Kẻ tiểu nhân che lỗi giấu sai, chẳng đoái hoài thiên lý. Cố nhiên bọn chúng tự cho là mưu mẹo thích đáng, nào có biết khó trốn luật trời! “Hộ” (護) có nghĩa là [vận dụng] nhiều cách để che giấu, kiên quyết sao cho chẳng bị tiết lộ. Người mắc bệnh hết sức cần phải được chữa trị gấp, nếu kiêng nói đến bệnh tật, kỵ thầy thuốc, mà tánh mạng chẳng bị mắc hại thì hiếm lắm. Châu Tại Am nói: “Che giấu khuyết điểm không chỉ là riêng mình! Phàm là con, cháu, người nhà, môn khách trót tạo lỗi ác, nếu ta chẳng ngăn ngừa, kiểm soát, cứ dưỡng thành [những thói ấy] thì sẽ đều thuộc về [phạm vi luận tội của câu này]”. Còn như cha thường giáo huấn nghiêm ngặt, nhưng mẹ thường mong cho con khỏi bị quở phạt, bèn giấu diếm, lấp liếm, chẳng để cho cha biết. Đấy cũng là căn bệnh giấu diếm khuyết điểm to lớn vậy!

          Lý Thúc Khanh giữ chức Công Tào[155] tại quận, liêm khiết, cẩn trọng nhất. Đồng liêu là Tôn Dung, là một gã tiểu nhân âm hiểm, siểm nịnh, sợ ông Lý phát hiện những khuyết điểm của mình bèn ngược ngạo ganh ghét, hủy báng ông. Ông Lý chẳng thể biện minh, bèn uất ức, ngã bệnh rồi chết. Vợ ông bi phẫn, thắt cổ chết. Không lâu sau, Tôn Dung bị sét đánh chết, dưới hông có chữ viết rằng: “Giấu diếm khuyết điểm của chính mình, xằng bậy làm hại người lành”.

          Đời Minh, Văn Trinh Công Từ Giai làm Đốc Học vùng Chiết Trung. Có một chàng Tú Tài trong bài văn sách [cho khóa thi khảo hạch hằng năm tại huyện] đã kết luận bằng câu: “Nhan khổ Khổng chi trác” (Nỗi khổ của Nhan Hồi chính là sự đào tạo trác việt của Khổng Tử). Ông bèn gạch đi, phê rằng: “Bịa đặt”, giáng chàng ta xuống bậc bốn. Chàng sinh viên bị quở trách bèn thưa rằng: “Câu ‘Nhan khổ Khổng chi trác’ xuất phát từ sách Dương Tử Pháp Ngôn, thật sự chẳng phải là bịa đặt”. Ông Từ đứng dậy, nói: “Bổn đạo[156] may mắn được làm quan sớm, chưa từng có học vấn, gần như đã trách lầm ông!” Bèn sửa lại, xếp chàng ta vào hạng nhất. Khi ấy, ai cũng phục lòng độ lượng đẹp đẽ của ông. Về sau, ông Từ làm quan tới chức Đại Học Sĩ. Hễ là người có phước đức, chắc chắn là có thể bao dung, chẳng giấu giếm khuyết điểm của chính mình. Nhìn vào chuyện này, có thể thấy rõ [điều đó].

          Học Phật thì trước hết là trừ ngã tướng. Luận định về lòng nhân thì trước hết là nói đến khắc chế dục vọng, những điều này đều nhằm phá một chữ Hộ (bảo vệ, che giấu) vậy!

 

          (Chánh văn) Thừa oai bách hiếp, túng bạo sát thương.

          (正文)乘威迫脅。縱暴殺傷。

          (Chánh văn: Cậy oai bức hiếp, phóng túng hung bạo, giết hại, tổn thương [kẻ khác]).

          “Phô trương oai thế cho thỏa chí” cũng bất quá là hung bạo, tàn nhẫn, phóng túng mà thôi. “Bách hiếp” (迫脅, bức hiếp) là thật sự dùng sức cướp đoạt người khác. Những chuyện như kẻ làm quan [thấy nghi can] chẳng nhận tội bèn áp bức khiến cho họ phải nhận tội. Họ không dâng tiền tài, bèn ép họ phải dâng. Cho đến khởi sự xây dựng, cần đến phu phen, đề ra kỳ hạn hoàn tất, thúc giục bắt [dân chúng] nộp tiền, nộp gạo, gấp rút như sao băng, cũng như những chuyện như kẻ phú quý lấn hiếp, áp bức phụ nữ, dồn ép kẻ khác phải bán ruộng đất, ỷ mạnh đòi nợ, cậy sức thúc giục nộp tô v.v… đều là uy hiếp, [khiến cho] người oán, trời giận. Những kẻ [bức hiếp người khác] ấy mà chẳng bị trả báo thì hiếm lắm thay!

          Đời Tống, Trương Sĩ Tốn [được cử] làm Chuyển Vận Sứ ở Giang Tây, tới gặp Vương Đán xin chỉ dạy. Vương Đán nói: “Thực hiện các hoạt động độc quyền buôn bán của triều đình cho nhiều”. Sĩ Tốn vâng theo lời dạy ấy, chẳng cầu nhiều lợi tức. Mọi người khen ngợi Sĩ Tốn hiểu biết đại thể. Tiết Khuê [được cử đi làm] Phát Vận Sứ vùng Giang Hoài, lúc từ tạ ra đi, Vương Đán chẳng nói gì khác, chỉ nói: “Sức dân ở vùng Đông Nam đã cạn kiệt”. Tiết Khuê lui ra, than: “Đúng là lời lẽ của bậc Tể Tướng”. Xem chuyện này, [bèn biết] người có lòng nhân chẳng ai không khoan dung, giúp đỡ sức dân vậy thay! Bởi lẽ, sanh mạng của dân cậy vào quan trên. Kẻ làm quan trên, vâng mạng cai trị dân, há có nên chẳng nhân từ, khoan hòa ư? Những kẻ đang làm quan nắm quyền cai trị hãy suy nghĩ.

          Hán Thư chép Thái Thú quận Tuyên Thành là Thiệu Phong tham lam, tàn nhẫn, bạo ngược. Một hôm, hắn bỗng hóa thành cọp ăn thịt dân trong quận. Hễ dân chúng gọi “Phong sứ quân”, cọp bèn cúp đuôi, lủi đi. Vùng ấy có câu ca dao: “Mạc học Phong sứ quân, sanh bất trị dân, tử thực dân” (Đừng có học theo Phong sứ quân, sống chẳng cai trị dân chúng, chết rồi lại ăn thịt dân chúng). Chuyện này có thể răn dè những người đang nắm giữ địa vị mà chẳng biết thương xót dân vậy!

          Đời Minh, có một hương thân ở vùng Hồ Quảng dùng tiền tài tích cóp được trong khi làm quan là ngàn lạng, sai người đi chuộc lại sản nghiệp của tổ tiên, bảo con: “Thời giá đã gấp bội giá trị ban đầu, hãy chuộc sao cho rẻ nhất”. Đứa con mười hai tuổi yên lặng chẳng đáp; thong thả hỏi cha: “Đã bán [ruộng đất ấy] bao nhiêu năm rồi?” Đáp: “Ba mươi năm”. [Đứa con] hỏi: “Mấy nhà mua được sản nghiệp ấy?” Đáp: “Hơn hai mươi nhà”. Đứa con nói: “Những hộ nhỏ mua ruộng phải đóng các khoản lệ phí cỡ nào?” Cha đáp: “Những kẻ làm trung gian đòi lệ phí và thuế khóa chừng đó”. Đứa con thưa: “Con xem luật Đại Minh, những tài sản đã [bán đi] hơn năm năm sẽ chẳng được phép chuộc về! Sao cha chẳng tuân theo phép vua?” Một môn khách nói: “Chuộc lại sản nghiệp của tổ tiên là chuyện thuộc về phương diện tranh đua”. Đứa con nói: “Các ông một mực a dua! Chẳng lẽ phụ thân làm quan, ngoài chuyện mua thêm ruộng đất, những chuyện khác chẳng phải là tranh đua ư? Sao cứ nhất định phải muốn những khoảnh ruộng ấy?” Cha nói: “Ta muốn chuộc, dân làng dám chẳng tuân theo ư?” Đứa con thưa: “Con sợ là người làng sợ oai thế, miễn cưỡng cho cha chuộc lại, cha sẽ bị hao tổn âm đức”. Cha nói: “Thằng nhóc biết đến âm đức thì cũng khá đấy. Nay ta tính trả cho họ các khoản lệ phí mà họ đã đóng”. Đứa con nói: “Các khoản lệ phí là chuyện nhỏ! Nhà ta tậu ruộng dễ, những hộ nhỏ tậu ruộng khó! Như một nhà dựa vào mười mẫu ruộng để sống qua ngày; nếu nay ruộng bị chuộc lại, họ bắt buộc phải tậu ruộng khác, chỉ tậu được năm mẫu! Nỡ lòng nào khiến cho một nửa người nhà của họ bị đói? Con khuyên cha đừng chuộc, hãy tích chút âm đức để lại cho con cháu”. Một lúc lâu, cha mới nói: “Lời con nói quả thật có lý. Chỉ có mười tám mẫu ở cạnh phần mộ [tổ tiên] ắt phải chuộc lại để làm ruộng hương hỏa”. Đứa con lại xin cha chiếu theo thời giá để lập văn khế mua bằng giá, đừng nói là “chuộc lại”. Cha nghe theo, người làng đều cảm đức, thường ở Mãnh Tướng Từ (đền thờ vị mãnh tướng) cầu nguyện [cho con ông ta]. Về sau, đứa con mười tám tuổi, liên tiếp đỗ đạt, được Bộ Ty[157] đề cử làm Thái Thú Nghiêm Châu. Một hôm, nó cưỡi ngựa nghênh tiếp chiếu chỉ. Qua cầu, ngựa rơi xuống sông. Bỗng thấy vị mãnh tướng giơ tay đỡ, nó ngồi ngay ngắn bên chân cầu, mới biết là do người làng cầu đảo mà cảm ứng. Về sau, thọ hơn tám mươi tuổi. Ôi! Những chuyện nhà phú quý uy hiếp [kẻ khác] kể sao cho xiết! Con em họ nào có được tấm lòng như đứa thiếu niên đất Sở[158], mọi chuyện đều can gián mà được phước ư? Nhưng ta biết chuyện này khó lắm, gã hương thân ấy chẳng biết đã gieo âm đức gì mà sanh ra đứa con ấy!

          Phóng túng hung bạo thì quan cao chức cả, nha lại, lẫn dân chúng đều có, nhưng không gì quá đáng bằng xua quân mặc tình tàn sát, cướp bóc. Kế đến là những kẻ xử án, lạm dụng [quyền uy] ép uổng người vô tội. Tàn bạo đã là chớ nên, huống hồ là buông lung mà làm, lỗi ác rõ rệt, to tát không gì hơn được! Nhưng nếu có quyền thế, [dẫu] có thể phóng túng tàn bạo, nhưng lại có tâm dùng [quyền thế] ấy để cứu sống người khác, lòng nhân cũng sẽ càng hiển lộ to lớn không chi hơn được!

          Đời Nguyên, hai vợ chồng quan Đồng Tri[159] Quảng Châu họ Hoàng đều ngã bệnh, nằm trên hai chiếc giường khác nhau. Người vợ mộng thấy nha lại cầm công văn, dẫn mấy tên lính cầm xiềng gông, vạch màn ra, dáng vẻ giống như muốn bắt người, bảo: “Chẳng phải kẻ này!” Do vậy, đi sang giường đối diện, vạch màn ra, bảo: “Đúng rồi!” Vợ chồng đều giật mình tỉnh giấc. Chồng nói: “Ta hẳn phải chết. Khi ta chiêu an, đã giết nhiều người vô tội, nay họ đều đến cả rồi”. Qua hôm sau bèn chết.

          Châu Tại Am nói: – Sát thương là nói chung cả người lẫn vật. Bởi lẽ, chính mình và kẻ khác hình hài tuy khác biệt; người và vật tuy lanh lợi hay ngu xuẩn sai khác, nhưng mạng chẳng hai, cùng đau xót như nhau! Chỉ thử nhìn lại chính mình, ta có tham sống hay không? Ta có sợ chết hay không? Tâm ta như thế nào thì người khác và loài vật cũng chưa hề khác ta! Há nên chẳng biết xót thương, áy náy, mà lại phóng túng bạo ngược, mặc sức tổn thương loài người, giết chóc loài vật ư?” Ngu ý cho rằng: Câu này có ý nói đến cả người lẫn vật, hết sức phù hợp ý giáo huấn, nhưng ý nghĩa “tổn thương loài vật” đã thấy ghi chép nhiều chỗ trong bộ sách này; do đó, chẳng kèm thêm [những câu chuyện ấy] vào đây!

 

          (Chánh văn) Vô cố tiễn tài, phi lễ phanh tể.

          (正文)無故剪裁,非禮烹宰。

          (Chánh văn: Vô cớ cắt xén, không có lễ lạc mà giết hại gia súc).

          Phụ nữ nuôi tằm, dệt vải, ngàn muôn sợi tơ, nhọc nhằn, siêng gắng vô hạn, mới làm thành vải vóc. Nếu chẳng phải là hết sức bất đắc dĩ, há nên nỡ lòng cắt may? Dẫu là do lễ nghi chẳng thể bỏ [lễ phục], vẫn nên giảm bớt, huống hồ vô cớ [mà tùy tiện cắt may] ư? Còn như những loại như the, nhiễu, càng phải nên quý tiếc. Trên bức tranh Tàm Phụ Đồ (蠶婦圖, người phụ nữ nuôi tằm) của Triệu Thái Thú có đề thơ như sau:

          Tàm vị thành ty, diệp dĩ vô,

          Tấn vân liễu loạn phấn ngân khô,

          Cung trung la ỷ khinh như bố,

          Chẩm đắc vương tôn kiến thử đồ?

          (Tạm dịch:

          Tằm chưa kéo kén, hết dâu rồi,

          Tóc bết mang tai, vệt phấn nhòa,

          Trong cung the, nhiễu coi như rác,

          Há bậc vương tôn thấu nỗi này?)

          Khấu Lai Công (Khấu Chuẩn) từng dùng lụa bạch có vân bóng để thưởng cho ca kỹ. Có thơ rằng:

          Nhất khúc sênh ca, nhất thúc lăng,

          Mỹ nhân do tự ý hiềm khinh,

          Bất tri chức nữ cơ song hạ,

          Kỷ độ phao thoa chức đắc thành.

          (Tạm dịch:

          Một khúc sênh ca, xấp lụa trao,

          Mỹ nhân ngúng nguẩy “chẳng ra sao!”

          Biết đâu người dệt bên song cửi,

          Bao lượt đưa thoi mới dệt thành).

          Lại nói:

          Phong động y đơn thủ lũ ha,

          U song yết yết độ hàn thoa,

          Lạp thiên nhật đoản bất doanh xích,

          Hà tự yêu cơ nhất khúc ca.

          (Tạm dịch:

Gió lay áo mỏng, rét tê tay,

          Song tối đẩy thoi lách cách đưa,

          Tháng Chạp ngắn ngày chưa đủ thước,

          Đâu như gái đẹp chỉ đàn ca)[160].

          Mỗi chữ đều hết sức tha thiết! Suy rộng ra, tự mình hãy tiết kiệm để thí cho người nghèo thì không gì chẳng trọn vẹn vậy!

          Châu Vô Diêu nhà hết sức giàu có, thê thiếp đều mặc những thứ gấm quý, quần lót, vớ cũng dùng lượt là. Hắn nuôi mấy nàng hầu, hết sức hao tốn. Về sau, hắn gặp tai họa ngang trái, gia cảnh suy bại. Cho đến khi Vô Diêu chết, thê thiếp đều là vớ thủng, giày rách, xin người khác một thước vải [để làm khăn liệm] cũng không thể được!     

          Vợ Triệu Sĩ Châu là Vương thị đã chết mấy hôm, bèn dựa vào thân đứa tớ gái tên là Lai Hỷ nói: “Ta lúc còn sống thường ưa xài phung phí vải lụa, và khi gội đầu, rửa chân, dùng nước quá lố. Âm ty phạt tội ta, hằng ngày bị đánh đập, mong hãy truyền đạt ý này cho Sĩ Châu”. Cả nhà nghe rồi đều cảm khái, bi thương.

          Đời Tống, Trung Tuyên Công Phạm Thuần Nhân sắp cưới vợ. Có kẻ nói nhà vợ dùng the, nhiễu làm màn che, ông nói: “The, nhiễu há nên dùng làm màn ư? Nhà ta vốn thanh bần, tiết kiệm, sao dám làm loạn gia pháp của ta? Họ dám mang tới, ta sẽ đốt ngay”. Than ôi! Đấy vẫn còn là nhà công khanh đó nhé! Xem khắp đế vương xưa nay, như Tấn Văn Công chẳng mặc áo da hai lớp, vua nhà Lưu Tống[161] thường mặc áo cộc đã rách, phu nhân sủng ái của Hán Văn Đế [vạt] áo chẳng dài chấm đất. Hiếu Từ Hoàng Hậu Mã thị của nhà Minh luôn mặc váy bằng lụa trơn[162], Đường Văn Tông từng giơ tay áo cho quần thần xem, bảo: “Cái áo này đã giặt ba lần rồi”, Tống Nghệ Tổ (Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn)[163] do thấy công chúa mặc áo chiếc áo ngắn màu cánh trả[164] mà răn rằng: “Phú quý hãy nên biết tiếc phước”. Phàm là đế vương, phi tử, công chúa mà còn tiếc phước như thế, hiềm rằng trong nhà dân chúng hiện thời, tranh nhau tập tành thói xa hoa, lãng phí, thích những thứ đẹp đẽ hiếm có, tranh đua [y phục] hoa lệ. Bọn hầu thiếp là lượt, lũ trẻ nhỏ gấm vóc, thêu thùa! Há có biết một tấm áo là mạng của ngàn con tằm? Nếu mặc tình sử dụng bừa bãi, thả sức phung phí, ắt sẽ là cội nguồn tạo ác, ắt chuốc lấy mối họa vì xa xỉ. Hơn nữa, những kẻ áo quần rách mướp, thô kệch, da thịt rét buốt, nứt nẻ trong hiện thời, có kẻ nào chẳng phải là những đứa con quần áo lụa là, thêu vẽ trong thuở ấy hay chăng?

          Lễ Ký chép: “Thiên tử chẳng vô cớ giết trâu. Đại phu chẳng vô cớ giết dê. Kẻ sĩ chẳng vô cớ giết chó, lợn”. Mạnh Tử nói: “Người đã bảy mươi tuổi có thể ăn thịt”. Ấy là vì thánh nhân hiếu sanh, chẳng chịu tàn sát bừa bãi sanh mạng loài vật. Tức là có lúc vì tế lễ, vì đãi khách, vì [phụng dưỡng] người già, mà săn bắt cầm thú, [những chuyện ấy] vốn là muôn phần bất đắc dĩ, sau đấy mới làm [như vậy], chẳng phải là dạy dân chúng [giết hại loài vật] để sớm chiều cung ứng [cho chính mình] nhằm tận lực thỏa mãn lòng ham ăn tục uống mà hằng ngày làm chuyện giết mổ! Đức Thái Thượng từ bi đã nói: “Côn trùng, thảo mộc còn chẳng thể tổn thương”. Do vì nói với người đời, chẳng thể không hạ thấp xuống một bậc, Ngài dạy hai chữ “phi lễ” với ngụ ý “nghiêm ngặt đặt ra khuôn phép chẳng thể vượt qua” cho mọi người. Đấy chính là cái tâm bất đắc dĩ của thánh nhân. Kinh Lăng Già dạy: “Nếu hết thảy mọi người chẳng ăn thịt, cũng sẽ chẳng có kẻ sát hại chúng sanh”. Người thời nay nếu chưa thể trừ sạch thói ăn thịt, hãy tuân theo phương tiện [bỏ ăn thịt] dần dần, trừ khử cái tâm giết chóc, học theo điều răn bốn [loại thịt] không ăn của tiền nhân: Một là thấy giết bèn chẳng ăn, hai là nghe tiếng giết chóc bèn không ăn, ba là người khác vì ta mà giết bèn không ăn, bốn là ta không có chuyện gì mà [kẻ khác] giết chóc [con vật] thì không ăn. Vâng giữ bốn điều răn ấy, dẫu luôn ăn thịt mà cũng chẳng phế trừ [bốn giới ấy], ngõ hầu chẳng có ý nghĩ sát hại chúng sanh. Còn như chó, trâu có công với đời, càng phải nên kiêng ăn. Phàm là như thế, sẽ có thể tránh bớt chuyện phạm lỗi “chẳng phải do lễ lạc” [mà vô cớ giết hại các con vật]. Các tấm gương của những kẻ [mắc họa] vì mổ, nấu các loài chim, cá, trâu, chó, dê, lợn… sẽ được nêu đầy đủ sau đây hòng răn nhắc.

          Đời Đường, Hà Trạch tánh hung bạo, ngang ngược, chỉ thích chú trọng ăn uống. Gà, chó, ngỗng, vịt, thường nuôi cả ngàn, cả trăm con để hằng ngày giết mổ, nấu nướng. Hắn chỉ có một đứa con, hết sức yêu thương. Một hôm, nấu gà, canh đang sôi sùng sục, đứa con ấy giống như vì nhặt vật gì mà nhào vào vạc. Cấp cứu thì nó đã nát bét cùng với gà rồi.

          Người họ Mã ở Hàng Châu bán ngỗng quay, người ta gọi hắn là Mã Lạn Đầu (馬爛頭, ông Mã đầu nát nhừ), nổi tiếng nhất. Về sau, dưới hông hắn bị ghẻ độc, thịt rữa nát tận xương, miệng luôn phát ra tiếng như ngỗng kêu, hai tay đút vào nước sôi sùng sục thì mới dễ chịu, da thịt bị tróc sạch, nghiễm nhiên trông giống như chân ngỗng.   

          Ở Giang Bắc có một người bắn một con nhạn trống, đem giết rồi nấu. Con nhạn mái bay quẩn quanh nhìn, chẳng bỏ đi. [Người ấy] vừa mở nắp nồi, nó bèn lao vào, chịu nấu chín chung. Người vùng Giang Bắc xót thương, bèn chẳng ăn nhạn. [Danh sĩ] Nguyên Hảo Vấn đem chôn hai con nhạn, đặt tên nơi ấy là Nhạn Khâu (雁邱, gò nhạn), người bắn nhạn liền chết.

          Đời Tống, một người dân ở thành phố Bà Dương tên là Giang Ất, sống bằng nghề bán cá. Ông ta đã từng mua một con rùa lớn, nặng một trăm cân, để ở trong nhà. Ban đêm, [ông ta] nghe tiếng rên rỉ hết sức bi ai, nhìn xem thì ra là [tiếng rên của] con rùa. Giang Ất tức giận, cầm gậy đập nó. Ông cụ hàng xóm khuyên Giang Ất đem thả, hắn không nghe. Hôm sau, ông cụ liền quyên tiền mọi người, muốn mua lại đúng giá trị. Giang Ất kiên quyết không chịu bán, rốt cuộc giết chết nó. Về sau, hắn mắc tội, bị tống giam, phạt trượng, vợ chồng đều chết đói.

          Đời Đường, Hứa Nghiễm sống bằng nghề bán cá, bỗng thân thể đỏ như lửa, đau đớn như bị nung nấu. Ông ta tự nói chỉ thấy xe bốc lửa vây quanh thân, lại còn có cả vạn con cá rỉa khoét thịt ông ta. Có người khuyên ông ta hãy làm công đức. Ông ta bèn tạo hai bức tượng Quán Âm, thề đổi nghề, cả nhà chẳng dùng rượu thịt, bèn lành bệnh.

          Hoài Cảnh Nguyên ở Tiền Đường thích nấu ba ba. Trước hết, hắn lấy đao chặt đầu cho nó tuôn máu, nói [làm như thế] sẽ giữ được vị ngon trọn vẹn. Về sau, hắn nổi lao hạch ở cổ, thịt rữa nát, đứt đầu mà chết.

          Phong tục ở đất Ngô hễ ăn lươn đều thả nguyên con lươn sống vào nồi nước sôi, một lúc lâu sau, lươn mới chết. Trong niên hiệu Thiên Bảo[165], ở huyện Đương Đồ, có một người bán hàng sai con bắt lươn đem nấu. Lươn bỗng biến thành rắn, dài mấy thước. Đứa con xem lại, những con lươn khác cũng đều hóa thành rắn; hóa thành rắn xong, chúng đều bỏ đi. Đứa con ấy mắc bệnh một ngày rồi chết. Cả nhà bảy người, trong vòng một tháng nối tiếp nhau chết sạch.

          Lữ Ngũ ở huyện Tiền Đường thích ăn cá chạch, cá chình, nhưng cá chạch rất khó chết, hắn thường bỏ cá chạch vào hộc chứa, ngâm chúng trong muối và dấm, cho đến khi cá ngắc ngoải mới giết mổ đem nướng. Hắn nói [làm kiểu đó] muối và giấm ngấm tận xương, thịt cá sẽ ngon béo. Về sau, hắn bị bệnh nóng bức, khô khao, luôn mong tưởng được uống dấm pha muối, đòi [người nhà] đem đến. Khi cho uống, lại nói “nướng vàng rồi, vàng ươm rồi, hãy lật qua xem nào”, người nhà bèn lật thân thể hắn lại. Suốt ngày đêm, hắn kêu gào cả trăm lần như thế. Thịt rữa, ruột vỡ ra mà chết.

          Triệu Bích ở Tứ Châu mộng thấy bà vợ đã mất nói: “Em thuở còn sống giết hại sanh mạng loài vật, thích nhất là món cua ướp rượu, giết cua thật nhiều. Sau khi chết, Diêm Vương bắt em chạy qua núi cua, bị lũ cua kẹp mắt, khắp thân tuôn máu, ngày đêm chịu khổ. Xin hãy vì em chép bảy quyển kinh Kim Cang. Nhờ vào công năng của Bát Nhã, sẽ dẹp tan nỗi khổ địa ngục”. Triệu Bích ưng thuận. Chép kinh xong, lại mộng thấy vợ nói: “Em đã nhờ vào công đức chép kinh mà được thăng lên cõi trời”.

          Từ Tăng Bảo sống bằng nghề câu ếch. Khi giết ếch, bèn chặt đầu nó trước. Ếch đã bị chặt làm hai khúc, [phần đầu] vẫn còn cắn cỏ, động đậy, hồi lâu mới chết. Lúc hai mươi sáu tuổi, hắn bỗng chết, khi còn chưa liệm, thân thể hắn từ thắt lưng trở xuống bỗng dưng đứt làm hai, giống như hình dáng con ếch bị chặt [làm hai khúc] vậy.

          Từ Tùng mua loài ốc nước ngọt, sai tôi tớ đem thả. Gã đầy tớ bèn đem nấu ăn, bỗng khắp thân hắn mọc ghẻ chẳng khác gì mắt ốc, đau đớn chẳng thể chịu đựng nổi. Từ Tùng căn vặn, biết được sự thật, dạy gã ta hãy cầm cố quần áo để mua những con vật đem phóng sanh, sám hối tội lỗi, [gã đầy tớ] bèn được lành bệnh.

          Họ Hàn ở Thái Châu thuở nhỏ giết lợn, bỗng tự nấu cả trăm nồi nước sôi, đổ đầy cái chậu lớn mà hắn chuyên dùng để mổ lợn. Hắn cởi áo nhảy vào đó tắm, vợ ngăn cản không được. Hắn lăn lộn trong bồn, da thịt chín nát ra, chẳng biết đau đớn. Lại còn tự vặt tóc, bảo: “Cái sỏ lợn này hãy còn lông chưa làm sạch, người ta sẽ chẳng mua”, rồi chết ngay.

          Thời Đường, ở phía Tây của Trường An có một cô dâu mới kết hôn, sanh được một trai vừa mới đầy tháng. Họ hàng tụ họp ăn mừng, mua một con dê về sắp giết. Dê hướng về gã đồ tể quỳ lạy, gã đồ tể kinh hãi báo với chủ nhà. Họ chẳng nghĩ đó là chuyện lạ, bèn giết chết. Sản phụ ẵm con xem nấu nướng, bỗng cái nồi tự vỡ, nước sôi tung tóe, tro, lửa bắn thẳng vào họ, mẹ lẫn con đều chết.

          Trương Dịch Chi muốn ăn món ruột ngựa, [bèn sai người] khoét hông ngựa lấy ruột. Rất lâu sau, con ngựa mới chết. Em hắn là Trương Xương Tông đem con lừa sống giam trong một căn phòng nhỏ, đốt lò than [giữa phòng], đặt nước pha ngũ vị hương trong phòng. Lừa [tránh nóng] chạy vòng quanh lò, hễ khát bèn uống nước. Nước hết, lửa cháy mạnh thêm, [con lừa] trong ngoài đều chín nhừ, rụng lông, đẫm máu mà chết, thê thảm khôn kể xiết! Về sau, [hai anh em bọn chúng] đều bị giết, dân chúng băm vụn [xác chúng], ngay lập tức đều chẳng còn gì nữa!

          Có nho sĩ học đã thành tài mà cứ lận đận mãi chẳng đỗ đạt, bèn cầu đảo đức Văn Xương: “Nếu con đỗ khoa thi Hương, sẽ mổ nai cúng tế”. Không lâu sau, hắn bèn thi đỗ. Đã hoàn nguyện, [lại khấn]: “Nếu con đỗ khóa thi do bộ Lễ[166] tổ chức, lại cúng hai con nai”. Hắn chưa đỗ đạt mà đã chết! Ôi! Giết nai để cầu lộc cho chính mình, há ngươi an lòng ư? Những kẻ sát sanh để cầu nguyện, hãy nhìn vào đó mà suy nghĩ!

          Một gã học trò ở Tân An vào Hoàng Sơn đọc sách, luôn thích bắt khỉ để ăn. Về sau, vợ gã sanh nở rất khó, rốt cuộc đẻ ra một con khỉ!

          Một gã đồ tể ở Trừ Châu thường mổ trâu, bảo con: “Hãy xem cách bố dùng đao”, muốn cho con trai nối nghiệp. Một hôm cha nó đang ngủ, đứa con tưởng cha là trâu, cầm đao giết chết, chặt rụng đầu bố. Mọi người kinh hãi hỏi han, đứa con trả lời: “Cháu thấy đó là con trâu, chẳng thấy là bố. Bố thường dạy cháu giết trâu, nay thấy con trâu đang ngủ bèn thử dùng cách mổ xẻ ấy!”

          Cha con Hoa Hồi Tử ở Trấn Giang mổ trâu, bỗng ngã lăn đùng ra đất, rống lên như trâu. Họ nằm bệnh hơn một tháng, trên trán mọc ra hai cái sừng bằng thịt dài cỡ cả tấc. Khi họ chết, người ta ngửi thấy mùi như xác trâu chết!

          Mao Huệ ở Trấn Giang chết đột ngột. Quan cõi âm nói: “Cha ngươi thích ăn thịt bò, tội ác sâu nặng, sẽ chịu trăm ngàn khổ báo trong địa ngục. Ngươi tuổi thọ chưa hết, đáng nên bị trách phạt trước”. [Quỷ sứ] bèn khoét hai mắt [của Mao Huệ], quất mấy chục roi sắt rồi mới thả về. Lúc sắp trở về, quan cõi âm nói: “Đời này ngươi không phạm tội ác lớn, hãy còn hai mươi mốt năm tuổi thọ. Nhưng cha ngươi tội nặng, ngươi trở về hãy nói lại, hãy gấp kiêng thịt trâu bò, may ra còn sống thêm ít lâu. Nếu ngươi có thể khuyên kẻ khác đừng ăn, sẽ được tăng thêm tuổi thọ”. Đến khi [Mao Huệ] tỉnh lại, hai mắt hết sức đau đớn, hai chân đều sưng phù, bèn kiêng ăn [thịt trâu bò], và thuật lại chuyện ấy để khuyên kẻ khác.

          Viên quan Tư Lý ở Ngô Quận chết đột ngột rồi sống lại, vội mời Thái Thú và các bạn đồng liêu tới. Ông ta ở trên giường, dập đầu thưa: “Tôi tới âm phủ, xin tha mạng hết sức tha thiết, [cõi âm] hạn định cho tôi trong vòng ba ngày phải khuyên một ngàn người không ăn thịt trâu bò thì mới được sống tiếp. Nay tôi khẩn cầu các vị, hãy vì tôi khuyên khắp dân chúng”. Mọi người tưởng là bịa chuyện, giả vờ ưng thuận. Ba ngày sau, quan Tư Lý lại chết, mọi người mới kinh hãi, cùng nhau kiêng giữ chuyện ấy. Lại tạo một quyển sổ để khuyên dân chúng đều ghi tên họ vào đó, trong một ngày [ghi danh] được mấy ngàn người, liền ngửa mặt lên trời [tấu trình], đốt đi. Bỗng có người báo quan Tư Lý đã sống lại. Đến hỏi, ông ta đáp: “Tôi lại bị sứ giả bắt đi. Vị đứng đầu cõi âm giận dữ, quở trách. Bỗng có một vị thần cầm một quyển sổ tới, nói là bản ghi tên họ của những người kiêng ăn thịt trâu bò. Vị chủ cõi âm mở ra xem, hết sức vui mừng, bảo: – Không chỉ là được sống lại, mà còn tăng thọ bảy mươi hai năm. Thái Thú và mọi người đều hưởng phước vô lượng”.

          Quản Sư Nhân lúc trẻ vào canh năm ngày Nguyên Đán gặp mấy con quỷ, liền quát hỏi, họ đáp: “Chúng tôi là quỷ làm sai dịch, nay đi công vụ trong nhân gian”. Sư Nhân hỏi: “Nhà ta có tên trong [danh sách bị cõi âm bắt] hay không?” Họ đáp: “Do không ăn thịt trâu bò nên được miễn!”

          Trạch Tiết tuổi đã năm mươi, không có con, cầu đảo Quán Âm hết sức kiền thành. Vợ ông vừa mới cấn thai, mộng thấy Đại Sĩ trao cho một đứa con. Vợ muốn ẵm lấy, nhưng có một con bò ngăn cách, không ẵm được. Con đã sanh ra, nhưng chẳng nuôi được. Trạch Tiết nói: “Ta rất ham ăn thịt bò, cho nên mắc quả báo này”. Cả nhà bèn thề kiêng ăn, [vợ ông ta] lại nằm mộng giống như cũ, nhưng bà vợ ôm được đứa con. Con sanh ra bèn nuôi tới khôn lớn.

          Từ Thức từ tâm chẳng giết, rất ghét mổ trâu. Ông làm quan, hễ trấn nhậm nơi đâu, ắt cấm ngặt [mổ trâu bò]. Về sau, ông làm quan đến chức Thượng Thư. Gã đồ tể họ Cố ở Dư Diêu sắp mổ một con trâu. Con nghé thừa lúc không có ai, bèn ngậm dao giấu trong tro. Họ Cố tìm được dao, biết là do con nghé giấu, tức giận muốn giết luôn nó. Cụ phong quân[167] Thạch Tuyền trông thấy bèn đổi bằng mấy thạch gạo, chúng mới khỏi chết. Năm ấy, con trai cụ đậu cao, làm quan đến chức Đại Trung Thừa[168].

          Gã họ Châu nọ ở Dư Diêu sống bằng nghề giết chó. Về sau, hắn bị hỏa hoạn, đã chạy thoát ra, lại xông vào, bị lửa thiêu. [Người cứu hắn] vội thả hắn xuống nước, da nứt cong lên, lòi thịt ra, rốt cuộc [trông như] một con chó vừa mới bị lột da, đau đớn chạy cuồng lên quanh thành, sủa oăng oẳng. Chạy một vòng rồi mới chết. Vợ và con dâu đều bị lửa thiêu rụi.

          Vùng Tần Lũng có một người dân thích ăn thịt chó. Một hôm, hắn nấu thịt chó, sắp chín, thấy trên da chó có chữ [giống hệt] như những chữ đã xâm trên cánh tay trái của cha hắn. Khi ấy, cha hắn đã chết mười hai năm rồi! Cả nhà đau đớn, khóc lóc, bèn kiêng hẳn [thịt chó].

          Lý Thiệu ở Tây Thục thích ăn thịt chó, giết chóc không thể đếm xiết. Hắn từng nuôi một con chó đen. Một hôm, Lý Thiệu trở về đang say, chó chạy ra sủa mừng. Lý Thiệu tức giận, vung búa chém chó, nhằm đúng lúc đứa con từ bên trong chạy ra, trúng phải búa chết tươi. Cả nhà khóc òa. Tìm chó, chẳng biết nó đã chạy đâu mất. Lý Thiệu nhiễm bệnh, tru lên như chó mà chết.

          Nguyên Đế (Huyền Thiên Thượng Đế) nói: “Trâu chính là nguyên tinh của Huyền Vũ[169] trên trời, là nguyên khí của Thái Lao[170] dưới đất. Nếu chẳng nhằm tế giao[171] sẽ không dám dùng, chẳng phải là thiên thần, sẽ chẳng dám hâm hưởng[172]. Hình dáng của nó được liệt vào [hình dạng của] tinh tú[173] trên bầu trời, sức mạnh của nó khiến cho đất được lợi, có công với đời, chẳng gây hại cho dân. Kẻ giết nó sẽ bị phép nước trừng phạt. Kẻ ăn thịt nó, sẽ mắc họa khiên trong cõi âm. Trong chữ Lao (牢, nhà tù) có chữ Ngưu (牛, trâu hoặc bò). Trong chữ Ngục (獄) có chữ Khuyển (犬, chó). Chẳng ăn thịt chó, thịt trâu bò, ắt sẽ vĩnh viễn tránh khỏi lao ngục. Trên núi Thái Ất[174] và Lao Sơn[175] có hình dáng thật sự của trâu. Kẻ ăn thịt trâu bò [trong vòng] ba ngày sẽ bị ma thần nhiếp tinh. Kiêng thịt trâu bò ba ngày thì gọi là “lên đến Ngọc Thanh”[176]. Trâu bò ăn trăm loại cỏ, chẳng gây hại gì cho con người. Con người ăn trăm vật, hãy nên kiêng thịt chó, thịt trâu!

          Trong các tội của đời người, sát sanh nặng nhất, mà trong các tội sát sanh, giết trâu tội nặng nhất. Tội của người ăn [thịt trâu bò] bằng với kẻ giết chúng. Tiêu Đông Bạch nói: “Ta khuyên người đời đừng ăn thịt trâu bò. Chúng dốc sức phục vụ cày cấy, đâm ra bị giết chóc. Những thứ quý vị ăn do đâu mà có, sao nỡ lòng nấu nướng, buôn bán [thịt chúng nó]?” Lại nói: “[Trâu đã bị] lột da, xẻ thịt, hai mắt còn mở trừng trừng. Há nó trừng mắt nhìn suông? Nó nhìn quý vị xoay vần, có thể giữ đến khi nào sẽ chẳng biến thành nghé”. Đọc lời ấy khiến cho tâm người ta xót xa, kinh sợ buốt xương, ăn vào chẳng nuốt xuống nổi! Huống hồ chuyện báo ứng do giết, ăn, rành rành chẳng sai chạy. Sao lại tham đắm miếng thịt be bé ấy để rồi chuốc lấy phiền lụy?         

          Còn như chó có công, có nghĩa, chẳng gây hại cho con người; giết chúng để ăn là tội lớn nhất. Nay thì không chỉ hạng bình dân tham xơi [thịt chó], ngay những kẻ có học, đỗ đạt, cũng thường coi chuyện này (ăn thịt chó) như một hành động hào sảng, gọi hoa mỹ là “địa dương” (地羊, dê đất). Cớ sao đọc sách hiểu lý mà tăm tối đến mức ấy? Tống Giác nói: “Nay ta chẳng thống thiết trừ bỏ [tập khí xấu hèn ấy], đời sau ta cũng có đuôi!” Ngu ý cho rằng chẳng cần chờ đến đời sau. Thử xem những kẻ giết mổ, ăn thịt chúng nó trong hiện thời, hễ họ vào chợ, lũ chó xúm lại sủa là vì lẽ nào? Chắc là hình trạng kẻ ấy đã biến đổi trước rồi! Nhưng bọn ta chỉ kiêng dè nơi một thân, một nhà ta, công sẽ hữu hạn. Sao bằng làm một quyển sổ kết duyên, thường luôn cầm theo, hễ bản thân đến chỗ nào, [cũng đều] mềm mỏng khuyên lơn, giáo hóa, khiến cho người ta vĩnh viễn kiêng dứt, há chẳng phải là hết sức mau chóng ư?

          Lại nữa, người mộ duyên xin tài vật của kẻ khác, gặp người có tín tâm, họ sẽ phần nhiều thí xả; nay chỉ cầu người ta chẳng giết sanh mạng, chẳng ăn thịt trâu bò, họ chưa từng tốn kém một đồng, một hạt gạo mà đạt được phước đức khó thể so sánh, tính đếm! Phàm những ai có cùng một tấm lòng với ta, há có ai chẳng thuận theo? Tôi tuy chẳng lanh lợi, dám đứng ra làm tiên phong. Sách Cảm Ứng Lục đã chép: “Kẻ khuyên một trăm người chẳng ăn thịt trâu bò, sẽ tăng thọ một kỷ (mười hai năm)”. Chuyện này lại chứng tỏ hiệu nghiệm to lớn [của việc kiêng ăn thịt trâu bò vậy].

          Trong lời chú giải này, riêng đối với trâu và chó là đã riêng chú giải tường tận. Tuy những câu chuyện [quả báo] do giết, mổ chim, cá, các loài gia súc có ghi đầy đủ, nhưng lời huấn thị, răn nhắc sơ lược. Hãy nên vận dụng tâm từ đối với muôn vật. Tham khảo phần chú thích dành cho câu “côn trùng, thảo mộc, nhẫn tác tàn hại, xạ phi trục tẩu” (tàn nhẫn làm hại các loài côn trùng, thảo mộc, bắn loài đang bay, đuổi bắt loài đang chạy), sẽ tự hiểu rõ tường tận vậy!

 

          (Chánh văn) Tán khí ngũ cốc, lao nhiễu chúng sanh.

          (正文)散棄五穀。勞擾眾生。

          (Chánh văn: Phung phí ngũ cốc, khiến cho chúng sanh vất vả, ưu phiền).

          Từ trước đến nay, những kẻ phung phí ngũ cốc[177] phần nhiều mắc họa bị sét đánh. Bởi lẽ, đối với người dân, cái ăn to như trời! Khinh rẻ [ngũ cốc] chính là khinh nhờn trời; do vậy, quả báo ấy rất nặng. Thời cổ, thiên tử đích thân đi cày, thánh nhân coi trọng lúa gạo, đều là vì hết sức coi trọng các loại hạt lương thực nuôi sống người dân. Hiềm rằng người hiện thời quăng vứt, hoặc là [bỏ mặc ngũ cốc] vung vãi ở ruộng chẳng thâu nhặt, hoặc để cho mục nát trong kho chẳng chịu phát ra, hoặc vứt vào nước, lửa, hoặc quăng bỏ [mặc cho kẻ khác] giẫm đạp, hoặc ăn những thứ tinh túy, vứt bỏ những thứ thô kệch, hoặc do có [ngũ cốc] quá nhiều mà đến nỗi dư thừa, hoặc cơm canh đã nấu xong mà bỏ mứa, hoặc là lúa má chưa chín mà đã cắt hái trước, hoặc dùng lương thực để nuôi chim, hoặc dùng đậu và lúa mạch cho gia súc ăn, đều là những chuyện tàn hại vật thực của trời quá đáng! [Người nông dân] cày cuốc, gieo mạ đang giữa trưa, mồ hôi từng giọt thấm vào nhánh mạ cắm xuống ruộng, ai biết một mâm cơm, từng hạt đều nhọc nhằn? Thử nghĩ năm đói kém, mỗi hạt [ngũ cốc] quý như châu báu, sao lại nhẫn tâm coi rẻ, phung phí khi dư giả? Giả sử ai nấy đều yêu quý [các sản phẩm] nông tang như báu vật, ắt sẽ chẳng đến nỗi có năm mất mùa!

          Đời Tống, Thượng Thư Phong Tắc thường nói: – Ta thuở bé đã đích thân gặp ngài Tuyết Đậu[178] dùng chuyện tiếc phước để dạy người khác như sau: “Mỗi người chẳng có thọ hay yểu, hễ hết lộc thì chết”. Suốt đời này, ta tuân theo giáo huấn ấy, đối với mọi việc, đều chẳng chịu phung phí chút nào!

          Đời Minh, Trương Nghĩa Phương có mấy trăm thửa ruộng. Hằng năm, thóc do tá điền nạp tô bị để mục nát trong kho, thường phải dọn dẹp bỏ đi, đến nỗi dùng mè đen để nuôi lợn, dùng đậu xanh cho trâu ăn. Nếu có người khuyên hắn hãy châu cấp, giúp đỡ kẻ nghèo nàn, túng thiếu, hắn chẳng nghe. Về sau, vào năm Chánh Đức thứ sáu (1511), đê Hoàng Hà bị vỡ, ruộng đồng bị cuốn trôi ra sông. Rốt cuộc, hắn đến nỗi bị chết đói!

          Một bà lão đã từng nấu cơm cho một nhà quan, nấu nhiều món ăn. Hễ dư ra, bèn đổ xuống mương rãnh. Một hôm, [bà cụ] bị bệnh chết đi rồi sống lại, bảo: “Có hai chiếc thuyền chở những thức ăn đã bị vứt bỏ, hôi thối khôn sánh! Một người dùng roi sắt đánh tôi, bảo đó là những thứ tôi đã vứt bỏ khi còn sống, ép tôi ăn. Gượng ăn mấy miếng, bụng đã trướng lên, [chẳng biết] khi nào mới hết? Biết làm sao đây?” Nói xong, lại chết.

          Một kẻ làm công gieo mạ cho người khác. Chủ ruộng dùng lúa mạch vụn nấu cơm cho ăn. Gã làm công giận chủ ruộng coi thường mình, đổ món ấy vào bãi phân trâu. Ngay lập tức, sét đánh chết hắn!

          Cha của Hy Mẫn Công Trần Dật là người thiện lương, nhân hậu. Ông thấy trong tổ kiến nơi nhà xí có một miếng cơm, bèn nhặt lấy, rửa sạch rồi ăn. Đêm mộng thấy thần nói: “Ông chuộng điều thiện như vậy, sẽ có phước báo”. Chẳng lâu sau, ông sanh ra Trần Dật, [Trần Dật] làm quan tới Thượng Thư. [Triều đình] phong tặng ông tước quan giống như vậy[179].

          “Chúng sanh” chỉ hết thảy dân chúng. Lòng người có ai mà chẳng mong an lạc. Nếu mong cầu nhà mình an lạc, mà nhẫn tâm khiến cho chúng sanh nhọc nhằn, phiền nhiễu; hoặc là nhà mình đã được an lạc, bèn chẳng cần biết chúng sanh đang bị nhọc nhằn, phiền nhiễu, sẽ đều là phường bất nhân quá mức!

          Đời Châu, Nhan Uyên bảo Định Công[180] rằng: – Đế Thuấn khéo cai trị dân, chẳng vắt kiệt sức dân. Do vậy, vua Thuấn chẳng khiến cho dân chúng làm loạn, Tạo Phụ[181] chẳng khiến cho ngựa rối loạn. Ôi! Chim đến đường cùng sẽ mổ, thú đến đường cùng sẽ vồ chụp [người đuổi bắt nó], người đến đường cùng sẽ dối trá, ngựa đến đường cùng sẽ chạy cuồng. Từ xưa đến nay, chưa hề có loài nào lâm vào đường cùng mà chẳng trở thành nguy hiểm vậy!

          Đời Hán, Vương Khôi muốn có công lao [bình định] ngoài biên ải, bèn dâng sớ, tâu xin: “Thoạt đầu hòa thân[182] với dân Hung Nô, có thể dùng lợi để dụ họ rồi phục binh tập kích, ắt sẽ phá tan chúng”. Đình thần (廷臣, các quan trong triều) đều nói [cách ấy] không thể được, nhưng Vương Khôi tận lực giữ nguyên ý kiến. Vua chấp thuận đề nghị ấy, sai hắn làm tướng dẫn ba mươi vạn quân, nấp trong hang núi, sai người dụ [Mạo Đốn] Thiền Vu vào trong ải, mong tập kích hắn. Sự bị tiết lộ, Thiền Vu rút lui, [quân Hán] chẳng đuổi kịp. Lính và ngựa của nhà Hán chết mấy vạn, tiền bạc, lương thực bị hao phí chẳng thể kể xiết. Dân chúng lẫn binh sĩ đều oán hận. Vua tức giận, hạ lệnh cho Đình Úy Vương Khôi tự sát. Từ đó, [những vị đại tướng] như Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh phải dấn mình ra biên cương đổ máu không ngớt. Vương Khôi dẫu chết, vẫn còn phải gánh trách nhiệm vậy.

          Đời Minh, quan Tham Chánh tỉnh Phước Kiến là Tống Chương quấy nhiễu, khiến cho dân gian nhọc nhằn, tước đoạt [tài sản của dân chúng] tính ra mấy vạn lạng vàng. Hắn biếu xén Vương Chấn[183], bèn được thăng làm Bố Chánh. Đến nhiệm sở, hắn tính toán lấy lại những phí tổn [do đã hối lộ để được thăng chức], bèn xét theo từng hộ mà đánh thuế. Dân nghèo bị nhiễu loạn kinh hoàng, khốn đốn oán than. Do vậy, Đặng Mậu Thất bèn tụ tập bè lũ làm cướp, oai thế chẳng thể ngăn trở được. Tống Chương bị bọn chúng cướp bóc, nhà hắn không còn một người nào sống sót!

 

          (Chánh văn) Phá nhân chi gia, thủ kỳ tài bảo, quyết thủy, phóng hỏa, dĩ hại dân cư.

          (正文)破人之家。取其財寶。決水放火。以害民居。

          (Chánh văn: Phá hoại nhà người khác, chiếm đoạt của cải. Phá hoại đê điều, đốt nhà làm hại dân cư).

          Do vô tâm mà tạo ra chuyện [khiến cho người khác] ngẫu nhiên bị phá hoại, thì [chính mình] đã bị tổn đức, huống hồ là vì tiền tài, của báu mà khiến cho người khác đến nỗi tan nhà nát cửa ư? Hoặc là công khai cậy vào thế lực, hoặc ngấm ngầm dùng mưu kế; nhưng kẻ công khai bạo ngược chẳng trốn khỏi phép nước, còn kẻ ngấm ngầm mưu toan có thể lọt lưới, tạo tội càng nặng. Nặng như thế nào? Đáp: Xét theo luật pháp trong nhân gian định tội chứa tang vật như thế nào mà tính nặng gấp năm lần. Sự ác khổ [do bị trừng phạt trong] cõi âm thê thảm hơn sự ác khổ trong dương gian. Vì thế, luật trong cõi âm nặng nề hơn luật trong dương gian.

          Tiết Hoằng Nhân ở Khai Phong tánh tham lam, âm hiểm. Nhà hàng xóm có một cái áo trân châu giá trị khôn xiết. Hắn bèn dùng nhiều âm mưu chiếm đoạt, nhưng chẳng được. Do vậy, đặt chuyện vu cáo, phá nát nhà ấy, chiếm được tấm áo ấy vào tay. Chẳng lâu sau, bọn cướp biết được, kéo bè lũ tới cướp đoạt. Hoằng Nhân khoác tấm áo ấy, trèo lên thang, chạy lên lầu. Bọn cướp tức giận, phóng hỏa thiêu đốt. Hắn bị chết cháy!

          Đời Nguyên, tại vùng Chiết Tây có một nhà có thế lực to lớn, hai anh em vì cha đã chết bèn tranh chấp. Mễ Tín Phu bèn xúi giục họ kiện nhau hòng phá nát nhà ấy để chiếm của. Hai anh em nhà ấy đều hối hận, uất ức mà chết. Tín Phu giàu có hai mươi năm. Trong niên hiệu Chí Nguyên[184], do dính líu đến vụ án phản loạn, họ Mễ bị bắt lên huyện, trông thấy quan huyện vẻ mặt nghiễm nhiên giống như người em [của kẻ bị hại], trong lòng kinh hoàng, sợ hãi. Viên quan ấy ép buộc hắn phải cung khai, thừa nhận tội. Hắn phải tiêu sạch tài sản mới thoát tội. [Do vậy, hắn] phẫn nộ kiện quan huyện lên phủ; thấy [mặt] viên quan phủ chính là [gương mặt người] anh của [kẻ đã bị hắn hại thuở trước]. [Quan phủ] dùng khổ hình tàn khốc bức ép hắn nhận tội, cả nhà tám mạng đều chết trong ngục. Ôi! Mưu toan xúi giục hết sức kín đáo, cớ sao bị báo ứng thê thảm dường ấy? Há chẳng phải là trong vòng huynh đệ, đã vận dụng mưu xảo xấu ác năm phần, sẽ đáng phải thẳng thừng chuốc lấy [quả báo] ác mười phần hay sao?

          Lửa đốt, nước trôi, bất hạnh ngẫu nhiên gặp phải, [đã là] khổ sở khó bề chịu đựng, cớ sao nhẫn tâm phá hủy đê điều, phóng hỏa làm hại? Dân cư đã bị hủy hoại, của cải tích cóp cũng chẳng còn. Mạng người, mạng vật phần nhiều chẳng thể giữ được, gây hại to lớn, tội ác sâu xa, trời đất khó dung tội ấy được!

          Đời Nguyên, Trường Xuân Chân Nhân Khưu Xứ Cơ nói: – Sửa cầu, đắp đường, cứu người chết đuối, cứu người bị hỏa hạn, đều là những chuyện đại phương tiện. Kẻ phú quý thực hiện, sẽ là đức rộng, báo ứng trọng hậu. Kẻ học đạo thực hiện, sẽ là công hạnh toàn vẹn, viên mãn. Nếu kẻ kém sức mà thực hiện, sẽ càng là chuyện khó có. Chuyện khó mà có thể làm, công đức gấp mười!

          Ngô Phong Sơn ở Ngô Hưng. Ngẫu nhiên, lửa bùng lên, cháy lan ra đốt sạch mấy chục nhà, ông Ngô bỏ tiền tìm người dập lửa. Lại còn dập đầu, tuôn lệ, đau xót cầu khẩn trời cao. Bỗng gió đổi hướng, lửa tắt. Ban đêm, ông mộng thấy thần bảo: “Ông từng bỏ ra một món tiền lớn để cứu người chết đuối, nay lại chân tâm cứu hỏa, được cõi trời báo ứng. Thượng Đế ban cho ông hai đứa con quý hiển, tăng thọ mười hai năm”. Phàm cứu tai nạn nước lửa cho kẻ khác, đạt được báo ứng như thế đó. Nhưng đây vẫn là chuyện nhỏ, làm người bề trên của dân, thật sự có thể tu sửa đê điều sẵn sàng, chú trọng thủy lợi, khiến cho muôn dân chẳng đến nỗi bị khốn khó vì thiên tai, chuẩn bị dự phòng đại hạn (hạn hán lớn), có nề nếp đề phòng [hỏa tai] rõ ràng khi nóng bức, khiến cho muôn dân chẳng đến nỗi rơi vào tay Chúc Dung,[185] công đức ấy càng rộng, cảm ứng ắt sẽ nhanh chóng hơn trường hợp đang nói ở đây!

          Lương Vũ Đế nghe theo kế của Vương Túc, đắp đê ngăn nước sông Hoài để làm ngập thành Thọ Dương. Vua lấy dân binh từ Từ Châu và Dương Châu hai mươi vạn người [để đắp đê]. Nhằm tháng mùa Hạ, người mắc bệnh dịch chết nằm chồng lên nhau. Đến Thu, nước sông Hoài dâng cao, phá vỡ đê ngăn, tiếng vang như sấm rền, vang vọng ba trăm dặm. Các thành thị, làng xã, thôn xóm dọc theo sông Hoài hơn mười vạn gia đình đều bị cuốn trôi ra biển. Về sau, Vương Túc mắc tội, cả họ bị tru diệt.

          Một người họ Nguyễn ở Giang Đô có hiềm khích với người họ Cát, ban đêm bèn đốt nhà người ấy. Lửa cháy lan sang nhà dân tới mười mấy nhà. Bỗng một hôm, nhà họ Nguyễn vô cớ bị lửa đốt trụi, vợ hắn bị chết cháy, gã họ Nguyễn chạy thoát, bỗng lửa ở đâu bay tới dính vào thân hắn. Trong khoảnh khắc, hắn bị thiêu phồng lên mà chết.

          Ông Vu Thiết Tiều nói: – Đào ao, khơi giòng, khiến cho thế nước chảy xiết, mạnh bạo, lầm lạc phá thủng đê ngăn sông, thắp lửa bắn pháo hoa, pháo theo gió rơi xuống đến nỗi đốt cháy nhà cửa. Dẫu vô tâm phạm lỗi, vẫn mắc tội làm hại mọi người. Hãy nên cực lực răn dè!

          

          (Chánh văn) Vặn loạn quy mô, dĩ bại nhân công, tổn nhân khí vật, dĩ cùng nhân dụng.

          (正文)紊亂規模。以敗人功。損人器物。以窮人用。

          (Chánh văn: Làm loạn phép tắc khiến cho công sức của người khác bị thất bại. Phá hoại vật dụng của người khác khiến cho họ chẳng sử dụng được).

          “Quy mô” (規模) là như hết thảy các luật lệ, mạng lệnh thuộc về chánh sách giáo hóa. [Những thứ ấy] thật sự đều liên quan đến sự được mất, an nguy của thiên hạ. Phường tiểu nhân đố kỵ công lao của kẻ khác, mong cho người khác bị thất bại, hủy hoại, bèn gây rối loạn, chẳng biết: Khiến cho công sức của người khác bị thất bại, thật ra là khiến cho quốc sự bị bại hoại. Đã gây hại to lớn, há tội nhỏ nhặt ư? Còn như đối với chuyện của một thân, một nhà, mà gây rối loạn đến nỗi hư hoại, thì cũng là kẻ tổn thương thiên lý, chôn vùi lương tâm, tội chẳng khác gì!

          Trong chiến dịch Hoàn Sóc, Dương Nghiệp phụng mạng [đánh nước Liêu], làm phó tướng cho Phan Mỹ tấn công bọn thảo khấu [nước Liêu]. Đã đến nơi, do bọn giặc tấn công Hoàn Châu, Dương Nghiệp nói: “Thế giặc đang tinh nhuệ, chẳng thể đánh được. Hãy nên dẫn binh ra Đại Thạch Lộ, trước đó, truyền lệnh cho các tướng trấn giữ Vân Châu và Sóc Châu tiếp ứng từ Thạch Kiệt Cốc thì mới là muôn phần vẹn toàn”. Giám Quân Vương Sân chê trách Dương Nghiệp sợ chết. Bất đắc dĩ, Dương Nghiệp xin dẫn binh đi, bèn căn dặn Phan Mỹ [đóng quân] ở cửa cốc, chia thành hai cánh là bộ binh và quân bắn nỏ mạnh. Ước định khi [Dương Nghiệp] dụ địch đến nơi đây, sẽ đổ quân ra đánh xáp lá cà, ắt sẽ toàn thắng. Phan Mỹ bèn đóng quân ở cửa cốc. Vương Sân lại cho rằng giặc sẽ bỏ trốn, muốn đoạt công lao, bèn dẫn lính rời đi. Dương Nghiệp dụ quân giặc đến chỗ phục binh, [phát hiện phục binh đã bỏ đi mất], vỗ ngực khóc to, rồi lại liều mình quyết chiến, tự tay đâm mấy trăm người rồi mới chết. Nếu chẳng bị Vương Sân gây trở ngại, công đã thành rồi. Triều đình nghe tin, hạch tội Vương Sân gây rối luật lệ trong quân. Vương Sân tự sát, bị lính của Dương Nghiệp xẻo thịt ăn, trong khoảnh khắc hết sạch.

          Tống Nghệ Tổ (Tống Thái Tổ) kiến tạo thành đô Biện Kinh có chỗ quanh co, khuất khúc, chỗ thẳng, chỗ cong, nhằm để các nơi có thể chiếu ứng lẫn nhau, thật sự là có dụng ý sâu xa. Cho đến khi Thái Kinh chuyên chế nắm quyền, bèn tâu với vua, [kiến trúc kiểu ấy] chẳng phù hợp vẻ mỹ quan, [vua bèn chấp nhận] cho hắn phá bỏ, xây [thành mới] vuông vức. Trong niên hiệu Tĩnh Khang, Niêm Hãn và Oát Ly Bất[186] vung roi dưới thành, bảo: “Thành này dễ tấn công”. Họ sai đặt hỏa pháo bốn phía, thuận theo phương vị mà bắn. Do thành vuông vức, bắn một phát trúng liền, vách thành phía ấy liền chẳng đứng vững được. Người hiểu biết đều tiếc hận.

          “Khí vật” (器物, đồ vật) là như giấy bút của văn, hoặc đao, trượng của võ, cày cuốc để canh tác, búa, đục của thợ. Trong nhà thì là các vật dụng thường dùng. Trên đường thì là các vật dụng dùng trong di chuyển như dù, lọng. Xe thì có trục, có đòn, thuyền thì có sào chống, có mái chèo. Dẫu là vật dụng hết sức nhỏ, trong khi cần dùng, nó sẽ có mối quan hệ hết sức thiết yếu. Nếu tổn hại, khiến cho lúc cần dùng sẽ chẳng làm gì được, chẳng có gì hết sức đáng giận hơn! Kẻ làm như vậy có tâm thuật như thế nào?

          Hai người họ Từ và Trần ở Hoài Nam đều sống bằng nghề chở thuyền. Họ Trần chèo hơi mau hơn, kiếm tiền nhiều hơn. Họ Từ ganh ghét, thường ngấm ngầm phá hư vật dụng để họ Trần bị khốn đốn. Một tối, hắn ngầm phá gãy mái chèo của họ Trần. Tới lúc bình minh, sợ bị phát giác, hắn bèn nhổ thuyền ra đi. Tới giữa sông, họ Từ bỗng ngã xuống sông, kêu cứu. Họ Trần gấp rút muốn ra cứu, nhưng do mái chèo đã gãy, chẳng thể chèo thuyền ra đó được, đành đứng nhìn họ Từ chết!

         

          (Chánh văn) Kiến tha vinh quý, nguyện tha lưu biếm. Kiến tha phú hữu, nguyện tha phá tán.

          (正文)見他榮貴。願他流貶。見他富有。願他破散。

          (Chánh văn: Thấy người khác vinh hiển, sang cả, mong họ bị lưu đày, biếm trích. Thấy người khác giàu có, mong họ tàn mạt).

          Phàm những ai được vinh hiển, sang cả, đều chẳng phải là ngẫu nhiên, mà đều là do đời trước [người ấy] đã tích lũy thiện duyên, vun trồng cội đức từ trước, cũng như do tổ tông tích đức mới bèn có thể được như thế. Kẻ trông thấy [tình huống như thế], hãy nên khởi tâm mong mỏi, hâm mộ. Chẳng phải là hâm mộ sự vinh hiển, sang cả của họ, mà là thật ra là mong mỏi, hâm mộ sự tu tập từ trước của người ấy. Nếu mong cho người ấy bị lưu đày, biếm trích, tức là chẳng từ chỗ chân thật mà phản tỉnh, soi xét bản thân, mà là từ nơi hư huyễn, sanh lòng tàn độc, muốn cho người khác cũng phải xuống thấp như ta. Sao lại ngu si ôm lòng tiểu nhân, ghen ghét đến nỗi như thế? Thật ra, chẳng hề tổn hại người khác mảy may, chỉ là tự mình tạo ác nghiệp, khiến cho chính mình càng thêm nghèo túng, hèn kém đó thôi!

          Đời Đường, Liễu Tử Hậu (Liễu Tông Nguyên) và Lưu Mộng Đắc bị biếm trích, thật ra là do Vũ Nguyên Hành[187] thật sự chủ động [gây nên]. Nguyên Hành bị giặc giết chết, còn hai ông Lưu và Liễu không sao. Bạch Lạc Thiên (Bạch Cư Dị) bị biếm trích thật sự là do Vương Nhai vu cáo, hãm hại. Vương Nhai bị bọn hoạn quan giết chết, Lạc Thiên vẫn chẳng sao! Phàm là kẻ đang nắm quyền, giữ đại quyền sanh sát trong tay, coi những viên quan bị đuổi, bị đày như dế, kiến, nào có biết trong nháy mắt, thân và đầu của chính mình khó giữ, bọn “dế, kiến” kia ngược lại ngồi xem, cười cợt ta vậy! Huống hồ những kẻ bàng quan chỉ mong [người khác bị biếm trích, phá tán] suông, há có ích gì chăng?

          Đời Tống, Vương Bác Văn nắm quyền cai trị công bằng, khoan dung, từng nói: “Ta suốt đời phán quyết tội lưu đày, chưa hề chẳng ngầm chọn lựa nơi có khí hậu tốt”. Quan Thái Tể Đồ Dung mỗi lần tuyển chọn quan lại để phái tới nơi có sơn lam chướng khí đều ngừng bút rất lâu, bảo: “Ta đã từng đi qua nơi ấy, quan lại phần nhiều chết vì chướng khí, ắt phải chọn lựa người phù hợp phong thổ”. Do vậy, ông bèn tâu lên vua [xin hãy áp dụng] theo quy định ấy. Đấy chính là dụng tâm của bậc thật sự nhân từ. Kẻ mong cho người khác bị lưu đày, biếm trích, hãy nên suy nghĩ!

          Giàu có cũng là do bản thân gieo trồng đức, do tổ phụ tích lũy công đức mà nên. Nếu đố kỵ sự giàu có ấy, mong cho họ bị tàn mạt thì là cái tâm như thế nào? Dẫu là kẻ chí ngu, cũng chẳng nên không hiểu biết như thế. Xin hãy nghĩ lại, nếu ta giàu có, mà kẻ khác mong cho ta bị phá tán, lòng ta sẽ ra sao? Nếu lòng ta giận dữ, sẽ biết là lòng người khác cũng giận. Lòng người khác cũng giận thì lòng trời há chẳng giận ư? Đối với chuyện này, hãy nên quán ba điều:

          1) Một là người đó giàu có, ắt do đời trước lợi người, làm phước mà ra. Chuyện này đáng nên noi theo, chớ nên ganh tỵ.

          2) Hai là có thể là do người ấy đã khổ tâm, lao lực, chịu đựng đói rét, tích tụ dần dần mà thành dư giả. Tuy vẫn do cái nhân trước, nhưng thật sự chịu đựng các nỗi khổ. Chuyện này đáng thương, chớ nên ganh tỵ.

          3) Ba là do vô ý mà đạt được, làm giàu bất nhân, nhưng [của cải] tụ tán vô thường, nước, lửa, đạo tặc, oán gia, con cái bại hoại, bệnh tật, quan lại, thưa kiện, đều là những cái nhân gây nên tiêu hao. Trường hợp này sẽ tự phá tán, suy bại, chẳng cần phải ganh tỵ.

          Quán như vậy, cái tâm sẽ tự bình đẳng.

          Châu Nghĩa Phu ở Hồng Huyện, giàu có, chẳng tiết kiệm, tánh tình phóng túng, ngang ngược. Tôn Thức Chi đã từng răn nhắc, Nghĩa Phu tức giận, bảo: “Ngươi biết gì mà dám dính vào chuyện của ta?” Do vậy, Thức Chi đố kỵ. Lại nói: “Ta đành chờ xem hắn suy bại vậy”. Đến khi Thức Chi đỗ đạt, làm quan trông coi về vận chuyển tại lộ ấy (tỉnh ấy), lần lượt tuần tra tới Hồng Huyện. Đúng lúc ấy, có người tố cáo Nghĩa Phu đánh đập người khác ở chợ, [Thức Chi] bèn giao họ Châu cho quan Tư Thôi thẩm vấn. Chẳng ngờ người tố cáo chết bất ngờ, Thức Chi bèn viện cớ Nghĩa Phu phạm tội mưu sát để phán án tử hình. Chẳng được mấy năm, Thức Chi được chuyển đi làm tào quan[188] ở Hà Bắc, cả nhà bị bọn giặc giết chết, chẳng khác Nghĩa Phu. Than ôi! Nghĩa Phu do cậy tiền tài mà hoành hành bạo ngược, cố nhiên đáng bị suy bại; nhưng Thức Chi lại ôm lòng cừu hận mà phá nát nhà hắn. Vì thế, trời cũng báo đền bằng cách phá nhà ông ta! “Tạo phương tiện cho người khác là tạo phương tiện cho chính mình”, đúng là lời luận định chí lý thay!

 

          (Chánh văn) Kiến tha sắc mỹ, khởi tâm tư chi.

          (正文)見他色美。起心私之。

          (Chánh văn: Thấy vợ con người ta xinh đẹp, nẩy lòng dan díu).

          Nghiệp sắc đối với tâm tình của con người là dễ phạm nhất, so với những chuyện như tham lam, giết chóc v.v… còn khó chế ngự gấp trăm lần. Do vậy, vì chuyện này mà suy bại đạo đức, chuốc họa so với những chuyện khác cũng khốc liệt gấp trăm lần! Vì thế, đức Thái Thượng đối với những chuyện tham lam, giết chóc v.v… không chỉ là răn đi nhắc lại, nhưng riêng đối với điều đứng đầu muôn điều ác (dâm dật), Ngài chỉ nói một lời. Đấy chẳng phải là nói đại lược, mà là vì những điều ác như tham lam, giết chóc v.v… rõ ràng, nông cạn, có thể nói trọn hết được. Chứ sự ác do dâm thì ẩn kín, sâu xa, khó thể nói trọn! Vì thế, phải dùng lời lẽ diệt trừ từ ngay ý niệm, tức là từ ý niệm ban đầu, nhằm đánh thức kẻ si mê, bèn nói: “Kiến tha sắc mỹ, khởi tâm tư chi” (Thấy vẻ đẹp của vợ con người khác, bèn dấy lòng dan díu). Bởi lẽ, con người trong khi sắc đẹp đập vào mắt, tấm lòng vừa động, dấy lên ý niệm “nghĩ tưởng, hâm mộ, tham muốn, mong cầu” kết chặt trong lòng, chẳng thể tháo gỡ được! Những ý niệm như thế vừa chớm nẩy, chẳng đợi đến khi thân thật sự làm, mà đã thoát khỏi thiên lý, sa vào nhân dục (dục vọng của con người), âm ty đã xếp vào hồ sơ tội ác vô cùng! Do vậy, đức Thái Thượng vô lượng từ bi, chẳng cần phải rườm lời, chỉ dùng một lời để cảnh tỉnh từ ngay chỗ ấy, nhằm dạy con người: “Khi trông thấy sắc đẹp, dấy lòng, chẳng thể không từ chỗ bắt nguồn mà sớm tự kiềm chế, dứt tuyệt”. Ngay trong khi dấy niệm, hãy ngay lập tức phấn chấn, dũng mãnh, một đao chém phăng, chẳng dễ duôi tí nào, chớ dung một mảy tình niệm. Thiên đường và địa ngục, ngay lập tức phân định rành rành. Nếu trong lúc ấy, hơi nhận biết [tâm niệm] chẳng thật, nhưng chưa nhận biết thấu suốt, chẳng thể chém đinh chặt sắt, kiên quyết đặt vững bước chân, thì ngay trong phút chốc, nó sẽ dẫn khởi tràn lan, bất tri, bất giác, bị trôi giạt vào nước quỷ La Sát mất rồi, tuy nhỏ nhiệm mà nguy hiểm lắm thay! Ý của đức Thái Thượng tinh ròng, tha thiết, sâu xa tột bậc, khổ tâm vô lượng vậy!

          Bảo Thiện Đường nói: – Tâm ấy (dâm tâm) vừa dấy, ắt sẽ ít liêm khiết, ít hổ thẹn, bại hoại nhân luân, tổn thương phong hóa. Chuyện tổn hại âm đức to lớn, không gì chẳng bắt nguồn từ cái tâm này. Tâm ấy vừa chuyển, ắt có thể bảo toàn danh tiết, gieo đức, tạo phước. Chuyện có thể khiến cho trời, người cảm động, không gì chẳng là do chuyển biến cái tâm này. Cái ải để phán định là người hay thú, hoàn toàn ở chỗ này, há dám chẳng khẩn thiết, dũng mãnh tỉnh ngộ ư?

          Bốn chữ “kiến sắc khởi tâm” (thấy sắc dấy lòng) chính là cái gốc khiến cho người đời mắc bệnh trong cả một đời vậy. Nay muốn đoạn trừ cội gốc ấy, hãy nên dốc sức nơi chữ Kiến. Phi lễ vật kiến (Điều trái lễ chớ nhìn), thấy mà như không thấy thì là [công phu] bậc thượng. Bản tâm khó mê muội, lễ pháp khó vượt qua, nghiêm cấm, gắng sức chế ngự thì là bậc kém hơn. Nếu chẳng vậy, thoạt đầu thì là dấy lên trong tâm, rốt cuộc sẽ loạn nơi sự. Một niệm sai lầm, muôn kiếp chẳng chuộc được, buồn thay!

          Kinh Tứ Thập Nhị Chương dạy: “Xem người già như mẹ, xem người lớn hơn như chị, xem người nhỏ hơn như em gái. Xem đứa bé bỏng như con gái [của chính mình]”. Đấy chính là pháp tối thượng để dưỡng tâm.

          Sắc đẹp ai nấy đều yêu thích, nhưng chẳng thể dối gạt hoàng thiên! Ta hành dâm với vợ kẻ khác, kẻ khác sẽ hành dâm với vợ ta. Người xưa đã để lại lời răn ấy. Dương Ấu Thanh viết bài tụng rằng: “Thấy sắc đẹp của kẻ khác, vừa mới dấy niệm toan dan díu, tức là đã khiến cho kẻ khác dấy lên ý tưởng muốn dụ dỗ vợ con ta. Thay đổi vị trí để nhìn, tà tâm sẽ lập tức dứt bặt”.

          Ngữ lục của cổ đức đã chép: – Vừa mới gặp sắc đẹp, tâm rung động, hãy gấp nghĩ: Vị thần trông coi tội lỗi ở ngay bên cạnh ta. Tam Thai, Bắc Đẩu ở ngay trên đầu ta. Tam Thi trong thân, Táo Quân ở trong nhà. Ba thứ ánh sáng của mặt trời, mặt trăng [và tinh tú chiếu soi], thiên chân vạn thánh (ngàn vạn vị tiên thánh) ở trên hư không, có người ghi chép, có người trông thấy mà tức giận, có người giám sát dầy đặc muốn gom góp [tội lỗi của ta] để công bố, như thế thì sẽ hoảng sợ, run rẩy, tự nhiên tấm lòng nguội lạnh, ý niệm [tham dục] diệt mất.

          Đời Minh có một người mắc chứng háo sắc, hỏi tiên sinh Vương Long Khê[189]. Tiên sinh bảo: “Có chỗ rủ màn treo trướng nơi đây, có người bảo ông trong ấy có một ả kỷ nữ nổi danh. Tới lúc ông vạch màn ra, ả gái làng chơi ấy chính là em gái hay con gái của ông, ngay trong lúc ấy, tấm lòng dâm của ông có ngay lập tức dứt bặt hay không?” Thưa: “Dứt liền”. Tiên sinh bảo: “Vậy thì dâm vốn là không, ông nhận lầm nó là thật”.

          Trong mười đoạn Tiêu Song[190] của Văn Đế, đoạn đầu tiên là giới dâm hạnh: “Chưa thấy, chớ nên nghĩ. Trong khi thấy, chớ nên loạn. Đã thấy, chớ nên nhớ”. “Chưa thấy đừng nghĩ” chính là công phu tồn tâm dưỡng tánh lúc tĩnh (lúc chưa có ngoại duyên dẫn dụ). Thường ngày, hễ rảnh rang ở một mình, ắt phải thâu thập sao cho mỗi ý niệm đều sạch làu, thời thời cảnh giác, khắc khắc nhắc nhở. Thiên lý đã hiện diện, ắt lòng ham muốn của con người sẽ tự dứt. Phàm những ý tưởng dâm uế, tà vạy, đều chẳng để lọt vào tấm lòng quang minh chánh đại. Đấy là học vấn chú trọng lòng kính của bậc quân tử. Tâm ta đã định, tự nhiên lúc sắc đẹp lộng lẫy ở trước mặt, mặc cho kẻ đó dẫn dụ đủ mọi cách, ta trọn chẳng bị nó lay động mảy may thì là định lực thuộc bậc nào? Cảnh giới ấy đều là do thường nhật đã tu luyện phẩm đức nghiêm ngặt, thiết thực, do chánh tâm thành ý mà ra. Đấy chính là đối với chuyện gạn lọc, lắng trong cội nguồn, Đế Quân đã dạy phải kiêng trừ những chuyện thuộc về dục vọng của con người. Trước hết, Ngài dạy ngăn ngừa từ cái tâm. Muốn gìn giữ [dâm giới] ngay trong [khi những ngoại duyên dẫn dụ] hiện tiền, trước hết, phải tu luyện trong lúc thường ngày. Còn như “trong khi trông thấy mà chẳng loạn, đã thấy bèn chớ nghĩ nhớ”, chính là như đức Thái Thượng đã răn mọi người “chớ nên dấy lòng tư tình”. Đấy chính là công phu phản tỉnh, soi xét bản thân trong khi [tâm niệm] dấy động vậy. Vì thế, nếu phân tích chi tiết hơn, ba câu nói của Đế Quân, mỗi câu là một cảnh giới. “Nghĩ” là nghĩ tới tương lai. “Loạn” là loạn trong hiện tại. “Nhớ” là nhớ về quá khứ. Người hiện thời dâm ác ngập trời, không ai chẳng phải là do từ trong ba cảnh ấy mà hình thành, xuất hiện. Có thể thật sự trừ hết ba cảnh ấy, dâm hạnh há có chỗ nào để đặt chân nữa ư?

          Dâm đứng đầu muôn điều ác, [chuyện này] được nêu rõ trên bảng sắt trước điện Sâm La. Bởi lẽ, hễ tâm dâm vừa sanh, các điều ác lũ lượt tụ tập. Tà duyên chưa tụ hợp, đã sanh tâm huyễn vọng. Nếu chẳng có cách nào chèo kéo, dẫn dụ người khác, sẽ sanh lòng xảo trá. [Nếu có] đôi chút trở ngại, sẽ sanh lòng sân hận. Do dục tình điên đảo, bèn sanh lòng tham đắm. Do hâm mộ những thứ người khác đang có, bèn sanh tâm đố kỵ, tàn độc, tước đoạt thứ yêu mến của người khác, sanh tâm giết hại, chôn vùi hết sạch liêm sỉ, luân lý đều thiếu sót, các thứ ác nghiệp sanh ra từ đấy, các thứ thiện niệm do đấy mà tiêu mất. Hễ dấy động dâm tâm, tuy chẳng thật sự thực hiện, mà đã tích ác, tạo tội như thế đó, huống hồ là thực hiện [dâm sự] hiển nhiên ư?

          Pháp luật cõi âm có nói: – Gian dâm vợ người khác, sẽ bị quả báo tuyệt tự. Gian dâm với gái chưa chồng, sẽ bị quả báo con cái dâm dật!

          Ngạn ngữ có câu: “Khuyến quân mạc tá phong lưu trái, tá đắc khoái lai, hoàn đắc khoái, gia trung tự hữu đại hoàn nhân, nhĩ yếu lại thời, tha bất lại” (Khuyên đừng gây nợ phong lưu, mượn đã mau rồi, trả chóng hơn. Người nhà rồi sẽ đền nợ thế, dẫu ngươi muốn quỵt, chẳng tha đâu!)

          Sát nhân thì giết một thân, gian dâm với kẻ khác thì giết cả ba đời [kẻ bị gian dâm]! Bởi lẽ, [hành vi gian dâm ấy] không chỉ là phá hoại danh tiết của người ấy, mà còn khiến cho bố mẹ chồng, chồng người ấy và con cái của họ mất hết mặt mũi, đau đớn thấu tâm can. Thậm chí có người vì xấu hổ mà đến nỗi chết, hoặc là chồng giết vợ, hoặc là bố thắt cổ con gái, con không nhận mẹ, [khi gặp mặt] thân thích khó giữ thái độ đối xử lịch sự, những nhà đàng hoàng chẳng dám kết thông gia với nhà ấy. Vì niềm vui vụng trộm trong chốc lát bèn tạo tội ác ngập trời, quả báo tuyệt tự vẫn chưa đủ xứng với cái tội ấy!

          Có vợ chồng rồi mới có cha con, anh em. Gian dâm người khác, không chỉ là rối loạn giềng mối vợ chồng, mà còn rối loạn cả cha con, anh em người ta! Ngũ luân đã bị mất ba. Thậm chí khiến cho tổ tông của kẻ ấy [vì bị người khác khinh thường con cháu] là “hạng người không ra gì” mà phải nếm trải nỗi đau khổ không người cúng tế. [Kẻ gian dâm] sẽ bị quỷ thần tru lục, há có thể trốn tránh được ư? Sát nhân thì sẽ tiêu diệt hậu thiên, nhưng kẻ gian dâm người khác sẽ rối loạn tiên thiên của người ấy. Huống hồ, sát nhân là vì hận [thù người ấy] mà làm, còn kẻ gian dâm người khác, có hận thù gì với chồng, bố mẹ chồng, bố mẹ ruột của người ta? Lại còn hận thù gì với cô gái đẹp ấy mà cứ muốn ô uế thân thể, chôn vùi tiết hạnh của cô ta?

          Dâm niệm nhiều, ắt thiện niệm ít. Dâm niệm ít, ắt thiện niệm tự nhiều. Do vậy, dâm niệm hoàn toàn tiêu mất thì trong năm phước sẽ đạt được ba phước là thọ, khang ninh (mạnh khỏe, yên vui) và khảo chung mạng (chết yên lành). Kẻ thường dấy lên dâm niệm, ắt sẽ bị khốn đốn vì bệnh tật, mắc các tai ương hung tàn, đoản mạng, trắc trở.

          Dục niệm trong chốc lát dễ tiêu mất. Công danh và tánh mạng cả một đời rất trọng, tội gì đem danh dự, tiết tháo cả trăm năm, tiền trình suốt một đời, [âm đức] tích lũy của tổ tông, phước lộc của con cháu phí sạch vào nỗi mê hoặc ngắn ngủi? Đúng là chẳng biết [kẻ như thế ấy] có bụng dạ như thế nào? Cũng có kẻ vì kinh hãi trốn thoát khỏi [sự lùng bắt của gia đình người bị gian dâm] mà thành bệnh, dẫu uống thuốc cũng khó lành, gây liên lụy khiến cho gia đình của chính mình suy bại, cắn rốn chẳng kịp[191]. Thậm chí gian tình bại lộ, đem tánh mạng đổi lấy một khắc hoan lạc! Báo ứng oan nghiệt tuần hoàn, dùng vợ và con gái để trả cái nợ phong lưu, thê thảm càng khó nói nổi, hãy mau cảnh giác!

          Ngạn ngữ có câu: “Gian dâm gần giống như là giết chóc”. Đúng lắm thay, nhưng nói “gần giống như giết chóc” thì vẫn là lời lẽ nhẹ nhàng. Tôi cho rằng: Hễ gian dâm thì chưa hề chẳng có chuyện giết chóc! [Bởi lẽ], chồng người ấy hay biết, giận dữ vung đao giết chết [gian phu, dâm phụ]. [Nếu như là hai hay nhiều gã đàn ông] cùng gian dâm [với một nữ nhân], sẽ do ghen tuông mà đâm chém nhau, trở thành giết chóc. Do gian dâm mà dẫn đến chết chóc, sẽ bị phép vua giết chết. Nếu may mắn lọt lưới, sẽ bị oán quỷ giết hại. Có mấy kẻ tránh khỏi, sẽ mắc bệnh hư nhược, lao sái trầm kha, Biển Thước[192] khó thể trị lành, tức là bị thần Tư Mạng giết. Con người rốt cuộc tự đặt tấm thân “tối linh, tối quý, có thể làm rất nhiều chuyện hữu ích lớn lao” vào chỗ “ắt bị giết chết” thì ngu lắm thay, đau đớn lắm thay!

          Sách Nhật Càn Sơ Điệp có nói: – Xưa có bậc hiền nhân, trong khi dâm niệm bộc phát, bèn đút tay vào lửa, đau đớn chẳng chịu nổi, dâm niệm liền dứt. Nếu chẳng dứt, ắt lắng lòng tĩnh tọa, coi như tấm thân đã chết. Lại nghĩ đến mộ phần của cổ nhân, tự nhủ: “Người ấy đã sống trên đời như ta; mai sau, ta sẽ giống như người ấy, dâm lạc để làm gì cơ chứ?”

          Ngăn ngừa ý niệm dâm hoàn toàn cậy vào huệ lực. Đời Đường, Địch Lương Công (Địch Nhân Kiệt) đã từng nói: “Người đối diện với sắc đẹp, hãy mau nghĩ người phụ nữ ấy mai sau mắc bệnh chết đi, thi thể rữa nát, giòi trùng xúm lại đục khoét, hôi thối nồng nặc, rất đáng kinh sợ, tà niệm liền tan ngay!”

          Trong bài Bì Nang Ca (皮囊歌, bài ca về cái đãy da) của Đạt Ma Tổ Sư đời Lương có đoạn: “Niệu thỉ cừ, nùng huyết tụ, toán lai hữu thậm phong lưu thú” (Mương phân tiểu, đống máu mủ, tính ra có gì là thú phong lưu).

          Đời Đường, Lữ Tổ nói: “Đừng khoe còn trẻ để thừa dịp phong lưu, [làm như thế] chính là ép mình đi vào con đường luân hồi buôn bán xương khô. Không tin thì hãy đối trước gương sáng mà xem, dưới lớp da mặt là đầu lâu”. Lại nói: “Giai nhân mười sáu như bơ, eo giắt kiếm sắc chặt đầu gã ngu. Dẫu không thấy kẻ rụng đầu, ngấm ngầm giục giã người thành xương khô”.

          Trong Giới Dâm Pháp có đoạn viết: – Nó (dâm dục) là sự vật dẫn dụ ta giết mình, phá nhà, tổn thọ, giảm phước, thật sự làm hại tánh mạng của ta. Đáng nên coi nó như lưỡi đao bén giết người, xem như hổ, sói, xem như rắn độc, xem như quỷ sứ bắt hồn, xem như oán đối từ đời trước. Nếu có thể quán như vậy, sẽ như dùng nước chữa lửa, dâm niệm chẳng hề không dứt vậy!

          Đời Minh, ông Cao Tông Hiến nói: – Thân này như bạch ngọc, hễ sảy chân liền vỡ nát. Chuyện này (dâm dục) như chất độc của chim Trấm, vừa lọt vào miệng bèn chết ngay.

          Người thời nay thường bị lầm lẫn bởi một chữ Tình, chẳng biết chữ Tình chính là tác dụng do trời ban cho ta để thực hiện trung, hiếu, hòa thuận với anh em, nhân từ với dân chúng, yêu thương muôn vật. Sử dụng chánh đáng thì sẽ là thánh hiền. Sử dụng tà vạy, sẽ là cầm thú, há chẳng sợ ư?

          Sách Đạo gia nói: “Tội gian dâm với kẻ khác nặng gấp mấy lần tội sát nhân!” Lại nói: “Phàm là người khổ hạnh tu hành, các tội đều có thể tiêu trừ, chỉ có tội từng phá tấm thân trong trắng của kẻ khác, dẫu mai sau đạo cao, hạnh mãn, vẫn chẳng thể tiêu trừ, ắt phải hứng chịu ác báo thì mới có thể thành tiên được”.

          Đức Phật dạy: “Người sống trong thế gian, chẳng xâm phạm phụ nữ của kẻ khác, tâm chẳng nghĩ tà vạy; do vậy, sẽ được năm điều thiện. Một là chẳng bị tổn thất tiền tài, hai là chẳng sợ bị quan huyện [bức bách], ba là chẳng sợ hãi kẻ khác, bốn là được sanh lên trời, ngọc nữ trên cõi trời làm vợ, năm là từ trên trời giáng hạ, sanh vào nhân gian, phần nhiều là phụ nữ đoan chánh”. Nay thấy có bao nhiêu người đoan chánh, xinh đẹp, đều là do trong đời quá khứ chẳng xâm phạm phụ nữ của người khác mà ra. “Người sống trong thế gian mà dâm dật, xâm phạm phụ nữ của người khác. Do vậy, sẽ mắc năm điều ác. Một là gia đình bất hòa, nhiều lần mất mát tiền bạc. Hai là sợ hãi quan huyện, thường bị đánh đập. Ba là tự dối mình, bản thân thường sợ sệt kẻ khác. Bốn là vào trong địa ngục Thái Sơn, cột sắt đang đỏ rực, thân luôn ôm lấy! Do xâm phạm phụ nữ của người khác, mà mắc họa ương như thế mấy ngàn vạn năm, hình phạt mới xong. Năm là từ địa ngục thoát ra, làm gà, le, chim, vịt, dâm dật chẳng nề hà mẹ con, mà cũng chẳng có chừng mực”. Ngựa có lễ, nhạn trinh lương, chúng đều giữ chữ tín, có chừng mực, còn riêng gà, le le dâm dật chẳng biết chừng hạn, đều là vì đời trước dâm dật, xâm phạm phụ nữ của người khác, hứng chịu thân gà, le le, thường bị kẻ khác ăn nuốt. Khổ sở như thế, chẳng thể kể trọn!

          Đức Phật nói năm giới, [có] một giới là “chẳng tà dâm” sẽ cảm quả báo đời này và đời sau, cha mẹ,  quyến thuộc sống lâu,  mạnh khỏe,

hòa thuận, vui vẻ, vợ con trinh lương.

          Kinh Báo Ứng[193] chép: – Một con quỷ hỏi: “Tôi thọ thân này, tánh hay sợ hãi, thường sợ bị kẻ khác bắt nhốt, trói buộc, còn bị hành hạ khổ sở, tàn độc, chưa hề có tâm vui sướng, do tội gì mà nên nỗi?” [Ngài Mục Liên] đáp rằng “Khi ngươi làm người, thích hành tà dâm, xâm phạm phụ nữ của người khác, luôn lo nghĩ bị phát giác, tâm chẳng tự an. Nay hứng chịu hoa báo, quả báo là trong địa ngục, hoặc là nằm trên giường sắt, hoặc ôm cột đồng. Tội lỗi như thế, chẳng thể tính kể!”

          Sách Văn Xương Đế Quân Thiên Giới Lục chép: – Gian dâm vợ con người ta, điếm nhục khuê môn[194], sẽ chịu khổ năm trăm kiếp trong địa ngục mới được thoát sanh, làm la, làm ngựa năm trăm kiếp nữa, mới lại làm thân người. [Làm người] thì làm nghề xướng ca, đào kép. Gian dâm gái góa, tăng, ni, bại hoại tiết tháo của người ta, sẽ chịu khổ tám trăm kiếp trong địa ngục mới được thoát sanh, [lại làm] dê, làm lợn để cho người ta giết mổ tám trăm kiếp nữa mới lại được làm người. [Khi làm người] thì bị mù, bị câm, là kẻ tàn phế, ngũ quan, tứ chi chẳng được trọn vẹn, tàn phế! Dùng thân phận ty tiện để dâm loạn bậc tôn quý, dùng thân phận người lớn để dâm loạn trẻ nhỏ, bại hoại cương thường, sẽ chịu khổ một ngàn năm trăm kiếp trong địa ngục mới được thoát sanh, làm rắn, làm chuột một ngàn năm trăm kiếp nữa, mới được làm thân người, nhưng hoặc là chết khi còn trong thai mẹ, hay là chết trong khi còn ẵm ngửa, rốt cuộc chẳng thể trưởng thành. Tội báo do phạm dâm đáng buồn thay!

          Sách Khuê Châm chép: – Đàn bà mà phạm phải nỗi oan nghiệt dâm dật, suốt đời chẳng thể gột rửa. Dẫu [người ấy có] con hiếu, cháu hiền, chẳng thể gột sạch [danh tiếng nhơ nhuốc được]. Vì thế, bậc thục nữ khuê các giữ thân như ngọc, chẳng để có nửa điểm tỳ vết nào. Nếu gặp kẻ khinh cuồng, cẩu thả, hãy lập tức gieo thoi, quyết liệt cự tuyệt[195], tự nhiên hắn sẽ chẳng dám tái phạm. Đấy là chánh khí trong chốn buồng thơm, sẽ được quỷ thần che chở. Nếu đàn bà dâm loạn, há chẳng có ác báo ư? Luật lệ cõi âm trị tội bằng cách bắt họ đầu thai làm chó, làm lợn, chứ chẳng phải là chỉ bị cõi đời thóa mạ mà thôi! Hãy nên răn dè!

          Phàm con người dễ sảy chân nhất chỉ là khi đối diện với sắc đẹp lộng lẫy. Bỗng dưng, trong khoảnh khắc, sẽ khó thể chế ngự, khi ấy, sẽ có ba loại ma:

          1) Mắt nhìn vào mặt [người xinh đẹp ấy], tư thái yêu kiều của người ấy đã xoáy vào tâm, xương nóng, tâm thần lơ mơ, như [bị bao phủ trong] khói mịt mù, lửa cháy hừng hực. Đó gọi là hỏa ma.

          2) Dục căn chớm nẩy, mạch Nhâm Đốc ngầm mở, như đê sắp vỡ, như sông chảy xiết sắp xoáy thủng đê. Đó gọi là thủy ma.

          3) Thủy hỏa cùng nung nấu, thân thể và thần hồn xung động lẫn nhau, như bánh xe [xoay] không ngừng, như chiếc vòng không có chỗ khởi đầu. Đó gọi là phong ma.

          Ba thứ ma ấy là ba cửa ải. Để chém ba thứ ma, vượt ba cửa ải, không có chi khác, có một thanh gươm trí huệ, [thanh huệ kiếm ấy] chính là Nhẫn mà thôi, là kiên nhẫn mà thôi, là rất nhẫn nại mà thôi! Khi đói, đừng ăn món ăn của cọp, khi khát đừng uống rượu ngâm lông chim Trấm; đó là nói đến Nhẫn vậy. Khi hai người đấu với nhau, đều muốn đoạt đao [của đối phương], dẫu đổ máu vẫn không chịu buông tay. Quân chiến bại đoạt đường [tẩu thoát], dẫu trúng tên chẳng quay lại. Đó là nói đến sự kiên nhẫn vậy. Bị rắn độc mổ vào tay, tráng sĩ chặt cổ tay. Thân trúng phải tên độc, anh hùng khoét xương. Đó là nói về chuyện rất nhẫn! [Giữ được như thế], thì ngay trong lúc quan yếu ấy, giữ được Định, nhẫn được, ắt sẽ cảm trời đất, động quỷ thần, công hạnh viên mãn.

          Nếu có một niệm vấn vương, sẽ đến nỗi chẳng thể giữ vững Định. Những kẻ liễu ngõ, hoa tường, phấn trắng, mày đen, chớp mắt đã chẳng còn gì, nhưng [kẻ đắm đuối chúng] sẽ do vậy mà bị giảm thọ, do vậy mà bị giảm lộc. Thậm chí có thể vì vậy mà táng thân, lại còn mạng đáng lẽ phú quý mà trở thành nghèo hèn, số vận đáng lẽ bình an mà thành họa hại biến chuyển, số phận lẽ ra có con mà thành tuyệt tự, mong mỏi con quý, cháu hiền, lại toàn nẩy nòi hạ lưu! Lại còn mắc quả báo trong địa ngục, quả báo trong đời sau, quả báo trong đường súc sanh, bị báo ứng vợ con dâm dật, báo ứng con cháu khốn cùng, quả báo là ca kỹ, đào kép hạ tiện. Một niệm thoáng đâm quàng đường rẽ, [sẽ thành] độc hại vô biên. Than ôi! Dám chẳng nhẫn ư?

          Để ngăn dứt tà dâm, trước hết, phải do cha, anh, thầy, bạn thường ngày đổ công giáo huấn, chỉ bày, khiến cho [ý niệm kiên quyết chẳng tà dâm] được tiêm nhiễm dần dần, khiến cho [con em, học trò] tin tưởng sâu xa: “Trong phòng tối mà có tâm sai trái, mắt thần minh [sáng ngời] như chớp”. Trong tâm [luôn ấp ủ] lễ pháp, nhân quả, họa phước báo ứng, chẳng nghi ngờ mảy may, tự nhiên là khi tiếp xúc [những cảnh ngộ quyến rũ], sẽ dũng mãnh phản tỉnh, ngay lập tức hồi quang, chẳng cẩu thả ngay trong lúc ấy.

          Trong trường trăng gió, lắm kẻ sảy chân, nửa đời luân lạc, đọa đày, nhìn lại bóng mình mà thẹn thùng, kinh hoảng. [Ai mà chẳng] mong giữ lẽ chánh, chẳng tiêm nhiễm [thói trăng hoa tà vạy], [thế mà] mấy ai có thể làm được? Suốt ngày răn [đừng ôm giữ] lòng dâm, nhưng kẻ ấy dâm tâm lừng lẫy. Gặp người khác bèn nói “hãy ít ham muốn”, nhưng [chính mình] chủng tử dục vọng càng nẩy nở. Phóng túng tình dục chẳng biết quay đầu, sẽ rước lấy tội lỗi không ai hơn! Nếu thật sự có thể là thoạt đầu mê muội, rốt cuộc giác ngộ, họa ương sẽ mất đi, phước sẽ theo đến. Đời Tống, tiên sinh Tạ Thượng Thái đã nói: “Đạo trời giáng họa cho những kẻ dâm đãng, nhưng chẳng phạt người biết hối hận tội lỗi”. Lời ấy đúng lắm thay!

          Ác báo do dâm đã nặng, vậy thì báo ứng do công phu ngăn ngừa dâm và báo ứng của tội hướng dẫn dâm, đương nhiên là chẳng nhẹ! Nguyện cho khắp mỗi người đều thốt lời [thanh tịnh như] sen xanh, cất ngọn bút soạn ra những áng văn diễm lệ, nhằm bộc lộ rõ ràng sự cảm ứng, hòng cứu bạt những kẻ đang mê muội nơi dâm. Xoay vần lưu thông, khuyến hóa lẫn nhau. Hoặc tuyên dương rộng rãi những lời chánh đáng, hoặc rát miệng [khuyên nhủ] nơi phòng kín, chẳng sợ bị chê là cổ hủ, cứ mềm mỏng khuyên dạy, ắt sẽ có thể khiến cho người ta nghe lọt tai, tỉnh ngộ sâu xa, đạt được lợi ích vô cùng. Dùng đó để đẩy lùi cơn sóng cuồng loạn làm hại tâm tánh của bọn mày ngài, là thuốc hay để quay đầu nơi trận địa giăng màn gấm, [như vậy thì] há chẳng phải là bậc quân tử lấy sự yêu thương người khác làm phẩm đức, tự cầu nhiều phước ư?

          Khẩu nghiệp của người hiện thời không gì quá đáng hơn là thích bàn luận chuyện [riêng tư] trong buồng the của người khác, thuật chuyện dâm dật, bỉ ổi, lắm cách phỏng đoán, thăm dò. Một kẻ xướng, trăm người họa! Thường là vì kẻ nói hứng thú dạt dào mà đến nỗi kẻ nghe hí hởn. Gian ác, ngấm ngầm dan díu, thật sự liên quan đến danh tiết cả đời. Một lời ngẫu nhiên lỡ miệng, ương lụy vô cùng! Trên là khiến cho trời giận, không gì hơn chuyện này! Sao bằng thường nói đến quả báo của trinh và dâm, nâng đỡ danh giáo[196] cương thường, sẽ càng hưởng phước trời nhiều hơn!

          Thiên Giới Lục có nói: – Tạo tác dâm thư, bại hoại tâm thuật của người khác, chết rồi sẽ vào địa ngục Vô Gián mãi cho đến khi sách ấy diệt mất. Khi tội báo của những kẻ vì sách ấy mà làm ác đã đều hết sạch thì [kẻ soạn dâm thư] mới được thoát sanh.

          Đời Minh, ông Viên Liễu Phàm nói: – Kẻ thu nhặt tà thư dâm uế, những thứ hình ảnh xấu xa, và những lời báng bổ đem đốt, sẽ được quả báo là con cháu trung hiếu, tiết nghĩa. Kẻ thích đọc tiểu thuyết dâm uế và kể nói những câu chuyện trong dâm thư [cho người khác nghe], và cất giữ sách dâm, tranh dâm trong nhà, sẽ mắc quả báo là con cháu làm ca kỹ, đào kép!

          Thiên sách Dục Hải Hồi Cuồng [trong An Sĩ Toàn Thư] đã chép các lời răn kiêng dâm, phân loại rõ ràng, lớp lang, tùy theo từng việc mà khuyên răn. Ở đây, do khuôn khổ nhỏ hẹp của Cảm Ứng Thiên, chẳng thể ghi lại toàn bộ, chỉ trích dẫn [một vài điều tiêu biểu] ghép vào đây.

          Gái trinh thuở ở trong khuê phòng đợi dịp cưới gả, đấy chính là lúc khởi đầu danh tiết suốt một đời của cô ta. Nếu có kẻ táng tận lương tâm, phá hoại danh tiết của cô ấy, cha mẹ, họ hàng sẽ xấu hổ, ngượng ngùng. Dẫu có người cưới về, sẽ thường là bị bại lộ, rốt cuộc bị [nhà chồng] đuổi về; [cô ta] sẽ thường đến nỗi phẫn uất, nhục nhã, hổ thẹn mà hủy hoại tánh mạng. Ví như trong chuyện hôn nhân có thể giấu diếm được, [cô ta] sẽ thường ngấm ngầm ôm lòng hổ thẹn, sợ hãi, danh tiết lớn lao đã khuyết, ngàn đời khó gột rửa. Phàm là những ai có lòng, hãy nên thống thiết kiêng dè trước hết.

          Bà góa có chí thủ tiết, thần lẫn quỷ đều khâm phục, kính ngưỡng, triều đình biểu dương, tưởng thưởng. Nếu tiết tháo kiên trinh ấy bị bại hoại, kẻ sống chẳng còn mặt mũi nào trên cõi đời, người đã chết (chồng bà ta) sẽ càng đớn đau ôm hận nơi chín suối. Xin hãy thử nhìn lại, thử nghĩ chính mình lâm vào tình cảnh ấy, há chẳng nguội lạnh tấm lòng ư? Đúng là hãy nên khéo léo gìn giữ, khiến cho bà ta được thành danh, giữ trọn tiết hạnh, gieo đức càng dầy, há có phải chỉ là không dâm [thì mới có đức dầy] mà thôi ư?

          Tỳ nữ há chẳng phải là gái trinh ư? Ta mong con gái ta trinh tiết, há có thể làm nhơ nhuốc sự trinh tiết của con gái người khác ư? Vợ đầy tớ thì cũng là vợ của người khác. Muốn vợ mình tiết hạnh, há có nên chôn vùi tiết hạnh của vợ kẻ khác ư? Tuy sang hèn khác biệt, danh tiết như nhau, há có nên chôn vùi lương tâm, gây nên sự báo ứng nghiêm trọng trong cõi âm? Huống hồ [do chồng lẹo tẹo với tớ gái hoặc vợ kẻ hầu], vợ ta vì ghen tuông sẽ đánh đập, gây thương tổn cho họ, hoặc kẻ tôi tớ hung hãn sẽ quay ngược lại bêu riếu, phản chủ. Cha con do chẳng hay biết mà cùng tằng tịu với một đứa tớ gái, anh em do mê muội mà cùng chung chạ với một người, hoặc là cốt nhục bào thai mà luân lạc trong hàng hạ tiện. Kẻ đời sau (con cháu của chủ nhân) vô tri, [do chẳng biết đó là anh chị em ruột thịt của mình], lầm lẫn làm nhục, lấn hiếp, trên danh nghĩa là chủ tớ sai khác, nhưng ngấm ngầm có tình huynh muội! Tổn thương phong hóa, bại hoại mỹ tục, chẳng nỡ nói đến! Người ta sao lại vì thấy [tôi tớ] dễ gian dâm bèn thản nhiên [làm xằng] chẳng răn dè vậy?

          Vú nuôi được xếp vào bát mẫu[197], ni cô tu hành tĩnh lặng nơi đất Phật, xâm phạm họ sẽ là tạo ra oan nghiệt nặng nề nhất trong các tội nghiệt. Hiện thời, những kẻ bị quan lại trừng phạt và gặp phải những tai họa riêng tư khác, cố nhiên vẫn là nhẹ hơn [ác báo do tội lỗi này].

          Cũng thường có chuyện kẻ nữ chưa kết hôn[198] [làm chuyện] dâm bôn, muốn quyến rũ kẻ khác hành dâm hòng được sủng ái, hãy đừng nghĩ “cô ả tự dâng mình tới tay ta. Nếu ta từ khước, sẽ quá tuyệt tình”. Trong lúc ấy mà vượt được sự thử thách ấy, sẽ là đức dầy, phẩm lạ, sẽ được trời cao xét soi, chẳng mong kẻ khác biết đến. Đấy là cửa ải giữa thiện và ác, là ranh giới giữa họa và phước, hãy càng nên nỗ lực!

          Cặp kè vui chơi với gái ăn sương tợ hồ chẳng có tội lỗi, nhưng đã rơi vào cái bẫy ấy, sẽ thường bị táng gia bại sản. Huống hồ [vì ta dan díu với gái làng chơi], cha mẹ ghét bỏ, thân hữu lợt lạt, vợ con oán hận, [như thế thì kẻ ăn chơi ấy] đã hoàn toàn đặt mình ra ngoài luân thường, chôn vùi [sự tiết tháo vốn được] giữ gìn như ngọc. Thậm chí [có kẻ do ăn chơi mà] thân nhiễm các bệnh phong tình, rụng lông mày, khuyết mũi. Có kẻ khắp thân chẳng có miếng da nào lành lặn! Có một người bạn, bộ phận sinh dục thối rữa, tự nói là vì cuồng hứng nhất thời, [trở thành giống như kẻ] bị thiến suốt đời, tuyệt tự, tổn thương thân thể, khóc lóc, hối hận chẳng kịp! Lại có một kẻ ở An Huy, do bệnh hoa liễu truyền nhiễm, con sanh ra lộ thịt đỏ hỏn, không có da, chẳng nuôi được, đều chết. Than ôi! Người ta cứ bảo [chơi bời] chẳng tổn hại âm chất, ai ngờ chẳng khác gì bị cõi âm khiển trách! Hãy hết sức răn giữ!

          Chuyện nam nhân hành dâm với nhau, có sáu điều chẳng nên là:

          1) Dâm ô khinh mạn, thể diện bị thương tổn, đã đánh mất lòng cung kính, chẳng có lòng hổ thẹn. Đó là một điều chẳng nên vậy.

          2) Ruồng rẫy kẻ đã kết tóc se tơ với mình, sủng ái bọn trai trẻ, khí phận tà ác dẫn đến những điều quái dị, yêu ghét sai lệch. Đó là hai điều chẳng nên.

          3) Các ngươi khinh bạc, phóng đãng, có hạnh kiểm gì. [Cũng có lúc làm chuyện] trộm ngọc, cắp hương, nhuốm bẩn khuê nữ! Đấy là ba điều chẳng nên.

          4) Ngẩng đầu [trên cao] ba thước, chắc chắn có thần minh phẫn nộ vì sự nhơ uế ấy, [các Ngài sẽ] giáng xuống hình phạt chẳng nhẹ. Đấy là bốn điều chẳng nên.

          5) Luật lệ chép về hành vi kê gian, phép vua rành rành. Gian dâm lại gần giống như giết chóc, có mối quan hệ to lớn với thân thể. Đấy là năm điều chẳng nên.

          6) Chẳng vì cầu có người nối dõi mà tiết tinh bừa bãi, hành vi ấy ngu xuẩn thay, sẽ khiến cho sanh mạng bị hủy hoại mau chóng. Đấy là sáu điều chẳng nên.

          Khuyên khắp người đời, kẻ chưa phạm hãy chú trọng dè dặt, cẩn thận vâng giữ hòng “tránh dữ, hướng lành”, suốt đời giữ trọn điều răn về sắc dục. Nếu là kẻ đã phạm, hãy gấp sửa lỗi, làm chuyện lành rộng rãi, khắc in sách răn dâm để khuyên rộng khắp, hòng chuộc lầm lỗi cũ, ngõ hầu chuyển họa thành phước.

          Xưa kia, Diêu Đình Nhược ở Đồng Thành đã in những tờ đơn thề giữ giới như sau: “Trăm hạnh hiếu đứng đầu, vạn ác dâm đứng đầu. Con người khác với cầm thú là do biết suy nghĩ. Nhạn là loài phi điểu còn chẳng loạn bầy, con người nắm giữ Tứ Đức, sao lại chẳng bằng chim? Do vậy, dùng [tờ đơn phát nguyện này] để nương tựa, hướng về, thề kiêng tà dâm. Nếu manh nha ý niệm ấy, họa sẽ giáng xuống thân. Nếu phạm giới này, sẽ ương hại đến con cháu. Chỉ mong từ bi, thương xót chứng minh, hộ trì, ngầm gia hộ, xin hãy đời đời bảo vệ. Phàm những ai nhận tờ đơn này, hãy tụ tập mấy người cùng chí hướng, viết mười tám câu này lên tờ giấy khác, lại ghi quê quán, mỗi người tự ghi tên, ký tên, phát thệ đem đốt trước Văn Xương Đế Quân, hoặc trước Quan Thánh, hoặc trước hết thảy chư Phật, vĩnh viễn giữ giới chẳng quên. Mỗi năm đều nghiệm chứng một lần, mấy người cùng chí hướng sau khi đã thề kiêng [tà dâm], liền quyên góp để in đơn này thành một vạn tờ thí tặng, ngõ hầu cách thức tốt đẹp được lưu truyền chẳng dứt”. Mặt sau tờ đơn có ghi thêm vài câu cách ngôn và [vài chuyện] quả báo.

          Thu thập các lời dạy như trên, khuyên lơn hoặc răn đe đều đầy đủ, pháp tắc, lời răn đều nêu bày. Có những lời lẽ mềm mỏng lẫn những lời lẽ quyết liệt, từ ngữ rõ ràng, ý thiết tha, ai có thể thời thời đọc, khắc khắc nghĩ, ắt sẽ được lợi ích. Nhưng những điều vừa dẫn trên đây đều là tiện tay chọn lấy, vẫn thẹn chữ nghĩa, thứ lớp chẳng thỏa đáng, người đọc chỉ cần hiểu ý chỉ là được rồi. Tôi lại đem những [câu chuyện về] quả báo do trinh lương hay dâm đãng chép tường tận sau đây, hòng giúp cho [người đọc] dũng mãnh tỉnh ngộ.

          Chàng học trò nọ ở Quý Khê, thi nhiều lần chẳng đỗ, xin Trương Chân Nhân dâng sớ, xuất hồn lên xem bảng trời. Thần phê rằng: “Người này số phận đáng lẽ đỗ đạt, nhưng do lén lút với người thím mà bị mất sạch”. Chân Nhân hoàn hồn[199], nói với chàng ta lời ấy. Chàng học trò bảo là không có, bèn tự soạn sớ để biện luận. Thần lại phê: “Tuy chẳng có chuyện ấy, nhưng thật sự có cái tâm ấy”. Chàng học trò hổ thẹn chẳng kịp, ấy là vì thời trẻ thấy người thím xinh đẹp, ngẫu nhiên động một niệm [tà vạy] vậy!

          Trong niên hiệu Chánh Đức[200] nhà Minh, Triệu Vĩnh Trinh thuở bé gặp bậc dị nhân bảo: “Năm ngươi hai mươi ba tuổi, ắt đậu Giải Nguyên”. Đến khi thi Hương, văn hay tột bậc, quan chủ khảo đã định chấm cho [Vĩnh Trinh] đậu Giải Nguyên từ mấy hôm trước, chẳng ngờ trong kỳ thi hậu trường, [văn bài của Vĩnh Trinh] bỗng phạm sai sót, cho nên chẳng thi đỗ. Tâm Vĩnh Trinh hết sức uất ức, do vậy, cầu nguyện mộng thấy Văn Xương Đế Quân [để thưa hỏi. Trong giấc mộng] Đế Quân nói: “Khoa thi này ngươi vốn đậu Giải Nguyên, nhưng do gần đây ngươi chòng ghẹo tỳ nữ, dụ dỗ con gái nhà hàng xóm. Tuy đều chưa thành chuyện gian dâm, nhưng đã dấy lòng điên đảo, ý dâm vấn víu! Ruộng tâm ngày một tối tăm, tiếng tăm lẫn địa vị đều tiêu; vì thế, bị phạt trừ sạch!” Vĩnh Trinh khóc lóc, sửa lỗi, làm lành, cho khắc in những lời răn dâm để cảnh tỉnh cõi đời. Khoa thi sau, anh ta bèn đỗ Giải Nguyên, làm quan tới chức Phiên Hiến[201].

          Lý Đăng năm mười tám, sau khi đỗ đầu kỳ thi Hương Tiến, cho đến lúc năm mươi tuổi vẫn chẳng đỗ đạt, bèn đến chỗ thầy pháp Diệp Tĩnh, cậy thầy dò hỏi [thiên đình]. Thầy pháp tâu trình với Văn Xương Đế Quân. Đế Quân sai nha lại đem sổ cho [Diệp Tĩnh] xem, [thấy ghi]: Lý Đăng lúc sanh ra đã được ban ấn ngọc, mười tám tuổi đậu Giải Nguyên, mười chín đỗ Trạng Nguyên, năm mươi hai tuổi đạt tới địa vị Hữu Tướng (Phó Thừa Tướng). Nhưng do sau khi thi đỗ, đã nhìn trộm con gái hàng xóm tắm; do vậy, [công danh] bị trễ mất mười năm, [kết quả thi cử] giáng xuống thành Nhị Giáp [Tiến Sĩ]. Do xâm phạm nền nhà của anh là Lý Phong, nên [công danh] lại trễ mười năm, giáng xuống thành Tam Giáp Tiến Sĩ. Do gian dâm một phụ nữ nhà đàng hoàng là Trịnh Thị, [công danh] lại bị trễ mười năm. Nay lại lén lút tằng tịu với cô gái chưa chồng hàng xóm, làm ác chẳng hối cải, đã bị gạch tên khỏi sổ công danh, suốt đời chẳng đỗ đạt”. Thầy pháp kể lại với Lý Đăng, Lý Đăng xấu hổ, ân hận, chết mất. Ôi! Tổ phụ tích đức bao nhiêu năm, [con cháu] mới được thành Trạng Nguyên, Tể Tướng. Vậy mà để bị tước trừ như thế, cô phụ ân trời, cô phụ cha ông! Hắn coi hoan lạc quan trọng như thế đó, coi đỗ đạt chẳng bằng một phần vạn. Rốt cuộc vì chuyện phóng túng dâm đãng cỏn con mà chôn vùi phước lớn to tát. Buồn thay!

          Ông Vu Thiết Tiều nói: – Trạng Nguyên, Tể Tướng chẳng khó gì một nét bút xóa sạch! Huống hồ những kẻ [có âm đức của cha ông] thấp hơn [Lý Đăng] thì sẽ như thế nào? Tôi trộm cho rằng: Sẽ càng nguy ngập khôn cùng vậy!

          Lưu Quán là người xứ Long Thư, có con trai là Nghiêu Cử, tên tự là Đường Khanh lên thuyền đi thi. Chủ thuyền có đứa con gái, Nghiêu Cử bèn tò vè, nhưng chủ thuyền đề phòng, canh chừng rất nghiêm ngặt, chẳng thể thân cận được. Đến hôm thi, chủ thuyền ngỡ trường thi cửa đóng then cài chặt chẽ, chẳng phải lo lắng chuyện gì khác, bèn vào chợ mua bán. Thế nhưng đề thi lại trúng nhằm sở trường của Nghiêu Cử, cho nên hắn ra khỏi trường thi rất sớm. Chủ thuyền chưa về, rốt cuộc hắn lén tằng tịu với cô gái ấy. Vợ chồng Lưu Quán một tối mộng thấy hai người mặc áo vàng dẫn đến chỗ có bảng niêm yết kết quả thi, nói: “Cậu nhà đỗ đầu”. Lưu Quán muốn coi tấm bảng ấy, một người bên cạnh bỗng xé đi, nói: “Lưu Nghiêu Cử gần đây đã làm chuyện dối lòng, đã bị trời phạt”. Khi [các khảo quan] ghi danh sách thi đỗ, quả nhiên do [bài văn của Nghiêu Cử] có tỳ vết đôi chút bèn đánh trượt. Rốt cuộc, hắn chẳng đỗ đạt, [phiền muộn] mà chết!

          Trong niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, Lục Trọng Tích sanh ra đã có tài lạ. Lúc mười bảy tuổi, [Trọng Tích] theo thầy là Khâu X… đến sống tại kinh đô. Nhà đối diện có một cô gái rất xinh đẹp, thầy trò nhiều lần lén ngắm nghía, tâm ngứa ngáy. Thầy bảo trò: “Thành Hoàng tại kinh đô thiêng nhất, con thử đến miếu cầu đảo, chắc sẽ được toại nguyện”. Trò bèn đến cầu nguyện. Tới đêm, hai người đều mộng thấy bị Thành Hoàng bắt đến, lại còn quở trách nặng nề: ‘Thằng nhãi ngươi là thứ gì mà lòng dạ ngu tối, khinh nhờn thần thánh đến thế?” Thành Hoàng lại sai thuộc hạ tra sổ tài lộc. Nha lại kiểm sổ sách, thấy dưới tên họ Lục có ghi: “Đậu Trạng Nguyên năm Giáp Tuất”, còn dưới tên họ Khâu hoàn toàn chẳng có gì. Thần phán: “Đối với họ Lục, ta sẽ tâu trình Thượng Đế, gạt tên nó khỏi sổ tài lộc, khiến cho nó nghèo hèn suốt đời. Họ Khâu bị rút ruột”. Vừa tỉnh mộng, họ Khâu liền bị thổ tả mà chết. Trọng Tích về sau suốt đời nghèo hèn đúng như lời thần nói!

          Đời Đường, Ngự Sử Lý Nghiễm vâng lệnh đi sứ ngoài vùng Lãnh Nam, bỗng gặp một con hổ xông vào vùng rừng cây, nói tiếng người: “Ta gần như làm tổn thương cố nhân của ta!” Lý Nghiễm nói: “Sao mà giống tiếng của bạn đồng niên Lý Vi Thanh vậy?” Hổ nói: “Giã biệt đã lâu”, kể lể những mối giao tình khi xưa rất tường tận. [Lý Nghiễm] hỏi: “Cớ gì đến tận nơi đây?” Hổ đáp: “Một hôm, tôi đang tĩnh tọa, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng gọi to, bèn điên cuồng, trở thành hình dạng này. Nay thấy cố nhân, há có thể chẳng bi thương ư?” Lý Nghiễm hỏi: “Đời ông có chuyện gì đáng hối hận hay không?” Đáp: “Ta từng ở ngoại thành Nam Dương gian dâm với một bà góa. Nhà ấy phát hiện, ta ngầm lập mưu làm hại. Do say sưa mà giết sạch cả nhà ấy. Đó là chuyện đáng hận!” Hổ rống to, bỏ đi.

          Ở Kinh Khê có hai người chơi thân với nhau từ lúc còn để chỏm. Tới khi khôn lớn, một người dư dật, một người túng thiếu. Do vợ chàng nghèo xinh đẹp, gã nhà giàu bày mưu, bảo bạn: “Có nhà giàu nọ có thể đến làm mướn”. Chàng nghèo cảm tạ, gã giàu sắm sửa thuyền, lại chở cả vợ chàng nghèo cùng đi. Thuyền đến dưới chân một ngọn núi, [gã giàu] bảo: “Để vợ anh ở lại giữ thuyền, tôi với anh đi trước”. Hắn dẫn bạn vào rừng, rút búa giắt ngang lưng chém chết bạn, giả vờ khóc lóc xuống núi, bảo vợ bạn: “Chồng chị bị cọp vồ chết rồi”. Người vợ khóc òa, gã giàu nói: “Ta thử cùng nhau đi tìm”. Cùng nhau lên núi, tới chỗ khe suối, rừng sâu vắng vẻ, hắn ôm chầm lấy cô ta, đòi hành dâm. Người vợ hét ầm lên, chợt hổ trong rừng rậm xông ra, cắn gã giàu tha đi. Người vợ kinh hãi, bỏ chạy, nghĩ chồng quả nhiên đã vùi thây trong miệng cọp, khóc lóc quay về. Thấy đằng xa từ trong núi có một người khóc lóc đi đến, thì ra là chồng mình, cùng ôm nhau khóc ròng. Đôi bên nói chuyện mọi lẽ. Chồng nói: “Nó muốn hiếp dâm em đó! Em chưa bị nó hiếp. Nó toan giết anh, anh chưa chết, anh hận nó chi đâu?” Vợ nói: “Em khổ sở vì tưởng anh đã chết, anh chưa chết. Em muốn báo thù thằng giặc ấy, nhưng thằng giặc đã tự bị quả báo, em còn hận gì nữa?” Do vậy, chuyển buồn thành vui, trở về làng.

          Vương Cần Chánh ở Địch Dương tằng tịu với vợ hàng xóm, ước hẹn cùng nhau bỏ trốn, nhưng [ả ta] sợ chồng ả đuổi kịp, ả bèn lập kế giết chết chồng. Cần Chánh nghe chuyện, hết sức kinh hãi, liền một mình trốn tới huyện Giang Sơn, cách đó bảy mươi dặm, tự cho là đã xa rồi, có thể thoát họa. Do đói bụng, [anh ta] vào tiệm cơm, chủ tiệm dọn cơm đủ cho hai người ăn. Cần Chánh hỏi nguyên do, [chủ tiệm] đáp: “Vì có người xõa tóc theo ông đi vào, chẳng phải là hai người ư?” Cần Chánh biết là oán quỷ đi theo, bèn đến quan tự thú. Nam lẫn nữ đều đền tội.

          Trong niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, ở Nghi Hương, có bà góa họ Trần làm chủ tiệm nhuộm, có nhan sắc. Một gã lái buôn gỗ trông thấy, ưa thích, mượn cớ nhuộm lụa đến nhà bà ta dụ dỗ đủ kiểu. Hắn biết chẳng thể khiến cho bà ta thuận theo, bèn lấy mấy súc gỗ quăng vào nhà bà ta, hôm sau thưa quan bà ta ăn trộm gỗ. Hắn lại hối lộ bọn sai nha để bắt bớ, hiếp đáp khiến cho bà ta khốn quẫn, nhục nhã, mong bà ta sẽ thuận theo [chịu làm thiếp cho hắn]. Bà ta ngày đêm xót xa cầu đảo thần Huyền Đàn[202], thưa: “Nhà con đã kiền thành thờ thần rất lâu, sao chẳng thể che chở cho con?” Đêm ấy, bà ta mộng thấy thần bảo: “Đã sai hắc hổ rồi”. Gã lái buôn gỗ nghe kể lại, còn chửi bà ta là ngu si. Chẳng được mấy bữa, gã lái buôn gỗ và sáu bảy người vào núi mua gỗ, hổ từ trong rừng xông ra, vượt qua mấy người, cắn đầu [gã lái buôn gỗ] tha đi.

          Tường sanh[203] họ Quách ở Giang Ninh, năm Kỷ Mão vào trường thi. Khi chưa yết bảng, chàng họ Dương ở trước nhà nói: “Ta gần đây làm phán quan ở âm phủ, biết ông đáng lẽ thi đỗ hạng thứ năm mươi bảy. Nhưng vì ngày đó, tháng đó, ông đi thâu tô ở Giang Bắc, đã cùng vợ một tá điền mây mưa suồng sã dưới trăng sao. Lại còn ép một đứa tớ gái trong nhà ông làm thiếp, do ông giận dữ, khiến cho nó bị chết ngang trái, nó đã nhiều lần đến cáo giác ông [dưới cõi âm]. Ta đã nhọc lòng khuyên giải, nhưng nỗi uất ức của nó khó thể tiêu tan được. Do vậy, [thiên đình] đã vì những chuyện này mà trừ bỏ công danh của ông!”

          Trương Bảo làm tri phủ Thành Đô. Lý Úy ở Hoa Dương có vợ đẹp nhất xứ Thục Trung, Trương Bảo muốn tằng tịu, nhờ cậy khắp bọn ni cô, nhũ mẫu ngấm ngầm dùng ý ấy khuyên dụ. Lâu ngày, người vợ cũng động lòng. Bỗng gặp chuyện Lý Úy ăn hối lộ bị bại lộ, Trương Bảo thừa dịp tấu trình đàn hặc. [Lý Úy] bị tống giam, điều tra đến nơi đến chốn. [Lý Úy] bị đày ra ngoài rặng Ngũ Lãnh[204], chết trên đường đi. Trương Bảo biếu xén mẹ Lý Úy trọng hậu, ép gả vợ Lý Úy cho mình, [lấy nhau rồi], vui sướng khôn xiết. Không biết vì sao người vợ lâm bệnh, [tinh thần] hoảng hốt, thấy Lý Úy bên cạnh. Lúc lâm chung, cô ta nói với Trương Bảo: “Thiếp cảm ơn chàng, chẳng dám không nói. Lý Úy đã tố cáo lên cõi trời, sớm tối chàng sẽ bị bắt. Nếu ẩn kín, chưa chắc họ đã có dịp [lùng bắt]. Nếu khinh thường ra ngoài, ắt sẽ bị bắt”. Nói xong bèn chết. Không lâu sau, Trương Bảo cũng ngã bệnh, do nhớ lời vợ dặn, đề phòng hết sức nghiêm ngặt, chẳng dám bước chân ra khỏi nhà. Một chiều đang ngồi, bỗng thấy xa xa trong đám trúc dưới nhà, có một người giơ tay áo đỏ vẫy nhẹ. [Trương Bảo] hoảng hốt tưởng là vợ Lý Úy, vội rảo chạy tới, [đến gần] thì ra là Lý Úy, bị ông ta bắt lấy, đánh đấm tơi bời, chửi bới: “Thằng giặc này, nếu tao không dùng áo hồng rộng tay vẫy gọi, mày chịu đến đây ư?” Hồi lâu sau, [Trương Bảo] tuôn máu mũi, kể nguyên do với người nhà rồi chết.

          Đời Đường, Nghiêm Vũ lúc trẻ làm hàng xóm của một vị quân sứ, dụ dỗ con gái ông ta cùng bỏ trốn. Vị quân sứ vào kinh tố giác, vua xuống chiếu truy bắt. Nghiêm Vũ sợ tội, giết cô ta, dìm xuống nước. [Do vậy, sai nha truy bắt] chẳng có chứng cớ gì, nên hắn may mắn thoát tội. Tới khi hắn nhiễm bệnh ở đất Thục, thấy cô ta ở trước mặt, trách móc: “Thiếp trốn theo chàng cố nhiên là đã đánh mất tiết hạnh, nhưng thiếp thật sự chẳng phụ rẫy chàng. Nếu chàng sợ tội, sao không bỏ thiếp mà đi, lại còn giết chết, đúng là kẻ tàn nhẫn! Thiếp đã tố cáo nơi âm tào, hạn kỳ là ngày mai!” Nghiêm Vũ thẹn thùng, xin tha. Sáng hôm sau, hắn quả nhiên chết ngắc. Than ôi! Oai quyền của Tiết Độ Sứ khi ấy[205] chẳng thể xoay chuyển mảy may! Người hiện thời cứ hở ra là tìm cái chết, nào có biết sau khi đã chết, ân biến thành cừu, oán đối chẳng ngớt!

          Đời Minh, Hứa Triệu Hinh ở Tấn Giang, đỗ Cử Nhân năm Mậu Ngọ, đến châu Phước Ninh để yết kiến vị quan giám khảo chấm thi của mình. Hắn ngẫu nhiên đi qua một am ni cô, ưa thích một ni cô trẻ tuổi, bèn dùng oai thế hiếp đáp, cưỡng bức làm nhục cô ta. Hôm sau, hắn cắn lưỡi đứt đôi mà chết. Lại có gã Vương Vũ ở Tấn Giang nổi tiếng giỏi văn chương, mang rượu đến uống tại chùa Thừa Thiên. Hắn vào Tàng Kinh Đường, thấy một sa-di đang độ tuổi thiếu niên ngồi ngay ngắn xem kinh, bèn cưỡng ép chú tiểu ấy uống rượu. Sa-di chẳng vâng theo, hắn bèn ôm chầm lấy chú ta sờ mó, trêu chọc. Hắn về nhà được ba hôm, bỗng vung tay tát vào miệng, tự chửi bới, cắn đứt lưỡi, máu tuôn đầy đất mà chết. Cái chết của hai gã ấy chỉ là hoa báo, quả báo là trong địa ngục!

          Có ông già nọ ở Giang Tây từng ngủ lại nhà vợ, gian dâm với họ hàng bà ta, lén sanh được một đứa con bèn chôn đi. Về sau, khá giả lên, hưởng dụng đã lâu. Kẻ biết chuyện nói: “Đạo trời chẳng thể hỏi đến!” Về sau, cháu nội gái của ông ta tằng tịu với đầy tớ. Ông ta biết chuyện, hết sức tức giận, lấy một cỗ quan tài, đem hai người [bỏ vào đó], đóng đinh, đem chôn sống. Ông ta bị thưa kiện dằng dai nhiều năm, tài sản tiêu sạch mà chết.

          Gã họ Trầm vốn ỷ sức cường tráng, nhiều lượt gian dâm. Vương Hành Am đã từng răn nhắc: “Ta gian dâm vợ người khác, người khác sẽ gian dâm vợ ta. Báo ứng đáng sợ, anh hãy nên sửa đổi đôi chút”. Họ Trầm cười bảo: “Chẳng lẽ mấy thằng háo sắc đều biến thành lũ bị cắm sừng hết hay sao? Chỉ cần giữ nghiêm khuê môn, lo gì có chuyện đó!” Một hôm, gã từ bên ngoài trở về, chính mắt thấy vợ đang lõa lồ hành dâm với kẻ khác, muốn lấy vật dụng đánh họ, nhưng tay chẳng thể giở lên được. Vợ hắn tưởng là chồng không đếm xỉa tới, cứ thong dong tận tình hưởng thú hoan lạc. Họ Trầm tức giận quá đỗi, trừng mắt, giậm chân, hộc lên một tiếng rồi chết luôn!

          Một người suốt đời làm ác, có một đêm nghỉ tại nhà thân thích, nghe hai người nói với nhau: “Gã nọ tội ác ngập đầu, sẽ phải thọ báo”. Người kia đáp: “[Phạt hắn] tuyệt tự nhé?” Người trước bảo: “Quá nặng”. Người kia lại hỏi: “Bị hỏa hoạn nhé?” Người trước nói: “Quá nhẹ!” Người kia lại hỏi: “Vương Tiểu Tiểu nhé?” Đáp: “Ờ, được đấy”. Hắn nghe nói kinh ngạc, chẳng hiểu là như thế nào? Mấy năm sau, gã đó mê luyến một kỹ nữ tên là Vương Tiểu Tiểu, cưới cô ả về nhà. Hắn nghe theo những mưu kế của cô ả, [khiến cho] cốt nhục ly gián, tài sản khánh kiệt mà chết!

          Một vị Tăng pháp danh là Hành Uẩn thấy hoa sen bỗng động lòng dâm. Đêm ấy, có một nữ nhân gõ cửa. Hành Uẩn bèn mở cửa nhìn xem, thấy có một cô gái, dẫn theo một đứa tớ gái, tự xưng là Liên Hoa Nương Tử, dung mạo rạng rỡ động lòng người. Hành Uẩn hết sức vui mừng, bèn chuyện trò huyên thiên không ngớt. Chốc lát, đuốc tắt, thị giả nghe Hành Uẩn kêu khổ, cô gái cất tiếng hung ác nói: “Sao ngươi xằng bậy dấy lên dâm tâm? Nếu ta là nữ nhân thật sự, há chịu ăn nằm bừa bãi với ngươi ư?” Thị giả vội chạy gọi mọi người trong chùa, phá cửa mà vào, trông thấy hai con quỷ dạ-xoa, còn Hành Uẩn đã thân một nơi, đầu một nẻo rồi!

          Nay biên chép, kể ra các tấm gương mắc họa vì dâm, xếp chuyện của gã học trò ở Quý Khê lên đầu, nhằm nêu rõ ý nghĩa [răn dạy] của đức Thái Thượng về chuyện ý niệm kín nhiệm “khởi tâm tư” (dấy lòng muốn gian díu), hòng khuyên mọi người phải dè dặt ngay từ đầu. Trong lúc mắt thấy, tâm động, phải dốc hết sức chú ý cẩn thận. Còn chuyện của Hành Uẩn lại chẳng phải là thấy sắc mà khởi tâm, mà là do ông ta thiếu đầu óc, do vọng niệm tạo ra hình tượng, chẳng có ốc mà thành lầu, chẳng có biển mà hiện thành thị[206], [tâm địa] u mê, tăm tối, nẩy sanh sự huyễn hoặc, xấu ác, tự gây ra sự hỗn độn đến nỗi bị dạ-xoa nuốt mất mạng, đầu một nơi, thân một nẻo! [Chuốc lấy] tai họa kỳ lạ từ loài ma hung dữ, thảm khốc dường ấy! Xem đến những câu chuyện ấy, có ai mà tâm chẳng rét run, sợ hãi? Vì thế, dùng câu chuyện này để kết thúc [các trường hợp mắc họa vì dâm dật], đúng là có dụng ý sâu xa. Hãy suy nghĩ đi!

          Lâm Mậu Tiên ở Tín Châu tài cao, thi đậu kỳ thi Hương. Nhà nghèo, anh ta đóng cửa đọc sách. Người đàn bà hàng xóm chán chồng chẳng học hành, hâm mộ tài danh của Mậu Tiên, ban đêm, lén tìm tới. Mậu Tiên quở trách: “Nam nữ khác biệt, lễ pháp chẳng dung. Quỷ thần trong trời đất dầy dẫy khắp nơi, cớ sao lại ô nhục ta?” Bà ta hổ thẹn, lui ra. Năm sau, Mậu Tiên thi đỗ. Về sau, ba đứa con đều đỗ đạt.

          Diêu Tam Cửu vốn có họ là Biện, học rộng, giỏi thơ văn. Ông đến làm gia sư tại nhà họ Hoài. Có đứa con gái thường đến nhìn trộm. Ông Biện trang nghiêm, chẳng ngó ngàng. Một hôm, ông đem giày phơi ngoài sân. Cô ta viết thư, bỏ vào giày. Ông Biện thấy thư, bèn mượn cớ có chuyện khác, xin nghỉ dạy, trở về nhà. Ông Viên Di Hạnh làm thơ khen ngợi, có câu: “Nhất điểm trinh tâm kiên phỉ thạch. Xuân phong đào lý mạc tương sai” (Một tấm lòng trinh bền tựa đá, gió Xuân đào mận chẳng thèm ngờ). Ông Biện chẳng nhận bài thơ, trong thư hồi đáp, cực lực biện bác là không có chuyện ấy. Viên Di Hạnh phong kín lá thư, đề lên đó: “Đức chí hậu hĩ, tử tôn tất xương” (Đức sâu đến tột bậc, con cháu ắt hưng thịnh). Về sau, con ông Biện (Diêu Tam Cửu) là Kham và chắt là Tích đều đậu Tiến Sĩ.

          Đường Cao thuở trẻ đọc sách dưới đèn, có kẻ nữ chọc ghẹo, chọc thủng giấy dán cửa sổ[207]. Ông dán lại, đề thơ rằng: “Đào phá chỉ song dung dị bổ, tổn nhân âm đức tối nan tu” (Chọc thủng giấy, hãy còn dễ vá; phá đức người, khó sửa khôn ngằn). Một tối, có một vị Tăng đi qua cửa nhà ấy, thấy có tấm biển đề Trạng Nguyên, hai bên treo hai cái đèn, trên đèn đề hai câu ấy. Vị Tăng lấy làm lạ, gạn hỏi. Về sau, quả nhiên Đường Cao đỗ đầu thiên hạ.

          Uông Thiên Dữ gặp dị nhân xem tướng, bảo: “Tướng của ông giống như La Hán, không có người nối dõi, mà cũng chẳng thọ”. Do vậy, ông Uông coi nhẹ tiền tài, chuộng bố thí. Một hôm, ông làm khách ở Thanh Giang Phố, bà chủ còn trẻ, xinh đẹp, lén đến chỗ ông. Ông Uông đóng cửa không tiếp, bảo: “Tôi há có nên phá hoại danh tiết của bà ư?” Bà ta hổ thẹn, bỏ đi. Lại gặp người xem tướng ấy, người ấy hỏi: “Ông có âm đức gì mà tướng mạo bỗng thay đổi, sẽ sanh quý tử, thọ hơn tám mươi”. Về sau, đúng như lời ấy.

          Xem khắp các bậc tiền hiền cự tuyệt những kẻ muốn dâm bôn, [những vị ấy] đắc lực là nhờ chữ Thứ (恕, khoan dung), điều mình chẳng muốn, chớ làm cho người khác. Có vị thì sợ tổn hại âm chất, chỉ e giảm phước, đoản thọ. Tuy học vấn có thể khác nhau, nhưng đều cùng chánh đáng, phù hợp thiên lý, thuận theo đạo lý “khiến cho người khác an lòng, ta và họ đều được vẹn toàn”. Ngay trong lúc ấy, phước chí tâm linh, đã giống như nhanh chóng bước lên mây xanh, chẳng cần đợi hưởng phước báo rồi mới vui sướng. Điều quan trọng là cự tuyệt chuyện dâm bôn có nhiều cách khác nhau, ắt phải biết tường tận sẵn trước đã. Sau đó, khi gặp chuyện, sẽ chẳng phạm sai lầm. Bởi lẽ, nghiêm mặt quở trách, cự tuyệt, [kẻ muốn rù quến làm chuyện dâm bôn] sẽ bỏ đi cố nhiên là nhiều, nhưng có kẻ bị cự tuyệt vẫn chẳng bỏ đi. Như Lục Dung[208] viện cớ bệnh chưa lành, hẹn ngày khác sẽ gặp, [đến hôm sau liền rời đi, chuyển sang chỗ trọ khác], có thể học theo gương ấy. Nếu có thể mở tung cửa bỏ đi, như Tào Phân[209] qua chỗ khác trọ, cũng là cách ứng phó nhanh nhạy của người giữ tròn đức hạnh vậy. Lại có kẻ [dụ dỗ người khác gian dâm chẳng được] bèn dùng cái chết để uy hiếp, như ông Mao Lộc Môn cự tuyệt đứa tớ gái [rủ rê làm chuyện] dâm bôn. [Bị cự tuyệt], cô ả nói: “Như thế thì tôi chỉ đành chết mà thôi”. Lộc Môn chẳng nao núng. Suốt đêm cự tuyệt mà vẫn giữ vẹn [đức hạnh] như thầy thuốc họ Trần [lặp đi lặp lại] “chẳng thể, chẳng thể”[210], đẩy cửa sổ đứng chơ vơ ngoài sân, thề chẳng có hành vi cẩu thả! Lại có người kiên quyết tặng luôn món tiền trăm lạng[211]. Những vị kiên quyết cự tuyệt [người khác dụ dỗ làm trò chim chuột], đức trong sáng, quyết đoán anh minh như thế đều đáng để học theo. Nếu cửa đã đóng mà có kẻ nữ ở bên ngoài, ắt chẳng thể mở cửa được. Ngày hôm sau mượn cớ từ tạ, trở về nhà, mà [người ta] vẫn cứ chèo kéo, chớ nên đến nữa, nhưng cần phải suốt đời chẳng hé môi [về chuyện ấy]. Dẫu với vợ con, cũng không để cho họ biết chuyện ấy[212]. Đấy là bậc đức dầy vậy. Từ đấy trở đi, đỗ Trạng Nguyên, đạt tới địa vị vinh hiển, rạng mày nở mặt cha ông, con cháu [hưởng phước lộc] lâu dài, so với những phương cách tích công lũy đức khác, sự khó dễ muôn vàn sai khác một trời một vực!

          Tại Chiết Giang, có vị Chỉ Huy Sứ[213] là X… mời thầy đến dạy con. Thầy bị cảm lạnh, cần phải đổ mồ hôi, bảo trò lấy mền. [Trò lấy mền], vô ý cuốn theo một chiếc hài của mẹ. Bệnh lành, đem trả lại mền, chiếc hài rớt bên chỗ nằm mà thầy lẫn trò đều chẳng biết. Chỉ Huy Sứ trông thấy, ngờ vợ mình gian díu với thầy. [Tra hỏi], vợ chẳng nhận tội; do vậy, [ông ta] sai đứa tớ gái đến giả vâng lệnh bà chủ mời thầy [đến gặp mặt riêng]. Thầy nổi giận, quát mắng đứa tớ gái. Viên Chỉ Huy Sứ lại ép vợ đích thân đến [mời mọc thầy], chính mình tuốt sẵn đao bén, chờ thầy mở cửa [là chém liền]. Cố nhiên thầy cự tuyệt: “Tôi được ông nhà mời đến, há nên ngấm ngầm có hành vi trụy lạc ư?” Thề nhất quyết không mở cửa. Sáng hôm sau, thầy từ biệt xin đi. Viên Chỉ Huy Sứ nói: “Tiên sinh thật sự là bậc quân tử”, bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện, tạ lỗi, xin thầy ở lại. Khoa thi ấy, thầy đỗ đạt.

          Trình Ngạn Tân tấn công Ninh Thành. Hôm thành bị hạ, kẻ tả hữu dâng lên ba cô gái còn trinh, đều thuộc loại hết sức xinh đẹp. Ông vừa mới say, bèn bảo các cô: “Các ngươi như con gái của ta, há dám xâm phạm ư?” Bèn tự khóa kín một gian phòng (giữ ba cô gái trong ấy). Đến sáng, tìm hỏi bố mẹ để trả lại. Về sau, ông làm quan tới chức Thị Sát. Khi chín mươi ba tuổi, ông từ biệt thân hữu qua đời, các con đều hiển đạt.

          Đời Minh, Từ Hy ở Giang Âm, khi làm nha lại thuộc binh phòng[214], có lệnh tuyển tráng đinh đi làm làm lính thú ở vùng biên cương. Có một người bị tuyển lầm, nhưng người ấy chẳng thể giãi bày nỗi oan uổng, muốn cầu Từ Hy giúp cho thoát khỏi. Nhà nghèo, chỉ có cô vợ là có nhan sắc. Anh ta bèn bày tiệc rượu khoản đãi Từ Hy, sai vợ hầu rượu, còn chính mình thì mượn cớ bỏ đi. Từ Hy vội ra khỏi cửa, người vợ sợ Từ Hy bỏ đi sẽ hư chuyện, bèn nắm áo để giữ ông lại, kể lại ý chồng. Từ Hy kiên quyết cự tuyệt, dứt áo bỏ đi. Hôm sau, ông lại trách mắng người chồng thậm tệ. Rốt cuộc, [do ông tận lực lo liệu] người ấy được miễn. Về sau, [Từ Hy] làm quan đến chức Binh Bộ Thượng Thư.

          Trương Văn Khải ở Phước Kiến và Châu X… do tránh cướp bèn lánh vào hang núi. Có một cô gái đẹp đã [núp] sẵn ở đó, thấy đàn ông đến, hốt hoảng toan bỏ đi. Ông Trương nói: “Cô bỏ đi, ắt sẽ gặp bọn cướp, chúng tôi là những người thành thật, cẩn trọng, cũng vì lánh giặc mà đến đây, quyết chẳng dám xâm phạm”. Tới nửa đêm, họ Châu nhiều lần toan ô nhục cô ta, ông Trương tận lực ngăn cấm. Tới sáng, Trương và Châu rời núi để thăm dò tin tức, ý ông là nhằm tách họ Châu ra, để cô ta ở yên nơi đó. Rời núi, họ biết bọn giặc cướp đã bỏ đi, bèn cùng những người già trong thôn tới hang, hỏi han cha mẹ, quê quán và tên họ cô ta. Ông Trương vội nhờ những người lớn tuổi trong thôn đưa cô ta về. Không lâu sau, có người họ Hoàng sắm sửa rất nhiều của hồi môn, nhận ông Trương làm rể, đấy chính là [cha mẹ] của cô gái tỵ nạn vậy. Cha cô ta cảm ân đức của ông Trương, nên nhận ông Trương làm rể. Về sau, hai con trai của ông đều đỗ đạt.

          Trần sanh ở Dư Can giỏi nghề y. Có chàng học trò nghèo bệnh tình lâm nguy, ông Trần trị lành bệnh, mà cũng chẳng đòi hỏi phải báo đáp. Về sau, lúc trời sẩm tối, ông Trần đi qua chỗ họ; do vậy, họ giữ ông ngủ lại. Mẹ chồng bảo con dâu: “Chồng con sống được thật sự là nhờ ông ta, sao không ngủ với ông ta để báo ân?” Con dâu vâng dạ, tới đêm bèn đến chỗ ông Trần. Ông Trần cự tuyệt: “Mẹ chồng cô thì sao?” Cô vợ đáp: “Đây là ý của mẹ chồng”. Ông nói: “Ý chồng cô thì sao?” Đáp: “Mạng chồng tôi là do ông ban cho, có gì ngăn cản tôi”. Ông Trần nói: “Không thể!” Cô vợ cứ thúc ép, ông Trần liên tiếp bảo: “Không thể”, bèn ngồi đợi trời sáng, lấy bút liên tục viết chữ “không thể” trên bàn. Về sau, gần như chẳng thể giữ mình được, ông lại hô to: “Hai chữ Không Thể quá khó”, đẩy cửa, đứng chơ vơ ngoài sân. Đến sáng, ông ra đi. Về sau, con trai ông Trần đi thi. Quan chủ khảo loại bỏ bài thi của nó, bỗng nghe có tiếng hô: “Không thể!” Quan đọc lại, vẫn loại bỏ, lại nghe hô liên tiếp: “Không thể!” Cuối cùng, khảo quan duyệt lại, quyết ý loại bỏ, bỗng nghe có tiếng hô lớn rằng: “Hai chữ Không Thể quá khó”, cứ hô liên tiếp chẳng ngừng. Do vậy, quan chủ khảo bèn chấm đậu. Về sau, con ông ta đậu Tiến Sĩ.

          Những trường hợp trên đây đều là những chuyện quyết tâm không tằng tịu, nhưng không có chuyện nói về người lâm vào cảnh lý và dục giao tranh, cho nên thuật câu chuyện giữ vững tâm ý vào lúc sắp loạn này để chỉ bày cách thức vậy!

          Tề Vượng ở Kim Hoa, đã năm mươi mà không có con. Thầy tướng số nói: “Ông có ác khí, ắt là có chuyện sai trái”. Tề Vượng nói: “Lúc trẻ, tôi từng lang chạ với vợ con người khác”. Thầy tướng số kinh hãi, nói: “Phạm tội ấy sẽ tuyệt đường con cháu. Dâm ác khó sám hối nhất. Ắt phải có điều lành to lớn thì mới hòng xoay chuyển trời đất”. Do vậy, Tề Vượng hối cải. Năm đầu tiên, hễ có người làm việc thiện, ông ta đều vui lòng bố thí, chẳng keo tiếc. Thầy tướng nói vẫn chưa được. Năm sau, hễ gặp việc thiện khó làm, ông bèn đứng ra làm đầu, quyên tặng quá nửa. Thầy tướng số bảo vẫn chưa được. Năm thứ ba, ông một mình nỗ lực làm lành, chẳng chịu nhường ai. Thầy tướng số nói: “Vết âm chất đã hiện, lo gì không con!” Quả nhiên, sanh một trai. Năm bảy mươi tuổi, Tề Vượng còn được ẵm cháu.

          Lữ Thanh đời Minh thích nói chuyện dâm uế, dòm trộm phụ nữ. Tuổi đã ba mươi, hết sức nghèo nàn, khốn khổ. Hai đứa con theo nhau chết đi. Một hôm, ông ta bỗng chết bất ngờ, thấy ông nội giận dữ, mắng: “Hai đời chúng ta tích tập điều thiện, ngươi đáng lẽ hưởng quả báo giàu to. Nào ngờ ngươi ôm lòng mê sắc, miệng mắt đều tạo oan nghiệt, phước sắp trừ sạch. Ta sợ ngươi lại thật sự phạm vào hành vi dâm ác, chẳng mong chi có người nối dõi nữa! Vì thế, xót xa cầu khẩn vua cõi âm, bắt ngươi đến âm phủ cho ngươi trông thấy hòng biết lợi hại”. Lữ Thanh thưa: “Cháu nghe nói gian dâm vợ con người ta sẽ bị quả báo tuyệt tự, con thật sự sợ chuyện ấy, chưa hề phạm!” Một nha lại bên cạnh bèn bảo: “Há chỉ là tuyệt tự ư? Nếu như kẻ nữ quyến rũ ngươi, ngươi chẳng từ chối, thì chỉ bị quả báo tuyệt tự. Nếu là kẻ dụ dỗ, cưỡng bức, và nhiều lần trái phạm, gây hại cho luân thường, hoặc phá thai, giết chồng, sẽ là tội thuộc bậc nào? Há chỉ tuyệt tự mà thôi! Luật dương gian khoan dung với tội dâm ác, nhưng luật cõi âm nghiêm ngặt nhất!

Phàm kẻ nào dấy lên một dục niệm, thần Tam Thi sẽ tự đứng đầu [thưa gởi], Táo Quân, Thành Hoàng sẽ tấu trình. Ẩn giấu sẽ là lỗi to lớn. Cứ thử nhìn xem những kẻ bị xét xử ngày hôm nay, ngươi sẽ biết”.

          Trong chốc lát, quỷ tốt dẫn những phạm nhân dâm dục đeo gông quỳ xuống, vua cõi âm lớn tiếng căn dặn: “Gã X… sẽ biến thành ăn mày, vừa điên vừa câm. Gã Y… biến thành gái điếm, mù mắt. Gã nọ hai đời làm trâu. Gã kia mười đời làm lợn”. Họ đều bị quỷ tốt áp giải đi đầu thai. Lữ Thanh rởn da gà run sợ. Nha lại bảo: “Cũng có kẻ còn bị phạt nặng hơn những gã này nữa! Ngươi chớ tham nửa khắc hoan lạc, đánh mất thân người. Hãy nên tránh sắc như tránh tên, khắc in thành văn chương để khuyên đời”. Thế rồi, vua cõi âm thả Lữ Thanh về. Lữ Thanh bèn khắc in bài Du Minh Lục (ký sự đến cõi âm), in một vạn tờ để cảnh tỉnh cõi đời, gắng hết sức làm lành. Đến lúc bốn mươi tuổi, ông sanh liên tiếp hai con trai, tạo lập sản nghiệp vạn lạng. Ông ta bèn đoạn tuyệt trần duyên, tới Nam Hải tu đạo. Người cùng làng là Thái Tinh vì ông ta soạn bài ký.

          Hai câu chuyện trên đây, thuộc về báo ứng tốt lành do hối cải về lỗi dâm. Kẻ đã sa chân, hãy giữ vững cái tâm hối cải, đấy chính là phương cách để chuyển họa thành phước vậy. Than ôi! Cái tội nghiệt dâm dật chẳng thể viết trọn, nói sao cho cùng! Chỉ hằng ngày mong mỏi những kẻ dù trí hay ngu, chưa lỡ phạm, và kẻ đã trót nhúng chàm, ai nấy đều suy nghĩ sâu xa, ngõ hầu thiên lương sẽ sớm phát hiện.

 

          (Chánh văn) Phụ tha hóa tài, nguyện tha thân tử. Can cầu bất toại, tiện sanh chú hận.

          (正文)負他貨財。願他身死。干求不遂。便生咒恨。

          (Chánh văn: Thiếu nợ người khác vật dụng, tiền bạc, bèn mong họ chết đi. Mong cầu chẳng được toại ý, sanh lòng oán hận, chửi rủa).

          “Hóa” (貨) là đồ vật. “Tài” (財) là tiền bạc, “phụ” (負) nghĩa là khi thiếu thốn bèn mượn để chi dùng. Lâu ngày vong ân, chẳng trả lại. Trung Giới Kinh[215] nói: “Thiếu nợ của người khác, trước mắt chẳng có gì để đền trả, phải luôn lo nghĩ đến mối nợ ấy, luôn nghĩ cách đền trả”. Nếu vì nguyên do chẳng trả được, bèn ngược ngạo mong cho người ấy chết đi để xóa bỏ món nợ ấy, kẻ ôm lòng như thế, đời này là phường sài lang, đời sau khó trốn khỏi thân chó, ngựa, cũng là ngu muội quá lắm!

          Bạch Nguyên Thông thiếu tiền Dương Quân bốn ngàn năm trăm đồng, nhiều lần bị đòi mà chẳng trả. Dương Quân chết, [họ Bạch] bèn giấu luôn chuyện ấy. Về sau, trong nhà Dương Quân sanh ra một con lừa bỗng nói tiếng người rằng: “Tôi là Bạch Nguyên Thông vì thiếu tiền các vị bốn ngàn năm trăm đồng, cho nên như thế này. Hiện thời, ở chợ Tây có người bán lừa cũng thiếu tiền tôi vừa đúng số ấy. Hãy mau bán tôi cho nhà ấy để có tiền trả cho quý vị hòng xong nợ”. Con ông Dương làm đúng theo lời. Bán xong được hai hôm, con lừa chết mất.

          Đời Hán, Diêm Sưởng làm quận duyện[216]. Thái Thú là Đệ Ngũ Thường bị triệu về kinh, đem món tiền lương bổng là một trăm ba mươi vạn gởi Diêm Sưởng. Diêm Sưởng đem chôn giấu. Về sau, Đệ Ngũ Thường lúc mất, gọi đứa cháu mồ côi mới chín tuổi đến bảo: “Ta có món tiền ba mươi vạn gởi cho Quận Duyện Diêm Sưởng”. Đứa cháu lớn lên, tìm đến Diêm Sưởng xin lại. Diêm Sưởng trông thấy nó, lòng buồn vui lẫn lộn, lấy tiền giao lại. Dấu niêm phong vẫn còn nguyên như cũ. Đứa cháu nói: “Ông nội cháu chỉ bảo là ba mươi vạn, nay là một trăm ba mươi vạn, chẳng dám nhận”. Diêm Sưởng nói: “Phủ quân[217] bị bệnh làm khổ cho nên đã nói lầm, thiếu gia đừng ngờ”. Rốt cuộc trả lại. Về sau, Diêm Sưởng làm quan tới chức Thứ Sử.

          “Can cầu” (干求) là nói đến hết thảy các chuyện lớn nhỏ, hễ có chuyện cầu cạnh phải nhờ vả người khác thì đều là [“can cầu”]. “Bất toại” (不遂) là chẳng được như ý. “Chú” (咒) là nguyền cho người ấy gặp họa, “hận” (恨) là ôm lòng oán độc. Bậc quân tử thông đạt lý, an vui với số mạng, há chịu cầu cạnh kẻ khác? Nếu như có [chuyện cầu cạnh], đã chẳng phải là kẻ đoan chánh. Nếu chẳng toại ý, cũng chỉ nên tự phản tỉnh. Nếu còn nguyền rủa, oán hận, sẽ thành phường tiểu nhân phản phúc vậy.

          Đời Tống, Lư X… ban đêm đem trăm lạng vàng biếu Vương Đán, xin được bổ làm chức Phát Vận Sứ[218] vùng Giang Hoài. Ông Vương từ chối: “Tài sức của ông chẳng kham nổi chức vụ này. Tôi há dám vì tình riêng mà phế lẽ công chánh ư?” Họ Lư hổ thẹn, lui ra, suốt đêm đốt phù chú, nguyền cho Vương Đán sớm chết. Hắn mộng thấy thần quát mắng: “Ông Vương lòng trung vì nước, mày muốn cho ông ta mau chết. Thượng Đế sẽ giáng tội cho mày!” Quả nhiên, mấy hôm sau, hắn chết tươi!

          Đời Minh, Lý Canh ở Hàng Châu nhà nghèo, vô hạnh. Phàm ai là họ hàng, xóm giềng, hắn đều vay mượn hết. Hơi có chút chẳng vừa ý, bèn sân hận chẳng ngớt. Một hôm, hắn hỏi vay lương thực từ người bạn. Bạn chưa ưng thuận, Lý Canh bèn hướng về thần nguyền rủa, nguyện cho người bạn ấy chóng chết. Trong khoảnh khắc, sấm nổ ầm một tiếng, Lý Canh chết tươi trước tượng thần!

          Vu Thiết Tiều nói: – Cầu cạnh kẻ khác, tuy tâm tình ta rất bức thiết, nhưng đối với người được cầu cạnh, có khi sức người ấy chẳng thể làm chuyện đó, hoặc lâm vào tình thế bất tiện. Cho nên kẻ chẳng được toại ý là chín phần mười, mà kẻ toại ý chỉ được một phần mười. Đó là lẽ thường xét theo tình lẫn lý! Nếu xằng bậy sanh lòng nguyền rủa, hận thù, há người ấy có vì ta nguyền rủa, oán hận mà sẽ thay đổi [thái độ], sẽ giúp đỡ hay sao? Chỉ là tự tăng thêm Phiền Não Chướng đó thôi! Kẻ đó không chỉ là chẳng biết thiên mạng, mà cũng chẳng thông đạt tình đời vậy!

          Đời Tống, ông Tạ Lương Tá nói: – Muôn sự thật ra là có số mạng, sức người có so đo cũng chẳng nổi! Tôi suốt đời chưa hề cầu cạnh kẻ khác, cũng chưa hề gởi thư cho người đang nắm quyền bính. Nếu có kẻ khuyên lơn [hãy cầu cạnh người có quyền thế], tôi đáp: “Người ấy làm sao có thể thăng thưởng, thiên chuyển cho tôi được, toàn là do trong mạng tôi sẵn có”.

          Đời Tống, ông Phạm Trung Tuyên (Phạm Thuần Nhân) nói: – Người tuy chí ngu mà biết tự trách thì là sáng suốt. Kẻ tuy hết mực sáng suốt, nhưng nếu khoan dung cho chính mình sẽ là kẻ hôn ám! Ai có thể dùng cái tâm trách móc người khác để trách móc chính mình, dùng cái tâm khoan dung chính mình để khoan dung người khác, sẽ chẳng lo không đạt đến địa vị thánh hiền”.

          Phàm những kẻ cầu cạnh người khác rồi trách móc người ta, hãy nên suy đi nghĩ lại lời của hai ông!

 

          (Chánh văn) Kiến tha thất tiện, tiện thuyết tha quá. Kiến tha thể tướng bất cụ nhi tiếu chi, kiến tha tài năng khả xưng nhi ức chi.

          (正文)見他失便。便說他過。見他體相不具而笑之。見他才能可稱而抑之。

          (Chánh văn: Thấy người khác sa chân lỡ bước, bèn rêu rao lỗi lầm của họ. Thấy người khác hình hài chẳng vẹn toàn bèn chê cười. Thấy người khác có tài năng đáng ca ngợi bèn chèn ép).

          “Thất tiện” (失便) là gặp chuyện chẳng thể làm được, ở trong cảnh bất đắc chí. Sự việc và cảnh duyên trong thiên hạ vốn dễ bại, khó thành, nghịch nhiều, thuận ít. Hoặc là do vận số chông chênh, thời thế ngang trái, việc làm gặp rối ren. Hoặc là đôi khi phạm sai lầm, hối hận, sửa đổi chẳng kịp. Đường đi (hành xử trong cõi đời) gian nan, xưa nay đều cùng than thở. Thế mà có hạng người chẳng biết cảm thông, lúc bình thường bèn giao du tốt đẹp, hễ [người khác] gặp cảnh khốn khó, thường là đặt mình ra ngoài phạm vi ấy, cười cợt, gàn quải người khác rằng: “Vốn là do kẻ ấy tự sai trái”. Than ôi! Xin hãy tự nhìn lại đời mình, có phải là [bản thân ta] thật sự chưa từng làm sai một chuyện nào hay chăng?

          Đời Minh, Vương sanh ở Hán Châu ưa chỉ trích lỗi lầm của người khác. Hàng xóm của hắn có người phải chôn con, Vương sanh bèn chê bai: “Do ngươi cực ác, cho nên có quả báo ấy”. Chẳng lâu sau, hai đứa con trai [của Vương sanh] đều bị bệnh chết. Người hàng xóm cười ngược lại: “Tao nghĩ chắc là mày độc ác còn cùng cực hơn tao nữa!” Lại còn một người anh họ của hắn dự khóa thi hằng năm[219], điểm thi bị giảm, lọt xuống bậc bốn. Vương sanh cũng chê trách rằng: “Văn tài của anh đúng là quá tệ hại, làm sao mong đậu cao cho được!” Chưa đầy một năm, Vương sanh tham gia khoa khảo[220], rốt cuộc bị đánh xuống bậc năm. Người anh họ cười chê ngược lại: “Ta nghĩ em ta văn chương càng tệ hại hơn nữa!”

          Quản Trọng nói: – Ta thường cùng Bảo Thúc Nha mưu sự, thế mà [càng làm], càng thêm khốn cùng, Bảo Thúc Nha chẳng chê ta là ngu, vì ông ta biết thời vận [của mỗi người] có lúc thuận lợi, có lúc bất lợi. Ta từng ba lần ra làm quan, ba lần bị vua xua đuổi, Bảo Thúc Nha chẳng cho ta là hạng không ra gì, vì biết ta chẳng gặp thời.

          Do vậy, có thể thấy là bậc hào kiệt từ xưa cũng thường có khi bị lỡ bước sa chân. Điều đáng quý là kẻ tri kỷ, trong cảnh khốn cùng bèn an ủi, khích lệ. Há có nên vì kẻ khác sảy bước sa chân, bèn thừa cơ quăng đá? Hạng người như vậy đã đánh mất lòng thương cảm, lại còn trái nghịch lòng nhân nâng đỡ [người khác], vui sướng vì kẻ khác mang tai, mắc họa, bất nhân, bất trí, tai ương ắt sẽ lập tức bám theo thân!

          Tứ chi tàn khuyết, hình tướng xấu xí, thô kệch, nếu chẳng phải là do mầm mống độc ác từ đời trước gây nên, ắt là do họa ương sót lại từ cha mẹ. Hễ gặp hạng người ấy, hãy nên thương xót, bảo vệ cho họ được toàn vẹn, sao lại nhẫn tâm chê cười? Huống chi sự thành tựu của một người là do tâm lượng và kiến thức, chẳng phải do hình tướng nơi thân thể. Châu Bột[221] nói lắp mà làm Tể Tướng, Yến Tử (Yến Anh) thân hình loắt choắt mà khiến cho vua [Tề Cảnh Công] được rạng mặt nở mày! [Những chuyện giống như vậy] được chép trong sử sách, chẳng thể nêu trọn. Hơn nữa, kẻ có thể tướng chẳng đầy đủ thường tự hận; do đó, cười cợt họ, đã phạm vào điều cấm kỵ! Mẹ của Tề Khoảnh Công do cười Khước Khắc mà bị trừng phạt[222], mỹ nhân của Bình Nguyên Quân do cười người teo chân mà bị giết[223], người một huyện nước Triệu cười giễu Mạnh Thường Quân là một gã đàn ông loắt choắt mà bị giết[224]. Đấy đều là vết xe đổ từ trước, đáng để răn dè sâu xa!

          Kinh Phật có nói đến Đẳng Lưu Quả, có ý nói người sống trên cõi đời, tâm thuật chẳng đoan chánh, đời đời về sau, hình thể chẳng toàn vẹn, miệng, mắt lệch vẹo, tứ chi tàn khuyết. Đấy là nói do đời trước tạo nghiệp, cho nên dẫn đến kiếp này hình thể chẳng đầy đủ. Như vậy thì người ta trong lúc khởi tâm, trong khoảnh khắc động niệm, há có nên chẳng kiêng dè, cẩn thận, kính sợ để rồi đến nỗi lọt vào chỗ tà vạy ư?

          Sách Đạo Tạng Yếu Lược nói: – Những điều cần phải kiêng kỵ khi vợ chồng ăn nằm rất nhiều, nhưng khi khí trời thay đổi thì [hậu quả do không kiêng kỵ ăn nằm] sẽ nặng nề nhất. Theo thiên Nguyệt Lệnh [trong sách Lễ Ký], trước khi sấm động ba ngày, [người cầm quyền sẽ sai người] dùng linh có quả lắc bằng gỗ để truyền lệnh cho dân chúng biết: “Sắp có sấm động, kẻ chẳng kiêng kỵ chuyện ăn nằm [trong ngày sấm động], sẽ sanh con [thân thể] chẳng hoàn bị, ắt gặp tai họa hung hiểm. Bởi lẽ, kẻ ấy khinh nhờn oai trời”. Đấy là nói do cha mẹ chẳng cẩn thận, cho nên khiến cho đứa con hình thể chẳng trọn vẹn vậy!

          Đời Đường, Lô Kỷ sắc mặt như màu chàm (xanh lè). Quách Tử Nghi bị bệnh, bá quan lũ lượt đến vấn an. Bọn hầu thiếp đứng đầy ra đó, ông chưa từng bảo họ tránh đi. Tới khi Lô Kỷ đến, Quách Tử Nghi bảo họ đều tránh đi hết. Có người hỏi nguyên cớ, ông bảo: “Ông ta mặt mũi xấu xí, tâm hiểm độc. Bọn phụ nữ trông thấy ắt cười cợt. Ngày sau, ông ta nắm quyền, gia tộc của ta sẽ chẳng còn ai sống sót!” Về sau, Lô Kỷ làm Tể Tướng, những kẻ nào có oán với ông ta ắt đều bị trả thù, chỉ riêng nhà họ Quách rốt cuộc bình yên.

          Hầu Nguyên Công (Hầu Mông) hình tướng hết sức xấu xí. Khi đi thi tuyển Hương Tiến, có kẻ thấy ông đã lớn tuổi, lại xấu xí, chẳng biết kính trọng. Có những đứa khinh bạc bèn vẽ hình ông lên diều, căng chỉ thả lên trời. Nguyên Công trông thấy chỉ cười, đề lên đó: “Vị ngộ hành tàng thùy khẳng tín? Như kim phương biểu danh tung. Vô đoan lương tượng họa hình dung. Đương phong khinh tá lực, nhất cử nhập cao không, tài đắc xuy hư thân tiệm ổn, chỉ nghi hà phó thiềm cung. Vũ dư thời hậu tịch dương hồng, kỷ nhân bình địa thượng, khán ngã tử tiêu trung”. (Chưa gặp thời cơ ai chịu tin? Nay mới lộ ra chút tiếng tăm. Bỗng dưng thợ khéo vẽ nên hình, mượn cơn gió nhẹ bay cao vút, thoáng chốc lên cao tận thái không. Được gió đỡ nâng, thân dần ổn, bay cao xa tít tận cung hằng. Trời hết mưa rồi, chiều đỏ ối, kìa ai đứng mãi trên nền đất, ngắm ta bay lượn tận hư không). Năm ấy, ông thi đỗ, đạt tới địa vị Tể Tướng. Những đứa trẻ ở quê cũ  đều  hổ  thẹn, chẳng  dám

nhìn ông.

          Vu Thiết Tiều nói: – Đời người vốn chẳng thể ỷ vào thể tướng được! Già yếu, tàn tật đều là chuyện chẳng thể biết nổi! Mắt đẹp có thể bị đâm thành mù, chân nhanh nhẹn có thể bị gãy thành thọt. “Nhi kim nhi hậu, ngô tri miễn phù?” (Từ nay về sau, ta biết có tránh nổi hay không?) Lời Tăng Tử đã nói đúng lắm thay. Thương thân còn chẳng xuể, nào dám cười ai? Những kẻ đặt hỗn danh, đặt ra bài vè để miêu tả, cười chê [hình hài kẻ khác] cũng [hãy nên] nhìn vào gương này để sửa đổi thói xấu ác vậy!

          Thấy tài năng bèn đè nén, khác với “che giấu điều lành, vùi dập sở trường của người khác”. “Che giấu” hàm ý ém nhẹm, “vùi dập” thì có nỗi bi thảm hủy hoại. Ở đây (thấy tài năng bèn đè nén) lại cao hơn một mức nữa! Bởi lẽ, đáng ca ngợi mà chẳng ca ngợi, tức là đè nén. So với hai điều trước đó, dường như tội nhẹ hơn, nhưng suy xét kỹ, sẽ là càng vi tế hơn!

          Vào thời Chiến Quốc đời Châu, Lý Tư và Hàn Phi đều theo học với Tuân Khanh. Lý Tư tự biết tài năng của chính mình chẳng bằng Hàn Phi. Vua Tần thấy bài Thuyết Nạn Thư của Hàn Phi, hận không được gặp. Đến khi vua nước Hàn sai Hàn Phi sang sứ nước Tần, vua Tần nói chuyện với Hàn Phi hết sức vui thích. Lý Tư sợ vua sẽ sủng ái Hàn Phi, bèn gièm báng khiến cho [Hàn Phi] bị hạ ngục, vua ban độc dược [bắt Hàn Phi tự sát]. Hàn Phi muốn tự giãi bày, nhưng không được gặp vua Tần, cuối cùng phải chết. Về sau, Lý Tư bị Triệu Cao sàm tấu [với Tần Nhị Thế], cũng muốn trần tình, nhưng chẳng được [vua tiếp kiến]. Người hiểu chuyện biết là đạo trời đền trả!

          Đời Tống, Tôn Biện là người xứ My Sơn và Đường Giới, Ngô Trung Phục chưa hề quen biết nhau, nhưng Tôn Biện khâm phục họ cương trực, tận lực tiến cử. Họ được đề bạt làm Ngự Sử. Chương Tuân Công (Chương Đắc Dự) và Văn Lộ Công (Văn Ngạn Bác) chưa hề gặp mặt, nhưng ông Chương nghe danh ông Văn là bậc lỗi lạc, vừa gặp gỡ bèn đề cử. Về sau, quả nhiên ông Văn xuất tướng, nhập tướng[225]. Dương Kính Chi yêu mến tài năng, công bằng, chánh trực, được biết danh tiếng của bậc nhân sĩ vùng Giang Biểu (phía Nam của sông Dương Tử) là Hạng Tư, liền đề tặng thơ rằng: “Xứ xứ kiến thi, thi tổng hảo; cập quán tiêu cách quá ư thi, bình sanh vị giải tàng nhân thiện, đáo xứ phùng nhân thuyết Hạng Tư” (Đọc khắp thơ ông đều tuyệt diệu, nhìn vào tư cách tuyệt hơn thơ. Suốt đời chẳng biết dìm người khác, khắp chốn gặp người khen Hạng Tư). Mấy vị ấy đều giống nhau, đề cử người khác hòng khích lệ nhân tài. Những kẻ chẳng thể vì nước cầu hiền, không chỉ là chèn ép những người sau, mà còn cắt đứt hạt giống tạo phước cho dân chúng! Than ôi! Biết đề cử người hiền thì là bậc chí nhân, vậy thì kẻ đố kỵ người hiền sẽ là phường đại ác!

 

          (Chánh văn) Mai cổ yểm[226] nhân, dụng dược sát thụ.

          (正文)埋蠱厭人。用藥殺樹。

          (Chánh văn: Chôn bùa ếm đối hại người. Dùng thuốc giết chết cây cối).

          Theo Huyền Đô Luật[227], kẻ phạm lỗi đủ số hai ngàn bảy trăm chuyện thì tính là một điều hại, trong nhà kẻ ấy sẽ sanh ra thầy mo, bà cốt. Nhưng sanh ra thầy mo, bà cốt đã là do người đời trước tạo tội, nay [con cháu] lại chôn bùa ếm đối hại người khác, tức là khiến cho [quả báo] địa ngục [của kẻ ấy] càng thêm sâu. Nhưng kẻ nào dấy lòng sai khiến [người khác] làm chuyện ếm đối thì tội càng nặng hơn những tay phù thủy. Nếu có hạng người như vậy, phép vua sẽ xử chém, luật lệ cõi âm càng nghiêm khắc.

          Đời Đường, có viên Chủ Bạ ở Vương Ốc là Công Tôn Xước. Khi ông ta đến nhậm chức, bỗng chết đột ngột. Một hôm, ông báo mộng cho quan huyện: “Tôi có nỗi oán hận, cầu trưởng quan giải oan cho tôi. Mạng tôi chưa đáng chết, bị nô tỳ ếm đối để thuận tiện trộm cắp. Nhà tôi ở Hà Âm, nếu trưởng quan có thể chọn bọn nha dịch tráng kiện, cầm trát đến bắt chúng, ắt chúng sẽ chẳng lọt lưới. Phía dưới hàng ngói thứ bảy đếm từ phía Đông của mái nhà tôi, có hình dạng của tôi làm bằng gỗ ngô đồng, đinh đóng kín trên ấy. [Do thời gian đã lâu, hình tượng ấy] đã bị biến đổi”. Hôm sau, quan huyện quả nhiên chọn lính khỏe mạnh cầm trát và gởi thư cho quan huyện Hà Âm, bắt hết bọn nô tỳ, và lục soát trên mái nhà, tìm được hình người dài hơn một thước, bị đóng đinh khắp thân, chất gỗ đã dần dần biến thành thịt, gõ vào thì có âm thanh đùng đục. Gạo thóc tích trữ trong nhà Công Tôn Xước đều bị trộm sạch, [quan huyện] bèn báo lên tri phủ, chúng đều bị xử cực hình. Phàm ác thuật yểm mị vốn phần lớn do bọn phụ nữ, tỳ thiếp làm ra. Ấy là vì bọn chúng muốn nhờ vào đó để chuyên quyền, hoặc được sủng ái, so ra còn mạnh mẽ hơn cái tâm tham lợi. Người thời nay hãy nên hết sức giữ cho bản thân chánh đáng, giữ yên gia đình, giữ môn hộ cẩn thận, chớ để bọn thầy bà, đồng cốt, tà giáo có thể ra vào, lui tới. Đấy là phương cách để dứt tuyệt tận nguồn. Những kẻ đang làm quan cũng nên ra lệnh nghiêm ngặt lùng bắt bọn chúng để dứt tuyệt chuyện này, công ấy cũng chẳng nhỏ!   

          Một nhánh cỏ, một thân cây, đều là mầm sống của tạo vật. Ông Cao Sài thấy thảo mộc vừa mới tăng trưởng bèn chẳng bẻ, được Khổng Tử khen ngợi. Đức Phật dạy: “Cây cối lâu năm, phần nhiều có quỷ thần nương gá, chớ nên khinh thường đẵn chặt. Hễ đẵn chặt, sẽ thường mắc họa”. Đẵn chặt mà còn chẳng nên, huống hồ là dùng thuốc giết chết ư?

          Như Vân Cù ở Đào Nguyên tánh âm hiểm, tàn độc, chẳng ưa hàng xóm, ngầm dùng thuốc độc giết chết sạch những cây ăn quả của người hàng xóm đã trồng. Một hôm, Vân Cù ra ngoài, trở về, trong lúc nhá nhem thấy ánh đèn lập lòe, binh lính, giáo mác tua tủa. Hắn bị bọn lính trói dẫn tới một khu rừng. Một vị thần trách mắng: “Cỏ cây cũng là sanh mạng do trời cao ban tặng, sao mày lại giận tức giết chết? Phần nhiều là do ngũ tạng bất bình mà ra!” [Vị thần] sai bọn lính mổ bụng hắn, lôi phổi, gan ra. Như Vân Cù kinh hoảng tỉnh giấc, bị chứng đau tim và đau bụng mà chết.

          Trần Thức mời một thầy địa lý xem mộ tổ, thấy trước mộ có một cây to, vốn là cây trồng bên phần mộ người khác. [Thầy địa lý] nghĩ cây sẽ che lấp “thiên tâm”[228], cần phải chặt cây ấy đi thì mới có hy vọng đỗ đạt. Vì thế, ông ta khuyên ông Trần mua gai cá hổ để ngầm dùng chất độc giết chết cây. Ông Trần không chịu, nói: “Chúng ta đôi bên đều mong tốt lành, thuận lợi, huống chi cội cây to sum xuê sao lại nỡ giết chết?” Chưa đầy một năm, cội cây ấy bị gió to trốc gốc, thiên tâm rộng thênh thang, con ông là Khuê thi đỗ liên tiếp, làm đến Ngự Sử.

 

          (Chánh văn) Khuể nộ sư phó, để xúc phụ huynh.

          (正文)恚怒師傅。抵觸父兄。

          (Chánh văn: Oán giận thầy dạy của chính mình, xung đột với cha anh).

          Điều này khác với “mạn tiên sanh” (khinh mạn thầy giáo) trong phần trước. “Mạn” (慢) là vô cớ mà ngạo mạn, còn ở đây là do thầy dạy bảo, quở trách mà tức giận. Đạo phụng sự thầy của cổ nhân là “chẳng trái phạm, chẳng giấu diếm thầy”. Hễ được thầy dạy bảo, thảy đều trống lòng dịu ý tiếp nhận, há có nên giận dữ? Kẻ tức giận ắt là phường bạc đức, chẳng có phước vậy!

          Đời Minh, Uông Hội Đạo tánh dĩnh ngộ, mắt nhìn qua sách liền thuộc. Tám tuổi đã có thể viết văn, nhưng phụng sự thầy bèn ngạo mạn dị thường. Hễ hơi trái ý, ắt giận dữ chửi bới sau lưng thầy. Một ngày, hắn ngồi một mình trong phòng học, bỗng ngáp to, trong miệng nhảy ra một con quỷ, chỉ Hội Đạo bảo: “Mày vốn là đỗ đầu thiên hạ, do mày tức giận thầy mình, Thượng Đế đã gạch tên trong sổ lộc; tao cũng rời khỏi nơi đây”. Nói xong, chẳng thấy nữa. Hắn giở xem những gì đã biên chép trước đó, mờ mịt chẳng biết một chữ nào.

          Ngụy Chiếu thời Đông Hán, lúc còn bé gặp Quách Lâm Tông, nghĩ “kinh sư dễ gặp, nhân sư khó gặp”[229], bèn xin được hầu hạ bên cạnh, quét tước, dọn dẹp. Lâm Tông bệnh, sai Ngụy Chiếu nấu cháo. Cháo nấu xong, dâng lên, Lâm Tông quở trách nặng nề: “Vì người bề trên nấu cháo, chẳng dốc lòng cung kính, khiến cháo nuốt không nổi!” Ngụy Chiếu lại nấu cháo khác dâng lên, lại bị quở trách đến ba lần, Ngụy Chiếu chẳng đổi sắc mặt. Quách Lâm Tông nói: “Ta thoạt đầu thấy mặt ông, từ nay trở đi mới biết tâm ông!”

          Đời Tống, Đặng Chí làm thầy dạy tại trường tư thục, khéo khuyên dạy. Miệng không ngớt nói đến chuyện hiếu đễ, gặp người khác bèn dùng lòng thành, tận tâm dạy bảo. Thời Tống Thần Tông, con cả của ông là Oản làm Hàn Lâm Học Sĩ, con thứ là Tích và hai cháu nội đều đậu Tiến Sĩ một lượt. Mọi người đều nói đó là quả báo do ông đã dốc trọn lòng thành dạy dỗ. Trẻ nhỏ sanh trong nhà no ấm, khí chất của nó có thể biến hóa trong sáng tối, nhưng kẻ đã kiêu căng thành tánh, sẽ dễ mê muội, đọa lạc. Chỉ cốt sao người làm thầy, hãy dùng phương tiện khuyên dạy, khiến cho kẻ ấy khai ngộ. Hãy gắng lên!

          “Để xúc” (抵觸, xung đột, chống trái, xúc phạm) cũng khác với “ám vũ” (暗侮, ngấm ngầm khinh nhờn). “Ám vũ” thì điều ác ẩn sâu, còn “để xúc” thì tội rành rành. Phàm trong ăn nói, cư xử, làm việc, hễ có chuyện chẳng vừa ý vặt vãnh bèn xung đột. Cha và anh đứng đầu trong ngũ luân, hiếu đễ đứng đầu đạo làm người. Chỉ nên cung kính, vâng theo, ăn nói nhỏ nhẹ, sắc mặt dịu dàng. Dẫu cha có thiên vị, anh có lấn lướt, chỉ nên khéo léo giải thích, khuyên can, tự xét bản thân để tu tập. Vạn nhất [cha, anh] cứ chấp mê chẳng phản tỉnh, cũng nên hòa khí bình tâm. Lâu ngày họ sẽ tự nhiên hòa hảo. Nếu hơi có tức giận, sẽ dẫn đến xung đột, tức là trái nghịch luân lý, chẳng có chỗ dung thân trong vũ trụ vậy!

          Đời Minh, Phí Hoằng ở Nga Hồ cùng một người bạn đồng niên[230] đấu cờ vây, đùa giỡn tát má người ấy. Người bạn đồng niên không vui, Phí Hoằng hối lỗi, hằng ngày đến thỉnh tội, [người bạn ấy] trọn chẳng ra tiếp. Cha Phí Hoằng nghe chuyện, tức giận, đóng gói một cái roi cật tre, gởi tới kinh đô, truyền Phí Hoằng tự đánh. Phí Hoằng cầm thư và roi cật tre, đến nhà người ấy, tự đánh ba lần, người bạn đồng niên mới ra tiếp, ôm đầu mà khóc. Phí Hoằng thưa: “Tội do tôi tạo, anh khóc làm gì?” Người bạn đồng niên nói: “Anh có cha đốc thúc, quở trách, tôi cầu có người đốc thúc, trách mắng mình mà chẳng thể được!” Đôi bên thân thiết như thuở đầu. Vì thế, ta thấy cha mẹ đã khuất, mà còn có thể gặp chuyện bèn xúc động, bi ai, ắt cũng biết [người ấy] sẽ chẳng nỡ lòng xúc phạm khi cha mẹ còn sống. Nhưng cha mẹ còn sống cố nhiên là chẳng thể sống lâu mãi được, đau đớn lắm thay!

          Thôi Hiếu Vỹ đời Hậu Ngụy phụng sự anh là Hiếu Phân cung kính, thuận thảo trọn mọi bề. Ngồi, đứng, tiến, lùi chỉ nghe theo mạng lệnh của anh. Một đồng, một thước vải, chẳng cất giấu riêng, các bà vợ cũng thân ái với nhau, cũng là rất khó thấy trong đời hiện thời vậy.

          Đời Minh, ông Nhan Mậu Do nói: – Người hiện thời bất hiếu với cha mẹ, chỉ vì chẳng chịu tự vấn lương tâm. Chỉ cần nghĩ cái thân này do đâu mà có, cha mẹ đi về đâu? Cành mới đã trổ, gốc cũ bèn khô. Dẫu nghèo hèn mà vẫn cung kính phụng dưỡng khiến cho cha mẹ hoan hỷ, làm sao có thể báo đáp? [Nghĩ như vậy], ắt hiếu tâm tự nhiên đau đáu [dấy lên].

          Lại nói: – Người hiện thời chẳng tôn kính người bề trên, mà cũng chẳng chịu hồi tâm tự vấn, chỉ cần nghĩ trong cõi thế gian mênh mang này, sống trên đời được mấy chốc, trong cõi nhân gian mịt mờ, được mấy người là ruột thịt? Thuở bé thì cùng nhau giúp đỡ [trong cảnh khốn đốn], đến già thì nâng đỡ nhau, ắt tình nghĩa sẽ tự nhiên khắng khít, khẩn thiết!

          Người đời hãy đọc kỹ, suy nghĩ cặn kẽ hai câu chuyện của ông Thôi và ông Phí, cũng như lời nói của ông Nhan, ắt sẽ nhất thời nước mắt ràn rụa, chân tánh bèn phơi bày trọn hết, lại cần gì phải kể ra những quả báo vì xung đột, xúc phạm nữa ư?

 

 

    • Chú thích:

[1] Điều này được chép trong thiên Tiểu Tư Khấu, phần Thu Quan của sách Châu Lễ. Châu Lễ là bộ sách chép về hệ thống quan chức đời Châu, cũng như cách tổ chức triều đình và các chánh sách cai trị thuở ấy. Sách này thường được coi là bản hiến pháp đầu tiên của Trung Hoa. Đời Hán, sách này được gọi là Châu Quan, hoặc Châu Quan Kinh. Đến cuối thời Tây Hán, Lưu Hâm chỉnh lý, và dùng lại danh xưng cũ là Châu Lễ. Theo sách ấy, quan chức đời Châu được chia thành sáu loại là Thiên, Địa, Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chẳng hạn như Thiên Quan là chức quan coi về việc hành chánh, Địa Quan coi về nông nghiệp, quản lý đất đai, Xuân Quan coi về lễ nghi, tôn giáo và văn hóa, Hạ Quan coi về việc binh bị, quân đội, giao thông, quản trị chư hầu, Thu Quan trông nom hình phạt, lao ngục, Đông Quan quản trị việc kiến thiết, đê điều, thủy lợi v.v…

[2] Ông Hoàng Bách Lâm chú giải: Câu này phải hiểu là “đức hạnh chính là căn bản để làm người”.

[3] Đại Lịch là niên hiệu được sử dụng từ năm 766 đến năm 779 trong đời Đường Đại Tông (Lý Dự), tức vị vua thứ mười một của nhà Đường.

[4] Nghĩa Ninh là niên hiệu chỉ tồn tại bảy tháng từ tháng Mười Một năm 617 cho đến tháng Năm năm 618 dưới thời Tùy Cung Đế (Dương Hựu). Ông này là con thứ ba của Dương Chiêu (con trưởng của Tùy Dượng Đế), chỉ là vua bù nhìn do Lý Uyên (Đường Cao Tổ) đưa lên ngôi, hòng khỏa lấp cuộc chánh biến lật đổ nhà Tùy do Lý Uyên chủ xướng. Ông làm vua được vài tháng, bèn xuống chiếu nhường ngôi cho Lý Uyên.

[5] Đây là một thành ngữ, nguyên văn là “vô khẩu bào” (無口匏). “Bào” (匏) là cái hồ lô, hồ lô phải có miệng thì mới có thể đựng rượu hay các chất lỏng. Hồ Lô không khoét miệng, sẽ chỉ có hình dáng, chẳng dùng được gì. Do vậy, từ ngữ này có ý nghĩa chê trách những kẻ bất tài vô dụng, chỉ nói suông, không làm được gì!

[6] Khoắc Kỵ (彍騎) là danh xưng của quân túc vệ (quân thủ hộ hoàng thành). Kể từ thời Đường Huyền Tông, do quân túc vệ thường đào ngũ với số lượng lớn, Tể Tướng Trương Thuyết bèn đề nghị lấy quân từ kinh sư và các châu Bồ, Đồng, Kỹ, Hoa, bắt thanh niên đến độ tuổi quân dịch sung vào quân túc vệ, gọi là quân Khoắc Kỵ với thời hạn làm túc vệ hai tháng mỗi năm. Khoắc (彍) có nghĩa là “kéo căng cung tên”. Do vậy, Khoắc Kỵ tức là kỵ binh bắn tên. Do mang tánh chất tạm bợ, ô hợp, quân Khoắc Kỵ thiếu hẳn sức chiến đấu, thiếu kỷ luật; đồng thời, do phải liên tục chuyển quân từ các châu quận về nên chi phí rất tốn kém. Vì vậy, triều thần nhiều lần đề nghị bãi bỏ, nhưng Lý Lâm Phủ kiên quyết áp dụng chánh sách này.

[7] Nguyên văn là “tiện thần” (賤臣), còn gọi là “thị thần” tức những bầy tôi thân cận của nhà vua.

[8] Nguyên văn là “tùng vong” (從亡), tức là những người theo hầu một vị vua lưu vong. Tấn Văn Công (Cơ Trùng Nhĩ) là con thứ hai của Tấn Hiến Công (Cơ Quỷ Chư), là em trai của thái tử Thân Sanh. Do Tấn Hiến Công sủng nịch thứ phi Ly Cơ, bèn tính phế thái tử Thân Sanh, để đưa con trai của Ly Cơ là Hề Tề làm Thái Tử. Do triều thần can gián dữ dội, vua phải bỏ ý định này. Ly Cơ lập mưu hại chết thái tử Thân Sanh, hai người con trai khác của Tấn Hiến Công là công tử Trùng Nhĩ và công tử Di Ngô phải lén trốn về đất phong nhằm bảo đảm tánh mạng. Tấn Hiến Công thấy họ bỏ đi không từ biệt, rất tức giận, cộng thêm sự xúc xiểm của Ly Cơ, bèn sai quân chinh phạt khiến cho hai công tử phải lưu vong. Về sau, Tấn Hiến Công chết, Lý Khắc giết chết Hề Tề, đón Di Ngô về làm vua, tức Tấn Huệ Công. Công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong sang các nước Tề, Tào, Tống, Trịnh, Sở, Tần. Về sau, nhờ vợ là Hoài Doanh (con gái vua Tần) vận động vua cha giúp sức, công tử Trùng Nhĩ mới trở về Tấn, giành ngôi từ tay Di Ngô, trở thành Tấn Văn Công.

[9] “Hãn mã” (汗馬) nghĩa là “ngựa toát mồ hôi”. Từ ngữ này hình dung những người tận tụy dốc sức lập chiến công.

[10] “Tông thất” (宗室) là những kẻ có mối quan hệ họ hàng với nhà vua.

[11] “Sanh viên” là những người đã được vào học trường huyện hay trường Quốc Tử Giám, tức là những người là Lẫm Sanh, Phụ Sanh v.v… đều được gọi chung là Sanh Viên.

[12] “Hiến chức” (憲職) là cách gọi khác của chức Đô Ngự Sử.

[13] Nguyên văn là “phệ sĩ” (筮仕). Đây là một tục lệ thời cổ. Trước khi sắp ra làm quan, thường tự bói, hay nhờ người khác bói để chọn làm quan trong ngành nào thì sẽ thành công, thăng tiến.

[14] Người Hồ, còn gọi là Hồ Tộc, là từ ngữ phiếm chỉ những dân tộc du mục sống ở phía Đông và Bắc Trung Hoa. Vào thời Hán, chữ Hồ thường dùng để chỉ các bộ tộc Hung Nô. Về sau, chữ Hồ được sử dụng hẹp hơn để chỉ những người có nguồn gốc từ Trung Á, sống tại thảo nguyên, như Ngạn Tông Độc đời Đường đã định nghĩa: “Từ Thông Lãnh trở về phía Tây là Phạm chủng, ở bên trái của Thiết Môn thì gọi là Hồ”. Từ đời Đường, nói chung các sắc dân du mục hoặc Tây Vực thường gọi chung là Hồ. Nói chung, người Hồ bao gồm nhiều sắc dân như Đông Hồ (sống tại Nội Mông), Nhục Chi (nổi tiếng với đế quốc Quý Sương), Ngô Hoàn, Tiên Ty, Hung Nô, Khương, Đê, Yết, Đinh Linh, Cao Xa, Sớ Lặc, Nhu Nhiên, Đột Quyết, Hồi Hột, Thổ Phiên, Khiết Đan, Khố Mạc Hề, Thất Vi, Thát Đát, Đảng Hạng, Mạt Hạt, Nữ Chân. Trong đó, năm dân tộc là Tiên Ty, Hung Nô, Khương, Yết, Đê đã vào Trung Hoa, thành lập các triều đại mà sử Hoa thường gọi là Ngũ Hồ Loạn Hoa (chẳng hạn triều đại Diêu Tần do Diêu Trành vốn là người Khương sáng lập). Người Khiết Đan và Nữ Chân đã lập nên hai triều đại lớn trong lịch sử Trung Hoa là nhà Liêu và nhà Thanh.

[15] Dược thạch (藥石): Theo chế định của đức Phật, tỳ-kheo chỉ ăn một bữa Ngọ. Khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa, do khí hậu lạnh lẽo, cũng như do thức ăn trong tự viện đơn bạc, để đỡ đói, chư Tổ cho phép chư Tăng ăn nhẹ vào bữa tối cho khỏi đói, nên gọi bữa tối là Dược Thạch với ý nghĩa dùng như một vị thuốc để chữa căn bệnh đói.

[16] Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Nếu vì công danh, lợi lộc riêng tư mà tàn sát, do thích giết người mà tàn sát, thì gọi là “dĩ sát dụng sát”.

[17] Giang Lăng là vùng đất ở phía Đông huyện Chi Giang tỉnh Hồ Bắc, nằm ở phía Tây huyện Tiềm Giang và phía Nam huyện Kinh Môn.

[18] Liêm Hy Hiến (1231-1280) là một vị đại thần thời Nguyên, tự là Thiện Phủ, hiệu Dã Vân, vốn là con trai của Liêm Phóng Sứ Bố Lỗ Hải Tà, thuộc bộ tộc Úy Ngột Nhi (Uighur). Trong xu thế Hán hóa đời Nguyên, ông đổi họ thành Liêm. Ông từng được phong làm Kinh Triệu Tuyên Phủ Sứ. Trong khi đang theo phò Hốt Tất Liệt (Kublai) tấn công Ngạc Châu của nhà Tống, bỗng nghe tin Nguyên Hiến Tông (Mông Kha) chết, ông đã khuyên Hốt Tất Liệt đem quân về Bắc, giành quyền thống trị Trung Hoa. Khi quân Nguyên hạ thành Giang Lăng, ông được phong làm Bình Chương Kinh Nam Hành Tỉnh, An Phủ Kinh Châu Giang Lăng. Khi mất, ông được phong là Ngụy Quốc Công, tước Hằng Dương Vương. Liêm Hy Hiến đặc biệt coi trọng giáo dục, nhất là giáo dục Nho gia, thường khuyên Hốt Tất Liệt chú trọng đào tạo, nâng đỡ nhân tài, vỗ yên dân chúng, tái thiết cơ sở kinh tế, vận dụng nhân nghĩa để cai trị. Hốt Tất Liệt thường gọi ông là Liêm Mạnh Tử.

[19] Nguyên văn là “tỉnh Kinh Nam” (省荊南). Tỉnh (省) là gọi tắt của chức vụ Bình Chương Hành Tỉnh (平章行省), tức cơ cấu quản trị cao cấp nhất trong một châu huyện thời ấy. Liêm Hy Hiến đứng đầu cơ quan Bình Chương Hành Tỉnh của vùng Kinh Nam thuở ấy nên nói là “tỉnh Kinh Nam”.

[20] Bá Nhạc là người sống vào thời Xuân Thu, dưới thời đại Tần Mục Công. Ông tên thật là Tôn Dương, giỏi xem tướng ngựa, hễ nhìn ngựa liền biết ngay con nào là tuấn mã có thể chạy nhanh và dai sức.

[21] “Thi giải” (尸解) là thành ngữ của Đạo Giáo, chỉ người đã đắc đạo thành tiên, lìa bỏ xác phàm.

[22] Theo sách Yến Tử Xuân Thu, Tề Cảnh Công đi săn trên núi. Trông thấy trên núi có cọp. Xuống núi, thấy có ao chuôm, trong ao có rắn. Vua trở về, vời Yến Tử đến hỏi ý, cho rằng đó là những điềm bất tường. Yến Tử nhân đó bèn giảng cho vua biết: Bất tường thật sự là như thế nào?

[23] Sử thường gọi cuộc biến loạn này là “Nhị Đế Tứ Vương chi chiến” (cuộc chiến giữa hai đế và bốn vương). Vào thời Đường Đức Tông, các quan Tiết Độ Sứ thế lực rất mạnh, hầu như chỉ nghe theo lệnh triều đình trên danh nghĩa. Đường Đức Tông cực lực mưu tính dẹp bỏ Tiết Độ Sứ tại các phiên trấn. Lúc bấy giờ, Tiết Độ Sứ Thành Đức là Lý Bảo Thần chết, con trai là Lý Duy Nhạc xin nối vị cha. Đường Đức Tông cự tuyệt. Lý Duy Nhạc bèn liên kết với Truy Thanh Tiết Độ Sứ Lý Chánh Kỷ, Sơn Nam Đông Đạo Tiết Độ Sứ Lương Sùng Nghĩa, Ngụy Bác Tiết Độ Sứ Điền Duyệt, cũng như một số Tiết Độ Sứ khác khởi binh phản Đường. Khi Lý Chánh Kỷ chết, con trai là Lý Nạp xin nối ngôi cha, dĩ nhiên Đường Đức Tông từ chối. Các phản tướng tấn công ráo riết, lại thêm Lý Hy Liệt và Châu Thử làm phản. Điền Duyệt xưng là Ngụy Vương, Lý Nạp là Tề Vương, Vương Vũ Tuấn là Triệu Vương, Châu Thao là Ký Vương, Châu Thư là Tề Đế, Lý Hy Liệt xưng là Sở Đế. Họ tấn công các nơi trọng yếu, Đường Đức Tông gọi Diêu Lệnh Ngôn về bảo vệ kinh đô. Do bị các quan trọng thần như Lô Kỷ gièm báng, quân Diêu Lệnh Ngôn khổ cực mà không được tưởng thưởng xứng đáng, họ tức giận quay giáo tấn công kinh đô. Vua phải bỏ Trường An, chạy về Phụng Thiên lánh nạn. Châu Thử trọng dụng Diêu Lệnh Ngôn, dùng quân của họ Diêu thừa cơ đánh tới Phụng Thiên. May nhờ có viện binh của Lý Hoài Quang chống chọi, vua Đường mới kịp từ Phụng Thiên chạy về Lương Châu lánh nạn. Mãi cho đến Hưng Nguyên nguyên niên, dưới sự lãnh đạo của tướng Lý Thịnh, quân Đường mới chiếm lại được Trường An, dẹp tan quân phản loạn.

[24] Hình quan (刑官): Quan viên trông coi về tư pháp.

[25] Nguyên Tải là một đại thần dưới đời Đường Đại Tông. Ông ta từng làm Hành Quân Tư Mã, được phong làm Trung Thư Thị Lang. Ông ta cũng là kẻ chuyên quyền, thích ăn hối lộ, hãm hại bậc trung lương, xa xỉ, hoang phí, làm rất nhiều chuyện ác. Thuở ấy, hồ tiêu (black pepper) là một thứ gia vị quý hiếm phải nhập từ Tây Vực, hoặc lấy từ các nước phương Nam như Mã Lai, Nam Dương. Thế mà ông ta tích trữ đến tám trăm thạch hồ tiêu!

[26] Giả Tự Đạo là người xứ Thai Châu, sống vào đời Tống. Thuở trẻ là một gã lông bông, thích cờ bạc, chơi bời, chẳng ra gì. Do chị hắn được tuyển làm quý phi của Tống Lý Tông, hắn bèn nhờ chị vận động giành được một chức quan trong triều đình. Nhờ lắm mánh khóe, thủ đoạn, hắn ngoi lên tới chức Tham Tri Chánh Sự. Khi quân Nguyên đánh Ngạc Châu, vua sai hắn dẫn binh cứu viện. Văn dốt, vũ dát, hắn bị tướng soái quân Nguyên bắt được, phải xưng thần, hứa cống nạp, đút lót để được thả ra. Trở về, hắn tâu dối là đã đại thắng. Về sau, do khéo bợ đỡ, đón ý, hắn còn làm tới chức Hữu Thừa Tướng, khuynh loát triều chánh, gạt bỏ những kẻ chống đối, trừ khử những bậc trung lương. Giả Tự Đạo sống rất xa xỉ, ăn hối lộ không biết chán. “Đường sương” chính là đường cát trắng. Thuở đó, tại Trung Hoa chưa có mía. Đường mía phải nhập, hay bắt các nước phương Nam như Việt Nam, Mã Lai, Nam Dương, Xiêm La… cống nạp. Đường thô đã rất đắt, thế mà hắn nghiễm nhiên chiếm riêng tám mươi vò đường cát trắng tinh luyện!

[27] Nguyên văn “quán hãn văn võng” (慣捍文網). Ông Hoàng Bách Lâm giảng: “Hãn là xúc phạm, vi phạm. Văn Võng là pháp võng, tức pháp luật”.

[28] Nguyên văn “vi ấp dân cộng trắc mục giả” (kẻ bị dân trong huyện cùng liếc xéo). “Trắc mục” (側目) là nhìn bằng khóe mắt, hoặc liếc xéo, không thèm nhìn thẳng, biểu thị phẫn nộ, căm ghét.

[29] Hiểu thông thường, Lưỡng Hoài (兩淮) là vùng bắc sông Trường Giang thuộc tỉnh Giang Tô, thuộc hai miền Nam và Bắc của lưu vực sông Hoài. Ở đây, Lưỡng Hoài có thể hiểu là hai lộ Hoài Đông và Hoài Tây đời Tống. Nhà Tống chia Trung Hoa thành nhiều lộ, mỗi lộ tương đương với một tỉnh trong hiện thời. Chức Diêm Vận Sứ có tên gọi đầy đủ là Đô Chuyển Diêm Vận Sứ Ty Diêm Vận Sứ (都轉鹽運使司鹽運使), đôi khi chỉ gọi là Diêm Vận Ty, được đặt ra từ đời Nguyên, chỉ áp dụng vào những tỉnh sản xuất muối như Lưỡng Hoài, Lưỡng Chiết, Phước Kiến v.v… Do muối là một nguồn lợi rất lớn, nên triều đình đặc biệt lập ra một cơ quan trông coi việc vận chuyển, đánh thuế, cũng như trừng trị những kẻ buôn lậu muối. Đến đời Thanh, cả nước Trung Hoa có bảy Diêm Vận Sứ tại các tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, Lưỡng Hoài, Lưỡng Chiết, Quảng Đông, Tứ Xuyên và Phụng Thiên.

[30] Thiên Thuận là niên hiệu của Minh Anh Tông (Châu Kỳ Trấn) từ năm 1457 đến năm 1464. Minh Anh Tông sử dụng hai niên hiệu là Chánh Thống (1436-1449) và Thiên Thuận (1457-1464). Sở dĩ có sự gián đoạn là vì năm 1449, bộ tộc Ngõa Lạt (Oirats) xâm lăng Trung Hoa, Vương Chấn khuyên vua thân chinh. Khi quân Minh kéo đến Thổ Mộc Bảo, đã bị thái sư Dã Tiên của quân Ngõa Lạt đánh tan tác, Minh Anh Tông bị cầm tù. Trước tình thế nguy ngập đó, hoàng thái hậu Tôn Thị đã lập em trai của Minh Anh Tông là Châu Kỳ Ngọc làm giám quốc. Không lâu sau, Kỳ Ngọc xưng đế, tức Minh Cảnh Tông. Minh Anh Tông bị cầm tù mãi cho đến năm 1450, do Hồng Lô Tự Khanh Dương Thiện bán sạch gia sản, chạy vạy, lo lót, thuyết phục Dã Tiên cho phép đón Minh Anh Tông về Yên Kinh. Về lại Yên Kinh, nhà vua lại bị Minh Cảnh Tông dùng quân cẩm y vệ giam lỏng ở Nam Cung. Vua sống hết sức đói khổ, thường xuyên thiếu ăn. Mãi cho đến năm Cảnh Thái thứ tám (1457), Minh Cảnh Tông bị bệnh nặng, không thể thiết triều, Phó Đô Ngự Sử Từ Hữu Trinh, Vũ Thành Hầu Thạch Thuần v.v… thừa cơ dẫn quân tấn công Nam Cung mới cứu được Minh Anh Tông ra, đưa lên ngôi như cũ. Do vậy, vua đổi niên hiệu thành Thiên Thuận.

[31] Giám Ty (監司) là chức quan trông coi việc giám sát ở châu huyện. Thời Tống, các chức vụ Chuyển Vận Sứ, Chuyển Vận Phó Sứ, Chuyển Vận Phán Quan và Đề Điểm Hình Ngục đều gọi chung là Giám Ty.

[32] Nguyên văn là “hình mạc” (刑幕), đây là từ ngữ gọi chung những người làm nha lại giúp đỡ vị hình quan xét xử, điều tra, thẩm vấn, lập án từ, bảo quản công văn v.v…

[33] Túy Khôi (醉魁): Khôi (魁) là người đỗ đầu trong một cuộc thi. Chữ Túy nếu tách ra sẽ là do hai chữ Tốt (卒) và Dậu (酉) ghép lại. Chữ Tốt trông giống như chữ Tân (辛), nên mới có người đoán Túy Khôi có nghĩa là con trai ông Trần Tài sẽ đỗ đầu trong khoa thi năm Tân Dậu.

[34] Huấn Đạo (訓導) là chức quan phụ tá lo quản trị các sinh viên (học sinh đã vào học tại các phủ, châu, huyện). Chẳng hạn, vị quan trông coi về giáo dục của một phủ sẽ được gọi là Giáo Thụ (教授), có bốn người phụ tá gọi là Huấn Đạo. Viên quan trông coi việc giáo dục tại một châu gọi là Học Chánh (學正), có ba viên Huấn Đạo phụ tá. Tại cấp huyện thì có một người trông coi việc giáo dục gọi là Giáo Dụ (教諭), có hai viên Huấn Đạo làm phụ tá.

[35] Thời cổ, nơi nào có hai ngàn năm trăm hộ trở lên thì được gọi là một Châu (州), nơi có hai trăm năm mươi hộ được gọi là một Lý (里). Về sau, châu lý được hiểu theo nghĩa rộng là những người đồng hương.

[36] Do nha lại bên hình pháp viết án từ định tội người khác như dao chặt xuống không khoan nhượng, nên gọi là “đao bút” (刀筆).

[37] Thư lại (書吏) là những kẻ giữ sổ sách biên soạn văn từ, hồ sơ, và các bản án trong công môn. Từ ngữ này còn dùng để chỉ các quan chức trong giới hành chánh.

[38] Cấm binh (禁兵) còn gọi là Cấm Quân, hoặc Cấm Vệ Quân, tức quân bảo vệ hoàng đế và hoàng cung. Ở đây, chỉ nên hiểu theo nghĩa hẹp là bọn lính canh ngục.

[39] Tuần Án (巡按) chính là chức Tuần Án Ngự Sử được thiết lập từ đời Minh, tức là vị Ngự Sử thường đi tuần tra các nơi, có quyền hạn rất lớn. Vị này phụ trách khảo hạch các quan viên và bọn nha lại, chủ trì xét xử những vụ án lớn, tái thẩm những vụ nghi án. Từ Tri Phủ trở xuống đều phải nghe theo lệnh vị này.

[40] Giáo phường (教坊) là cơ quan quản lý âm nhạc, chuyên trách quản lý những thể loại âm nhạc ngoài Nhã Nhạc (nhạc tấu trong các dịp lễ trong cung đình như khi tế lễ hoặc thiết triều), cũng như các hình thức nghệ thuật diễn xướng, kể cả những trò biểu diễn khác, gọi chung là Bách Hý. Nói riêng đào hát, kép hát, vũ công đều trực thuộc sự cai quản của giáo phường. Những người làm nghề giải trí này có địa vị rất thấp kém trong xã hội thuở trước.

[41] Nhiệt thẩm (熱審, xét xử vào tháng nóng) là quy định từ đời Minh. Theo đó, từ sau ngày mồng Mười tiết Tiểu Mãn cho đến ngày mồng Một trước tiết Lập Thu, do khí trời quá oi bức, các quan tuần án hoặc giám sát, sẽ xét lại những hồ sơ vụ án để quyết định mà giảm nhẹ án phạt cho những kẻ bị phạt tội lưu đày, phạt trượng v.v… Chuyện này được gọi là Nhiệt Thẩm.

[42] “Tấn thân” (縉紳) có nghĩa là “cắm cái hốt vào đai lưng”. Hốt (笏) là một vật dụng thường có hình dạng dài và hẹp, làm bằng ngọc, bằng ngà, hoặc chỉ đơn giản bằng gỗ. Khi vào tâu trình nhà vua, họ thường viết những điều cần tâu trên đó để khỏi quên. Khi tâu vua, hai tay cầm hốt, giơ lên trước mặt nhằm tỏ lòng cung kính. Về sau, vua cũng cầm hốt khi mặt triều phục ngồi trên ngai khi các quan triều bái. Trong trang phục của các quan, đai lưng thường có chỗ phồng lên ở ngang eo, để các quan cắm hốt vào đó khi quỳ lạy vua, hoặc nhằm rảnh tay khi đi đường. Do vậy, “tấn thân” là từ ngữ phiếm chỉ các quan chức lớn.

[43] Nguyên văn “phược thi quán trấp” (縛屍灌汁). Theo ông Hoàng Bách Lâm, “phược thi” (trói xác người chết), có nghĩa là người đã chết không được phép chôn cất, cứ quàn tại đó. “Quán trấp” (rỉ ra chất lỏng) là một thành ngữ của vùng Kinh Tương, có nghĩa là thi thể bắt đầu rữa nát, tuôn máu chảy mủ. Thành ngữ này có nghĩa là vì người nhà không hối lộ, bọn quan lại, chức dịch, cường hào không cho phép chôn cất người đã chết, cứ bắt giữ lại đó để làm tang chứng.

[44] Chúng tôi thêm vào câu này theo cách giải thích của ông Hoàng Bách Lâm.

[45] Đây là một cách nói khác của từ ngữ “y quan cầm thú” (lũ cầm thú mặc áo, đội mũ), nhằm thóa mạ những kẻ bề ngoài ra vẻ học thức, đạo đức, tuân theo lễ nghĩa thánh hiền, nhưng hành vi xấu xa, tồi bại.

[46] Ý nói thái độ thay đổi bất thường, tráo trở, chỉ cốt sao đạt được mục đích.

[47] Theo ông Hoàng Bách Lâm, câu này phải hiểu là kẻ nghèo túng, chẳng biết làm sao, đành bó tay, cam lòng oán hận, trơ mắt nhìn kẻ khác hung hăng, lấn hiếp.

[48] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này có nghĩa là phải tìm cho ra nguyên nhân, động cơ dẫn đến vụ án, chứ không phải chỉ quan sát trên hiện tượng rồi kết luận vụ án. Chẳng hạn, người bị trúng độc chết vì thuốc thì không thể kết luận đơn giản nguyên nhân là chết vì trúng độc, mà phải tìm ra hung thủ, ai là người đã dùng thuốc độc mưu sát nhằm mục đích gì, vì sao lại dùng độc, cách hạ độc như thế nào, ai sẽ có lợi khi người ấy chết v.v… Tương tự như vậy, đối với những người tự tử chết, phải tìm cho ra nguyên nhân nào đã ép họ phải chọn phương cách tự tử, hoặc họ có thật sự tự tử hay không, hay là bị người nhà giết chết rồi dàn cảnh như tự tử?

[49] Những thứ này toàn là hình cụ, tức dụng cụ để tra tấn thời cổ. Trúc bản (竹板, tạm dịch là roi cật tre) là dùng những miếng cật tre già bó thành roi, dùng để đập vào đùi, hoặc mông tội nhân khiến cho họ bị nát thịt. Hình phạt đầu tiên trong ngũ hình (năm hình phạt) thời cổ là Xuy Hình (笞刑), tức là dùng trúc bản để đánh. Kẹp ngón tay (拶指, tạt chỉ) là một thứ hình cụ bằng gỗ gồm năm miếng gỗ dài bảy tấc, rộng năm phân, dùng dây buộc lại thành hình ống. Khi hành hình, sẽ đút ngón tay của tội nhân vào đó, rồi xiết chặt dây, khiến cho tội nhân đau đớn thét lên. Hình phạt này dành cho phụ nữ. Giáp côn (夾棍, tạm dịch là côn kép) là côn được chế bằng hai thanh gỗ to, cứng ghép lại. Phạm nhân bị đánh côn kép thường sẽ bị què quặt suốt đời.

[50] Ngỗ tác (仵作) hoặc còn gọi là “lại ngỗ” (吏仵) là nhân viên chuyên mổ xẻ, kiểm nghiệm thi thể trong các cơ quan hình pháp thuở trước, tức là nhân viên pháp y trong hiện thời.

[51] Tư Lý (司理) là chức quan thuộc về hình pháp, chưởng quản nhà tù, tố tụng, khám nghiệm, điều tra.

[52] Thôi Tư (推司) là chức quan đặc trách điều tra phá án, phụ tá của huyện lệnh.

[53] Vị này tên thật là Triệu Biện, có hiệu là Duyệt Đạo, Thanh Hiến là thụy hiệu, biệt hiệu là Tri Phi Tử. Ông nổi tiếng với chuyện hằng ngày thắp hương tấu trình thiên đình những chuyện đã làm trong một ngày. Ông thường nói: “Chuyện đã làm trong một ngày không gì chẳng thể tấu trình thượng đế”. Ông đỗ Tiến Sĩ dưới thời Tống Nhân Tông, giữ chức Điện Trung Thị Ngự Sử, đàn hặc bọn tham quan không e ngại, nên người đương thời gọi ông là Thiết Diện Ngự Sử (vị Ngự Sử mặt sắt). Về sau, dưới thời Tống Thần Tông, do chống đối tân pháp của Vương An Thạch, ông bị đổi làm tri phủ Hàng Châu.

[54] Đây là quy chế đã có từ đời Đường, dưới quyền các chức quan Tiết Độ Sứ, có các chức quan Quan Sát Sứ, Đoàn Luyện Xứ, Phòng Ngự Sứ, Thái Phỏng Xử Trí Sứ. Dưới những chức quan này, lại đặt một chức Thôi Quan để làm quan tòa, chưởng quản hồ sơ vụ án, và những sự việc liên quan đến tố tụng và nhà tù. Chức vụ này thường được gọi là Tiết Độ Thôi Quan.

[55] Phù điệp (符牒) còn gọi là giới điệp hoặc độ điệp là giấy chứng nhận chánh quyền xác minh một tăng sĩ đã đậu khảo hạch về kinh giáo, và có tư cách xứng đáng làm tăng sĩ.

[56] Tiểu Đỗ là Đỗ Diên Niên. Cha ông ta là Đỗ Châu là một tay quan lại khét tiếng tàn ác đời Đông Hán, nhưng Đỗ Diên Niên lại là người nhân từ, thông hiểu tình lý. Đỗ Diên Niên phù tá tể tướng Hoắc Quang. Hoắc Quang áp dụng pháp luật quá khắt khe, Đỗ Diên Niên thường dùng lời lẽ mềm lỏng khuyên lơn. Tiểu Đỗ Luật chính là bộ luật nhà Hán do Đỗ Diên Niên tu chỉnh.

[57] Quyết Tào Duyện (決曹掾) là chức vụ xử án, thẩm phán trong một châu huyện thời Hán.

[58] Đông Hải chính là Đàm Huyện thời Hán, tức vùng đất thuộc huyện Phí tỉnh Sơn Đông ngày nay. Ông Vu chính là cha của Vu Định Quốc, một nhà luật học lừng danh đời Hán. Cha Vu Định Quốc làm phán quan rất công minh, chánh trực. Do vậy, những phạm nhân bị ông phán tội đều phục, không oán thán chút nào.

[59] Theo quy chế đời Hán, Đình Úy (廷尉) là chức quan cao nhất chưởng quản tư pháp cả nước, tương đương bộ trưởng Tư Pháp hiện thời. Đến đời Hán Cảnh Đế, chức vụ này được đổi thành Đại Lý, về sau lại gọi là Đình Úy, mãi cho đến thời Bắc Tề mới đổi thành Đại Lý Tự Khanh. Các quan phụ tá được chia thành ba cấp là Đình Úy Giám, Đình Úy Bình và Đình Úy Sứ.

[60]Dương Bạch Khởi chính là Dương Chấn, ông có tên tự là Bạch Khởi. Dương Chấn sống vào thời Đông Hán, thông hiểu kinh điển Nho gia, đặc biệt là sách Âu Dương Thượng Thư, cho nên được người đương thời xưng tụng là Quan Tây Phu Tử. Ông làm quan đến chức Thái Thú Đông Lai. Vương Mật là huyện lệnh Xương Ấp cảm kích ông đã đề cử, đến đêm, bèn mang mười cân vàng tới biếu tạ. Dương Chấn kiên quyết cự tuyệt, Vương Mật năn nỉ: “Đêm sâu có ai biết đâu mà!” Dương Chấn quát to: “Trời biết, đất biết, ta biết, ông biết, sao lại nói là không ai biết”.

[61] “Lục súc” (六畜) là sáu loài gia súc, tức ngựa, trâu hay bò, dê, gà, chó, lợn.

[62] Lô Đa Tốn là người xứ Hoài Châu, tỉnh Hà Nam, là cháu đời thứ mười bốn của thứ sử Lô Thượng Chi. Ông ta đỗ Tiến Sĩ dưới thời Hậu Châu, về sau theo nhà Tống. Khi làm Hàn Lâm Học Sĩ, ông đã cùng Lưu Hàn biên soạn bộ Khai Bảo Bổn Thảo. Ông được phong làm Trung Thư Thị Lang Bình Chương Sự, rồi làm Binh Bộ Thượng Thư. Do bất hòa với Triệu Phổ (vị này là khai quốc công thần của nhà Tống, nổi tiếng với câu nói: “Thần dùng nửa bộ Luận Ngữ mà đã đủ sức để phò tá bệ hạ lên ngôi cửu ngũ”), Lô Đa Tốn bèn bịa chuyện tố cáo Triệu Phổ đã tung tin Tống Thái Tổ không hề muốn truyền ngôi cho Tống Thái Tông. Do vậy, Tống Thái Tông ghét bỏ Triệu Phổ. Khi Triệu Phổ được phục chức Tể Tướng, đã kiếm cớ hạch tội, khiến cho Lô Đa Tốn bị mất sạch quan tước, cả nhà phải bị đày đi Châu Nhai (nay thuộc đảo Hải Nam). Lại quy định: Dẫu triều đình đại xá, cũng không đến phiên Lô Đa Tốn được hưởng ân xá. Về sau, Lô Đa Tốn bị bệnh chết tại Châu Nhai.

[63] Tham Quân (參軍) gọi đầy đủ là Tham Mưu Quân Vụ, tức chức quan phụ tá, làm cố vấn tham mưu cho các tướng quân hoặc những quan chức cầm quyền quân sự.

[64] Cao Tử Cao là người nước Vệ, tên thật là Cao Sài, tên tự là Tử Cao. Lúc trẻ, từng sống tại nước Lỗ, theo học với Khổng Tử. Về sau, ông trở về nước Vệ, làm người canh ngục. Nguyệt (刖, chặt chân) là một hình phạt thời cổ, tù nhân phạm tội sẽ bị chặt đứt cả bàn chân hay các ngón chân tùy theo tội trạng.

[65] Khoái Hội (蒯聵, sách Cảm Ứng Thiên đã khắc sai thành Khoái Quý, 蒯瞆) là vua nước Vệ, là con trai của Vệ Linh Công (Cơ Nguyên). Khi còn là Thái Tử, Khoái Hội tính giết phi tần của Vệ Linh Công là Nam Tử. Âm mưu bất thành, Khoái Hội phải trốn sang nước Tấn. Khi Vệ Linh Công đã chết, con trai Khoái Hội là Cơ Triếp lên làm vua, tức Vệ Xuất Công. Nước Tấn muốn đưa Khoái Hội về làm vua, nhưng dân nước Vệ không chịu. Về sau, Khoái Hội nhờ chị là Khổng Cơ giúp sức, trở về nước Vệ, đánh đuổi Vệ Xuất Công phải chạy sang nước Lỗ. Khoái Hội lên làm vua, tức Vệ Trang Công, lại bội ước với nước Tấn, nên nước Tấn vây đánh nước Vệ. Bị nhân dân nước Vệ chống đối, Khoái Hội đành phải chạy sang Nhung Châu lánh nạn. Sử gọi sự kiện này là “Khoái Hội chi nạn”.

[66] Ông này tên là Từ Tích, là người xứ Sơn Dương, Sở Châu (nay thuộc thành phố Hoài An, tỉnh Giang Tô), đỗ Tiến Sĩ dưới đời Tống Anh Tông, làm Giáo Thụ tại Sở Châu. Khi mất, ông được vua đặt thụy hiệu là Tiết Hiếu Xử Sĩ. Do vậy, sách Cảm Ứng Thiên mới ghi tên ông là Từ Tiết Hiếu Tích (tức là lồng thụy hiệu vào giữa tên thật) nhằm tỏ ý kính trọng.

[67] Tiên sinh An Định là Hồ Viện. Ông này là một học giả và là nhà giáo dục lừng danh thời Bắc Tống. Lầu tàng thư ở Như Cao và Hồ Châu là nơi ông dạy học, thường được gọi là An Định Thư Viện. Về sau, ông được mời giữ chức Quốc Tử Giám Trực Giảng và chủ trì trường Thái Học. Do sự giáo hóa của ông, học thuật tại Giang Tô, Hồ Châu, Tô Châu đều nổi danh nhất Trung Hoa thuở đó. Triều đình nhà Tống đã phái người đến khảo sát, đúc kết kinh nghiệm, biên soạn thành bộ sách Học Chánh Điều Ước.

[68] Tăng Tử Cố chính là Tăng Củng, vị này có tên tự là Tử Cố. Ông là người xứ Lâm Xuyên, xuất thân từ gia đình thư hương, ông nội và cha đều là những người học giỏi. Ông nội làm Hộ Bộ Thị Lang, cha làm Thái Thường Bác Sĩ. Tăng Củng mới mười hai tuổi đã có thể viết văn lưu loát, thốt ra những câu khiến người khác kinh hãi và thán phục. Âu Dương Tu hết sức ưa thích ông. Tăng Củng được xếp vào Bát Đại Văn Gia thời Đường – Tống.

[69] Vương Kinh Công chính là Vương An Thạch, là một tay chánh trị gia đã đề xướng khá nhiều tân pháp táo bạo, khiến cho sĩ phu thời ấy chống đối dữ dội. Ông cũng là người nổi tiếng hẹp hòi và độc đoán, chẳng dung thứ những kẻ có ý kiến khác mình. Để chuyển hướng sự công kích của sĩ phu và đại chúng, ông chủ trương xua một vạn quân sang đánh nhà Lý của Đại Việt, với mục đích muốn biến Đại Việt thành thuộc địa Giao Châu như thuở trước. Chiến cuộc dằng dai gần cả năm, tốn kém rất lớn, rất nhiều tướng lãnh tài ba tử trận, vẫn không dứt điểm được Đại Việt. Dưới sự chỉ huy tài tình của Lý Thường Kiệt, quân Tống không cách nào vượt qua sông Như Nguyệt. Lý Thường Kiệt lại khôn khéo áp dụng chiến tranh du kích, công phá hậu tuyến của quân Tống, lại dùng các biện pháp chiến tranh tâm lý khiến cho sĩ khí quân Tống giảm sút nghiêm trọng. Cuối cùng, nhà Tống phải chấp nhận lời cầu hòa của Đại Việt, rút về nước. Uy tín của Vương An Thạch mất sạch! Do Vương An Thạch lúc còn được vua sủng ái, đã được phong là Kinh Quốc Công, cho nên ở đây sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên gọi ông ta là Vương Kinh Công.

[70] Tử Hư Nguyên Quân là một vị thần trong Đạo Giáo. Bà còn được gọi là Nam Nhạc Phu Nhân, Thượng Chân Tư Mạng Nam Nhạc Phu Nhân, hoặc Ngụy Phu Nhân, tên thật là Ngụy Hoa Tồn, là đạo sĩ sống vào đời Tấn, quê ở Nhiệm Thành. Bà là con gái của Tư Đồ Ngụy Thư, từ nhỏ đã thích tu tiên, thông hiểu kinh sách Đạo Giáo, kiêm tinh thông Nho học, đặc biệt ưa thích tư tưởng Lão Trang. Bà thích ăn các thứ dược vật như Hồ Ma Tán, Phục Linh Tán v.v… để mong thành tiên. Bà mong sống đời độc thân, nhưng khi hai mươi bốn tuổi bị cha mẹ ép gả cho ông Lưu Văn, sanh được hai con là Phác và Hà. Khi hai con đã lớn, bà tĩnh cư riêng biệt, chuyên tâm tu đạo. Tương truyền bà được Thanh Hư Chân Nhân dạy đạo. Sau khi Lưu Văn mất, do tỵ nạn, bà dẫn hai con xuống Giang Nam. Khi các con đã ra làm quan, bà uống thuốc tiên, bay lên trời, thành tiên.

[71] Noãn xúc (煖觸): Noãn là hơi ấm, Xúc là sự nhận biết, cảm xúc. Noãn (煖) chính là độ ấm của cơ thể, ở đây dùng để chỉ Tứ Đại, vì Noãn tương ứng với Hỏa Đại. Xúc (觸) là nói chung sáu thức. “Xả noãn xúc” tức là khi Tứ Đại chia lìa, tiền lục thức chẳng còn hiện hành.

[72] Phương sĩ (方士), còn gọi là thuật sĩ (術士) là những kẻ tự xưng là tu luyện thuốc tiên, thường đốt lò nấu kim đan, tiên đan, tự khoe là biết những bài thuốc trường sanh bất tử, uống vào phàm thân sẽ đổi thành thánh thai, đăng tiên v.v… Hoặc những gã đạo sĩ chuyên đề xướng những thuật tu tiên quái đản, như dùng bùa chú để sai khiến âm binh hãm hại người khác, dùng phòng trung thuật, nam nữ thái âm bổ dương hòng kéo dài tuổi thọ v.v…

[73] Tam cô (三姑) là ni cô, đạo cô và quái cô (卦姑, bà thầy bói). Lục bà (六婆) gồm nha bà (牙婆, tức là những người đàn bà chuyên môi giới mua đi bán lại), mưu bà (媒婆, bà mối), sư bà (師婆, hoặc vu bà (巫婆), những người đàn bà để ma quỷ nhập xác, thường gọi là “cốt”, hoặc “xác”, hoặc làm nghề thầy mo, lên đồng), kiền bà (虔婆, những phụ nữ làm nghề bất chánh như chủ chứa, còn gọi là bảo mẫu – 鴇母), dược bà (藥婆, những bà lang vườn, chuyên cắt, giác, lể), và ẩn bà (穩婆, mụ đỡ).

[74] Trạch Càn Hữu quê ở Vân An, Tứ Xuyên, là một đạo sĩ nổi tiếng đời Đường. Tương truyền ông đích thân được thần tiên từ núi Hoàng Hạc chỉ dạy nên phù chú rất linh, có bản lãnh chế ngự hổ, báo, giao long. Dân gian xưng tụng ông là Thông Linh đại sư.

[75] Nguyên văn là “khảo triệu” (考召). Đạo gia do dùng phù chú để khảo quỷ triệu thần (tra hỏi quỷ, triệu thỉnh thần), nên phù chú được gọi bằng từ ngữ “khảo triệu”.

[76] Nguyên Đạo Biện (原道辨) là một bài viết của Tống Hiếu Tông (Triệu Thận) vào năm Thuần Hy thứ tám (1181) để bác bỏ những luận điệu đả phá Phật giáo trong bài Nguyên Đạo Luận của Hàn Dũ. Tác phẩm này về sau được gọi là Tam Giáo Luận.

[77] Công Tôn Hoằng sống vào đời Tây Hán, làm thừa tướng dưới thời Hán Vũ Đế. Do ông ta đã vay mượn tư tưởng của pháp gia (học thuyết dùng hình luật nghiêm khắc để dân chúng sợ hãi mà tuân phục) để chủ trương tập trung quyền hành vào tay hoàng đế, chú trọng đạt đến mục đích, bất cần thủ đoạn, nên đã bị các nhà Nho sau này coi là kẻ đã giải thích cong vạy tư tưởng của Nho gia.

Chúc Khâm Minh giữ chức Quốc Tử Giám Tế Tửu (tương đương với chức Hiệu Trưởng) đời Đường Trung Tông. Ông là người thông hiểu Ngũ Kinh, nhưng tánh ưa xu nịnh. Có lần hoàng đế đãi tiệc đại thần, nhằm bợ đỡ vua, ông khoe là mới chế ra khúc múa Bát Phong Vũ, xin vua cho phép biểu diễn. Tiếc là ông vừa mập ụt ịt, vừa xấu trai, vừa di chuyển lạch bạch, vừa lắc lư đầu, trợn tròn hai mắt, lúng liếng liếc qua liếc lại làm duyên không giống ai, khiến cả triều đình cười lăn cười bò. Lại Bộ Thị Lang Lô Tạng Dụng cảm thán: “Ngũ Kinh đã bị đem quét đất mất rồi”, ngụ ý chê trách Chúc Khâm Minh chẳng biết giữ dáng vẻ tôn nghiêm tối thiểu của một người thầy.

Dương Tử Vân chính là học giả Dương Hùng (53-18 trước Công Nguyên), tên tự là Tử Vân. Ông là một học giả, văn gia và là nhà ngôn ngữ học trứ danh đời Hán. Ông đã đề xướng Thái Huyền là căn nguyên của vạn sự vạn vật trong vũ trụ, chủ trương con người vốn thiện ác lẫn lộn. Trở thành thiện hay ác là do tu tập như thế nào mà thôi! Do khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, lập ra nhà Tân, đã trọng dụng ông, phong cho ông làm Trung Tán Đại Phu, Dương Hùng bèn viết một bài văn dài ca tụng Vương Mãng. Bài văn này thường được người đương thời gọi châm biếm là Kịch Tần Mỹ Tân vì ông phê phán dữ dội Tần Thủy Hoàng nhằm tô chuốt những ưu điểm của nhà Tân.

Hứa Kính Tông làm Trung Thư Xá Nhân dưới đời Đường Thái Tông. Khi vua mất, Đường Cao Tông (Lý Trị, con trai Đường Thái Tông) u mê, bị Vũ Tắc Thiên lung lạc, giao hết quyền chánh cho bà ta. Sau khi Cao Tông mất, Vũ Hậu cướp ngôi của Đường Trung Tông, lập ra nhà Đại Châu. Thay vì tận tụy phục hồi nhà Đường như các vị trung thần khác, Hứa Kính Tông lại ra sức tận trung với Vũ Tắc Thiên. Do vì đánh mất khí tiết trung nghĩa, nên sách Cảm Ứng Thiên chê ông là “thất thân”. Lại do Vũ Tắc Thiên tiếm ngôi, nên sách gọi bà ta là Ngụy Vũ (“ngụy” ở đây là hư ngụy, dối trá).

[78] Tô Đông Pha lúc làm tri huyện Dương Châu, có lần nằm mộng thấy lên núi, bỗng có một con hổ nhảy xổ đến toan cắn. Đột nhiên có một gã đạo sĩ mặc áo tía, đội mũ vàng, dùng tay áo che cho Tô Đông Pha, quát lớn khiến con hổ bỏ chạy. Hôm sau, gã đạo sĩ tìm đến nha môn, vênh váo hỏi: “Đêm qua Ngài có sợ hay không?” Tô Đông Pha quát: “Thằng đạo sĩ chuột nhắt kia! Mày dám vác mặt đến đây ư? Có muốn bị đánh trượng gãy xương sống hay không? Ta chẳng biết mày giở trò Tý Dạ Thuật hay sao?” Gã đạo sĩ kinh hồn, lủi mất. Tý Dạ Thuật là một loại pháp thuật để đi vào trong giấc mộng của người khác hòng giở trò.

[79] Lâm Linh Tố là đạo sĩ thời Bắc Tống, người xứ Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang, tên thật Linh Ngạc. Do Tống Huy Tông mê thích thuật trường sanh của đạo sĩ, Lâm Linh Tố bèn thừa cơ mê hoặc, nói: “Cõi trời có chín tầng, tầng cao nhất là Thần Tiêu. Bệ hạ là con trưởng của Thượng Đế, tước hiệu là Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương, pháp hiệu là Trường Sanh Đại Đế Quân”, còn hắn chính là Thần Tiêu Phủ Tiên Khanh giáng hạ để phù tá Tống Huy Tông. Để lấy lòng bọn quyền thần, hắn nói các gã gian thần như Thái Kinh, Vương Phủ, Thịnh Chương, Vương Cách, Trịnh Cư Trung, cũng như một số thái giám có quyền uy thời đó đều là thần tiên giáng hạ để phò tá nhà vua, ngay cả sủng phi của Tống Huy Tông là Lưu Thị cũng là Cửu Hoa Ngọc Chân An Phi giáng thế! Tống Huy Tông mê muội tin theo, ban cho hắn ngự hiệu Thông Chân Đạt Linh Tiên Sinh, xây cung Thượng Thanh Bảo Lục cho hắn ở. Linh Tố bèn thừa cơ khuyên vua phế Phật. Vua bèn xuống chiếu bắt dân gọi Phật là Đại Giác Kim Tiên, các vị Bồ Tát gọi là Tiên Nhân, tăng sĩ bị đổi thành “đức sĩ”, chùa Phật không được dùng chữ Tự mà phải gọi là Cung, các tự viện gọi là Quán, các tăng sĩ bị xua đuổi, bị coi như hạng người hèn hạ trong xã hội!

[80] Ngụy Vũ Đế chính là Ngụy Thái Vũ Đế (Thác Bạt Đào) nhà Bắc Ngụy, khác với Ngụy Vũ Đế (Tào Tháo). Thác Bạt Đào thuộc tộc người Tiên Ty, là vua thứ ba của nhà Bắc Ngụy. Ngụy Thái Vũ Đế say đắm Đạo Giáo, nghe theo lời xúi giục của Thôi Hạo (Thôi Hạo vu cáo Phật tử đã ủng hộ loạn quân Cái Ngô) và đạo sĩ Khấu Sĩ Khiêm, nên nhà vua kiên quyết tiêu diệt Phật giáo. Đây là họa diệt pháp đầu tiên trong tai họa Tam Vũ Diệt Phật (Bắc Ngụy Vũ Đế, Bắc Châu Vũ Đế và Đường Vũ Tông) của Phật giáo Trung Hoa. Vua xuống chiếu cấm ngặt vương hầu và dân chúng cúng dường sa-môn, triệt hạ tự viện, tịch thâu tài sản của nhà chùa, sát hại các vị cao tăng Huyền Cao và Huệ Sùng. Thôi Hạo lại thôi thúc nhà vua tàn sát tăng sĩ tại Trường An rồi ban lệnh diệt Phật, đuổi Tăng khắp toàn quốc, khiến cho các tăng sĩ phải trốn lánh hay hoàn tục.

[81] Phó Dịch sống qua ba triều đại Châu, Tùy, Đường, tinh thông thiên văn và lịch pháp. Trước khi làm quan, ông ta là đạo sĩ. Ông ta làm Thái Sử Lệnh dưới thời Đường Cao Tông, dâng sớ nói: “Phật giáo có hại cho chế độ phong kiến, giúp dân trốn lính, chẳng thờ phụng cha mẹ, sư sãi toàn là bọn du thủ du thực trốn việc quan, ăn bám, phải nên phế trừ chùa chiền, bắt hết thảy tăng ni hoàn tục”. Ông ta liên tiếp dâng mười một tờ sớ đề nghị phế Phật.

[82] Trình Di làm chủ bạ ở Ngạc Châu. Có người khuyên ông ta hãy nên đến xem tượng Phật bằng đá phóng quang. Ông lấy cớ bận bịu công việc để thoái thác, bảo người ấy hãy mang tượng đến cho ông ta xem. Rồi khi có người kể chuyện linh dị, ông đều bác bỏ: “Ta cũng có chuyện lạ lắm, ăn vào bèn no!”

[83] Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường, có một vị Tăng người Ấn Độ tự xưng có răng Phật, tuyên bố không gì có thể phá hoại được. Phó Dịch bèn bảo con: “Đó không phải là răng Phật mà là đá kim cang. Kim cang cứng nhất, chỉ có sừng linh dương mới phá vỡ được”. Do vậy, con trai Phó Dịch bèn đến xin thử. Sừng linh dương vừa đụng vào, “răng Phật” vỡ nát.

[84] Vô Vi Giáo là chi phái của Bạch Liên Giáo, còn gọi là La Tổ Giáo.

[85] La Thanh (1442-1527), tự là Mộng Hồng, hiệu Tư Phù, người huyện Tức Mặc, tỉnh Sơn Đông. Hắn xuất thân là quân nhân, chuyên vận tải lương thực cho quân đội. Sau khi xuất ngũ, hắn trở về quê nghiên cứu Phật giáo, thật ra là vay mượn cách tu tiên, luyện đan, pha trộn vào một ít tư tưởng Phật giáo (theo kiểu diễn giải xằng bậy), thừa kế phần lớn giáo nghĩa của tà giáo Bạch Liên. Hắn tự xưng thừa kế các giáo nghĩa Thiền Tông, Tịnh Độ, giáo nghĩa của các phái Chánh Nhất và Toàn Chân trong Đạo Giáo. Đến năm bốn mươi mốt tuổi, hắn tự xưng là đã chứng ngộ Phật pháp, đắc pháp chánh truyền, và đưa ra tà thuyết: “Sau thời Lục Tổ, thiền pháp bị thất truyền, Thiền pháp chánh truyền được duy trì bởi hàng tại gia cư sĩ”, chủ trương niệm Phật, lạy Phật là pháp hữu vi, cách tu của hắn mới là pháp vô vi chân chánh, sáng lập ra “tôn giáo” mới, gọi là La Giáo, thực chất chỉ là vận dụng những giáo thuyết của Bạch Liên, và tự xưng rất khoa trương là Vô Tướng Chân Nhân, Hóa Thiện Tổ Sư, Yết Không Cổ Phật.

[86] Hy Hoàng chính là Phục Hy Thị. Phục Hy được tôn xưng là thỉ tổ của nền văn minh Hoa Hạ. Cổ thư ghi tên ông gọi theo nhiều lối khác nhau: Bào Hy, Mật Hy, Bao Hy, hay Hy Hoàng. Sử Ký nói ông là con của Hoa Tư, cha của Thiếu Điển, là ông nội của Viêm Hoàng. Theo truyền thuyết, ông dạy dân đan lưới bắt cá, săn bắn, nuôi dưỡng gia súc, chế ra Bát Quái, chế ra văn tự và đàn cổ cầm. Ông còn được xếp vào Tam Hoàng. Thần thoại nói ông thân có vảy, còn em gái của ông là Nữ Oa có thân rắn. Truyền thuyết khác lại nói họ là vợ chồng. Có thuyết nói Phục Hy chính là Bàn Cổ. Theo các nhà khảo cứu, sau khi Hoàng Đế thay thế Viêm Đế, đánh bại Si Vưu, do thấy tổ tiên của các bộ lạc Viêm Đế và Si Vưu là Phục Hy rất được kính ngưỡng, bộ tộc của Hoàng Đế bèn vay mượn truyền thuyết về Phục Hy, sáng tạo ra nhân vật Bàn Cổ, dần dần dẫn đến truyền thuyết Bàn Cổ mở mang trời đất.

[87] Dưới thời Hán Bình Đế, nhà vua đã dâng thụy hiệu cho Khổng Tử là Bao Thành Tuyên Ni Công. Do vậy, các đời sau thường gọi Khổng Tử là Tuyên Thánh.

[88] Theo Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký quyển thượng, trong niên hiệu Vũ Đức đời Đường, có một viên Đô Thủy Sứ họ Tô. Vị này chuyên trông coi công tác vận chuyển trên sông ngòi, tu bổ cầu bến, nạo vét sông rạch, đắp sửa đê điều… Về sau, ông ta làm Thứ Sử tại Ba Châu (Tứ Xuyên), đi qua sông Gia Lăng, sóng to rất lớn, thuyền bị lật, mọi người đều bị chết đuối. Chỉ có một người thiếp do thường đọc kinh Pháp Hoa. Khi rớt xuống nước, cô bèn đội rương đựng kinh lên đầu, nguyện có chết thì sẽ chết cùng kinh. Lạ thay, thuyền không chìm mà lừ đừ trôi tới, cô bèn trèo lên thuyền, từ từ bị dạt vào bờ. Lên tới bờ, cô kiểm lại, ngạc nhiên khi thấy kinh không hề bị ướt chút nào.

[89] Thiền sư Quốc Thanh là ngài Phổ Minh Quốc Thanh, sống vào đời Nam Triều, quê ở huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, là cao tăng của tông Thiên Thai. Năm Thái Kiến thứ năm (582) đời Trần, Sư vào núi Thiên Thai, gặp Trí Giả đại sư giảng kinh, ngộ được tâm yếu, bèn tôn ngài Trí Giả làm thầy, tu tập các phép tam-muội Bát Nhã và Phương Đẳng, kiêm trì tụng kinh Pháp Hoa.

[90] Phân Thủ Đạo (分守道) là một chức phụ tá của quan Bố Chánh. Do chức vị này có nhiệm vụ quản trị, phân phối, tích trữ lương thực, quản trị ruộng nương, cũng như coi sóc việc truyền phát công văn giữa cách dịch trạm, nên gọi là Phân Thủ.

[91] Nguyên văn Dược Nỗ (藥弩) là một loại cung bắn tên tự động.

[92] Gậy dính (粘竿, niêm can) là một thứ dụng cụ để bắt chim, thường làm thành hình sào dài, một đầu có gắn chất keo dính.

[93] Nguyên Hựu là niên hiệu của Tống Triết Tông (Triệu Hú) từ năm 1086 đến năm 1094. Tống Triết Tông sử dụng ba niên hiệu là Nguyên Hựu, Thiệu Thánh và Nguyên Phù.

[94] Bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội ghi là Hồng Nông, nhưng các bản khác đều ghi là Hoằng Nông. Ông Hoàng Bách Lâm nói rõ Hoằng Nông là tên một huyện vào thời Hán, nay thuộc phần phía Bắc của thành phố Linh Bảo, tỉnh Hà Nam.

[95] Thành Thang, còn gọi là Thiên Ất, Đại Ất, Cao Tổ Ất, hoặc Thành Đường. Vua họ Tử, tên là Lý, là lãnh tụ của bộ tộc Thương. Vua trọng dụng Y Doãn và Trọng Hủy, đóng đô tại đất Hào, tích cực biến Thương thành một quốc gia hùng mạnh. Khi vua Kiệt nhà Hạ tàn ác, hôn ám, bóc lột dân chúng tàn bạo, vua Thành Thang đã hiệu triệu chư hầu đứng lên lật đổ nhà Hạ, lập ra nhà Thương. Theo Lã Thị Xuân Thu, vua thấy có kẻ giăng lưới bốn phía ước nguyện: “Những con vật từ trên trời rơi xuống, từ dưới đất chui lên, từ bốn phương đến, đều mắc vào lưới ta”. Vua than: “Ôi! Bắt sạch hết, nếu chẳng phải là Kiệt thì có ai làm như thế ư?” Bèn bảo người ấy chỉ căng lưới một phía, để cho các con vật còn có chỗ thoát thân.

[96] Thuở xưa, khi đúc chuông xong, người ta tin phải giết một con trâu lấy máu nó bôi vào chuông thì tiếng chuông mới vang xa, chuông không bị rè. Tục lệ này gọi là Hấn Chung (釁鐘). Theo sách Mạnh Tử, vua Tề thấy con trâu run lẩy bẩy khi sắp bị hấn chung, bèn hạ lệnh thả nó đi.

[97] Bạch Khởi là một danh tướng của nước Tần, vốn tên là Công Tôn Khởi. Ông ta là vị tướng giỏi, gần như đánh đâu thắng đấy, đã tham dự hơn bảy mươi trận chiến. Tánh Bạch Khởi tàn nhẫn, thích tàn sát, nên bị người đương thời gọi là Nhân Đồ (gã đồ tể giết người). Trong trận Trường Bình, Bạch Khởi dùng kế khích cho liên quân Triệu và Hàn dưới sự lãnh đạo của Triệu Quát khinh địch mà đánh tan quân Triệu. Số quân Triệu bị bắt lên tới bốn mươi vạn người. Sợ có biến, Bạch Khởi cho quân Triệu ăn uống no say, quân Tần sẽ thừa cơ xông vào, hễ thấy người nào không có vải trắng buộc trên đầu như đã ngầm ấn định trước, cứ giết thẳng cánh. Bốn mươi vạn hàng quân nước Triệu bị giết sạch trong một đêm.

[98] Đông Pha nay thuộc huyện Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc.

[99] Chúng ta thường nói Long, Lân, Quy, Phụng là Tứ Linh, đó là nói cho thuận miệng, chứ theo sách Lễ Ký, thiên Lễ Vận chép: “Hà vị tứ linh? Lân, Phụng, Quy, Long, vị chi tứ linh” (Tứ linh là gì? Lân, phụng, rùa, rồng là tứ linh) thì rồng được xếp vào hạng chót trong tứ linh.

[100] Ngự thiện (禦膳): Bữa ăn, món ăn cho nhà vua.

[101] Giám tể (監宰) là vị quan trông coi việc nấu nướng thức ăn cho nhà vua.

[102] Theo Giới Sát Phóng Sanh Văn Đồ Thuyết, Hứa Tôn là người đời Tấn, tên tự là Kính Chi, thích săn bắn. Có một hôm ông ra đồng, bắn chết một con nai bé. Nai mẹ hết sức đau khổ, chạy đến liếm mãi vết thương, nhưng nai con đã chết. Nai mẹ bi thương, lẩn quẩn, hết liếm lại kêu não nuột. Hồi sau, nó ngã lăn ra chết. Hứa Tôn kinh ngạc, mổ ra xem thấy ruột non của nai mẹ đứt từng khúc. Ông bèn cảm thán, bẻ vụn cung tên, thề không bao giờ săn bắn, rồi bỏ đi tu. Về sau Hứa Tôn được Ngô Mãnh truyền dạy Tam Thanh Pháp Yếu, bèn tu thành tiên, tức là Hứa Chân Quân trong Đạo Giáo.

[103] Thời Xuân Thu Chiến Quốc, có một tay thiện xạ tên là Dưỡng Do Cơ. Có lần, ông ta theo hầu Sở Vương đi săn, thấy trên cây có một con vượn già. Dưỡng Do Cơ rút cung tên ra toan ngắm bắn, con vượn biết sẽ không tránh khỏi cái chết, nó run lẩy bẩy, khóc ròng.

[104] Tử Sản là tên tự của Công Tôn Kiều, sống vào thời Xuân Thu. Ông còn được gọi là Tử Mỹ, làm quan chánh khanh của nước Trịnh, nổi tiếng là người thông minh, cai trị nhân từ, có tài chỉnh đốn kỷ cương, chú trọng giáo dục, phát triển kinh tế, khiến nước Trịnh trở thành hùng mạnh dưới thời Trịnh Giản Công. Ông thường được người khác biếu tặng cá tươi, nhưng chẳng nỡ ăn, sai người hầu đem thả vào ao đào trong vườn. Ông thấy cá bơi lội thung thăng trong đó, bèn cảm thán “đắc kỳ sở tai” (cá được yên thân).

[105] Theo kinh Kim Quang Minh, quyển bốn, phẩm Trưởng Giả Tử Lưu Thủy, thì trưởng giả Lưu Thủy có hai con là Thủy Không và Thủy Tạng. Ba cha con đi chơi trong lãnh địa của mình, bỗng thấy trong một vùng đầm trũng có một cái ao nước đã cạn khô gần hết, những con cá đang ngoi ngóp trong ấy sắp bị chết khô, hay sẽ làm mồi cho chim, thú. Trưởng giả bẻ cây che cho chúng đỡ nóng, lại sai con về triều mượn đức vua hai mươi thớt voi để chở nước suối đến cứu cá. Lại còn thả đồ ăn cho chúng được no đủ. Lại niệm Phật hiệu cho chúng nghe. Đêm ấy, mười ngàn con cá ấy đồng thời mạng chung, sanh lên trời Đao Lợi. Họ đến nhà trưởng giả chiếu hào quang sáng rực, đảnh lễ trưởng giả Lưu Thủy. Trưởng giả Lưu Thủy chính là tiền thân của Thích Ca Mâu Ni Phật.

[106] Khi Phật Thích Ca còn tu nhân, hành Bồ Tát đạo, trông thấy một con chim ưng đuổi bắt bồ câu. Con bồ câu chạy đến núp dưới vạt áo của Ngài. Chim ưng bảo Bồ Tát hãy trả lại con bồ câu vì nó đang đói. Bồ Tát bèn cắt thịt của chính mình cho chim ưng ăn, lóc thịt từ bắp tay. Chim ưng cứ đòi ăn mãi, Bồ Tát lóc thịt lộ cả xương, mà chim ưng vẫn cứ kêu đói. Nó hỏi Bồ Tát có hối hận hay không? Bồ Tát nói: “Ta hoàn toàn chẳng hối hận. Nếu lời này chẳng dối, thịt ta sẽ mọc lại như cũ”. Quả nhiên thịt trên thân Bồ Tát mọc lại như cũ. Chim ưng bèn hiện lại nguyên hình là Đế Thích Thiên, đảnh lễ, tán thán lòng từ bi của Bồ Tát.

[107] Trong quá khứ, có một vị tiên nhân tu Thiền Định rất sâu. Tới khi Ngài xuất Định, chim đã làm tổ trên đầu. Do vậy, Ngài vẫn ngồi yên vì sợ kinh động chim.

[108] Tôn Chân Nhân chính là Tôn Tư Mạo. Ông là một vị thầy thuốc nổi danh, Đạo Giáo tin là ông đã thành tiên. Tương truyền khi chưa thành tiên, ông thấy một đứa trẻ trong thôn bắt một con rắn, đánh đập để chơi giỡn. Động lòng thương xót, ông bỏ tiền ra chuộc, dùng thuốc trị thương tích cho nó rồi thả vào rừng. Một tháng sau, trong khi đang tĩnh tọa, ông thấy một thiếu niên mặc áo xanh mời đến thủy tinh cung. Tại đó, ông thấy long vương ra nghênh tiếp, cảm tạ đã cứu con trai. Sau khi bày tiệc đãi đằng ba ngày, vua đem kỳ trân dị bảo biếu tặng khi chia tay. Tôn Chân Nhân từ chối, chỉ xin một bài thuốc. Long vương bèn tặng Ngọc Cấp Tam Thập Lục Phương (ba mươi sáu bài thuốc trong tráp ngọc). Từ đó, Tôn Chân Nhân y thuật lừng lẫy trong cõi đời.

[109] Đời Tống, Tống Giao và Tống Kỳ là hai anh em. Khi họ còn đang học trong trường Thái Học, có một vị cao Tăng xem tướng, bảo Tống Kỳ sẽ đỗ Trạng Nguyên khoa này, còn Tống Giao tuy cũng đỗ, nhưng thứ hạng rất thấp. Tống Giao ra đồng chơi, thấy có tổ kiến bị gió mưa đánh vỡ, kiến chết đuối vô số; ông động lòng thương, bắc cầu trúc cho kiến bò lên chỗ ráo. Đến lúc thi cử, khi chưa yết bảng, họ gặp lại vị cao Tăng. Vị cao Tăng kinh ngạc bảo Tống Giao: “Lạ quá, tướng mạo của ông thay đổi! Nhất định là có âm đức đã cứu mấy trăm vạn sanh mạng”. Nói qua nói lại, mới biết là do đã cứu đàn kiến. Vị Tăng bảo: “Tống Kỳ vẫn là Trạng Nguyên, nhưng do âm đức ấy, Tống Giao nhất định chẳng thua em trai mình”. Hỏi nữa, vị Tăng không trả lời. Kết quả là khi duyệt kết quả thi, Chương Hiến Thái Hậu thấy Tống Giao và Tống Kỳ là anh em, Tống Kỳ được chấm đậu Trạng Nguyên, liền bảo: “Em chẳng thể ở trên anh được”. Vì thế, do Tống Giao đỗ hạng mười, triều đình chiều theo lời Thái Hậu đổi Tống Kỳ thành đậu hạng thứ mười một.

[110] Theo Tấn Thư quyển sáu mươi mốt, Mao Bảo là người sống vào đời Tây Tấn. Ông đã mua lại một con rùa trắng sắp bị giết rồi nuôi lớn. Sau đó, thả đi. Trong cuộc chiến ở Châu Thành, quân ông bị chiến bại, Mao Bảo bị vây ép, phải nhảy xuống sông, trước sau gì cũng chết. Ông bỗng cảm thấy thân mình nằm trên một tảng đá, từ từ trôi ra xa, tránh được loạn tiễn, thoát nạn. Khi đến bờ, nhìn lại, thì ra tảng đá ấy là lưng con rùa trắng ông đã cứu mạng xưa kia.

[111] Khổng Du làm quan chức vị rất nhỏ. Có lần ông đi qua Dư Bất Đình, thấy một con rùa đen bị người khác bắt, động lòng thương xót, bèn mua lại, đem thả xuống sông. Rùa đen nhiều lần nhô đầu nhìn Khổng Du biểu lộ ý cảm tạ, rồi mới lặn xuống. Về sau, Khổng Du được phong làm Đình Hầu của Dư Bất Đình. Ấn quan thuở ấy có khắc đầu rùa. Ấn đúc ra, viên quan trông coi việc đúc ấn lấy làm lạ vì sao đầu rùa trên ấn lại nghểnh cổ nhìn lại. Ông ta cho là ấn đúc sai, bèn phá hủy, đúc lại. Cả hai lần đều là như vậy, khuôn đúc đã đổi thành như vậy. Viên quan đúc ấn bèn kể lại cho Khổng Du nghe. Khổng Du bỗng nhớ lại chuyện cũ, mới nghĩ chức quan này nhất định là quả báo tốt lành của chuyện thả rùa khi trước.

[112] Vào đời Tống, có một thôn xóm gọi là thôn Nguyên Sanh, chuyên sống bằng nghề bắt cá. Trong xóm, có một người tên là Khuất Sư, mua một cái ao cá, thả đăng đó, tát ao bắt cá. Ông ta thấy có một cặp cá chép lớn, tung mình nhảy qua tấm đăng, đã thoát ra, rồi lại nhảy vào, rồi lại nhảy ra. Đã thoát ra rồi lại nhảy vào, rất nhiều lần như thế. Ông ta mò đến gần xem, thì ra trong đó có đến mấy trăm con cá chép mới nở. Cặp cá chép quẫy mình tung đó để có kẽ hở cho cá con thoát ra. Chúng va mình vào đó nhiều lần đến nỗi mình mẩy đẫm máu. Khuất Sư hết sức cảm khái, bèn tháo tấm đăng, thả hết cá con. Vài năm sau, Khuất Sư bị bệnh nặng, hồn đến cõi âm. Diêm vương phán: “Do âm đức cứu cá, tăng thọ một kỷ (mười hai năm)”.

[113] Có một người thợ làm rượu thấy một con ruồi sa vào vò rượu, sắp chết đuối, bèn vớt nó ra, để nơi khô ráo. Lại rải một ít tro, để làm khô bọt nước trên mình nó. Ông ta cứu rất nhiều con ruồi như vậy. Về sau, người ấy bị kẻ khác vu cáo trộm cướp, oan tình chẳng thể biện giải. Khi viên quan thẩm vấn cất bút viết án từ phán tội tử hình, bỗng ruồi đậu kín ngòi bút, đuổi không được. Bỏ bút xuống thì thôi, chứ cầm bút lên, ruồi lại bu vào, chẳng có cách nào viết bản án. Phán quan cho là ắt có oan tình, bèn xin thượng quan cho phép tái thẩm, mới biết người ấy bị vu cáo, bèn xóa án.

[114] Có một bà chủ sai đứa tớ gái chuyên nấu nướng trong bếp làm thịt một con ba ba để nấu canh bổ huyết. Nhận biết chính mình đã ra tay giết hại quá nhiều, cô tớ gái cảm thấy áy náy, bèn lén thả con ba ba đi, cam chịu chủ nhân nổi cáu, đánh đập tàn nhẫn. Về sau, vùng ấy bị bệnh dịch nặng, cô tớ ấy bị nhiễm bệnh, sốt cao, sắp chết. Chủ nhân sợ cô ta chết trong nhà, sai gia nhân vứt cô ta ra cạnh ao nước ngoài nhà. Cô ta nằm thoi thóp tại đó, đến nửa đêm, có một con ba ba từ dưới ao bò lên, mình mẩy lấm lem bùn đất, bò chung quanh, trát bùn khắp thân cô ta. Cơn sốt bèn hạ. Sáng hôm sau, bệnh dịch khỏi hẳn.

[115] Có một người họ Trương giữ chức Đề Hình, đi ngang qua nhà một gã đồ tể, bèn dùng tiền mua lại con vật sắp bị giết, đem thả. Khi lâm chung, ông ta bảo người nhà: “Ta do phóng sanh, tích đức sâu dầy, nay thiên cung đến nghênh tiếp, ta sẽ sanh lên trời”.

[116] Lý Cảnh Văn tánh rất từ bi, trông thấy ghe bắt cá bắt được rất nhiều cá, bèn vét hết tiền mua lại đem phóng sanh. Do lòng từ bi ấy, hễ ông gặp cảnh hiểm nạn như bệnh ngặt, hoặc tai nạn bất kỳ đều được thoát khỏi. Đan sa là oxide thủy ngân, thường được dùng làm thuốc với tên gọi là Châu Sa.

[117] Nguyên văn là “bốc táng” (卜葬), tức là xem Phong Thủy Địa Lý để tìm huyệt an táng tốt. Tôn Lương Tự nhà nghèo, thường cứu vớt loài chim bị mắc bẫy. Về sau, ông ta chết, do con cháu quá nghèo, không có tiền mai táng, đem vùi tạm ngoài đồng. Bỗng có mấy ngàn con chim bay tới, mỏ ngậm bùn đất, phủ lên thân Lương Tự, chẳng đầy một ngày, đã trở thành một nấm mộ to.

[118] Phan Hoa làm huyện lệnh huyện Chư Ky (thuộc tỉnh Chiết Giang), là một Phật tử thuần thành. Khi trấn nhậm huyện ấy, ông ra lệnh cả huyện không được đánh bắt cá trên sông, hồ. Khi ông sắp rời nhiệm sở, trong sông, hồ cả huyện bỗng phát ra âm thanh than khóc ầm ĩ một hồi lâu, giống như tiếng con cái bị mất cha mẹ vậy.

[119] Đạo Tín ở đây chính là đệ tứ tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Trong thời Ngài, có lần nơi Ngài ở bị hạn hán rất nặng, đói kém dữ dội. Dân chúng hoảng sợ, bàn nhau mua các con vật tính đem giết để tế thần cầu mưa. Tổ bảo họ phải làm phước, đừng tạo nghiệp, khuyên họ hãy tha cho các con vật ấy, Ngài sẽ đích thân đứng ra cầu mưa. Tổ bèn triệu tập tăng chúng lập hương án đơn sơ, thanh khiết, tụng kinh Lăng Già và Bát Nhã. Quả nhiên một tuần sau, mưa tuôn như trút.

[120] Theo Phóng Sanh Văn Đồ Thuyết, xưa kia có một gã đạo sĩ tâm thuật bất chánh, không lo tu hành, chỉ lo trí trá, dối gạt kiếm lợi. Hắn nghe nói ăn củ hoàng tinh sẽ có thể trường thọ, bèn bỏ thật nhiều hoàng tinh xuống một cái giếng cạn, lừa gạt dụ dỗ để đẩy một người xuống đó, rồi dùng nắp đá đậy kín giếng. Người ấy biết là bị lừa, hết sức hoảng hốt, không biết làm sao. Bỗng có một con cáo xuất hiện, nói nó là hồ tiên, do từng được người ấy cứu mạng trước kia, nay để báo ân, nó sẽ truyền tiên thuật phi thăng. Người ấy nghe theo, tu tập. Sau bốn tuần, quả nhiên người ấy phi thăng, bay thoát khỏi giếng. Gã đạo sĩ mừng quá, mang hoàng tinh vào giếng, dặn người nhà đậy lại thật chặt. Nửa tháng sau, mở ra coi, họ thấy xác gã teo đét vì chết đói!

[121] Xưa kia có một vị Tăng thấy có người bắt mấy con rết, dùng tre căng uốn thân chúng cong vòng lại như đồ trang sức. Vị xuất gia bèn xin mua hết, đem phóng sanh. Chúng đã chết gần hết, chỉ còn một con sống sót. Về sau, vị xuất gia ấy đang tĩnh tọa cùng với một vị sư khác ở chùa, trên vách vôi trắng, bỗng có con rết bò ra. Sư dùng khối gỗ gõ vào tường đuổi nó đi, nhưng nó vẫn không đi. Cuối cùng, Sư nhớ ra hỏi: “Có phải ngươi là con rết đã được thả, muốn đến cảm tạ đó chăng? Nếu phải, hãy nghe ta thuyết pháp: Lắng nghe! Hết thảy hữu tình chỉ do tâm tạo. Nếu tâm tàn ác, sẽ thành hổ lang. Nếu tâm độc địa, sẽ thành độc trùng. Ngươi trừ hết độc, sẽ thoát thân này”. Con rết nghe xong, gục gặc đầu, bò đi.

Vào năm Vạn Lịch thứ chín đời Minh Thần Tông, tại Hàng Châu có một người họ Vu. Một hôm, người hàng xóm của người họ Vu bị cướp. Họ Vu có một đứa con gái đã gả chồng. Cô ta nghe tin bèn vội về thăm nhà, tiện tay xách theo mười con lươn để làm lễ vật. Họ Vu đem chúng thả hết vào trong lu nước sau nhà, rồi quên khuấy. Có một hôm, bà Vu mộng thấy mười người mặc áo vàng, đội mũ chóp nhọn, quỳ gối, buồn bã, thống thiết van xin cứu mạng. Tỉnh giấc, bà đi coi bói, thầy bói nói: “Ắt là trong nhà bà có sanh mạng nào xin được phóng sanh”. Trở về, bà tìm khắp trong nhà, chỉ thấy trong lu có đúng mười con lươn bụng vàng, chắc là bọn người mặc áo vàng xin cứu mạng trong mộng, bèn đem chúng thả hết trong sông.

[122] Trong bản chú giải của Phóng Sanh Văn, có giải thích: Nói tiền tài không kiên cố là vì nó sẽ bị nước nhấn chìm, hoặc lửa đốt rụi, bị cướp bóc hay mất mát vì chiến tranh, bị trộm cướp tước đoạt, bị con cháu không ra gì phung phí tan nát, bị quan lại, vua chúa tịch thu.

[123] Chân Tây Sơn tên thật là Chân Đức Tú (1178-1235), tự là Cảnh Nguyên, hiệu Tây Sơn, thụy hiệu Văn Trung, là người xứ Phổ Thành, tỉnh Phước Kiến. Ông là một vị quan nổi danh thời Nam Tống, thuộc trường phái Lý Học của Châu Hy. Ông thông minh, học rộng, sách đọc qua một lượt đã ghi nhớ, nắm được điều cốt yếu. Ông từng được bổ làm Thái Học Bác Sĩ, chuyên giảng sách cho vua nghe. Về sau, do mâu thuẫn với Sử Di Niên, bị hắn gièm siểm, đổi đi làm An Phủ Sứ Hồ Nam kiêm tri phủ Đàm Châu. Đến thời Tống Lý Tông, ông được triệu về kinh giữ chức Trung Thư Xá Nhân rồi thăng làm Lễ Bộ Thị Lang. Không chịu nổi sự chuyên quyền của Sử Di Viễn, ông lại từ quan. Sau khi Sử Di Niên thất thế, ông lại được vời ra làm quan, lần lượt làm Hộ Bộ Thượng Thư, Hàn Lâm Học Sĩ Tri Cáo Chế, Tham Tri Chánh Sự. Khi ông trông coi Tuyền Châu, vùng này bị hạn hán lớn, nghe lời khuyên của thuộc hạ, ông đến cầu mưa tại miếu thờ Thanh Thủy Tổ Sư, quả nhiên mưa to. Do miếu thờ của vị thần ấy đã có biển đề chữ Chân Nhân, ông cho hạ xuống, sửa thành Chân Chân Nhân (vị Chân Nhân thật sự) nhằm cảm tạ thần ân. Ngoài những tác phẩm Tây Sơn Giáp Ất Cảo, Đại Học Diễn Nghĩa, Tây Sơn Tiên Sinh Chân Văn Trung Công Văn Tập, rất nhiều tác phẩm thi từ của ông được người đương thời đánh giá rất cao.

[124] Tam Biên (三邊) là ba tỉnh thuộc vùng biên cương của Trung Hoa, tức là Thiểm Tây, Cam Túc và Ninh Hạ.

[125] Nghiêm Tung là một gã gian thần cùng hung cực ác thời Minh Thế Tông (Gia Tĩnh) nhà Minh. Minh Thế Tông mê man Đạo Giáo, chuyên lo tu tiên để cầu trường sanh, không màng đến chánh sự. Việc triều chánh phó mặc cho bọn quyền thần lo liệu. Lúc bấy giờ, Lễ Bộ Thượng Thư Hạ Ngôn được vua tin cậy, Nghiêm Tung bèn ve vãn nịnh bợ Hạ Ngôn. Có lần Nghiêm Tung (lúc đó đang làm Lại Bộ Tả Thị Lang) mở tiệc mời Hạ Ngôn. Hạ Ngôn từ chối không đến, thế là Nghiêm Tung chạy đến trước cửa nhà Hạ Ngôn, thắt chặt vạt áo, quỳ mọp trước cửa khẩn khoản thỉnh cầu. Hạ Ngôn không tiện từ chối, phải đến dự. Từ đó, Hạ Ngôn coi Nghiêm Tung như tri kỷ, hết sức nâng đỡ Nghiêm Tung. Do hắn khéo ve vãn, đón ý vua, dần dần vua rất mực tin dùng Nghiêm Tung. Do Hạ Ngôn tánh tình tự cao, nhà vua dần dần không ưa Hạ Ngôn. Nghiêm Tung được thăng làm Thái Tử Thái Phó, thừa cơ nhiều lượt sàm tấu khiến vua nghi kỵ, bãi chức Hạ Ngôn. Về sau, vua lại gọi Hạ Ngôn ra làm quan. Nghiêm Tung vẫn ngấm ngầm tìm cách làm hại. Năm 1554, quân Thát Đát chiếm vùng Hà Sáo, Tổng Đốc tỉnh Thiểm Tây là Tăng Tiễn phát binh chiếm lại Hà Sáo, dâng sớ xin tái thiết vùng này, tái lập trị an, phát triển thủy lợi. Những biện pháp ấy được Hạ Ngôn tán thành. Nghiêm Tung lập tức cấu kết với biên tướng Cừu Loan vu cáo Tăng Tiễn thất bại mà báo công giả, vu cáo Hạ Ngôn lợi dụng quyền chức kiếm lợi. Tăng Tiễn bị giết, Hạ Ngôn bị tù rồi bị xử tử. Nghiêm Tung độc quyền thao túng triều chánh, trở thành Nội Các Thủ Phụ (Tể Tướng), cùng với con trai là Nghiêm Thế Phiên khuynh đảo nhà Minh suốt hai mươi hai năm. Về sau, có một tay đạo sĩ trứ danh là Lam Đạo Hành giỏi cầu cơ, vua rất tin cậy. Một hôm, đang lúc cầu cơ, Lam Đạo Hành nói: “Ngày nay có gian thần phụng sự”, nhằm đúng lúc Nghiêm Tung vừa đi qua. Vua âm thầm lập kế tước đoạt vây cánh của hắn, xử tử Nghiêm Thế Phiên, tịch biên gia sản của cha con họ Nghiêm, và đuổi Nghiêm Tung về quê. Trắng tay, không ai chứa chấp, Nghiêm Tung phải ẩn náu nơi gò mả, lượm lặt đồ cúng thừa để sống qua ngày. Hai năm sau, hắn bị bệnh chết, không ai ngó ngàng. Khi chết, hắn không có quan tài để chôn!

[126] Quân (軍) là một đơn vị hành chánh đời Tống. Nhà Tống chia cả nước thành mười tám lộ. Mỗi lộ lại chia thành châu, phủ, quân và giám.

[127] Vì Giáp nghĩ mình sẽ không được tuyển mà vẫn phải biếu quan huyện năm mươi lượng, hắn muốn bắt Ất phải bù một nửa, nên nói là “chia đều”. Nào ngờ Giáp được tuyển, cho nên ngoài số tiền biếu quan huyện năm mươi lượng, hắn phải bù thêm cho Ất hai mươi lăm lượng để biếu quan Tư Lý.

[128] Chương Trì là con trai thứ hai của Chương Đôn. Chương Đôn là một nhân vật từng nắm quyền Tể Tướng thời Tô Đông Pha. Ông ta học rộng, giỏi văn chương, tận lực chủ trương cải cách, nhưng không hợp ý Vương An Thạch. Do đối nghịch với Tư Mã Quang, ông ta tranh cãi với Tuyên Nhân Thái Hậu không nể nang, nên bị đày đi làm tri phủ Nhữ Châu. Dưới thời Tống Triết Tông, ông ta lại được vua trọng dụng, trở thành Tể Tướng, cực lực triệt hạ những người chống đối. Tô Đông Pha bị đày đi Hoàng Châu là do lệnh của Chương Đôn.

[129] Điểm huyệt ở đây là một thuật ngữ trong Địa Lý. Sau khi xác định một cuộc đất có thể có huyệt mộ tốt, người xem Phong Thủy sẽ xét xem long mạch vượng hay suy như thế nào bằng cách cắm kim và ghim những cành cây tươi xuống đó để phân định phương vị. Đến hôm sau, sẽ xem xét mức độ tươi héo của những nhánh cây để đoán định khí của long mạch.

[130] Hoàng Giáp là đỗ Tiến Sĩ Cập Đệ.

[131] Bàn Sơn Ngữ Lục là tác phẩm do môn nhân của đạo sĩ Vương Chí Cần thuộc Toàn Chân Giáo biên soạn dựa trên những lời dạy của thầy. Những lời dạy của ông Vương chủ yếu nói về cách luyện đan, luyện tâm tu tánh theo Đạo Giáo, dựa trên tư tưởng trong bộ Thanh Tịnh Kinh của Đạo Giáo và Tâm Tánh Luận của Thiền Tông.

[132] Nguyên văn là “thôi điệt” (衰絰). “Thôi” là tấm vải bằng sợi gai hoặc vải sô, dài sáu tấc, rộng bốn tấc, đính nơi ngực áo tang. Vì thế, cái áo tang ấy gọi là Thôi Y. Điệt là cái khăn dùng sợi gai hoặc cỏ vấn thành rế đội lên đầu. Thông thường, kiểu tang phục này dành cho con trai hoặc cháu nội của người đã mất.

[133] Đài Phụ là chức vị thuộc bậc Tam Công.

[134] Hư Tĩnh Chân Nhân tên thật là Trương Kế Tiên (1092-1127), tự là Gia Văn, hiệu là Tiêu Nhiên Tử, là một đạo sĩ lừng danh thời Bắc Tống, giữ chức vị Thiên Sư đời thứ ba mươi của hệ phái Chánh Nhất (con cháu trực hệ của Trương Đạo Lăng). Ông được Tống Huy Tông ban tặng ngự hiệu Hư Tĩnh tiên sinh, nên Đạo Giáo thường gọi ông là Hư Tĩnh Chân Nhân. Ông mất lúc ba mươi sáu tuổi, Đạo Giáo coi ông đã đăng tiên. Vì thế, đến đời Nguyên, ông được vua sắc phong tước hiệu Hư Tĩnh Huyền Thông Hoằng Ngộ Chân Quân. Sinh tiền, tuy được nhà Tống hết sức trọng vọng, được ban ấn ngọc khắc Dương Bình Trị Đô Công Ấn, có quyền thống lãnh đạo sĩ toàn quốc, Tông Huy Tông bốn lượt thỉnh ông vào cung làm pháp hội và giảng đạo, nhưng hễ xong việc là ông xin về núi ẩn dật tu hành, không xu phụ, a dua lấy lòng bọn quyền thần,

[135] Thập Di là chức gián quan có trách nhiệm vạch ra những thiếu sót trong việc triều chánh. Vũ Tắc Thiên đã đặt ra chức Tả Thập Di để giám sát Môn Hạ Tỉnh, Hữu Thập Di để giám sát Trung Thư Tỉnh. Đến đời Bắc Tống, chức vụ này được đổi thành Chánh Tín.

[136] Tống Anh Tông tên thật là Triệu Thự, là con trai thứ mười ba của Triệu Doãn Nhượng (Triệu Doãn Nhượng là con thứ tư của Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa, và là em của Tống Chân Tông Triệu Hằng). Do Tống Nhân Tông (tên thật là Triệu Trinh, con trai của Tống Chân Tông, là em họ của Triệu Doãn Nhượng) đã nhận nuôi Triệu Thự từ lúc bốn tuổi, và các hoàng tử của Tống Nhân Tông đều chết yểu, các phi tần lại chỉ sanh con gái, Tống Nhân Tông bèn lập Triệu Thự làm Thái Tử. Khi Tống Nhân Tông mất, Triệu Thự nối ngôi, nhưng vừa lên ngôi nửa tháng đã bị bệnh nặng, triều thần phải thỉnh Tào Thái Hậu (vợ vua Tống Nhân Tông) buông rèm thính chánh. Kể từ sau khi lành bệnh, tánh tình Anh Tông thất thường, hay đánh mắng kẻ hầu, hoạn quan Nhậm Thủ Trung thừa cơ gièm xiểm, cho nên giữa vua và Thái Hậu thường có xung khắc.

[137] Ôn Thành là thụy hiệu của Trương Quý Phi, một sủng phi của Tống Nhân Tông. Bà này là cháu của Trương Nghiêu Tá, thông minh, trí xảo, thường khéo đón ý, khéo lấy lòng, nên rất được Nhân Tông cưng chiều.

[138] Hoàng hậu của Tống Anh Tông tên là Cao Thao Thao. Bà là cháu nội của Cao Huân, mẹ của bà là chị của Từ Thánh Quang Hiến Hoàng Hậu Tào Thị, tức Thái Hậu của Tống Anh Tông đang được nói ở đây. Vì thế, sách Cảm Ứng Thiên ghi hoàng hậu là “cháu bên ngoại” (ngoại sanh, 外甥), vì bà phải gọi Thái Hậu bằng dì. Bà là mẹ ruột của Tống Thần Tông (Triệu Húc), và là bà nội của Tống Triết Tông (Triệu Hú) và Tống Huy Tông (Triệu Cát). Bà can thiệp rất mạnh vào triều chánh dưới thời Tống Thần Tông và Tống Triết Tông, kịch liệt phản đối tân pháp của Vương An Thạch, trọng dụng Tư Mã Quang. Khi Tống Thần Tông mất, bà được tôn làm Thái Hoàng Thái Hậu, được mời nhiếp chánh cho Tống Triết Tông. Bà đã hạ lệnh xóa bỏ toàn bộ tân pháp của Vương An Thạch. Bà được đánh giá là uyên bác, anh minh, tiết kiệm, lễ pháp kỷ cương trọn vẹn. Do vậy, các sử gia tôn xưng bà là Nữ Trung Nghiêu Thuấn.

[139] Quan gia (官家) là tiếng thời ấy để các đại thần gọi nhà vua.

[140] Một mân (緡) là một ngàn đồng.

[141] Mạc khách (幕客), hay còn gọi là mạc tân (幕賓), là những nhân viên trọng yếu đóng vai trò cố vấn, tham mưu trong quan phủ. Đời Thanh gọi họ là mạc khách, hoặc mạc tân, thời cổ thường gọi là sư gia (師爷), tức là những thuộc hạ chánh yếu như bí thư, tham mưu v.v…

[142] Tam Tề (三齊) tức là phần lớn tỉnh Sơn Đông ngày nay. Khi Sở Vương (Hạng Vũ) diệt nhà Tần, đã chia lãnh thổ đất Tề thành ba phần là Tề Quốc (kinh đô là Lâm Truy), Giao Đông (kinh đô là Tức Mặc), và Tề Bắc (kinh đô là Bác Dương).

[143] Hồ Quảng (湖廣) là từ ngữ chỉ hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam. Từ ngữ này có ý nghĩa khác với danh xưng Hồ Quảng Hành Tỉnh thời Nguyên và Minh. Hồ Quảng Hành Tỉnh bao gồm phía Nam tỉnh Hồ Bắc, toàn bộ tỉnh Hồ Nam, vùng Đông Nam của Trùng Khánh, vùng Thiều Quan (kể cả đảo Hải Nam) của Quảng Đông, và một phần tỉnh Quảng Tây. Danh xưng Đại Hồ Quảng lại chỉ một khu vực rộng hơn bao gồm năm tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Đông, Quảng Tây và Phước Kiến.

[144] Lưỡng Hà là hai tỉnh Hà Nam và Hà Bắc.

[145] Luyện Hồ (練湖) là một cái hồ to thuộc huyện Đan Dương, tỉnh Giang Tô.

[146] Hốt (笏) có hai cách hiểu:

  1. Vàng, bạc đúc thành miếng có hình dạng giống như cái hốt (vật cầm trên tay của các quan khi vào chầu vua). Có thể hiểu đại khái là đúc thành miếng mỏng, giống như kiểu vàng lá (một lượng hay còn gọi là một “cây” vàng).
  2. Đúc thành từng thoi thì cũng gọi là Hốt.

[147] “Chư sanh” (諸生) là tiếng gọi những người đã đậu Tú Tài, được vào học trường huyện, hoặc trường Thái Học tại kinh đô (học trò tại trường Thái Học sẽ thường được gọi là Giám Sanh). Do những người này được chia thành nhiều loại như cống sanh, lẫm sanh, phụ sanh, tăng sanh, hướng sanh, lệ sanh, tường sanh, nên gọi chung là chư sanh.

[148] Tam điển (三典) là ba loại pháp điển (luật lệ) của nước nhà, tức khinh điển, trung điển và trọng điển. Cổ nhân quy định: Khi nước nhà mới thành lập (vương triều vừa mới thành lập) dùng khinh điển (luật lệ nhẹ, khoan dung), trong thời kỳ thái bình, dùng trung điển (luật lệ hạng trung). Vào đời loạn, dùng trọng điển (luật lệ nghiêm khắc). Như vậy chưởng quản tam điển chính là chức quan trông coi về tư pháp tại một quận. Theo Hán Thư, một quận có mười hai vạn hộ gia đình trở lên thì gọi là đại quận.

[149] Thị Tùng (侍從) là danh xưng chung để gọi các chức quan Hàn Lâm Học Sĩ, Cấp Sự Trung, các quan Thượng Thư hoặc Thị Lang.

[150] Tư Không (司空): Chữ Không là cách viết giả tá của chữ Công. Tư Không cùng với Tư Đồ, Tư Mã, Tư Khấu, Tư Sĩ gọi là Ngũ Quan, địa vị ngang với Lục Khanh (thời Châu, Lục Khanh là Thái Tể, Thái Tông, Thái Sử, Thái Chúc, Thái Sĩ, Thái Bốc. Từ đời Đường trở đi, Lục Khanh là thượng thư sáu bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Chức vị Tư Không chưởng quản các công tác thủy lợi, xây dựng, kiến thiết v.v… Về sau, chức quan Tư Không đồng nhất với Công Bộ Thượng Thư.

[151] Quân (軍) là một đơn vị hành chính thời Tống. Nhà Tống chia lãnh thổ Trung Hoa làm mười tám lộ (路, tương đương một tỉnh hiện thời). Mỗi lộ lại chia thành châu, phủ, quân và giám (監).

[152] Tuần Kiểm Ty (巡檢司) là một cơ quan hành chánh đời Tống, có trách nhiệm tuần tra châu huyện, bắt giữ đạo tặc.

[153] Việt Trung (越中) là vùng Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang. Do vùng này thuộc vào trung tâm của nước Việt thời Xuân Thu, nên gọi là Việt Trung.

[154] Chủng Phóng (935-1015) là người sống vào đời Tống, quê ở Lạc Dương, có hiệu là Vân Khê Túy Hầu. Ông bảy tuổi đã có thể viết văn, tinh thông Dịch học, nhưng không đi thi, ẩn cư tại núi Chung Nam, chuyên dạy học. Do Xá Nhân Tống Duy Hàn cực lực tiến cử, Tống Chân Tông vời ông ra làm quan, phong chức Tả Tư Gián, sai trông coi Chiêu Văn Quán. Ông lại được thăng thành Hữu Nghị Gián Đại Phu. Cuối cùng, làm quan đến chức Công Bộ Thị Lang. Khi đã đắc thế, ông tậu nhiều ruộng tốt, cậy oai thế cưỡng ép người khác phải bán ruộng. Thuộc hạ và thân thuộc cũng cậy thế ông làm nhiều chuyện sai quấy.

[155] Công Tào (工曹) là chức vụ được đặt ra vào thời Tống, có nhiệm vụ trông coi các công trình xây dựng, lao động.

[156] Bổn đạo: Đạo là đạo phủ (道府), tức là một cơ quan hành chánh. Vị quan có chức trách tại khu vực ấy tự xưng là Bổn Đạo.

[157] Bộ Ty gọi đầy đủ là Tỷ Bộ Quan Ty (比部官司). Vào đời Đường, Hình Bộ được chia làm bốn cơ cấu là Hình Bộ, Đô Quan, Tỷ Bộ và Ty Môn. Thông thường, các quan chức thuộc Bộ Ty chỉ quản trị hình pháp, xử án, hoặc quản trị nhà giam, không dính vào các sự vụ hành chánh và quân sự.

[158] Do vùng Hồ Quảng (Hồ Nam và Hồ Bắc) thuộc lãnh thổ của nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc, nên vùng ấy thường được gọi là đất Sở.

[159] Đồng Tri (同知) là chức phó tướng hoặc phó huyện trưởng. Từ thời Tống, đã lập ra các chức Đồng Tri Các Môn Sự, Đồng Tri Xu Mật Viện Sự. Tại các châu phủ, cũng có chức Đồng Tri Phủ Sự, Đồng Tri Quân Sự, đều là các chức phó của Tri Phủ, Tri Quân.

[160] Do khi dịch sang tiếng Việt, số chữ có hạn, khó thể diễn tả hết ý tứ tha thiết trong bài thơ, chúng tôi xin diễn giải dông dài như sau: Gió lùa qua người phụ nữ dệt cửi chỉ mặc áo mỏng, lạnh đến nỗi cô ta phải nhiều lần xoa hai tay, hít hà cho đỡ rét. Do nhà nghèo, phải dệt vải bên cửa sổ để đỡ tốn dầu thắp đèn, trời đã sẩm tối, vẫn cố đẩy thoi dệt lách cách hòng dệt thêm được chút nào hay chút nấy. Tháng Chạp trời tối mau, nên dù cố hết sức, vẫn không dệt được đủ một thước lụa. Chẳng như cô đào hát, chỉ hát một khúc ca là được thưởng ngay một xấp lụa!

[161] Ông này chính là Tống Vũ Đế, tức Lưu Dụ. Lưu Dụ lúc bé nghèo hèn, phải đi bán hài cỏ, cày cấy thuê để kiếm sống. Về sau, trở thành tướng. Do có công dẹp tan quyền thần Hoàn Huyền dưới thời Tấn An Đế, ông ta trở thành nắm nhiều quyền hành, chưởng quản triều chánh. Ông cầm quân diệt nhà Nam Yên, diệt Hậu Tần, được phong là Tống Vương. Đến thời Tấn Cung Đế, ông ép vua nhường ngôi, đổi quốc hiệu là Tống. Sử gọi nhà Tống này là Lưu Tống để phân biệt với nhà Tống do Triệu Khuông Dẫn sáng lập (tức Triệu Tống).

[162] Hiếu Từ Hoàng Hậu là vợ của Châu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ). Váy lụa trơn nguyên văn là “luyện quần” (練裙), “luyện” (練) là một loại lụa vừa dệt xong, đem giặt tẩy cho trắng, rất tầm thường, xoàng xĩnh.

[163] Nghệ Tổ (藝祖) có nghĩa gốc là ông tổ về đức hạnh nho nhã, bình dị. Về sau, mỹ từ này thường được dùng để tôn xưng các vị vua khai sáng một triều đại.

[164] Màu cánh trả tức là màu xanh (thường gọi là màu phỉ thúy) như lông chim bói cá (chim trả, chim thằng chài).

[165] Thiên Bảo (724-756) là niên hiệu thứ ba và là niên hiệu cuối cùng của Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng). Đường Minh Hoàng có ba niên hiệu là Tiên Thiên, Khai Nguyên, và Thiên Bảo.

[166] Nguyên văn “thượng Xuân Quan”(上春官): Đời Đường, dưới thời Vũ Tắc Thiên, bà ta đã đổi bộ Lễ thành Xuân Quan. Do vậy, về sau thường gọi bộ Lễ là Xuân Quan. Trước khi có bộ Học, bộ Lễ tổ chức các kỳ thi Hội và thi Đình; do vậy, dân chúng quen gọi đậu khóa thi Hội do bộ Lễ tổ chức là “thượng Xuân Quan”.

[167] Phong quân (封君): Do con cháu đỗ đạt vinh hiển, tổ phụ được vua phong tước thì vị được phong ấy sẽ được gọi là “phong quân”.

[168] Theo nghĩa gốc, chức quan này có nhiệm vụ tiếp nhận các bản tấu trình của hàng công khanh, phân loại để trình báo thượng cấp, kiêm nhiệm vụ đàn hặc. Đến thời Minh – Thanh, danh xưng này dùng để gọi quan Tuần Phủ.

[169] Huyền Vũ (玄武) là danh xưng để gọi chung bảy tinh tòa thuộc phương Bắc trong Nhị Thập Bát Tú, bao gồm các tinh tòa Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. Cổ nhân nói bảy tinh tòa ấy hợp thành hình dáng giống như con rùa đen (Huyền Vũ), nên gọi như thế.

[170] Thái Lao (太牢) là đại tế theo điển lễ thời cổ. Trong lễ tế ấy, dùng ba con vật là trâu (hoặc bò), dê, lợn. Có khi chỉ dùng trâu để tế mà cũng gọi là Thái Lao. Sách Đại Đới Lễ Ký chép: “Chư hầu chi tế, ngưu viết Thái Lao” (Chư hầu tế lễ, dùng trâu [làm cỗ cúng] thì gọi là Thái Lao).

[171] Tế giao (郊祀, giao tự): Là lễ tế trời đất. Nam Giao (phía Nam hoàng thành) là nơi đặt đàn tế trời, Bắc Giao là nơi tế đất.

[172] Hâm hưởng (歆饗): Quỷ thần hưởng thụ mùi của đồ cúng tế thì gọi là “hâm hưởng”.

[173] Tức là tòa sao Ngưu trong Nhị Thập Bát Tú, phần Thiên Văn Chí trong Tống Sử chép: “Ngưu tú lục tinh, thiên chi quan lương” (sao Ngưu gồm sáu ngôi, là then chốt trong cõi trời).

[174] Thái Ất (太乙) chính là núi Chung Nam Sơn, nằm ở phía nam thành phố Tây An (Trường An) tỉnh Thiểm Tây. Đây là quả núi chính của rặng Tần Lãnh, được coi là thánh địa của Đạo Giáo. Tương truyền, Chung Ly Quyền, Lữ Động Tân, Lưu Hải Thiềm, và Vương Trùng Dương (sáng tổ của Toàn Chân Giáo) đều tu tập tại núi này.

[175] Lao Sơn (牢山) thuộc thành phố Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông. Núi này còn có tên là Phụ Đường hoặc Ngao Sơn, cũng là một ngọn núi nổi danh của Đạo Giáo.

[176] Theo giáo nghĩa của Đạo Giáo, Ngọc Thanh (玉清) là một cảnh trong Tam Thanh của Đạo Giáo (Thái Thanh Cảnh Đại Xích Thiên, Thượng Thanh Cảnh Vũ Dư Thiên, và Ngọc Thanh Cảnh Thanh Vi Thiên). Ngọc Thanh là nơi cư ngụ của Nguyên Thỉ Thiên Tôn, Thượng Thanh là nơi cư ngụ của Linh Bảo Thiên Tôn, còn Thái Thanh là nơi cư ngụ của Đạo Đức Thiên Tôn (Thái Thượng Lão Quân, tức Lão Tử).

[177] Ngũ Cốc là năm loại hạt dùng để làm lương thực, có nhiều cách giải thích. Ba cách hiểu thông thường nhất là:

  1. Ngũ cốc là mè, hạt kê, lúa gạo, lúa mạch và đậu.
  2. Gạo, đậu đỏ, lúa mạch, đậu nành, hạt kê.
  3. Đại mạch, lúa mì, gạo, đậu nành, hạt mè đen.

Thông thường, Ngũ Cốc được hiểu theo nghĩa rộng là các loại hạt dùng làm lương thực, không chỉ là năm loài.

[178] Tuyết Đậu Trọng Hiển là một vị cao Tăng hữu danh của tông Vân Môn trong nhà Thiền. Sư họ Lý, tự là Ẩn Chi, người xứ Toại Ninh (huyện Bồng Khê, tỉnh Tứ Xuyên). Ngài xuất thân từ một gia đình giàu có, nhiều đời học Nho, đã có chí xuất trần từ bé, mong thoát luân hồi. Ngài xin xuất gia với ngài Phổ An Nhân Thẩm để học kinh luận. Về sau, Ngài đắc pháp nơi ngài Trí Môn Quang Tộ, theo hầu thầy năm năm, nắm được đạo của thầy, trở thành tổ trung hưng của tông Vân Môn.

[179] Đây là một quy chế thể hiện sự ân thưởng của triều đình bắt nguồn từ đời Tấn, được hoàn bị vào đời Đường. Khi con cái đỗ đạt làm quan to, cha mẹ sẽ được phong tước giống như vậy, tức là chỉ có danh xưng, nhưng không có quyền hạn như người làm quan thật sự. Cha mẹ còn sống thì gọi là Phong, cha mẹ đã mất thì gọi là Tặng. Thoạt đầu, chỉ có cha được phong tặng, mẹ sẽ được gọi tương xứng là huyện quân, phu nhân, nhụ nhân v.v… tùy theo tước vị của cha. Đến đời Đường, sự phong tặng này được tính đến ba đời, tức là cha, ông nội và ông cố của người làm quan.

[180] Định Công ở đây chính là Lỗ Định Công (Cơ Tống), vua nước Lỗ thuở ấy. Ông này là em trai Lỗ Chiêu Công (Cơ Trù). Trong thời ông, Tề Cảnh Công nhóm hội chư hầu đã ép bức nước Lỗ, toan bắt giam Lỗ Định Công. Khi đó, Khổng Tử đang làm quan Đại Tư Khấu, kiêm Tể Tướng nước Lỗ. Nhờ khéo léo, mưu trí, Khổng Tử đã ngăn được âm mưu của vua Tề.

[181] Tạo Phụ (造父) là cháu chín đời của Bá Ích, rất giỏi huấn luyện ngựa, phục vụ nhà Tây Châu. Ông đã từng bắt tám con ngựa hoang trong rừng đào, huấn luyện chúng thành tuấn mã rồi dâng lên Châu Mục Vương. Do chúng kéo xe rất giỏi, nhà vua thường dùng cỗ xe này để tuần hành, du ngoạn, hay săn bắn.

[182] Cho đến hiện nay, các sử gia vẫn tranh cãi về nguồn gốc dân tộc Hung Nô (vì họ không có văn tự, không có sử liệu. Mọi dữ liệu lịch sử về họ hoàn toàn dựa theo sử liệu Trung Hoa), chỉ biết họ là dân du mục sống ở phương Bắc. Những truyền thuyết như người Hung Nô là con cháu của vua Hạ Kiệt, hoặc là hậu duệ của người nước Kỷ, đều không có chứng cứ khả tín. Thời Hán, nhiều bộ tộc Hung Nô thống nhất dưới sự lãnh đạo của Mạo Đốn Thiền Vu (các nhà nghiên cứu cho rằng “thiền vu” là phiên âm sanok hay tsanak dựa theo cách phát âm hiện thời của người Mông Cổ. Đây là tước hiệu của vị thủ lãnh tối cao; về sau, tước hiệu này được thay thế bằng danh xưng Khả Hãn (Khan) của người Nhu Nhiên, tức Rouran). Họ trở thành một mối đe dọa thường xuyên cho người Hán, vì người Hung Nô thường xâm lăng đất Hán. Khi Hán Cao Tổ (Lưu Bang) đem ba mươi hai vạn quân chinh phạt phản tướng Hàn Tín, đại quân kéo đến Bình Thành (nay là thành phố Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây), đã bị quân Hung Nô do Mạo Đốn Thiền Vu vây chặt suốt bảy ngày. Về sau, nhờ mưu kế, Hán Cao Tổ thoát khỏi vòng vây, nhưng đại quân bị hao tổn rất lớn. Vua phải xuống nước dùng chánh sách “hòa thân”, tức là mỗi năm tiến cống gấm vóc, lụa là, tơ lụa, lương thực, rượu ngon, cũng như dâng một số gái đẹp cho vua chúa Hung Nô. Đổi lại, quân Hung Nô không xâm phạm biên cương Trung Hoa.

[183] Vương Chấn là thái giám dưới thời Minh Anh Tông, rất được vua tin cậy. Hắn chưởng quản Tư Lễ Giám, trông coi tấu chương trong ngoài cung, nên dễ dàng thao túng triều chánh.

[184] Chí Nguyên là niên hiệu của Nguyên Huệ Tông (Thỏa Hoàn Thiếp Mục Nhĩ, Toyan Temur), sử dụng từ năm 1335 đến năm 1340.

[185] Chúc Dung (祝融) là thần lửa. Ông này vốn có tên là Trọng Lê, hiệu là Xích Đế. Theo Sơn Hải Kinh, Chúc Dung thuộc dòng dõi của vua Chuyên Húc, giữ chức Hỏa Chánh (trông coi về lửa) cho Cao Tân Thị (Đế Cốc), nên được hậu nhân tôn là Hỏa Thần. Theo huyền sử Trung Hoa, Toại Nhân dạy dân dùi cây lấy lửa, nhưng dân chúng chỉ biết dùng lửa để nướng động vật; còn Chúc Dung dạy dân dùng lửa để nấu nướng nhiều cách, chế ra các chất để giữ lửa, chứ không cần phải dùi cây.

[186] Niêm Hãn (đúng ra phải là Niêm Một Hát, sử Trung Hoa đã chép sai thành Niêm Hãn) là tên húy của Hoàn Nhan Tông Hàn, con trai của tướng quốc Hoàn Nhan Tát Cải, còn Oát Ly Bất (đôi khi còn phiên âm là Oát Lỗ Bổ) chính là Hoàn Nhan Tông Vọng, là con trai của Kim Thái Tổ (Hoàn Nhan A Cốt Đả, Wanyan Aguda). Cả hai đều là đại tướng của người Kim thời ấy. Tĩnh Khang là niên hiệu của Tống Khâm Tông (Triệu Hoàn).

[187] Vũ Nguyên Hành là chắt thuộc về bên nội của Vũ Tắc Thiên.

[188] Tào quan là chức quan trông coi vận chuyển hàng hóa, đánh thuế, cũng như ngăn ngừa chuyện buôn lậu.

[189] Vương Long Khê tên thật là Vương Kỳ, là một nhà tư tưởng đời Minh. Ông là thành viên chủ yếu trong học phái của Vương Dương Minh, tôn Vương Dương Minh làm thầy. Tuy Vương Kỳ đỗ đạt, nhưng không ra làm quan, mà chuyên tâm cùng với Tiền Đức Hồng dạy dỗ hàng hậu học. Về sau, khi thầy đã mất, ông có ra làm quan một thời gian ngắn. Sau đó, vì tư tưởng, học thuật của ông bị Hạ Ngôn chán ghét, gièm báng, ông bị triều đình bãi chức bèn trở về dạy học hơn bốn mươi năm. Trước tác của ông được tập hợp thành bộ Vương Long Khê Toàn Tập.

[190] Văn Đế chính là Văn Xương Đế Quân. “Mười đoạn” là nói về bài Văn Xương Đế Quân Tiêu Song Thánh Huấn.

[191] Đây là thành ngữ “phệ tễ mạc cập” (噬臍莫及) hàm nghĩa “không thể xoay sở cách nào được nữa”, vì một người chẳng thể nào cắn rốn của chính mình.

[192] Biển Thước (扁鵲) là một vị thầy thuốc nổi danh thời cổ. Ông tên thật là Tần Việt Nhân, còn có tên là Hoãn, hiệu là Lô Y. Ông sanh vào năm đầu đời Châu An Vương (401 trước Công Nguyên), mất vào năm thứ năm đời Châu Noãn Vương (310 trước Công Nguyên). Cùng với Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh và Lý Thời Trân, ông được xếp vào hàng ngũ Tứ Đại Danh Y của cổ Trung Hoa. Theo truyền thuyết, Hoàng Đế có một bầy tôi làm nghề thuốc nổi danh có tên gọi là Biển Thước. Do Tần Việt Nhân tài nghệ lẫy lừng, nên người đương thời bèn gọi ông là Biển Thước. Biển Thước được coi là người đã đặt ra cơ sở cho phép bắt mạch, hai tác phẩm Nội Kinh và Ngoại Kinh do ông biên soạn đã thất truyền. Người ta vẫn cho rằng tác phẩm Nạn Kinh chính là do Biển Thước biên soạn. Theo truyền thuyết, mắt ông có thể thấy thấu suốt nội tạng của người khác. Theo sử chép, có lần ông đến nước Tề, khi đến gặp Tề Hoàn Công (Điền Ngọ, không phải là Tề Hoàn Công Khương Tiểu Bạch thời Xuân Thu), Biển Thước nói “nhà vua đã bị bệnh nhẹ, hãy nên chữa trị”. Tề Hoàn Công nghĩ ông muốn kiếm chác nên lờ đi. Biển Thước ba lần gặp mặt, đều xin vua hãy chữa bệnh, nhưng vua đều làm lơ. Đến khi vua ngã bệnh, triệu ông vào chẩn trị, ông nói bệnh đã lậm sâu trong tạng phủ, không thể chữa được nữa. Quả nhiên mấy hôm sau, vua Tề chết. Về sau, do Biển Thước trị lành bệnh cho Tần Vũ Vương (Doanh Đãng), quan Thái Y Lệnh nước Tần là Lý Ê ghen tài bèn sai thích khách giết chết Biển Thước tại Ly Sơn.

[193] Bộ kinh này có tên gọi đầy đủ là Ngạ Quỷ Báo Ứng Kinh, được phiên dịch vào thời Tây Tấn, ghi chép những lời vấn đáp về nghiệp nhân giữa ngài Đại Mục Kiền Liên và các ngạ quỷ. Bản kinh này còn được ngài An Thế Cao dịch với danh xưng là Quỷ Vấn Mục Liên Kinh.

[194] Điếm nhục khuê môn là hãm hiếp hay gian dâm gái chưa xuất giá.

[195] Nguyên văn “đầu thoa tuấn cự” (投梭峻拒). Theo chương Tạ Côn Truyện trong Tấn Thư chép: “Nhà hàng xóm là họ Cao có một người con gái xinh đẹp, Tạ Côn từng trêu ghẹo, cô ta quăng thoi dệt cửi vào mặt khiến hắn gãy mất hai cái răng”.

[196] Danh giáo (名教) là lễ giáo chánh danh định phận.

[197] Theo Châu Tử Gia Lễ, bát mẫu (八母) là tám loại người phải coi như mẹ, tức là đích mẫu (嫡母, vợ cả của cha), kế mẫu (继母, mẹ ghẻ), dưỡng mẫu (养母, mẹ nuôi), từ mẫu (慈母, do mang thân phận tiểu thiếp, không sanh nở được, hoặc không có con trai, phải nuôi con của những thê thiếp khác của chồng làm người thừa kế), giá mẫu (嫁母, bố chết, mẹ đi lấy chồng khác thì gọi là giá mẫu), xuất mẫu (出母, mẹ ruột), thứ mẫu (庶母, vợ lẽ của cha), nhũ mẫu (乳母, vú nuôi). Trong đó, “dưỡng mẫu” có thể hiểu theo hai nghĩa:

1) Một là người nhận nuôi ta trong trường hợp côi cút, hay là người ấy hiếm muộn, xin ta làm con nuôi.

2) Hai là những bà vú em chuyên chăm sóc trẻ cho đến khi ba tuổi. Bà vú này chỉ chăm sóc, chứ không có sữa cho trẻ bú.

[198] Nguyên văn là “oán nữ” (怨女). Theo cổ lễ, nữ nhân đã đến tuổi kết hôn, nhưng chưa có đối tượng thích hợp để cưới gả thì gọi là “oán nữ”.

[199] Nguyên văn là “phục” (伏) và “khởi” (起), tức là theo Đạo Giáo, đạo sĩ có thể lễ bái trước đàn tràng, xuất hồn lên thiên đình, đó gọi là “phục”. Khi hồn nhập trở lại xác thì gọi là “khởi”.

[200] Chánh Đức là niên hiệu của Minh Vũ Tông (Châu Hậu Chiếu) từ năm 1506 đến năm 1521.

[201] Phiên Hiến (藩憲) là tên gọi khác của Bố Chánh Sứ (ta thường gọi tắt là Bố Chánh), là người đứng đầu cơ quan hành chánh của một tỉnh, dưới quyền quan Tuần Phủ.

[202] Huyền Đàn là tên gọi tắt của Kim Long Như Ý Chánh Nhất Long Hổ Huyền Đàn Chân Quân. Vị này tên thật là Triệu Lãng, tự Công Minh, là một trong bốn đại nguyên soái hộ pháp của Đạo Giáo, nên còn gọi là Huyền Đàn Nguyên Soái. Tương truyền, Huyền Đàn Chân Quân là người đời Tần, lánh mình vào Chung Nam Sơn tu đạo, được gặp tổ Đạo Giáo là Chánh Nhất Thiên Sư Trương Đạo Lăng nhận làm đồ đệ, sai cưỡi hắc hổ, thủ hộ phòng đan dược. Vị này được coi là có nhiều công năng thần dị, nên được dân chúng tôn thờ nhằm cầu tiêu tai, giải nạn. Ông còn được thờ như vị Vũ Tài Thần (Văn Tài Thần là Phạm Lãi), với danh xưng Thiên Quan Trung Lộ Nguyên Soái, có bốn bộ hạ là Chiêu Bảo Thiên Tôn Tiêu Thăng, Nạp Trân Thiên Tôn Tào Bảo, Chiêu Tài Sứ Giả Trần Cửu Công và Lợi Thị Tiên Quan Diêu Thiếu Tư. Ông cùng với bốn bộ hạ được gọi chung là Ngũ Lộ Tài Thần. Người Khách Gia (Hakka) còn gọi ông là Ngân Chủ Vương Công.

[203] Trường học thời cổ được gọi là Tường (庠). Vì thế, học trò được gọi là Tường Sanh (庠生). Theo quy chế, đời Minh – Thanh, sinh viên các trường học ở phủ, châu, huyện (thường gọi là Ấp Tường), sẽ được gọi là Tường Sanh, tức là những người đã đỗ Tú Tài (còn gọi là Mậu Tài).

[204] Ngũ Lãnh là năm rặng núi ở phía Nam Trung Hoa, nằm dọc theo ranh giới bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam và Giang Tây. Vùng Lãnh Nam (phía Nam rặng Ngũ Lãnh) thuộc địa bàn nước Văn Lang thời cổ. Ngũ Lãnh bao gồm các rặng núi Việt Thành, Đô Bàng, Manh Chử, Kỵ Điền và Đại Dữu.

[205] Khi ấy, Nghiêm Vũ đang làm Kiếm Nam Tiết Độ Sứ, cai quản vùng Tứ Xuyên.

[206] Thành ngữ có câu “thẩn lâu hải thị” (蜃樓海市, lầu thẩn, phố biển). “Hải thị” (海市) là những huyễn ảnh do ánh sáng khúc xạ phản chiếu những hình ảnh trên bờ (có thể là ở rất xa), khiến cho người đi biển vào lúc nắng gắt trông thấy có thành phố trên mặt biển, đến gần bèn chẳng có. Người xưa giải thích là ngoài biển có một giống ốc lớn gọi là Thẩn (蜃), hơi thở của nó bốc lên mặt biển, tạo thành huyễn ảnh như lầu gác, đình tạ, nên gọi “thẩn lâu”. Ở đây có ý nói, chẳng cần nhờ ngoại duyên mà do vọng tưởng trong tâm, cho nên Hành Uẩn tự thấy các huyễn tượng, trông thấy hoa sen bèn tưởng tượng có mỹ nhân đứng trên đó, hoặc tưởng tượng đến gót sen của mỹ nhân mà dấy lên dâm niệm, chiêu cảm quỷ dạ-xoa thừa dịp làm hại.

[207] Thuở xưa, chưa có kiếng. Cổ nhân dùng loại giấy mỏng phết hồ cho bền chắc dùng dán cửa sổ, vừa chống gió lạnh, vừa lấy ánh sáng từ bên ngoài.

[208] Lục Dung là người huyện Thái Thương, Tô Châu, sống vào đời Minh, làm đến chức Lại Bộ Thượng Thư. Theo Thọ Khang Bảo Giám, Lục Dung dáng dấp rất đẹp đẽ. Vào năm Thiên Thuận thứ ba (1459), ông đi thi ở Nam Kinh. Trong quán trọ, có nữ nhân nửa đêm đến chỗ ông ngủ, toan tằng tịu. Thoạt đầu, ông viện cớ mắc bệnh, hẹn đêm sau. Cô ta lui ra. Ông bèn làm thơ rằng: “Phong thanh nguyệt bạch dạ song hư, hữu nữ lai khuy tiếu độc thư, dục bả cầm tâm thông nhất ngữ. Thập niên tiền dĩ bạc Tương Như” (Song thưa, gió mát, trăng thanh, cô gái ngấp nghé trêu anh học trò, mượn đàn toan những hẹn hò, mười năm trước đã phụ phàng Tương Như). Đợi đến sáng, ông mượn cớ rời khỏi. Mùa Thu năm ấy, ông đi thi. Trước đó, cha ông ta nằm mộng thấy quan Quận Thủ tặng cờ và tấm biển [phong tặng], [kèm thêm một đội] trống, kèn. Trên tấm biển ấy, đề bốn chữ “nguyệt bạch phong thanh”. Người cha nghĩ là điềm báo con thi đậu, viết thư gởi cho ông. Ông càng thêm dè dặt. Về sau, ông đỗ Tiến Sĩ, làm quan tới chức Tham Chánh.

[209] Trong Thọ Khang Bảo Giám đã chép câu chuyện này như sau: Thư sinh họ Tào ở Tùng Giang đi thi. Ở quán trọ, có người đàn bà tìm đến [dụ dỗ]. Ông Tào kinh hãi, vội chạy sang chỗ khác tá túc. Đi nửa đường, ông thấy có ánh đèn dẫn đường, dẫn vào một tòa cổ miếu. Nghe đánh trống thăng đường, ông Tào phủ phục trước miếu, nghe trong điện thờ xướng danh những người được ghi tên trong bảng tân khoa. Tới người thứ sáu, lại [có nha lại] bẩm rằng: “Ông X… gần đây làm chuyện sai trái, Thượng Đế gạch tên, hãy nên bù người nào vào?” Thần nói: “Ông Tào ở Tùng Giang chẳng hành dâm với người đàn bà ở quán trọ, là bậc chánh khí, đáng thêm tên vào”. [Nha lại] bèn thêm tên ông Tào vào. Ông Tào [nghe phán bảo như vậy] vừa sợ hãi, vừa vui mừng. Quả nhiên [về sau], Tào Phân đỗ thứ sáu.

[210] Chuyện này được chép ngay trong phần sau.

[211] Sách Thọ Khang Bảo Giám chép câu chuyện này như sau: Đời Thanh, ông Viên ở Thiểm Tây. Do giặc Sấm (Lý Tự Thành) dấy loạn, cha con thất lạc, trôi nổi, ngụ tại Giang Nam, muốn cưới thiếp sanh con. Vừa mua được vợ, rước về nhà ông Viên, cô ta xoay lưng về ánh đèn, khóc lóc. Ông Viên gạn hỏi, cô ta đáp: “Chẳng có gì khác. Chỉ vì trong nhà đói nghèo, chồng muốn tìm cái chết, cho nên thiếp bán thân để chồng được sống. Thiếp nghĩ tới vợ chồng tình sâu nghĩa nặng trước nay; vì thế, khôn ngăn đau thương vậy”. Ông thương xót, xoay lưng ngồi đợi sáng. Ngoài số tiền bán thân ra, còn tặng thêm một trăm lạng, trả người vợ cho chồng, bảo họ hãy buôn bán. Vợ chồng họ khóc lóc ra đi. Về sau, họ muốn tìm một cô gái chưa chồng, tặng cho ông Viên để sanh con, nhưng tìm đã lâu chẳng được. Ngẫu nhiên tới Dương Châu, họ gặp một người đem một đứa bé khôi ngô muốn bán; do vậy, họ bàn riêng với nhau: “Ta chưa tìm được cô gái nào. Trước hết, hãy mua đứa trẻ này về hầu hạ ông Viên, có gì là không được?” Bèn mua lấy, vượt sông, tặng nó cho ông Viên. Ông Viên nhìn kỹ, thì ra là đứa con đã bị thất lạc.

[212] Sách Thọ Khang Bảo Giám chép câu chuyện này như sau: Trầm Đồng ở Quy An, có tên tự là Quán Di, nhà nghèo. Người anh họ là Tốn Châu giới thiệu ông đến nhà sui gia dạy trẻ vỡ lòng. [Nhà ấy] mẹ góa, con thơ. Một đêm, bà góa đến dụ dỗ ông làm chuyện chim chuột, Trầm Đồng nghiêm khắc cự tuyệt. Ngày hôm sau, ông liền từ tạ trở về. Bà góa sợ lộ chuyện, sắm sửa lễ vật van nài [Trầm Đồng trở lại dạy học], lại thúc giục Tốn Châu mời giùm mấy lượt, ông đều chẳng nhận lời. [Tốn Châu] vặn hỏi nhiều lần, ông Đồng trọn chẳng hé môi, chỉ nói “bất tiện” mà thôi! Năm sau, [Trầm Đồng] đỗ đạt, làm quan tới chức Tuần Phủ.

[213] Đời Minh, nhằm phân tán quyền lực quan lại đứng đầu các tỉnh (tức quan Tuần Phủ), triều đình đã lập ra ba chức quan khác biệt dưới Tuần Phủ, gồm Đô Chỉ Huy Sứ (gọi tắt là Chỉ Huy Sứ, trông nom việc quân sự), Bố Chánh Sứ (coi hành việc hành chánh và tài chánh), và Án Sát Sứ (coi việc kiện tụng, tư pháp).

[214] “Binh phòng” là nha sở trông coi về việc binh bị ở các quận, huyện dưới thời Minh và Thanh.

[215] Trung Giới Kinh là bộ Xích Tùng Tử Trung Giới Kinh của Đạo gia.

[216] Duyện (掾) là tiếng để gọi chung phụ tá của các trưởng quan. Quận Duyện (郡掾) tức là người phụ tá của quan Thái Thú.

[217] Phủ Quân (府君) là tiếng tôn xưng để gọi Thái Thú đời Hán, đồng thời cũng là tiếng tôn xưng để cháu gọi ông nội.

[218] Đây là chức quan chuyên trông coi đánh thuế hàng hóa chuyên chở bằng đường thủy và đường bộ.

[219] Nguyên văn là “tuế khảo” (歲考). Theo quy chế đời Minh và Thanh, mỗi năm, vị quan trông coi việc giáo dục (tức Đề Học, Học Chánh) tại các châu, huyện, phủ sẽ khảo hạch sinh viên (những người đã được vào trường huyện) để phân định hơn kém. Nhất là các lẫm sanh (sinh viên được nhà nước trợ cấp gạo), nếu kết quả chẳng đạt, lẫm sanh ấy sẽ bị cắt trợ cấp, hoặc cấm đi thi Hội cho đến khi nào kết quả tuế khảo khá hơn. Vào đời Thanh, quy định như sau: Điểm số được xếp vào bậc nhất và bậc nhì thì được khen thưởng, bậc ba thì không khen, không phạt, bậc bốn sẽ bị khiển trách, bậc năm thì tiền trợ cấp giảm bớt một phần, bị cấm thi Hội cho đến khi nào tuế khảo đạt điểm khá hơn, bậc sáu thì tước bỏ hẳn danh hiệu sinh viên, không cho học tại trường huyện nữa, hoàn toàn cắt hẳn các khoản trợ cấp.

[220] Khoa khảo (科考) là kỳ thi tại các châu huyện để xét duyệt thí sinh có đủ trình độ để đi thi Hương hay chưa.

[221] Châu Bột là công thần khai quốc nhà Tây Hán, xuất thân nghèo khổ. Thuở trẻ, ông sống đắp đổi bằng nghề đan nong nuôi tằm, cũng như thổi sáo trong đám ma để kiếm cơm. Về sau, ông theo phò Lưu Bang lập nhiều công lao rất to. Vì thế, khi Lưu Bang làm hoàng đế, đã phong cho Châu Bột làm Giáng Hầu. Kế đó, ông được cử làm Thái Úy, rồi làm Tướng Quốc (Tể Tướng). Ông là người hết sức chất phác, ăn nói vụng về, lắp bắp, nhưng chấp chánh hết sức giỏi. Nhà Tây Hán được an định phần lớn nhờ vào chánh sách của ông.

[222] Tề Khoảnh Công (Khương Vô Dã) là cháu nội của Tề Hoàn Công (Khương Tiểu Bạch). Khi Khước Khắc nước Tấn cầm cờ tiết sang sứ nước Tề, do mẹ của Tề Khoảnh Công ở trên lầu nhìn xuống, thấy Khước Khắc thọt chân đi tập tễnh bèn cười nhạo. Khước Khắc ghim mãi nỗi sỉ nhục ấy trong lòng. Về sau, Tề đánh Lỗ và Vệ. Vệ và Lỗ cầu cứu nước Tấn, nước Tấn sai Khước Khắc cầm quân. Khước Khắc đại phá quân Tề, uy hiếp nước Tề. Tề cầu hòa, Khước Khắc đòi phải đem Tiêu Đồng Thúc Tử làm con tin thì mới chịu cho hòa. Tiêu Đồng Thúc Tử chính là mẹ của Tề Khoảnh Công.

[223] Bình Nguyên Quân là Triệu Thắng, người nước Triệu, là em trai của Triệu Huệ Văn Vương, thích chiêu đãi tân khách, được coi là một bậc hiền sĩ thuở ấy. Cách vách của Bình Nguyên Quân là nhà một người dân thường. Anh ta bị thọt chân, tập tễnh ra giếng gánh nước. Một nàng thiếp của Bình Nguyên Quân trông thấy bèn cười nhạo. Hôm sau, người ấy đến gõ cửa thưa: “Tôi nghe Ngài coi trọng kẻ sĩ, cho nên kẻ sĩ chẳng ngại xa xôi nghìn dặm tìm tới, vì Ngài quý kẻ sĩ, mà coi thường mỹ nữ. Tôi bất hạnh bại xụi, bị người thiếp của Ngài cười nhạo, tôi xin cái đầu của người đã cười nhạo tôi”. Bình Nguyên Quân đáp ứng. Người ấy bỏ đi, Bình Nguyên Quân nói: “Coi cái thằng nhãi đó kìa! Cứ tưởng ta sẽ giết thiếp yêu hay sao?” Rốt cuộc chẳng giết, trong vòng một năm, môn khách bỏ đi hết. Bình Nguyên Quân hỏi han, họ cho biết: “Ngài coi trọng sắc, khinh thường kẻ sĩ, chúng tôi ở lại làm gì?” Bình Nguyên Quân đành cắt đầu người thiếp đã cười nhạo, đưa cho người thọt chân, đích thân xin lỗi. Tân khách mới lục tục quay lại.

[224] Mạnh Thường Quân là Điền Văn, con của Điền Anh. Ông tập ấm tước vị của cha nên được phong làm Tiết Công. Ông đối xử với các bậc danh sĩ rất lễ độ, chu đáo. Trong nhà ông có đến mấy ngàn tân khách. Ông là người thấp bé, ốm yếu. Có một hôm, ông sang nước Triệu vì Bình Nguyên Quân mời mọc. Người nước Triệu nghe danh Mạnh Thường Quân là bậc hiền năng, tranh nhau đi xem. Họ cười cợt: “Tưởng sao! Cứ ngỡ Tiết Công khôi ngô, tráng kiện, nay trông thấy, hóa ra là một thằng đàn ông bé choắt cheo”. Mạnh Thường Quân hết sức tức giận, môn khách của ông đều xuống xe, rút kiếm ra, chém chết mấy trăm người. Số người bị giết chừng bằng dân số một huyện.

[225] Xuất tướng, nhập tướng (出將入相). Chữ Tướng thứ nhất là Tướng Quân, chữ Tướng thứ hai là Tể Tướng. Câu này có ý nói người ấy luôn nắm giữ quyền cao chức trọng. Ra ngoài sẽ là vị đại tướng cầm quân, vào triều sẽ làm Tể Tướng.

[226] Chữ Yếm (厭) ở đây là cách viết theo lối giả tá của chữ Yểm (魘, ếm đối). “Cổ” (蠱) là một loại độc trùng, hoặc thuốc độc có tác dụng khống chế người khác. Yểm vốn là dùng phù chú để trấn ếm vào đồ vật, hình nhân để gây họa cho người khác.

[227] Đây là quyển sách quy định về những luật lệ trong Đạo Giáo.

[228] “Thiên tâm” ở đây là thuật ngữ của Phong Thủy chỉ phần trung tâm của phần mộ.

[229] Ý nói: Bậc thầy giảng dạy ý nghĩa kinh điển thì dễ gặp, nhưng bậc thầy có đủ tư cách hướng dẫn ta làm một người hoàn thiện thì khó gặp lắm.

[230] Đồng niên có hai cách hiểu:

  1. Người có cùng lứa tuổi với mình.
  2. Người đỗ đạt cùng khoa thi với mình.

File đính kèm

STT Tên File Tải xuống
1 Cảm Ứng Thiên Vựng Biên (file Word) Xem File