Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
感 應 篇 彙 編
Quyển 2
(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2000)
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong – Huệ Trang
(Chánh văn) Hữu đễ.
(正文)友悌。
(Chánh văn: Thuận thảo với anh em).
Hiếu và Đễ vốn là một, nay lại nói chuyên biệt, hòng muốn cho mọi người sẽ tùy theo từng sự mà trọn hết [bổn phận] vậy. Anh hòa thuận, yêu thương, đáng kính; em thì kính thuận, nể sợ [anh], hòa hợp. Anh em là những người có cùng khí chất với thân ta, chỉ có mấy người này [là những người thân thiết] khó có nhất trong một đời người. Nhìn từ phía cha mẹ, [anh em] vốn là một Thể. Nếu anh em có chút đối chọi, lòng cha mẹ liền đau xót, bất an. Vì thế, thấy anh em ta thương yêu nhau, cha mẹ ta sẽ rất thoải mái, yên vui. Hơn nữa, anh em được gọi là “tay chân”, ắt phải che chở, nâng đỡ lẫn nhau. Ngứa và đau liên quan, há có chuyện tay chân tự tranh đoạt lẫn nhau ư? Hãy nên nghĩ [anh em đều do] cha mẹ sanh ra, vốn cùng một Thể, tình cốt nhục khó thể chia lìa. Hễ vì ý khí [xáo động] mà giận dữ, tranh giành, hãy tự dấy lòng bất nhẫn. Đối những thứ tài lợi nhỏ nhặt, hãy tự xem nhẹ. Thiền sư Pháp Chiêu có bài kệ rằng:
Đồng khí liên chi các tự vinh,
Ta ta ngôn ngữ mạc thương tình,
Nhất hồi tương kiến nhất hồi lão,
Năng đắc kỷ thời vi đệ huynh.
Huynh đệ đồng cư nhẫn tiện an,
Mạc nhân hào mạt khởi tranh đoan,
Nhãn tiền sanh tử hựu huynh đệ,
Lưu dữ nhi tôn tác dạng khan.
(Tạm dịch:
Đồng khí liền cành thảy tốt xinh,
Đừng vì lời nói tổn thương tình,
Mỗi lần gặp gỡ, già hơn trước,
Mấy thuở được làm nghĩa đệ huynh?
Anh em chung ở, nhường liền ổn,
Đừng vì chuyện vặt dấy đua tranh,
Con cái chúng ta là huynh đệ,
Nêu gương cho cháu lẫn con nhìn).
Sách Viên Thị Thế Phạm[1] có đoạn:
– Cha anh yêu thương con em, chẳng cần đòi hỏi con em ắt phải hiếu thuận. Con em yêu thương cha anh, chẳng cần đòi hỏi cha anh ắt phải nhân từ. Ai nấy chú trọng trọn hết trách nhiệm của chính mình, căn bệnh mong ngóng, trách móc sẽ tự trừ. Nghiêm cấm tỳ thiếp chẳng được ngồi lê đôi mách; đối với những lời lẽ trong chốn riêng tư của vợ hay nàng hầu, dẫu hợp ý, cũng chớ nghe theo, ắt đầu mối ly gián sẽ tự chấm dứt. Tánh tình của con người hoặc mềm mỏng, hoặc cứng cỏi, hoặc hành xử cẩn thận, hoặc hào phóng, buông tuồng, hoặc là an tĩnh, hoặc là bộp chộp; lúc gặp chuyện, đúng sai khác nhau, chỉ nên đối với mỗi trường hợp mà hành xử thích hợp. Đừng vì thấy ta là đúng, mà đòi hỏi mọi chuyện ắt phải hợp ý mình; [như vậy thì] há còn có tranh chấp? Dẫu cho gặp cảnh bất bình, chẳng nỡ bàng quan, chỉ nên bình tâm hòa khí, mềm mỏng, khéo léo khuyên lơn. Như thế thì há có chuyện chẳng hòa thuận ư? Người thời nay đánh mất niềm vui cốt nhục, nguyên do là vì những điều hết sức nhỏ nhặt mà dẫn đến [tình trạng] chẳng thể giải quyết được! Chỉ vì sau khi đã bất hòa, ai nấy đều tự ái cao ngất ngưởng, chẳng thể buông xuống được! Nếu trong ấy, có một người hiền hòa, sáng suốt, cam lòng chịu thua thiệt, có thể tự xuống nước trước để lo liệu, bàn soạn với những người khác, ắt đôi bên sẽ chịu thương thảo với nhau, dần dần hòa hảo như lúc bình thường vậy.
Đời Minh, ông Vương Dương Minh nói: “Vua Thuấn có thể cảm hóa [em trai là] Tượng, điều then chốt chỉ là [vua Thuấn] chẳng thấy Tượng là sai!” Ngu ý cho rằng: Trong vòng cốt nhục, chỉ nên nói theo tình, chớ nên nói theo lý. Hễ chấp lý sẽ tổn thương tình, hễ tổn thương tình thì chẳng phải là đúng lý vậy! Như có kẻ hỏi Trình Tử: “Tôi phụng sự anh tôi trọn hết lý, mà anh tôi chẳng vui lòng, biết làm sao đây?” Ông Trình đáp: “Chỉ nên dấy lòng hiếu kính, trọn hết lòng chí thành, chẳng cần biểu lộ [ồn ào tâm ý của] chính mình là được rồi!” Hỏi: “Chăm sóc em trai bằng cách nào?” Đáp: “Trọn hết lòng hòa thuận, yêu thương mà thôi!”
Trong bài Hiếu Đễ Ca của tiên sinh Thiệu Nghiêu Phu (Thiệu Ung)[2] đời Tống có đoạn:
– Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Trong vòng cốt nhục, đừng dấy lên sóng gió. Ân cha mẹ mênh mông hãy nên báo đền. Phải biết tình thủ túc sâu đậm nhất, phải nên hòa thuận. Dòng họ Trương Công Nghệ[3] [chín đời] ở chung với nhau xưa nay hiếm. [Anh em] Điền Chân[4] ở chung, con cháu đông đảo. Những người như thế xa gần đều ca ngợi. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh[5].
Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Nói năng nhỏ nhẹ, khiêm hòa. Nan huynh nan đệ[6] danh càng trọng. Con hiền cháu thảo cốt cho nhiều. Đội gạo vẫn có thể phụng dưỡng tuy đơn bạc. Kẻ đọc sách có ai chẳng mong đỗ đạt cao [hòng dùng bổng lộc phụng dưỡng cha mẹ]? Trọng Do, Trần Kỷ[7] đều như thế. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Răn dạy chị em dâu giữ hạnh hiền thục, đảm đang, phụng sự bố mẹ chồng. Hãy khéo tuân theo cách dạy con bằng ba lượt dời nhà của mẹ ông Mạnh Tử. Hãy đọc bài ca trăm chữ Nhẫn của ông Trương [Công Nghệ]. Hiếu thảo với cha mẹ, hòa thuận với anh em, cư xử tốt đẹp với thân tộc, thông gia, lại còn giúp đỡ kẻ khốn khó, lỡ vận. [Noi theo] trí, nhân, đạo nghĩa của thánh hiền, giữ đạo trung hòa (trung dung, hòa khí) [giống như] Tăng Tử và Dương Bác thuở đương thời. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Đừng bảo chuyện đời thường hội đủ thiên thời, địa lợi với nhân hòa. Đáng than đời người được mấy chốc? Phồn hoa ngập mắt, quý báu chi? Một nhà an lạc giá trị nhiều. Lạ thay chuyện nhường quả[8], ôm quất[9]. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Thời gian thấm thoát tựa thoi đưa. Chỗ vui sướng trong gia đình là niềm vui nơi con cháu[10]. Khi anh em hòa thuận, thì chị em bạn dâu cũng hòa thuận. Thanh danh hiếu đễ được lưu truyền mãi chẳng mất. Giàu có vàng bạc đầy rương sánh được sao? Phải biết tiếng thơm lưu truyền xưa nay. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Sáng thăm, tối viếng chớ chần chừ! Một nhà hiếu thảo, hòa thuận rất khó có. Thời gian trăm năm dễ trôi qua nhất. Chính mình phải nên sốt sắng giữ niềm vui hòa thuận. [Cơ sở để] giữ vẹn luân thường và tôn ty là sự khiêm hòa. Mặc áo sặc sỡ múa may, kèn sáo hòa điệu[11]. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Chồng đừng nên nghe lời vợ xúi giục. Đừng bực bội vì trước mắt tiền bạc ít ỏi. Con cháu dưới gối chẳng ngại nhiều. Chỉ cần gia đình hòa thuận, nghèo cũng được. Nếu dạy [con cháu] thành kẻ bất nghĩa, giàu có để làm gì? Vương, Hàn[12] hiếu thảo, hòa thuận lưu danh trong sử xanh. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Đừng gây tổn thương hòa khí, [vì] nhiều nỗi giận tức, tranh giành. Càng sanh ganh ghét, càng khốn khó. Ngấm ngầm tích cóp làm của riêng sẽ ngấm ngầm tiêu tán. Kẻ bất hiếu tự nhiên sanh ra đứa con ngỗ nghịch. Kẻ vô hạnh chắc chắn sanh ra con cái yêu ma! Chỉ nghe kẻ hiếu thuận, hòa mục, danh truyền muôn đời. Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Đừng vì chuyện nhỏ nhặt mà tổn thương hòa khí. Đừng phiền vàng trong rương ít ỏi, phải ngấm ngầm tích lũy âm chất cho nhiều. Riêng tư, tà vạy há tốt đẹp như công bằng, chánh trực? Cứng cỏi chẳng làm gì được kẻ tốt lành, mềm mỏng. Sách vở xưa nay thường khen ngợi: Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh. Than ôi, [gia đình tan rã] vì nghe theo những lời phân tích xúi siểm. Tài vật trong túi hiềm còn ít, ruộng đất ông bà ngươi vẫn muốn nhiều. Vợ chồng trước mắt tuy vui thú, sợ rằng mai sau con cháu phá tan tành![13] Làm thế nào để giữ lòng hiếu thảo, hòa thuận với xóm làng? Con phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh.
Đời Hán, ba anh em Điền Chân bàn tính phân chia tài sản [ra ở riêng]. Mọi thứ tài vật đều được chia đều. Trước nhà, có một cây tử kinh[14], họ muốn chia làm ba, [dự tính] ngày hôm sau sẽ đốn. Cây liền khô héo. Điền Chân kinh hãi, bảo các em: “Cây vốn cùng một cội, nghe sắp bị chia xẻ nên khô héo, vậy là người chẳng bằng cây!” Do vậy, buồn bã khôn ngăn, chẳng còn tính xẻ cây nữa. Cây nghe tiếng bèn sống lại. Anh em họ cảm kích trước chuyện này, gộp tài sản lại, sống chung với nhau, được [người đời] xưng tụng là nhà hiếu thảo. Ôi! Anh em là một trong các mối thiên luân, hợp với [các mối quan hệ] cha con và vợ chồng thành Tam Cương. Vì thế, cổ nhân thường sánh ví [anh em] như tay chân, ý nói chẳng chia lìa vậy. Hễ ly ắt tán, hễ tán sẽ trơ trọi, do trơ trọi sẽ bị diệt mất.
Đời Tống, anh của Tư Mã Ôn Công (Tư Mã Quang) là Bá Khang, tuổi đã tám mươi. Ông (Tư Mã Quang) phụng dưỡng anh như cha, chăm chút anh như trẻ thơ. Thường khi người anh vừa ăn được chốc lát, ắt hỏi: “Có bị đói hay không?” Lạnh một chút, ắt sẽ xoa lưng bảo: “Áo có mỏng quá hay không?”
Châu Văn Xán tánh hòa thuận, yêu thương anh em. Người anh thích uống rượu, sống nhờ vào ông Xán. Người anh thường do say sưa mà đánh ông Xán. Hàng xóm bất bình, chửi người anh. Ông Xán tức giận, nói: “Anh chưa đánh ta, sao lại ly gián cốt nhục của ta?”
Đời Tống, Trịnh Đức Khuê và Đức Chương bẩm tánh hiếu thảo với cha mẹ, thuận thảo với anh em, sách bày cùng bàn, đêm ngủ đắp chung chăn. Đức Chương tánh hết sức chánh trực, làm mất lòng nhiều người. Kẻ thù hãm hại ông mắc tội chết, [quan phủ hạ] án lệnh bắt về Dương Châu. Đức Khuê đau xót vì em trai bị vu cáo, giả vờ nói: “Chúng nó muốn hại ta, chuyện đâu có liên quan đến em! Để ta đến chỗ quan phủ, lời cáo gian ắt được sáng tỏ, chứ em đến cửa quan, há thoát khỏi chết ư?” [Đức Khuê bèn theo bọn sai nha] lên đường. Đức Chương đuổi kịp, anh em ôm nhau, giậm chân khóc lóc, tranh nhau đi chết. Đức Khuê ngấm ngầm tìm kế ngăn trở em trai lên đường, nửa đêm trốn đi. Đức Chương lại đuổi tới Quảng Lăng, Đức Khuê đã chết trong ngục. Đức Chương đau xót, ngất đi mấy lần, mang xương anh về an táng, dựng lều bên cạnh mộ anh suốt hai năm. Mỗi khi ông đau đớn gào khóc, chim chóc đều bay vần vũ, bỏ ăn. Con Đức Khuê thơ dại, Đức Chương nuôi nấng, chăm chút như con ruột của chính mình.
Đời Hán, Tiết Bao hiếu học, chuyên tâm giữ gìn đức hạnh. Bị mẹ ghẻ ghét bỏ, đuổi đi, Tiết Bao hằng ngày đêm gào khóc ở bên ngoài nhà, buổi sáng lại vào nhà quét dọn. [Mẹ ghẻ] lại xua đuổi, bèn dựng lều ở nhờ trong làng. Sáng tối vấn an. Hơn một năm sau, cha mẹ cảm động, cho trở về. Cha mẹ mất, ông đau buồn thành bệnh. Các em xin ra sống riêng, Tiết Bao không thể ngăn được, đành để mặc cho các em thỏa lòng mong muốn. Đối với tôi tớ, ông bèn chọn những người già yếu, bảo: “Những người này hầu ta lâu ngày, đã quen sai khiến rồi”. Đối với đồ đạc, ông chọn những thứ cũ nát, bảo: “[Những món này] ta quen sử dụng, cảm thấy thân và miệng thoải mái”. Đối với ruộng đất bèn chọn ruộng hoang vu, bảo: “Ta đã cày cấy từ bé, có ý quyến luyến [những thửa ruộng này]”. Các em chẳng thể tự lập, đến nỗi phá tan gia sản. Tiết Bao lại cấp dưỡng. Hán An Đế nghe danh, vời vào triều giữ chức Thị Trung[15]. Ông chẳng nhận, vua bèn thưởng một ngàn thạch gạo.
Đời Hán, Hứa Vũ mồ côi từ bé, có hai đứa em thơ dại. Hứa Vũ ngày cày cấy, đêm học hành. Khi cày cấy, tuy hai em chưa đủ sức sử dụng cày bừa, thường bảo hai em theo bên cạnh quan sát. Khi đọc sách, hai em ngồi hai bên, đích thân dạy hai em đọc từng câu, từng đoạn, giảng giải cặn kẽ. Dùng lễ nghĩa dạy hai em, dạy dỗ đến khi em khôn lớn. Hễ em hơi chẳng vâng lời dạy, ông bèn tự quỳ trước bàn thờ trong nhà, thưa trình: “Bản thân con thiếu đức, chẳng thể dạy dỗ, cha mẹ có linh, xin hãy soi sáng cho hai em”. Một mực [làm như thế] cho đến khi hai em xin tha lỗi mới đứng dậy. Trọn chẳng dùng lời hằn học, hoặc vẻ mặt giận tức dằn hắt hai em. Hứa Vũ tuổi đã lớn, chẳng cưới vợ, nếu có ai khuyên nhủ, bèn đáp: “Sợ cưới lầm người, dễ sanh ra hiềm khích”. Do vậy, xóm giềng gọi ông là Hiếu Đễ Hứa Vũ. Quan đầu quận tâu lên, ông được vua phong làm chức Nghị Lang, danh vọng rạng rỡ. Ông tháo giải đeo ấn (từ chức) trở về, lo liệu chuyện hôn nhân cho hai em trước. Sau đấy, chính mình mới cưới vợ. Anh em ở chung mà hòa thuận. Về sau, hai em cũng rất có tiếng tăm.
Đời Tùy, Ngưu Hoằng làm Lại Bộ Thượng Thư. Em trai tên là Bật, thường say sưa, bắn giết những con bò kéo xe của ông Hoằng. Ông Hoằng về đến nhà, vợ ra đón, mách: “Chú nó bắn giết bò!” Ông Hoằng chẳng trách móc gì, thong thả đáp: “Đem làm thịt khô”. Ông đã ngồi yên định rồi, vợ lại nói: “Chú nó giết bò là chuyện bất thường to lớn”. Ông bảo: “Biết rồi! Có gì lạ đâu?” Vẻ mặt như không có chuyện gì xảy ra. Ông đọc sách chẳng lười nhác; về sau, trở thành bậc Tể Tướng danh tiếng. Trong cõi đời, những kẻ lâm vào cảnh tình nghĩa anh em sứt mẻ, chỉ là do nghe lời vợ [xúi giục]. Thấy chuyện này mà chẳng tỉnh ngộ, có khác gì cầm thú?
Đời Bắc Tề[16], có người tên Phổ Minh, anh em tranh chấp tài sản, quanh năm kiện tụng, ai nấy tìm người làm chứng, thưa lên Thái Thú huyện Thanh Hà là Tô Quỳnh. Ông Tô gọi họ đến, khuyên dạy: “Trong thiên hạ, khó được làm anh em. Đất đai, vườn tược là cái dễ được nhất. Giả sử có được vườn tược, ruộng nương, mà mất đi anh em, cái tâm như thế nào vậy?” Do đó, họ ứa nước mắt, những kẻ làm chứng không ai chẳng cảm động, khóc ròng, dập đầu [vâng theo lời dạy], nhường nhịn lẫn nhau.
Ông Vu Thiết Tiều nói:
– Hai đứa con nhà quan X… ở Hoài Âm đối chọi nhau từ bé, trải nhiều năm chẳng gặp nhau một lần. Về sau, người anh mắc bệnh nguy ngập, gọi em tới bên giường, nắm tay, bảo: “Ta mười chín tuổi kết hôn, thuở bé chẳng có tình yêu thương vợ con. Ba mươi tám tuổi cha mẹ mất, tuổi già chẳng có tình yêu thương của cha mẹ. Tụ hội với nhau lâu nhất chẳng ai bằng hai đứa ta và ngươi. [Thế mà] lại suốt đời chẳng hợp nhau, nay mới hối hận, nhưng đời ta đã hết rồi!” Đau đớn thay, người nghe chuyện ấy ắt sẽ động lòng.
Đời Hậu Hán[17], Mậu Đồng mồ côi [mẹ] từ bé, có bốn người anh em khác mẹ, cùng nhau sở hữu tài sản gia nghiệp. Cho đến khi mỗi người cưới vợ, các em đòi chia của sống riêng. Ông lại phải mấy lần nghe những lời lẽ tranh chấp. Mậu Đồng bèn đóng chặt cửa, tự quở: “Mậu Đồng! Ngươi tu thân, vâng giữ đức hạnh cẩn thận nhằm học theo pháp tắc của thánh nhân, hòng khiến cho phong tục được tốt đẹp, đoan chánh, cớ sao chẳng thể giữ yên gia đình vậy?” Các em và vợ nghe thấy đều dập đầu tạ tội, lại sống hòa thuận với nhau.
Thời Ngũ Đại, Trương Sĩ Tuyển mồ côi cha mẹ từ bé. Đến lớn, chỉ có chú còn sống. Chú có bảy đứa con, một hôm, chú bảo Sĩ Tuyển: “Ta sẽ chia của cho ngươi, sẽ chia [tài sản] thành hai phần, [ngươi được một phần]”. Sĩ Tuyển thưa: “Cháu không nỡ lòng để bảy người chia nhau một phần, xin hãy chia thành tám phần [đều nhau]”. Chú kiên quyết từ chối, Sĩ Tuyển cũng kiên quyết nhường phần, chú đành chia làm tám phần. Khi Sĩ Tuyển mười bảy tuổi, gặp kỳ thi Hội bèn lên kinh đô. Những người cùng ở trọ có đến hai mươi mấy mạng. Có một thuật sĩ xem tướng, bảo: “Kẻ đỗ đạt chỉ có đứa thiếu niên này”. Những kẻ cùng trọ cười chê [thuật sĩ ăn nói hàm hồ]. Thuật sĩ bảo: “Ta chẳng hiểu gì về văn chương, nhưng đứa thiếu niên này mặt tràn đầy âm đức, ắt là do tích thiện mà ra”. Đến khi yết bảng, chỉ riêng mình Sĩ Tuyển đỗ cao. Phàm những kẻ hèn hạ, bạc bẽo tình thủ túc trong hiện thời, tranh giành tài vật, tiền bạc, dẫu đối với anh em ruột mà còn như thế, huống hồ đối với những đứa con dòng thứ do mẹ kế sanh ra, sẽ dễ sanh lòng khinh rẻ, lấn hiếp, càng chèn ép quá đáng. Nếu là anh em họ, đôi bên càng xa cách, sự thân sơ càng rõ! Ai có thể như ông Trương [Công Nghệ] ư? Chẳng biết cổ nhân đã nói: “Bạc đãi anh em chính là bạc đãi cha mẹ. Bạc đãi anh em họ, chính là bạc đãi tổ tiên”. Nếu thiếu căn cội, cành lá ắt hư hoại. Đối với điều luận định đến tận nguồn cội này, mọi người hãy nên đọc đi đọc lại, suy sâu nghĩ chín!
Đời Tống, Mao Liệt và Trần Kỳ thân thiết. Trần Kỳ có ba đứa em còn bé, lo sợ khi chúng nó lớn lên sẽ phải phân chia sản nghiệp, bèn trước đó đem quá nửa số ruộng gạ gẫm sang lại với giá rẻ cho Mao Liệt, tích cóp mấy ngàn xâu tiền[18]. Sau khi mẹ mất, [Trần Kỳ] chỉ dùng số ruộng hiện đang có để chia cho các em. Hơn một năm sau, hắn mang tiền đến nhà Mao Liệt xin chuộc ruộng. Mao Liệt nhận tiền, nhưng ôm lòng chiếm đoạt, bèn lừa gạt bảo: “Hôm khác sẽ trả lại bằng khoán”. Trần Kỳ tự nhủ: “Ta thường giao hảo thân thiết với Mao Liệt, chắc là hắn chẳng có ý gì khác!” Vài hôm sau, [Trần Kỳ] tìm tới, Mao Liệt tránh mặt, không ra tiếp. Thưa lên huyện, quan huyện ăn hối lộ của Mao Liệt, phán: “Quan tin vào văn thư mà thôi, há có chuyện trao tiền mà không lấy bằng khoán ư?” Rốt cuộc, Trần Kỳ mắc tội vu cáo, bị phạt trượng. Về sau, nhiều lần thưa lên quan, hao tốn tài sản của chính mình gần như hết sạch, chẳng có bằng chứng để đòi tiền chuộc lại, ruộng vẫn thuộc về tay Mao Liệt. Ba người em [của Trần Kỳ] nghe chuyện cười khì. Trong cõi đời, những kẻ cậy mình khôn lớn lấn hiếp đứa thơ dại, có kẻ nào chẳng gặp phải hạng người như Mao Liệt ư?
Có ba anh em người dân ở huyện Cú Dung, người anh sang tạm cư tại đất Thục (Tứ Xuyên), ba năm không về. Đứa em thứ hai do thấy chị dâu xinh đẹp, sai người giả vờ đưa tin người anh đã chết. Chị dâu khóc lóc, để tang. Lâu ngày, hắn xét thấy [chị dâu] không có ý định tái giá, bèn ngầm nhận tiền của gã lái buôn để bán [chị dâu], lại còn nói gạt gã lái buôn rằng: “Chị dâu lòng muốn tái giá mà hay làm ra vẻ màu mè. Nếu nói lời ngon ngọt, ắt phải tốn nhiều thời gian. Ông có thể dẫn theo nhiều người kéo tới bất ngờ. Hễ thấy người nào cài trâm màu trắng, cứ lôi tuột lên xe, chỉ nói: ‘[Có chuyện gì] ngày mai sẽ nói’. Hễ lên thuyền, sẽ là vợ của ông rồi!” Mưu kế đã định, đêm ấy, gã lái buôn dẫn lũ tay chân kéo tới, hai đứa em thứ hai và em út đều tránh mặt. Nhưng đứa em út tức giận vì được chia tiền ít, trước đó, đã ngầm nói với chị dâu, vợ đứa em thứ hai chẳng biết. Do vậy, chị dâu khóc lóc, nói với vợ đứa em thứ hai: “Chồng em gả chị đi, may mắn là gặp khách giàu có, sao không nói sớm để chị trang điểm? Nay gặp dịp lễ tốt lành mà mặc đồ trắng toát thì coi sao được! Mong em đổi cho chị chiếc mũ sẫm màu trong chốc lát [để hành lễ]”. Vợ đứa em thứ hai bèn đưa mũ cho, tự cài chiếc trâm trắng. Chị dâu liền nấp kín. Bọn khách kéo đến, thấy vợ của đứa em thứ hai bèn lôi tuột đi, thừa dịp thuận gió mà nhổ thuyền. Đứa em thứ hai trở về, mới kinh hoảng là đã mất vợ, đuổi theo, nhưng ngàn cánh buồm lẫn lộn, chẳng thể tìm được. Đến hôm sau, người anh cả tay xách nách mang trở về, vợ chồng đoàn tụ. Người làng đều đến thăm hỏi, đứa em thứ hai hổ thẹn tột bậc. Hắn nghe hai đứa con thơ khóc lóc vì nỗi lẻ loi mà đứt từng khúc ruột! Người làng có kẻ biết chuyện, không ai chẳng ngấm ngầm cười nhạo! Phàm là những kẻ kính thuận hay khinh dối anh em, so với [chuyện lừa gạt, khinh rẻ] người khác, báo ứng họa hay phước gấp mười! Nếu [lừa dối, khinh rẻ] cha mẹ, sẽ [mắc quả báo] gấp trăm lần, há chẳng đáng sợ ư? Há chẳng đáng răn dè ư?
(Chánh văn) Chánh kỷ hóa nhân.
(正文)正己化人。
(Chánh văn: Sửa mình [cho chánh đáng] hòng dạy người khác).
“Chánh” (正) là đích xác, chẳng thể đổi khác. “Hóa” (化, giáo hóa) là chuyện tự nhiên. Có nghĩa là bản thân đã chánh đáng, chẳng ép buộc mà người khác sẽ hành theo. Đã đổ công dốc sức giữ mình chánh đáng, sẽ có nhiều loại diệu dụng giáo hóa người khác. Người có thể giữ mình chánh đáng, chưa hề chẳng thể khiến cho muôn loài đều chánh đáng theo. Bởi lẽ, do người ấy đã chánh, ai nấy đều kính trọng, người ta sẽ biết chỗ đáng tôn kính [của người ấy], đấy chính là chỗ để chuyển hóa cái tâm của họ. Nếu đối với chỗ có thể chuyển hóa ấy, [ta do] lòng chí thành khiến cho họ cảm động đôi chút, họ sẽ tự nhiên vừa được khơi gợi bèn chuyển biến. Vừa được khơi gợi, [thiện tâm, chánh tâm] sẽ tỏ lộ, không ai chẳng thuận theo. Nếu tự cho mình là chánh đáng, phán xét kẻ khác là bất chánh, chỉ trích họ đôi chút, ắt họ sẽ chẳng cam lòng tiếp nhận lời dạy, sẽ ương bướng tranh cãi đến đầu đến đũa, cũng chẳng phải là đã ngược ngạo dập tắt thiện tâm của họ hay sao? Đấy chính là căn bệnh chung của những kẻ ưa chuộng điều thiện trong thời gần đây! Thường là vì hành xử quá thô tháp, họ (người mà ta mong giáo huấn) sẽ chấp trước, chẳng chuyển! Hãy nên răn dè sâu xa! Hãy cẩn thận, chớ bỏ ruộng mình đi cày ruộng người! Vương Báo sống ở Kỳ Thủy, người Hà Tây đều giỏi ca hát, Miên Câu ở Cao Đường, người xứ Tề Hữu[19] đều khéo ca xướng. Đâu có phải là do hai người ấy chỉ dạy tiết tấu cho từng người, hằng ngày dạy họ phách nhịp!
[Tánh tình] thanh cao thì đáng quý nhất là có thể bao dung, người nhân từ thì cốt sao phải quyết đoán. Đừng vì [kẻ khác] thí xả ân huệ nhỏ nhoi [đối với mình] mà [nể nang ân nghĩa đến nỗi] tổn thương đại thể; đừng mượn danh nghĩa công chánh để xử sự theo tình cảm thiên vị riêng tư. Ở trong hoàn cảnh bận bịu, phải nên biết cách giữ mình nhàn tản, lúc gấp rút càng nên giữ mình thong dong, lúc vô sự đừng quên đề phòng, tự kiểm điểm. Khi có việc thì phải kiên nhẫn, chịu đựng, đừng vì thành kiến mà chất chứa nghi ngại [đối với kẻ khác]. Đừng cố chấp kiến giải của chính mình để rồi cự tuyệt những lời can gián. Có chừng mực phân minh, sẽ có thể giảm bớt việc. Chẳng quan tâm lời khen, tiếng chê, tâm sẽ có thể thanh tịnh. Do chánh trực, có thể cảm thông thần minh. Do trung tín, sẽ có thể ở nơi biên địa, kém văn minh, mà vẫn chẳng bị trở ngại. Nhân phẩm phải đến mức như thế thì mới gọi là “chánh” được!
Cái tâm đã chánh rồi thì sau đấy mới có thể khiến cho bản thân mình cùng muôn vật được đoan chánh. Cái tâm đã chánh, muôn vật sẽ định. Bởi lẽ, sự cảm nhiễm do thanh sắc bên ngoài chỉ là những chứng bệnh nơi cành nhánh. Tình thức hư vọng phát khởi từ bên trong, đấy là căn bệnh nơi cội gốc. Người học đạo trước hết hãy nên đối trị nội tâm để ngăn ngừa [sự dụ dỗ, mê hoặc từ] bên ngoài. Chớ nên tham đắm ngoại cảnh khiến cho nội tâm bị tổn hại. [Như vậy thì] cái tâm đã được kiến lập chánh đáng, muôn vật chẳng hề có thứ gì không bị cảm hóa theo. Bởi lẽ, căn bản của nhất tâm đã mạnh mẽ, chắc thật, tự nhiên muôn vật [vốn là] những thứ cành lá sẽ tươi tốt. Do vậy, muốn hướng dẫn muôn loài thì cái tâm phải thanh tịnh. Để khiến cho người khác chánh đáng thì chính mình phải chánh đáng trước đã.
Vào đời Tống, thiền sư Phù Sơn Viễn đã nói: “Tâm là chủ của thân, là căn bản của muôn hạnh. Tâm chẳng diệu ngộ, vọng tình tự sanh. Vọng tình đã sanh, sẽ chẳng thấy rõ Lý, sẽ lầm loạn giữa đúng và sai. Vì thế, để đối trị cái tâm, cần phải cầu diệu ngộ. Hễ ngộ, ắt thần hòa khí tĩnh, vẻ mặt, tư thái trang trọng, cung kính. Vọng tưởng và những tình thức ưu lự đều bị hòa tan trong chân tâm. Đấy là cách để chánh tâm vậy”.
Đời Hậu Hán, Quách Thái, tự Lâm Tông, [có lần] ngồi cùng thuyền với quan doãn đất Hà Nam là Lý Ưng[20]. Người khác trông thấy [hai vị ấy], ngỡ là được lên thuyền tiên. Triều đình nhiều lượt chèo kéo [Quách Thái ra làm quan, ông] đều chẳng chiều theo. Tánh ông khéo biết nhìn người, ưa cổ vũ, khích lệ các kẻ sĩ khiến họ đạt nhiều thành tựu. [Quách Thái] trông thấy Mao Dung đụt mưa, ngồi ngay ngắn, bèn khuyên hãy đi học. [Do biết] Mạnh Mẫn làm vỡ bình hoa mà chẳng xót xa, Quách Thái cho là Mạnh Mẫn có tánh cách quyết đoán, cũng khuyên nên học hành. [Về sau], họ đều trở thành bậc danh nho. Ông đề bạt Thân Đồ Bàn vốn là thợ chế sơn, ông nhận biết kẻ canh cửa là Dữu Thừa [là người có tài đức, đều khuyến khích họ gắng sức lập thân]. Những kẻ khác xuất thân là đồ tể, bán rượu, hoặc lính tráng, do được Quách Thái khích lệ, tiến cử đều thành danh rất đông. Một học sinh trong quận là Tả Nguyên do phạm pháp mà bị mọi người bài xích, gặp Quách Thái, ông bèn an ủi: “Xưa kia Nhan Trác Tụ là kẻ trộm lớn tại Lương Phủ, Đoàn Can Mộc cũng là kẻ buôn ngựa nơi đất Tấn, rốt cuộc họ trở thành bậc trung hiền của nước Tề, nước Ngụy. Đừng tức giận, căm hận, hãy trách chính mình mà thôi!” Nếu có kẻ dị nghị Quách Thái chẳng tuyệt giao với kẻ ác, ông đáp: “Người mà chẳng có lòng nhân từ, lại chán ghét [kẻ ác] quá đáng, họ sẽ làm loạn”. Tả Nguyên đang muốn kéo bè kéo đảng để báo cừu, do được Quách Thái chỉ bảo bèn thôi. Giả Thục tánh tình âm hiểm, là mối lo cho làng nước. Quách Thái để tang mẹ, tiếp nhận phúng điếu của gã ấy. Có người trách móc, ông Quách bảo: “Trọng Ni (Khổng Tử) chẳng cự tuyệt người cùng làng. Tử Nguyên gột lòng, hướng về điều lành; vì thế, tôi tán dương những điểm tiến bộ của ông ta”. Giả Thục nghe nói, bèn tự sửa đổi, trở thành bậc thiện sĩ. Những người như Sử Thúc Tân, Hoàng Doãn v.v… đều có tiếng tăm hiển hách, nhưng Quách Thái biết họ chẳng chân thật, cho là họ ắt sẽ suy bại. Về sau, quả đúng như vậy. Khi mối họa do quan lại kéo bè kết đảng [tranh giành quyền lực] nổ ra, những người nổi tiếng phần nhiều bị mắc họa, chỉ riêng Quách Thái do “ẩn giấu điều ác, phô bày điều thiện” là tránh khỏi màng lưới mưu toan hãm hại trong cõi đời. Khi ông mất, hơn một ngàn người đưa tang, cùng nhau khắc đá, lập bia. Thái Ung[21] nói: “Tôi đã soạn khá nhiều những bài văn khắc trên bia mộ hoặc làm bài minh, chỉ riêng ông Quách là có đạo đức, chẳng thẹn [với những lời ca tụng trên văn bia] vậy!”
Đời Tống, Tư Mã Ôn Công trung hậu, chánh trực, tiếng tăm vang dội cả nước. Ông sống tại Lạc Dương, [do chịu ảnh hưởng của ông], phong tục biến đổi, không ai chẳng tôn trọng, giữ vẹn danh tiết, ngượng ngùng chẳng muốn bàn tới chuyện tài vật, lợi lộc. Ai nấy đều biết giữ liêm sỉ, hễ con cháu trong nhà muốn làm chuyện gì, ắt đều răn nhắc: “Chớ làm chuyện bất thiện, sợ Tư Mã Đoan Minh[22] biết đến!”
Huyện lệnh Ung Khâu là Lưu Củ dùng lễ nghĩa giáo hóa dân. Hễ có kẻ đến thưa kiện, ắt sẽ dùng vẻ mặt hòa nhã, thiết tha răn dạy: “Có thể nhẫn nại trước cơn tức giận, chắc chắn sẽ khỏi phải đến chốn công đình”, bảo họ trở về suy nghĩ kỹ hơn. Kẻ thưa kiện bị cảm động, giác ngộ, liền bãi nại. Ông biến đổi phong tục to lớn, đức hạnh của dân chúng trở thành sâu dầy. Hễ [người làm quan] ngồi xử án, phán quyết, vốn phải vì dân, thế mà có kẻ chấp nhặt pháp luật quá lố, lại chẳng hiểu rõ tình hình dân chúng, thường có chuyện cứ khăng khăng vận dụng hình pháp đến nỗi [kẻ tình nghi] bị mất mạng! Sao không khiêm hư, bình đẳng, khoan dung để thấu đạt tình lý vậy thay?
Đời Hậu Hán[23], Trần Thật sống trong làng quê, dùng cái tâm công bằng hướng dẫn mọi người. [Trong làng], hễ có chuyện kiện cáo, liền mời ông làm người phân xử. Ông huấn dụ cặn kẽ đủ mọi lẽ, [khiến cho sau phán định], họ lui về chẳng ôm lòng oán hận. Họ còn nói: “Thà bị hình phạt, chớ bị ông Trần nêu ra khuyết điểm”. Đã từng có kẻ trộm núp trên kèo nhà, Trần Thật ngồi dậy, cầm đuốc, gọi con em bảo: “Làm người chẳng thể không cố gắng. Kẻ bất thiện chưa chắc vốn là ác, do huân tập mà thành tánh; vì thế, đến nông nỗi này, [trở thành] kẻ đầu trộm đuôi cướp!” Tên trộm kinh hoảng, gieo mình xuống đất xin tha tội. Trần Thật thong thả khuyên nhủ, tặng hắn hai xấp lụa, bảo hãy tự sửa đổi. Sự giáo hóa của ông lan khắp huyện, chẳng còn có nạn trộm cắp nữa!
Vũ Hậu (Vũ Tắc Thiên) soán ngôi nhà Đường. [Cháu của Vũ Hậu] là Vũ Thừa Tự và Vũ Tam Tư[24] lo toan để được trở thành Thái Tử. Ý Thái Hậu chưa quyết. Địch Nhân Kiệt tận trung với nhà Đường, thường thong dong nói với Thái Hậu: “Văn hoàng đế (Đường Thái Tông) dãi gió dầm mưa để định thiên hạ, truyền cho con cháu. Đại đế (Đường Cao Tông)[25] phó thác hai con[26] cho bệ hạ. Nay bỏ dòng họ của các vị ấy đi, có nên hay không? Hơn nữa, giữa cô cháu và mẹ con, đằng nào thân thiết hơn? Bệ hạ lập con [nối ngôi], ắt ngàn đời muôn năm sau, được thờ phối hưởng trong Thái Miếu, vĩnh viễn tiếp nối chẳng cùng. Lập cháu, ắt chưa hề nghe có chuyện cháu làm thiên tử sẽ thờ kèm thêm cô trong miếu [thờ tổ tiên]!” Do vậy, ông khuyên Thái Hậu triệu Lư Lăng Vương[27] về, lại lập làm Thái Tử. [Ông đã có công] biến đổi nhà Châu thành nhà Đường[28]. Về sau, ông được cử làm Bình Chương Sự[29], tước phong Lương quốc công.
Thời Ngũ Đại, Phòng Cảnh Bá làm Thái Thú huyện Thanh Hà. Mẹ là Thôi Thị thông thạo kinh điển, rất hiểu biết. Có một phụ nữ ở Bối Khâu tố cáo con mình bất hiếu. Mẹ ông Phòng nói: “Dân chưa biết lễ nghĩa, há đáng quở trách sâu nặng?” Bèn gọi người mẹ ấy đến, bảo ngồi đối diện bên bàn cùng ăn, sai đứa con đứng hầu phía dưới, xem Cảnh Bá dâng cơm cho mẹ. Suốt mười ngày như thế, đứa con ấy hối lỗi, xin về. Mẹ [ông Cảnh Bá] nói: “Tuy vẻ mặt đã lộ vẻ hổ thẹn, nhưng cái tâm chưa quyết!” Lại giữ thêm hai mươi mấy ngày nữa, đứa con ấy dập đầu đến chảy máu, mẹ hắn chảy nước mắt xin về. Sau đấy, nghe thấy đứa con ấy được khen là hiếu thảo.
Anh em Thí Tá và Thí Hữu đều làm Tri Châu, từ quan về nhà. Do phân chia ruộng đất không công bằng, giữa cốt nhục với nhau có mối hiềm khích. Thân hữu chẳng thể hòa giải được! Người cùng huyện là ông Nghiêm Khê Đình, tên là Phượng, một niềm hiếu hữu (hiếu thảo với cha mẹ, hòa thuận với anh em), phụng sự anh như cha, giúp đỡ, che chở, thương yêu chẳng sót chút gì! Ngẫu nhiên, ông Nghiêm ngồi cùng thuyền với Thí Hữu, Thí Hữu nhắc tới chuyện gia sản. Ông Nghiêm chau mày nói: “Anh tôi nhu nhược, tôi chính vì chuyện này mà khổ não! Giá được như anh của ông có thể tận hết sức đoạt sạch ruộng của tôi, tôi còn phải lo lắng chi nữa?” Nhân đấy, gạt nước mắt không ngừng. Thí Hữu động lòng, cảm ngộ, bèn mời ông Khê Đình (Nghiêm Phượng) cùng đến nhà anh mình. Ông vừa lạy, vừa khóc, tự hối hận, tự trách sâu xa. Thí Tá cũng rơi nước mắt, an ủi. Mỗi người đều muốn nhường ruộng cho nhau, bèn suốt đời hòa thuận, yêu thương nhau. Đến nay, cả hai người bọn họ đều có con cháu đông đúc. Người đời vẫn thích bàn về chuyện ấy!
Trong ba câu chuyện trên đây, trung, hiếu, thuận thảo, sẽ cảm hóa người khác, vốn chỉ là tự giữ thân mình tốt đẹp, sẽ khiến cho người khác được cảm hóa giống như vậy. Càng thấy rõ thiên tánh vốn tốt lành như thế đó!
(Chánh văn) Căng cô tuất quả, kính lão hoài ấu.
(正文)矜孤恤寡。敬老懷幼。
(Chánh văn: Thương xót con côi, cứu giúp quả phụ. Kính già, thương trẻ).
Ông Vu Thiết Tiều nói:
– Mẹ góa, con côi là nỗi bất hạnh trong đời người. Già cả, ấu thơ, đời người ắt phải trải qua. Thương xót, cứu giúp, kính trọng, quan tâm cũng là do lương tâm tự nhiên dấy động. Nếu chẳng phải là kẻ tột bậc hung bạo trong thiên hạ, sẽ chẳng thích bức hiếp người cô quả, khinh người già, lừa gạt trẻ thơ! Nhưng sự cai trị của Văn Vương cũng chẳng ngoài “ai thử quỳnh độc” (哀此煢獨, xót thương những người cô quạnh), chí của phu tử cũng chẳng ngoài “lão an thiếu hoài” (老安少懷, yên già, quan tâm trẻ). Vì sao? Thiện tâm dễ sanh, thiện lượng (善量, tâm lượng tốt lành) khó trọn. Kẻ không có sức cố nhiên hãy trọn hết tấm lòng này. Kẻ có sức hãy nên ra sức thực hiện chuyện thương xót, giúp đỡ. Thân thiết thực hiện công phu thành kính, quan hoài, chớ nên viện cớ “có tấm lòng [là được rồi]” để qua quýt cho xong chuyện. Thơ của Bạch Thái Phó (Bạch Cư Dị) có câu: “Tuế thời xuân nhật thiểu, thế giới khổ nhân đa” (Năm tháng ngày xuân ít, thế gian kẻ khổ nhiều). Lại có câu: “Vật tình tiểu khả niệm, nhân ý lão đa từ” (Tình cảm đối với muôn vật thì đáng hoài niệm nhất là lúc bắt đầu, đối với tình cảm con người thì phải nhân từ đối với người già cả). Lời lẽ của bậc có lòng nhân khiến cho người đọc cảm thấy rất vui sướng.
“Cô” (孤) là kẻ chưa thể trưởng thành, cha mẹ đã sớm qua đời, hoặc là mẹ chết, cha vừa mới tục huyền, hoặc là cha chết, mẹ lại tính đi thêm bước nữa. Tệ nhất là cả cha lẫn mẹ đều chết, còn bé bỏng mà đã côi cút, bất hạnh đến mức ấy, tình cảnh khôn kham! Dẫu kẻ qua đường còn sanh lòng thương xót, huống là thân bằng quyến thuộc, họ hàng, càng khó thể ơ hờ được! “Căng” (矜) là thương xót. Điều đáng phải nên có là tấm lòng chí thành thương xót, nuôi nấng, dạy bảo, khiến cho kẻ không nơi nương tựa có chỗ nương tựa, không nơi gởi gắm bèn có chỗ gởi gắm cho tới khi đã trưởng thành, tự lập mới thôi! Gieo đức dầy trong nhân gian, an ủi u hồn dưới suối vàng, quả báo đạt được há nông cạn ư?
Phụ lục: Biện pháp tổ chức Từ Ấu Cục (viện mồ côi)
Tại các quận, huyện của nhà Đại Tống, đều lập Từ Ấu Cục. Phàm con cái của những nhà nghèo muốn được nuôi dưỡng, đưa đến viện, sẽ được sắp xếp nhũ mẫu chăm sóc, nuôi nấng. Hoặc là kẻ không có con cái, đến Từ Ấu Cục xin về. Ngay trong những năm đói kém, cũng chẳng bỏ [chuyện từ thiện này], chánh sách thương xót cô nhi dưới đời Tống cặn kẽ như thế đó. Cho đến nay, phong cách nhân từ được phổ biến rộng rãi, nhiều người chuộng làm lành. Những nơi như kinh đô, Dương Châu, Tô Châu v.v… đều lập Dục Anh Đường (cô nhi viện), cách thức này càng thêm chu đáo, tỉ mỉ. Gom tiền của để lập ra một nơi có căn nhà trống to lớn, bốn phía là tường cao. Trong nhà ắt có đầy đủ giường, bếp, đồ vật dùng để nấu nướng, ăn uống. Phía trước làm cửa nhỏ, có then cài. Đàn ông không được vào đó; chọn người lão thành, nghiêm nghị trông coi. Những phụ nữ nghèo, mập mạp, mạnh khỏe, đã có con, muốn làm nhũ mẫu thì cho họ đem theo con sống trong ấy, cấp thức ăn theo hạn lượng. Ngoài cửa đặt một cái trống lớn. Kẻ sanh con mà chẳng muốn nuôi dưỡng, đặt con trong giỏ, viết họ, và ngày sanh tháng đẻ, gắn tờ giấy ấy lên trên, chờ lúc chiều tà hoặc đêm tối không có ai, đưa tới ngoài cửa, đặt con dưới đất, đánh một tiếng trống. Người trong viện nghe tiếng trống, sẽ ra cửa nhận lấy, người cho con đã đi rồi. [Làm như vậy] vì sợ người ấy hoặc là ôm niềm hổ thẹn; hoặc vì sợ mắc họa mà không muốn cho kẻ khác trông thấy. Trẻ được đưa tới bèn cử người có sữa làm nhũ mẫu. Cách dùng họ của người [nhũ mẫu] ấy để gọi trẻ sợ rằng do lâu ngày sẽ quên mất [họ thật của nó], hoặc nếu có nhiều đứa trẻ [mang cùng họ], sẽ gây ra lầm lẫn. Mời một y sĩ có kinh nghiệm già dặn về bệnh tật trẻ con đến chẩn đoán, chăm sóc bệnh cho trẻ. Lập một chỗ làm nghĩa trang từ thiện; có trẻ nào chết yểu bèn khâm liệm rồi chôn tại đó. Thuê thêm hai, ba phụ nữ siêng năng. Trẻ dứt sữa, liền giao cho họ chăm sóc. Một phụ nữ có thể chăm sóc mấy đứa trẻ. Vì thế, [cách làm này] khiến cho trẻ đến sau cũng có người chăm bẫm, nuôi nấng. Nhũ mẫu nào cạn sữa, ra khỏi viện, nếu yêu mến đứa trẻ mà mình đã cho bú, cho phép bà ta mang theo. Trẻ được năm, sáu tuổi, hãy xét xem phẩm chất của nó là cao hay thấp mà dạy dỗ. Ở ngoài viện mồ côi, lập một chỗ dạy vỡ lòng, mời một vị thầy [đến dạy]. Trẻ trai sáng dạ bèn dạy cho nó học hành. Trẻ ngu độn bèn bảo nó làm những việc quét dọn trong viện, trong trường. Trẻ gái tánh tình đoan trang, khéo léo, nhũ mẫu sẽ dạy những việc thuộc về nội trợ, dạy nó thêu thùa, may vá. Đứa đần độn, vụng về thì cũng sai nó làm các việc vặt. Trẻ trai mười tuổi trở lên, không được vào trong nội đường nhằm tránh mọi nỗi hiềm nghi. Hoặc là cho nó làm người thừa kế cho kẻ không có con, hoặc cho tăng sĩ, đạo nhân làm hương đồng[30], hoặc làm kẻ hầu cho những nhà khá giả. Tùy theo tài năng của nó mà quyết định đưa nó đến đâu hòng tùy duyên nương cậy. Chẳng lấy tiền chuộc thân cho chúng, chẳng lo chúng nó sẽ không có nơi sống. Tuy hết sức kém hèn, vẫn tốt hơn là chết non! Nếu trẻ có tài năng khác người, mai sau có thể tự thành gia lập nghiệp, chẳng phải là trách nhiệm của người chủ cô nhi viện. Nếu trẻ đã lớn có thể tự kiếm sống, có thể lập gia đình, bèn cưới nữ nhân trong viện, dạy nó đừng lấy con gái nhà khác, nhằm biểu thị nó chẳng quên gốc vậy. Con gái chưa đến tuổi cài trâm, không ra khỏi cửa viện mồ côi. Đã cài trâm, bèn gả cho con nhà bình dân ngoài phố, sính lễ chỉ cần một chút quần áo, trang sức [là được rồi]. Nếu nhiều hơn, hãy đưa vào quỹ chung của viện, chẳng được gả cho người có học[31], mà cũng chẳng được bán làm tớ gái. Bởi lẽ, xuất thân khá hèn kém, chẳng thể khảo chứng nguồn gốc [tổ tiên]. Nếu trẻ gái có nhan sắc xinh đẹp, nhà giàu muốn mua làm thiếp, hãy nên cự tuyệt, để khỏi trở ngại đạo nghĩa. Đừng cho là sẽ được nhiều tiền sính lễ để dùng làm tiền chi dụng cho cô nhi viện [rồi nhận lời gả bán]. Trong số các vị thiện tín, cử ra người trung hậu, công chánh, khôn khéo, sáng suốt, giàu kinh nghiệm ứng phó, mà người đó lại có nhiều thời gian rảnh rỗi để đứng ra trông nom chung mọi việc. Phàm những chuyện như cho trẻ trai, trẻ gái ra khỏi viện, thâu nhập tiền bạc, cùng với những việc lớn nhỏ hằng ngày, không gì chẳng xem xét. Lập một thùng chứa đồ hiến tặng ở cửa, để những người thích làm điều nghĩa đi qua, [muốn cho] một đồng tiền, một nắm gạo [bèn bỏ vào đó. Mỗi thứ nhận được] không gì chẳng đều ghi chép tường tận. Quy mô đã thành, thiện duyên dần dần rộng hơn, có thể tiến hành lâu ngày chẳng đến nỗi phế bỏ. Đấy chính là điều thiện to lớn hòng giúp cho sự sanh thành dưỡng dục của trời đất vậy. Chỗ khó khăn chỉ là gom được tiền bạc [để lập cô nhi viện] đó thôi! Nhưng trong một quận lớn, trẻ thơ bị vứt bỏ nhiều lắm, ắt chi phí sẽ nhiều, nhưng hàng thiện tín cũng nhiều. Quận nhỏ thì thiện tín ít, mà trẻ bị bỏ rơi cũng ít, [cho nên] chi phí cũng ít. Tâm những người chuộng điều thiện giống nhau, nếu được đôi ba người đề xướng, không chỗ nào chẳng thể thực hiện được. Chẳng lo thiên hạ không có người thừa sức, chỉ lo chẳng có kẻ có thể phát nguyện to lớn đó thôi! Do vậy, thuật bày cặn kẽ, hòng giúp cho người thích làm lành [có cái để cân nhắc] hòng chọn lựa!
Đời Tống, Diệp Mộng Đắc nói:
– Tôi ở Hứa Xương nhằm năm bị lụt to, xác người chết trôi vô số. Tôi tấu trình xin mở kho Thường Bình để chẩn tế, cứu sống hơn mười vạn người, nhưng không có cách nào cứu giúp những trẻ thơ bị ruồng bỏ! Ngẫu nhiên hỏi những người chung quanh: “Cớ sao những người không có con chẳng thu dưỡng [những đứa trẻ bị vứt bỏ ấy]?” Họ thưa: “Người muốn nuôi con thì có, nhưng họ sợ đến năm được mùa, cũng như đến khi con khôn lớn, cha mẹ nó lại đến nhận”. Do vậy, tôi lập ra phương cách: “Phàm là những kẻ vì gặp tai ương, hay thương tật, phải ruồng bỏ con thơ, cha mẹ sẽ không được phép nhận lại con”. Cho in mấy ngàn tờ bằng khoán để trống cấp cho trong ngoài. Phàm những kẻ nhận con nuôi, sẽ tự nói có được đứa con ấy từ chỗ nào, viết rõ trong bằng khoán, coi như chứng thư hộ tịch. Người nhận nuôi nhiều sẽ được thưởng. Lại còn đem gạo còn dư từ kho Bình Thường, cân nhắc số lượng, để ban cho người nghèo làm vốn. Việc định xong, tính theo số bằng khoán đã lập, có đến ba ngàn tám trăm người [dùng phương thức ấy để nhận con nuôi]. Kẻ làm quan cũng nên biết chuyện này. Lại từ khi chiến tranh nổ ra cho đến nay, có những kẻ phải ẩn nấp trong rừng rậm, có nhiều kẻ vì [bọn giặc] nghe tiếng trẻ khóc mà chẳng tránh khỏi bị hại. Vì thế, kẻ tránh giặc liền vứt bỏ trẻ thơ không đoái hoài. Có kẻ bày kế lấy viên bông gòn bỏ vào miệng trẻ, khiến cho nó ngậm miệng mà trẻ không bị ngạt, hoặc [cục bông ấy] chứa sẵn ít bột cam thảo, khi cho trẻ ngậm thì thấm nước để nó nút cục bông, nếm vị ấy. Trẻ trong miệng có vật ấy, sẽ chẳng phát ra tiếng. Bông gòn mềm lại chẳng làm miệng trẻ bị thương. Do vậy, cho in phương pháp ấy thành nhiều bản để yết thị, khiến cho trẻ thơ được toàn mạng rất nhiều. Kẻ gặp những biến cố [binh đao] cũng nên biết điều này!
Đời Tống, ông Trương Hiếu Cơ làm rể cho một người giàu có cùng quận. Người giàu có ấy sanh một đứa con không ra gì, bèn đuổi nó ra ngoài. Đến khi người giàu có ấy bị bệnh, lúc sắp chết, đã giao hết gia tài cho Hiếu Cơ. Về sau, đứa con của người giàu ấy làm kẻ ăn mày, Hiếu Cơ thương xót đứa con côi ấy; do vậy, bèn hỏi nó: “Có thể tưới vườn hay không?” Nó đáp: “Nếu có cái ăn thì may mắn lắm thay!” Ông liền thâu nhận, sau đấy lại hỏi: “Có thể quản lý nhà kho hay không?” Thưa: “Tưới vườn là đã may quá rồi, được quản lý kho thì càng may mắn quá!” Ông liền cho nó trông kho. Hiếu Cơ quan sát thấy nó cẩn thận, thật thà, chẳng còn thái độ cũ, bèn trả hết toàn bộ gia tài cho nó. Sau khi Hiếu Cơ đã mất, bạn ông đến chơi Tung Sơn, trên đường gặp một đoàn xe cắm đầy cờ xí, dường như là xe của bậc đại quan. Trộm nhìn người ngồi trên xe, thì ra là Hiếu Cơ, bèn vái chào, hỏi nguyên do. Ông đáp: “Thượng Đế do thấy tôi trả lại tài sản, chẳng lấn hiếp đứa con côi, sai tôi làm chủ núi này”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa!
Thời Châu, người đàn bà đạo nghĩa nước Lỗ chính là vợ một người dân nước Lỗ. Người Tề tấn công nước Lỗ, người đàn bà đạo nghĩa ấy bỏ đứa trẻ đang ẵm, để bồng lấy đứa trẻ đang dắt. Quân Tề hỏi: “Đứa bé bị bỏ là ai?” Người đàn bà đáp: “Con tôi”. Lại hỏi: “Đứa bé đang được ẵm là ai?” Người đàn bà đáp: “Con của anh tôi”. Quân lính hỏi: “Vì sao ngươi lại bỏ đứa con do mình sanh ra để ẵm con của anh?” Đáp: “Con đối với mẹ là tình yêu thương riêng tư. Cháu đối với cô là đạo nghĩa chung. Bỏ công theo tư, bỏ mặc đứa con côi của anh, thiếp chẳng làm được!” Quân Tề nói: “Nước Lỗ có người đàn bà còn giữ tiết hạnh [như thế], huống hồ là vua của xứ này!” Bèn rút quân về. Vua nước Lỗ nghe chuyện, ban thưởng, gọi là Nghĩa Cô (義姑, người cô có đạo nghĩa). Ôi! Người đàn bà nước Lỗ do bảo vệ đứa con côi, do một lời mà giữ yên đất nước. Nay những kẻ được gọi là bậc tu mi nam tử lại trái nghịch đạo nghĩa, sống thừa, đối với bà này, há có thể không hổ thẹn chút nào ư?
Đời Thục Hán[32], Trương Duệ thuở bé chơi thân với Dương Cung. Dương Cung mất, để lại đứa con côi mới được mấy tuổi. Trương Duệ đón mẹ Dương Cung về phụng dưỡng, cưới vợ cho con của Dương Cung, mua nhà cửa, ruộng đất cho nó. Mọi người kính trọng đạo nghĩa của ông. Về sau, ông làm Thái Thú Ích Châu.
Trầm Gia Mô, người xứ Ngô Giang. Khi cha ông làm quan Hoàng Môn[33], ông sống trong làng, ưa chuộng đạo nghĩa. Cùng huyện có đứa con của người họ Cố mới mười tuổi, mồ côi mà gia nghiệp khá dư dả. Khi ấy, đang gặp mối lo trộm cướp, quan huyện triệu tập các tay thế gia vọng tộc [trong huyện] để bàn chuyện các nhà giàu có phải lo chuyện cung cấp lương hướng cho quân đội. Mọi người đều nói: “Không ai bằng đứa con nhà họ Cố”. Riêng mình ông Trầm Gia Mô lo ngại nói: “Nó là đứa con côi non dại, làm sao có thể kham nổi việc này”. Mọi người nói: “Nó có nhiều tôi tớ sẽ có thể lo liệu được”. Ông bảo: “Tôi chính là vì lo những kẻ tôi tớ có quyền thế, sẽ mượn việc quân nặng nề ấy để lừa dối, lấn hiếp ấu chủ, nhà ấy sẽ bị phá tan ngay. Nếu cứ muốn cử con nhà họ Cố đảm nhiệm việc binh, tôi xin đi thay cho nó”. Ông vui vẻ ghi tên của chính mình. [Sau đó], chiến sự phát sanh suốt mấy năm, chẳng phiền đến đứa con nhà họ Cố. Cả huyện ca ngợi nghĩa khí của ông Trầm.
“Quả” (寡, góa bụa) là tuổi còn đang trẻ trung, chồng bỗng lìa đời, hình đơn bóng chiếc, mắt nhìn toàn thấy những cảnh tượng buồn tênh. Huống hồ con cái thơ dại, trăm sự chẳng có người lo liệu. Mạnh Tử gọi tình cảnh này là “cùng nhi vô cáo” (窮而無告, cùng quẫn, không có nơi nương cậy). “Cùng” (窮) là tột bậc. Tai họa biến đổi như thế, há chẳng phải là cùng cực cư? Muốn nói, há có ai để thổ lộ, chẳng phải là không nơi nương cậy ư? “Tuất” (恤) là châu cấp, nâng đỡ, nuôi thân họ, thành tựu tiết hạnh cho họ. Con người sống giữa trời đất, chỉ có góa phụ là khổ sở nhất. Lúc trẻ thì bị kẻ cường bạo hiếp đáp. Giàu thì dòng họ cắn nuốt. Già thì run rẩy, ai thương xót? Nghèo thì không có cách nào lo liệu áo cơm. Nếu bà góa không con, lập chí thủ tiết, càng là khó có. Ai có thể thương xót, giúp đỡ họ, ắt đủ cảm thông Thượng Đế trên chín tầng trời, cảm động quỷ thần trong tam giới, há nên nói là ân huệ nhỏ nhặt ư?
Đời Minh, Đỗ Hoàn ở Kim Lăng, cha là Nhất Nguyên, chơi thân với Thường Doãn Cung. Doãn Cung chết, mẹ đã già, không nơi nương tựa, đội mưa tới nhà Đỗ Hoàn. Khi ấy, Nhất Nguyên đã chết, Đỗ Hoàn kinh ngạc hỏi nguyên cớ. Bà mẹ khóc lóc, kể nguyên nhân. Đỗ Hoàn cũng khóc, đỡ bà cụ ngồi lên, bái lạy, bảo người nhà phụng dưỡng cụ như bà nội. Bà cụ tánh nóng nảy, hễ có chuyện gì hơi chẳng vừa ý, bèn tức tối, trách móc. Đỗ Hoàn thuận theo, hầu hạ rất cẩn thận. Khi bà cụ bị bệnh, ông đích thân hầu hạ thuốc men. Khi lâm chung, cụ nói: “Tôi đã làm phiền ông Đỗ, nguyện con cháu ông Đỗ đều được như ông Đỗ”. Cụ mất đi, ông Đỗ mai táng, lễ nghi châu đáo tột bậc. Hằng năm đều bái tế mộ phần, người đời xưng tụng ông là bậc đạo nghĩa cao trọng.
Châu Huy ở Nam Dương cùng huyện với Trương Kham. [Thiên hạ] thường nói: “Trương quân vi chánh, lạc bất khả chi giả dã” (Ông Trương cai trị, vui sướng khôn ngằn). Trương Kham gặp Châu Huy trong trường Thái Học, đãi nhau bằng tình bạn thân thiết, nắm tay dặn dò: “Mai sau tôi qua đời, xin cậy anh chăm sóc vợ con giùm”. Châu Huy do thấy Trương Kham là bậc tiền bối về đức hạnh lẫn học vấn, chẳng dám nhận lời. Sau đấy, chẳng còn gặp nhau nữa. Sau khi Trương Kham mất, Châu Huy nghe vợ con ông Kham nghèo nàn, khốn khó, bèn xẻ cơm, nhường áo. Con của Châu Huy lấy làm lạ, thắc mắc: “Cha đã chẳng phải là bạn của ông Trương, cớ sao bỗng làm như thế?” Châu Huy đáp: “Ông Kham đã từng thốt lời tri kỷ như thế, cha đã ghi tạc trong lòng”. Về sau, Châu Huy cai quản vùng Lâm Hoài, cũng khéo cai trị, được dân chúng ca ngợi, làm quan đến chức Thượng Thư Bộc Xạ[34].
Ôi! Nay thì những kẻ mẹ góa con côi không nơi nương tựa, chỗ nào cũng có, há có được người giống như mấy vị trên đây thương xót, giúp đỡ, nuôi nấng vậy thay! Ở đây, xin khuyên những người có chí, hãy phỏng theo, lập hội từ thiện giúp đỡ những bà góa. Phương cách là quyên mộ bạn bè bỏ tiền ra, [lệ phí] hoặc nộp từng tháng, hoặc đóng mỗi năm. Tiền lệ phí giữ tại nhà người có sức (người dư dả), siêng năng dò hỏi những kẻ góa bụa lại nghèo hèn, cân nhắc để châu cấp mỗi tháng. Cố nhiên là công đức ngấm ngầm ấy sẽ không có gì to lớn bằng! Kẻ chẳng thể làm như thế thì hễ thấy nghe bèn tùy sức châu cấp, giúp đỡ, cũng có gì chẳng phải là nhân đức ư? Chỉ sợ là kẻ có cái tâm ấy, nhưng luôn bị ngăn trở bởi hiềm nghi, gàn quải, hủy báng! Người có trí hãy nên suy nghĩ cách thức tốt đẹp để thực hiện.
Đời Tống, ông Triệu Khang Tĩnh mồ côi [cha] từ lúc bảy tuổi. Bà mẹ dốc chí dạy dỗ ráo riết. Về sau, ông đỗ đạt, làm Học Sĩ[35]. Ông Triệu xin ấm phong cho mẹ. Tể Tướng nói: “Hễ có công to, sẽ được phong thưởng chẳng xa!” Ông thưa: “Mẹ tôi góa bụa, đã tám mươi rồi, sáng chẳng đảm bảo tối. Xin hãy ban thưởng ngay lúc này để mẹ được rạng mày nở mặt”. Tể Tướng chấp thuận. Lại có Lý Quân, mồ côi [cha] từ thuở lên ba. Có kẻ dụ dỗ mẹ ông tái giá, mẹ giận dữ quở trách: “Nghĩa vợ chồng là mối thiên luân, chết hay sống là do mạng lệnh của Thượng Đế. Ta thà chết đói, há nên tái giá hay sao?” Bèn quyết chí thủ tiết, dạy con đỗ đạt.
Than ôi! Những người giống như thế, thần lẫn người đều khâm phục, kính trọng, ắt được báo đáp sâu dầy vì họ tôn trọng nhân luân, há chỉ là con của họ được quý hiển ư? Chớ nên coi rẻ bà góa, cố nhiên là như thế. Nay lại dùng điều này để huấn thị, chính là vì mong cho hết thảy các bà góa đều biết khuôn phép để tự lập, mà những kẻ là con côi cũng chớ nên tự ruồng rẫy, buông xuôi. Hãy nên nghĩ, những kẻ là cô nhi mà trở thành bậc hiền tài rất đông. Như Trương Sĩ Tốn đã nghèo lại mồ côi, rốt cuộc do gắng công dốc chí, làm tới chức Đài Phụ (Tể Tướng). Lữ Hối sang cả, nhưng mồ côi, do âm thầm tu tập mà thành bậc Trung Thừa nổi danh. Người ta mới biết ông là cháu nội của Lữ Huệ Công (Lữ Đoan). Những người khác như Lưu Chí, Âu Dương Tu, Trần Nghiêu Tá đều mồ côi từ bé, do tận lực học hành, làm tới chức Bình Chương. Như thế thì mới báo đáp đôi chút nỗi khổ của những bà mẹ góa giữ trọn tiết hạnh trong sạch vậy. [Cho nên] lại nêu bày lời khuyên lơn [như thế], dụng tâm hết sức thiết tha!
“Lão” (老) là người tuổi tác đã cao, là người trải đời đã lâu mà kinh nghiệm cũng lắm. “Kính” (敬) là dốc hết lòng thành biểu lộ lòng yêu thương, trọn hết sức phụng dưỡng cho họ được an vui. Hoặc là mỗi niệm, mỗi chuyện đều chẳng dám lừa dối, khinh mạn, đấy cũng là Kính. Thọ đứng đầu trong ngũ phước, mà người già lại gần như cha. Chắc chắn là đời trước đã có căn khí, đời này nhất định là bậc tích đức; từng trải sự việc, đúng là bậc có thể nêu gương mẫu, [học hỏi từ họ] sẽ đạt được lợi ích chẳng ít, lẽ nào có thể khinh mạn ư? Nhưng người đời thấy họ già nua, run rẩy, nếu không chán ghét thì sẽ lấn hiếp họ, ai chịu chú tâm kính trọng, phụng sự họ? Chẳng biết sách Luận Ngữ có nói: “Kính lão đắc lão”. Dương Đại Niên mới hai mươi tuổi đã đậu Trạng Nguyên, cùng với Châu Hàn và Châu Ngang làm việc trong cung. Hai ông đều đã già, họ Dương khinh rẻ, lấn lướt. Châu Hàn nói: “Anh đừng khinh tôi già, rốt cuộc sẽ đến phiên anh già đi”. Châu Ngang lắc đầu nói: “Đừng nói nữa để khỏi bị người ta làm nhục!” Họ Dương quả nhiên đang tuổi tráng niên mà chết ngóp! Tôi mong những gã thiếu niên khinh bạc đọc đến câu chuyện này, sẽ lập tức hối cải, lại giữ được tấm lòng nhân hậu. Hễ gặp người già, hãy giữ tấm lòng bình đẳng, bất luận phú quý, hay nghèo hèn, cốt sao một niềm kính yêu. Hành theo đó, ắt đầu bạc phơ, lông mày nhuốm bạc, ta cũng có phần vậy!
Thái Tổ[36] huấn dụ Lễ Bộ rằng: “Đối với người tuổi tác phải dạy [bọn trẻ tuổi] kính trọng. Đối với chuyện phụng sự bậc trưởng thượng, phải dạy họ tuân thuận. Các đời Ngu[37], Hạ, Thương, Châu, không đời nào chẳng coi trọng bậc cao tuổi. Lễ nghĩa dưỡng lão vốn chưa hề bị phế trừ; vì thế, mọi người hưng khởi lòng hiếu đễ, phong tục thuần hậu, chánh trị mới được tăng tấn, bình ổn. Các ngươi hãy nên truyền bảo mạng lệnh của trẫm”.
Kinh Hoa Nghiêm chép: “Nguyện cho hết thảy chúng sanh phát tâm Bồ Đề, trọn đủ trí huệ, vĩnh viễn giữ trọn thọ mạng, chẳng bị kết thúc. Nguyện cho hết thảy chúng sanh, trọn đủ pháp tu hành lìa già, chết. Hết thảy tai ương, độc hại chẳng hại mạng họ. Nguyện cho hết thảy chúng sanh, thành tựu trọn đủ tấm thân chẳng khổ não vì bệnh tật, thọ mạng tự tại, có thể tùy ý trụ thế. Nguyện cho hết thảy chúng sanh đạt được chẳng già, chẳng bệnh, thường trụ mạng căn, dũng mãnh tinh tấn, nhập trí huệ của Phật”. Do điều này, ta thấy: Người già như mặt trời sắp khuất sau núi, thời gian hữu hạn, nếu chẳng cấp tốc tu hành như lửa cháy đến thân, lấy gì để giúp cho việc về Tây?
Vương Bân từ bé bệnh tật rề rề, tự đoán ắt chính mình chẳng thọ. Hễ thấy người già, thường kính trọng, hâm mộ. Hễ họ đi qua cửa, dẫu là người nghèo hèn, ắt đứng dậy [nhằm tỏ lòng tôn trọng], đi đường ắt nhường lối. Về sau, Vương Bân dần dần khỏi bệnh, sức lực càng mạnh mẽ hơn, thọ đến chín mươi ba tuổi.
Đời Tùy, có một vị Tăng đã hơn trăm tuổi, hiểu sâu xa diệu nghĩa trong kinh Pháp Hoa, thường bảo đại chúng:
– Bần tăng kính trọng người già như cha mẹ, phụng sự họ như Bồ Tát. Phàm những chuyện có thể tận sức, không gì chẳng dốc trọn tấm lòng. Đời này được thông hiểu Phật pháp, hưởng thọ dài lâu, đều là do tôn kính người già mà ra. Hỡi đại chúng, chớ nên khinh miệt người già kẻo tổn phước, tổn thọ. Trong trường danh lợi, khảy ngón tay liền qua, vẫn phải nên thực hiện những công phu thuộc về bổn phận của chính mình. Nếu không, sẽ là luống uổng đời người, lãng phí lần gặp gỡ này, đối với những nguyện như “nguyện ta thọ mạng lâu dài, siêng hành hết thảy các điều lành, nguyện ta phước đức hưng thịnh, rộng độ hết thảy mọi người” đều bị lỡ làng! Than ôi, kẻ thiếu niên chỉ biết cậy tài, khinh nhờn người già cả, chẳng biết tuổi thọ là cái được trời ban, người già được vua tôn kính. Dẫu có lắm tài, khó thể đạt đến địa vị ấy!
Đời Tống, một nhà ông Ngô Nguyên Tự có tám người tuổi đã từ tám mươi, chín mươi, một trăm trở lên. Nhà vua tra hỏi nguyên nhân, [thì ra nguyên nhân] là vì cả mấy đời đều liên tiếp ăn ở với nhau bằng đạo nghĩa, chẳng chia rẽ. Vua biểu dương nhà ấy, ân sủng ban thưởng rất hậu. Khảo sát quy chế thiết lập trường Thượng Tường[38], [thì thấy từ] thời Nghiêu, Thuấn đã có, tam đại (Hạ, Thương, Châu) đều tôn sùng quy chế ấy. [Chuyện này] được chép rất tường tận trong những sách như Lễ Ký v.v… Chí hướng của phu tử được thể hiện qua câu nói: “Lão giả an chi” (Khiến cho người già được sống yên ổn). Nguyên tắc chỉ đạo luật pháp của đất nước và tâm chí của dân chúng, cả hai đằng đều đặt tại đó. Nếu nói “người già của kẻ khác liên quan gì đến ta”, há chẳng phải là bất kính ư?
“Ấu” (幼) là trẻ nhỏ thơ ngây, vô tri. “Hoài” (懷) không chỉ là yêu thương chúng nó, mà còn là gởi gắm những niềm hoài vọng nơi ấy. Làm kẻ đã trưởng thành bèn yêu thương, che chở kẻ nhỏ hơn, đó là lẽ thường, là lẽ đương nhiên. Huống hồ có những đứa trẻ gặp gỡ cảnh ngộ chẳng tốt, khốn khổ đáng thương! Như là con của đời vợ trước, em cùng cha khác mẹ, con do vợ lẽ hoặc tỳ thiếp sanh ra. Nếu gặp kẻ ỷ mình lớn hơn rồi cậy thế ức hiếp, đứa trẻ côi cút phải chịu cảnh thảm độc ngang trái, quá sức đáng thương! Suy rộng ra, đối với con thơ của người khác, cũng như đối với con cái của những nô tỳ, tôi tớ, càng phải thêm chú ý thương xót, chớ nên phân biệt đây kia, đến nỗi có kẻ toan tính tóm thâu gia sản của họ. Tức là kẻ làm bậc tôn trưởng, làm anh chị, ở rể tại nhà vợ, thường có những kẻ không có lòng từ, bất nghĩa, hiếp đáp, ngược đãi con cái của bọn tôi tớ. Thậm chí dùng những thủ đoạn xảo trá, ngụy tạo khế ước, dặn dò những kẻ viết khế ước và làm chứng hãy làm chứng gian, đút lót cho bọn nha lại bẻ cong sự thật, khiến cho [những kẻ bị hại không có chứng từ gì] để kêu ca được. Lại còn có kẻ ngấm ngầm mưu toan tổn hại mạng người. Xưa kia, một nhà ông Lý Tri Bổn con cháu hơn trăm người, người lớn kẻ nhỏ giữ một niềm hòa thuận với nhau. Anh em nhà Dương Thành bảo bọc những đứa con côi. Tiền bối dụng tâm như thế, đúng là đáng để noi theo!
Đời Đường, Nguyên Đức Tú lúc nghèo, anh mất sớm, để lại đứa con côi mới đầy tháng, chị dâu lại chết nốt, cháu không có sữa để bú. Đức Tú đêm ngày buồn khóc, ẵm đứa con của người anh, đem đầu vú mình cho đứa bé ngậm. Chừng mười ngày sau, vú bèn có sữa. Đứa trẻ [nhờ vậy] mà được lớn lên. Tuy là chuyện ngẫu nhiên, nhưng từ chuyện này có thể thấy, thương yêu trẻ thơ hợp với lòng trời! Khổng Tử nói: “Thiếu giả hoài chi” (Thương yêu kẻ nhỏ tuổi hơn). Mạnh Tử nói: “Ấu ngô ấu dĩ cập nhân chi ấu” (Thương yêu con trẻ của người khác như thương yêu con trẻ của chính mình). Thánh hiền đã để lại lời giáo huấn cùng tột, cớ sao những kẻ làm bậc tôn trưởng chẳng lãnh hội?
Lưu Di làm quan ở Kiền Châu; dân đói, bỏ rơi con. Lưu Di ra yết thị kiếm người nhặt về nuôi nấng thì mỗi ngày sẽ được cấp hai thưng gạo từ kho Quảng Huệ[39]. Mỗi ngày, [người nhận nuôi phải] bồng tới cho quan phủ xem xét. Dân nghèo được lợi thêm hai thưng gạo sẽ đều nuôi nấng [những đứa trẻ ấy]. Số trẻ được cứu sống chẳng thể tính đếm được. Phàm là phương cách để cứu đói thì trước hết là phải thâu thập, nuôi nấng những đứa trẻ thơ côi cút hòng chúng thoát khỏi những chỗ hẻo lánh, hiểm nguy, đặt chúng nó nơi an toàn. Kẻ làm quan càng phải lưu ý làm trước chuyện này. Âm đức ấy còn hơn cứu sống những kẻ mạnh khỏe vậy!
Đời Minh, Dương Trứ tánh tình nhân hậu, mua một con lừa để cưỡi đi chầu vua. Người hàng xóm đã già mới sanh con, do con lừa thường thích hý ầm lên, ông Dương sợ đứa trẻ bị kinh động bèn bán đi, đi bộ vào chầu vua. Về sau, ông cáo quan, tấm bia ở phần mộ [tổ tiên] bị nông dân xô ngã. Kẻ trông mộ vội chạy đến báo, ông hỏi: “Có đứa trẻ nào bị thương hay không?” Thưa: “Không ạ!” Ông mừng rỡ bảo: “May quá! Hãy bảo nhà kẻ đó khéo trông giữ con để chúng không gặp chuyện kinh sợ”. Đức hạnh sâu dầy của ông hết sức nhiều, ngay như hai chuyện [vừa kể] trên đây, người khác cũng khó làm được. Ông từ chỗ côi cút, nghèo hèn mà đạt tới địa vị quý hiển, đúng là do [phẩm đức tốt đẹp] như vậy!
(Chánh văn) Côn trùng thảo mộc, do bất khả thương.
(正文)昆蟲草木。猶不可傷。
(Chánh văn: Côn trùng, thảo mộc chớ nên thương tổn).
“Côn” (昆) là đông đúc, ý nói hết thảy các loài trùng lớn, nhỏ. [Nói] “do bất khả thương” (chớ nên thương tổn) thì có thể biết chuyện này có tánh chất trọng đại. Người hiện thời mặc sức tổn thương sanh mạng loài vật, chẳng biết những loài ngọ ngoạy đều có linh tánh, đều có Phật Tánh. Đạo Nho đã giáo huấn rõ ràng “phương trưởng bất chiết” (cây cối đang đâm tược nẩy nhánh thì không bẻ); há nên nói “côn trùng là loài vật, thảo mộc vô tri” để rồi cứ tổn thương chúng ư?
Lời tựa kinh Viên Giác đã viết: “Phàm những loài có huyết khí, ắt có tri giác. Phàm những loài có tri giác, ắt đều có cùng một Thể”. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Như Lai thường nói, các pháp được sanh ra, chỉ do tâm hiện. Hết thảy nhân quả, thế giới, vi trần, là do cái tâm mà thành Thể. Trong số đó, kể cả những thứ kết cấu vi tế nơi thảo mộc, xét đến cội nguồn, đều có thể tánh”.
Lại như ngài Đạo Sanh thuyết pháp, đá trên núi gật đầu. Há có thể nói là ngói gạch nơi tường vách chẳng có Phật Tánh ư? Lại như cây tử kinh nhà họ Điền. Lại như cây thụy liễu trong phủ Trung Thư (phủ Tể Tướng) đời Đường, vào cuối niên hiệu Kiến Trung, do Diêu Lệnh Ngôn[40] làm phản, xa giá [của hoàng đế] phải chạy về Phụng Thiên, cây bèn chết khô. Năm Hưng Nguyên nguyên niên (784), xa giá trở về [kinh đô], cây bèn tươi tốt. Như vậy thì có nên nói “thảo mộc vô tri” hay chăng? Ý răn nhắc của đức Thái Thượng nhằm dạy con người đối với hết thảy hữu tình và vô tình đều luôn luôn dưỡng thành một bầu từ bi, một bầu hòa ý vậy!
Khi đức Như Lai thuyết pháp, một con cóc hoan hỷ, nhảy ra khỏi ao, dốc hết lòng thành lắng nghe. Ngẫu nhiên bị gậy chống của người nghe pháp đâm chết. Do nghe pháp, sau khi mạng chung, nó sanh lên trời Đao Lợi, làm chúa cõi trời Đao Lợi. Từ trời Đao Lợi, lại đến chỗ đức Phật, nghe giảng diệu nghĩa. Do khai ngộ bèn chứng quả Tu Đà Hoàn. Cóc là loài vật rất bé, thế mà sau này chứng quả rất to. Xét từ chuyện này, có thể thương tổn loài côn trùng hay chăng?
Xưa kia có một vị Tăng, chưa mở đạo nhãn, do nhận suông đồ cúng dường của cha con ông Tịnh Đức, sau khi mạng chung bèn sanh vào vườn của ông Tịnh Đức, hóa thành một cây nấm để hằng ngày làm món ăn cho nhà ấy. Người khác muốn hái, sẽ chẳng thể được. Nấm là loài vật rất nhỏ, thế mà có nhân duyên đặc biệt ấy. Xét theo chuyện này, có nên tổn thương cỏ cây hay không?
Đời Minh, Hàn Thế Năng ở Trường Châu, nhiều đời sống nơi phần mộ nhà họ Lục, rất nghèo. Ông nội là Vĩnh Xuân, mỗi sáng thức dậy, cầm chổi quét dọn những loài ốc nhỏ đã bò lên bờ dọc theo hai bờ sông, đem thả giữa dòng để chúng khỏi bị dân chài đánh bắt. Khi ấy, cụ nhịn đói quét đến mấy dặm. Năm Đinh Mão (1567) trong niên hiệu Long Khánh[41], Thế Năng đi thi Hương, tuổi đã bốn mươi. Cha ông là Tông Đạo nghĩ bố mình cần cù cứu vớt sanh mạng, con mình đã già mà vẫn chưa hiển đạt: “Nay ngẫu nhiên có được mười lạng, sao không mua các loài vật phóng sanh để cầu phước ư?” Sáng dậy, ông bèn mua rùa to, cá chép đỏ loại to đem thả. Đến tối, mộng thấy thần bảo: “Cha ngươi công đức to lớn, con trai ngươi sẽ đỗ đạt. Nay do ngươi mua rùa thần, cá chép thần phóng sanh, sẽ khiến cho con của ngươi được vào Hàn Lâm Viện, làm quan tới nhất phẩm”. Về sau, quả nhiên [Thế Năng] thi đậu liên tiếp, dự vào Hàn Lâm Viện, làm quan tới chức Thị Lang, từng vâng mạng đi sứ Triều Tiên, được ban tặng quan phục nhất phẩm.
Có người đàn bà tên X… ở Hàng Châu rất hung hãn. Thấy kiến bò quanh nhà bếp, bèn dùng lửa đốt, chúng bị chết không thể đếm xiết. Lại thường dùng vôi rắc vào hang giun đất. Sanh được một con, mới vừa ẵm ngửa, người đàn bà ấy vừa mới ra ngoài trở về, thấy trên giường là một khối đen kịt, kinh hoảng ngó xem, thì ra con mình đã bị lũ kiến cắn xé chết ngắc. Người đàn bà do xót con cũng bị đột tử!
Ngô Di ở châu Thái Thương, ban đêm nằm mộng thấy hai người đàn ông mặc áo xanh đến xin cứu mạng. Ngô Di tỉnh giấc bèn nói: “Đấy ắt là có vật sẽ phải chết”. Sáng dậy bèn ra cửa tìm kiếm, thấy có mấy người cầm búa và cưa tiến đến. Đấy là vì họ mua được hai cây ngân hạnh nên đến đốn. Ngô Di vỡ lẽ, đền bồi đúng giá trị, miễn cho [hai cây ấy bị chặt].
Tống Triết Tông ở trong cung thích bẻ cành liễu chơi. Trình Di tâu: “Đầu Xuân cây mới đâm tược, chớ nên vô duyên cớ bẻ gãy”. Vua vui lòng, nghe theo. Trình Di chúc mừng: “Bệ hạ hãy nên khiến cho thiên hạ đều có cái tâm ấy, đạo trọng yếu của bậc đế vương ở ngay chỗ này”. Lại nghe nói Cao Tử Cao hễ thấy cây cỏ đang tăng trưởng sẽ chẳng bẻ, Châu Liêm Khê chẳng dẫy cỏ trong sân, bảo là phải giữ cho nó [tươi tốt] như việc kiếm sống của gia đình mình. Nói chung, các vị thánh hiền ôm lòng nhân ái, lại còn có ý niệm chẳng bỏ sót những thứ vi tế vậy.
Trần Tiến Phu nói:
– Người có lòng nhân sẽ quyên tặng những món tiền dư ra, không dùng tới. Người có trí sẽ có đức dầy “thí xả chẳng cần báo đáp”, khiến cho [những loài vật trong tình cảnh] ruột đứt, hơi tàn, được tiếp tục sống từ ngọn dao bén, khiến cho [những con vật] đang tan phách kinh hồn được hồi sanh từ trên chảo, vạc. Để thực hiện công đức ấy, có ba thứ phóng sanh không cố định, và hai thứ chẳng cần phải phóng sanh. [Lại có ba loại phóng sanh] là vì loài vật mà phóng sanh, vì con người
mà phóng sanh, và vì chính mình mà phóng sanh.
Người đời phóng sanh, phần nhiều ấn định sẵn ngày giờ [cố định][42] để phóng sanh. Vì thế, những kẻ cầu lợi sẽ giăng bẫy, săn bắn [động vật hòng] cung ứng, đa số là [khiến cho những con vật] bị quấy nhiễu khốn khổ đến nỗi chết ngắc! Đấy chính là sát sanh mà cứ tưởng là phóng sanh! Hễ tai nghe, mắt thấy [những con vật sắp bị sát hại] ở trên đường hoặc ngoài chợ, liền tùy tiện mua lấy đem thả. Đấy gọi là “phóng sanh không theo kỳ hạn cố định”. Người đời đào ao, lập vườn [phóng sanh]. Đã có một chỗ thường xuyên, kẻ khác sẽ rình rập. [Những con vật] vừa mới thoát khỏi lưới của kẻ bắt, thoắt lại biến thành món canh của kẻ trông coi [vườn, ao phóng sanh ấy]. Đấy cũng là phóng sanh để cho chúng nó bị giết! Sông, ngòi, rừng, ao, hãy tìm chỗ thuận tiện, thích hợp, nhờ người thiện tín trông coi, bất thình lình đến đó [phóng sanh]. Đấy gọi là “phóng sanh không có chỗ thường xuyên”. Người đời phóng sanh bên ngoài, nhưng trong nhà cắt mổ chẳng băn khoăn! Thậm chí nói “nuôi gia súc để đãi người khác”, “chức trách [của những con vật ấy] đáng phải là cung cấp món ăn [cho loài người]”, chẳng biết [nếu như] con cháu [của họ] cũng [là những sinh vật] được nuôi dưỡng bỗng bị mổ xẻ, ăn nuốt ngang xương, [lúc ấy], tâm họ sẽ như thế nào?
Ngạn ngữ có câu: “Kinh doanh thì phải trả nợ, còn hay hơn bố thí”[43]. Lập hội phóng sanh, sao bằng kiêng giết? Cho đến thảo mộc đều là sanh linh; con đỉa, loài thiêu thân đều có Phật Tánh. Hoặc là phá chỗ tường vây khiến những loài trùng đang ngủ đông bị hủy hoại, có lúc lật tổ phá trứng, làm rơi rớt những thứ tanh tưởi khiến kiến bu lại, chứa nước tù đọng khiến lăng quăng sanh ra, hoặc do nuôi những thứ chim hay cá hiếm quý, bèn dùng những con vật khác làm đồ ăn cho chúng. Dẫu ta chẳng có cái tâm giết chóc, nhưng [do những hành động bất cẩn trên đây], sẽ khiến chúng nó lâm vào tử lộ, đều nên kiêng tránh. Hãy dự phòng bảo vệ sẵn, khiến cho chúng đều được sống sót. Đấy gọi là “chẳng phóng sanh mà hành phóng sanh”, chẳng phải là phóng sanh những con vật cố định. Nếu là những con vật bị thương nguy ngập vì bị cắn xé, hoặc [những loài thủy sản] mắc lưới, có thả ra, chưa chắc chúng đã sống được, hãy nên điều dưỡng, khiến cho chúng nó bình phục [rồi mới thả]. Nếu chúng không thể sống sót, hãy nên đem chôn.
Lại có loài thú dữ, cá độc, ác trùng, chim hung tợn, cứu chúng sống sót, đúng là tiếp tục kéo dài các thứ độc, hãy nên cân nhắc chúng nó sống sót hay bị chết nhiều hay ít, so sánh giữa công và tội nặng hay nhẹ, để [quyết định] cho chúng nó tự sanh tự diệt dường như chẳng thấy, chẳng nghe. Đối với hai loại ấy (dẫu phóng sanh cũng không sống được và loài vật gây hại), chẳng bắt buộc phải phóng sanh. Hễ là như vậy, hãy tùy duyên, tùy sức [để phóng sanh] khi thời cơ thích hợp. Đừng cho rằng giết những con vật nhỏ sẽ chẳng sao, đừng nghĩ thả những con vật nhỏ sẽ vô ích. Đừng ngại vất vả khiến cho thiện niệm bị trở ngại, đừng so đo giá cả rồi bỏ phế thiện duyên[44]. Một con vật chẳng phải là ít, lắm sanh vật chẳng phải là nhiều! Những côn trùng bé tí bay lượn chẳng phải là nhỏ; ngựa, trâu chẳng lớn. Một đồng chẳng phải là không đủ, một vạn xâu tiền chẳng phải là có thừa! Đấy gọi là hễ có con vật [cần được cứu sống] bèn phóng sanh; đạo lý đều được bao gồm trọn hết trong ấy.
Đối với vật đã là có [cái tâm phóng sanh] như thế, đối với người cũng nên [làm như vậy]. Hoặc là kẻ bị liên lụy đáng thương, hoặc bị oan khuất, khốn khó không ai cứu, hoặc gặp tai ách trộm, cướp, nước, lửa, hoặc bị bệnh tật nguy ngập, hoặc do buôn bán thất bại chẳng còn lẽ sống, hoặc thiếu thuế không thể nộp được, toan tìm cái chết. Đối với những trường hợp ấy, có thể giúp đỡ tài lực hòng mở ra một con đường sống, giúp họ giải quyết toàn vẹn, mong sao họ sẽ thoát khỏi. Ta giúp đỡ người khác được thoát khỏi hoàn cảnh ngặt nghèo như vậy, so với việc phóng sanh loài vật càng quan trọng, thiết tha hơn! Vì thế, hãy nghĩ lúc ta gặp cảnh khốn khó, tai ách, lòng mong mỏi được cứu giúp, tự nhiên sẽ cảm nhận nỗi đau đớn, lo sợ của họ như là của chính mình, thôi thúc chính mình ôm lòng cảm ơn [người khác đã] cứu giúp, tự nhiên công đức sẽ thành tựu.
Nếu là ta phóng sanh chính bản thân ta, sẽ càng khẩn khoản, thiết thực hơn nữa! Con người vì lòng tham sanh khởi mà có thể bị mất mạng. Buông xuống sát sanh, đấy chính là trường sanh. Nếu chịu giùi mài trong sáu thời, ngộ thông suốt hết thảy, thẳng thừng nhận biết cái vốn có, hoàn toàn chứng nhập Vô Sanh, cắt đứt sự ràng buộc trong cõi đời, phá sạch gông cùm trần lao, một đường thênh thang, đến đi chẳng vướng mắc, không bị câu thúc, không bị ép buộc, tiêu dao tự tại, cái tâm đã vượt thoát khỏi sự chấp trước xác thân, thật sự thoát khỏi luân hồi. [Do vậy] chẳng phải là người, chẳng phải là vật, vượt trỗi tứ sanh, chẳng có đức, chẳng có công, phước báo vĩnh viễn vượt trỗi. Do vậy, dùng một bài kệ để kết luận, kệ rằng:
Chủng chủng sanh thành, hoạn diệc thành,
Hữu sanh tài phóng hữu sanh danh.
Dữ quân đả phá lao lung khứ,
Ngộ đắc vô sanh thị phóng sanh.
(Muôn vật sanh thành, họa cũng sanh,
Có sanh mới có tên phóng sanh.
Ngục tù phá vỡ, thân lìa khỏi,
Sẽ ngộ vô sanh tức phóng sanh).
(Chánh văn) Nghi mẫn nhân chi hung, nhạo nhân chi thiện.
(正文)宜憫人之凶。樂人之善。
(Chánh văn: Hãy nên xót thương kẻ ác, vui vì điều thiện của họ).
Chữ Nghi (宜, hãy nên) đáng nên áp dụng chung các câu sau đó, mãi cho đến câu “dữ nhân bất truy hối” (đã cho người khác rồi bèn không hối tiếc). “Hung” (凶) là hung ác, mà cũng là hung họa. “Mẫn” (憫) là uyển chuyển khuyên dạy, khiến cho họ thay đổi làm lành. “Mẫn” cũng là trong khi hung hiểm, tai họa, bèn thương xót, xếp đặt an toàn, khiến cho mỗi loài đều được an vui. Không chỉ là quan tâm, thương xót mà thôi. Ông Hà Long Đồ nói:
– Phàm những kẻ thoạt đầu làm ác, chỉ là vì một niệm sai lầm, chưa chắc là không thể khuyên răn, ngăn cấm. Đã làm chuyện ác, mà vẫn còn một niệm sáng suốt, chưa chắc là không thể cứu giúp, giải trừ được!
Cõi đời thường cự tuyệt [kẻ ác] như oán cừu, [chẳng khuyên nhủ họ sửa đổi], cũng khiến cho họ hùa nhau đâm đầu vào chỗ chết, tuy muốn ăn năn hối lỗi mà chẳng thể được, buồn thay!
Đạo Đức Kinh có câu: “Thánh nhân thường thiện cứu nhân, cố vô khí nhân. Thường thiện cứu vật, cố vô khí vật. Cố thiện nhân giả, bất thiện nhân chi sư. Bất thiện nhân giả, thiện nhân chi tư. Bất quý kỳ sư, bất ái kỳ tư, tuy trí đại mê” (Thánh nhân thường khéo cứu người; vì thế, không có ai là kẻ bỏ đi. Thường khéo cứu muôn vật; vì thế, không có chúng sanh nào là thứ bỏ đi. Do vậy, thiện nhân là thầy của kẻ bất thiện. Kẻ bất thiện chính là tấm gương răn nhắc cho kẻ thiện. Chẳng quý trọng thầy, chẳng yêu mến tấm gương, dẫu là kẻ có trí mà hết sức mê muội)[45].
Kinh Dịch chép: “Thánh nhân khúc thành vạn vật nhi bất di” (Thánh nhân khéo léo thành tựu muôn vật, chẳng bỏ sót). Lễ Ký chép: “Phong, vũ, lộ, lôi, vô phi chí giáo. Sương chi, tuyết chi, hạo thiên phi hại vật dã. Sở dĩ bồi sanh dưỡng chi nguyên. Trách chi, trị chi, thánh nhân phi khổ nhân dã” (Gió, mưa, sương, sấm, không gì chẳng là lời dạy bảo tột bậc [của trời đất]. Trời cao đổ sương, mưa tuyết, chẳng nhằm tổn hại muôn vật. Vì những chuyện đó là nguồn cội để vun bồi, dưỡng dục [muôn vật]. Quở trách, trị phạt, chẳng phải là thánh nhân muốn làm khổ kẻ khác). Bởi lẽ, họ muốn mở ra một con đường tự sửa đổi [cho những kẻ lầm lạc], không gì chẳng nhằm khiến cho kẻ khác sửa ác, theo lành, nhằm thỏa bản hoài “vạn vật có cùng một Thể” đó thôi!
Thiện là điều người khác và ta đều cùng đạt được. Người ta thường lầm lạc phân chia đây kia. Kẻ ở trên cao[46] chỉ mong tốt lành cho riêng mình. Kẻ ở dưới thấp cũng chẳng mong người khác làm lành, thậm chí thốt lời vu cáo để hủy báng, bới móc khuyết điểm, ngấm ngầm tính kế để phá hỏng chuyện tốt đẹp của người khác, chỉ ôm ấp suông cái tâm thuật bại hoại, người ta đâu có bị tổn hại gì! Nào có biết người khác có thiện niệm, thiện sự, ta có thể khuyến khích, tán dương, khiến cho sự việc được thành tựu viên mãn, công hạnh tràn đầy, thì điều thiện của người ta sẽ là điều thiện của chính mình, sẽ là công đức vô cùng.
Từ phàm nhập thánh là cửa ngõ của muôn điều thiện, thì phát Bồ Đề tâm chính là bậc nhất. Bồ Đề tâm ví như hạt giống, có thể sanh ra hết thảy các thiện pháp. Cũng ví như ruộng tốt, có thể sanh trưởng pháp trắng sạch (bạch tịnh) cho chúng sanh. Cũng ví như nước sạch, có thể gột rửa hết thảy các chất nhơ phiền não. Cũng như lửa mạnh, có thể đốt sạch hết thảy củi kiến chấp. Kinh Niết Bàn dạy: “Phật thuyết tu nhất thiện tâm, phá bách chủng ác. Như thiểu hỏa năng thiêu nhất thiết. Cố tri vạn thiện giai tùng nhất niệm hảo nhạo nhi sanh, toàn thể thiện tâm nhi hiện, viên mãn Bồ Đề thường lạc diệu quả” (Đức Phật nói: “Tu một thiện tâm phá được trăm thứ ác, như một chút lửa có thể đốt trụi hết thảy. Vì thế, biết muôn điều thiện đều từ một niệm ưa thích mà sanh, toàn thể thiện tâm hiện bày, viên mãn diệu quả Bồ Đề thường lạc”).
Lôi Xu tánh rộng rãi, nhân hậu, có thể bao dung. Người khác làm chuyện ngang trái đối với ông, ông lại thương xót sự ngu muội của kẻ ấy, thường dùng lòng nhẫn nại, chẳng so đo để cảm hóa kẻ ấy. Tuy bị oan khuất to lớn, cũng chưa hề thưa kiện kẻ nào ra cửa quan. Cháu mười một đời là Tôn Phu làm Thái Tử Thái Sư.
Vu Lệnh Nghi ban đêm bắt được kẻ trộm chính là đứa con nhà hàng xóm. Ông Nghi nói: “Ngươi do bị cái nghèo bức bách, nay ta cho mười ngàn đồng làm vốn kiếm sống, đừng làm chuyện sai quấy nữa”. Nó đã bỏ đi, ông gọi lại, bảo: “Ngươi đã nghèo mà đêm tối lại ôm tiền trở về, sợ rằng sẽ bị tuần cảnh tra gạn”. Bèn giữ lại tới sáng mới thả đi. Trọn chẳng nói với người khác [về chuyện này]. Về sau, con cháu ông Vu nối tiếp nhau đậu Tiến Sĩ. Người ta bảo đấy là được báo đền do thương xót kẻ hung tợn vậy.
Trương Khánh làm cai ngục, luôn giữ lòng xót thương, thận trọng. Hằng ngày đích thân quét dọn, lau chùi. Tới mùa Hạ, càng siêng năng quét dọn hơn. Ông thường răn bọn lính canh ngục: “Người ta mắc vòng lao lý là chuyện bất đắc dĩ. Bọn ta có chức trách coi ngục, nếu chẳng biết thương xót, tội nhân biết kêu cầu vào đâu?” Thức ăn, thuốc men, đồ trải nằm [cho tội nhân], ắt đều tinh khiết. Ông thích xem kinh Pháp Hoa; mỗi khi có tù nhân bị tử hình, ông đều ăn chay, tụng kinh cho họ. Nếu tù nhân vô tội, ông liền cứu giúp họ thoát khỏi án tù. Từng dùng lời lẽ dịu dàng hỏi han tù nhân: “Nếu thật sự có tội, hãy nên tự thú, đừng giả vờ là kẻ lương thiện, khiến cho tội mình càng thêm nặng”. Về sau, tới lúc tám mươi hai tuổi, ông không bệnh gì mà mất. Sáu con trai đều vinh hiển. Xét gương này, há bảo là chẳng thể dấn mình vào chốn công môn ư?
Đời Tống, Trần Nguyên là người xứ Kim Đàn. Năm Hy Ninh[47] thứ tám (1074), xác người chết vì đói vô số; ông bèn cho đào một vạn cái hố chôn người. Mỗi hố đặt một âu cơm, một chiếc chiếu, bốn tờ tiền giấy, chôn cất thi thể chẳng thể đếm kể. Về sau, con cháu đều đỗ đạt làm quan. Phàm những thi hài không được mai táng, phơi giãi nhiều năm; vì thế, những oán quỷ ban đêm khóc lóc tỉ tê, há có kẻ sẵn lòng nhân từ trông thấy sẽ vùi lấp cho? Trong niên hiệu Sùng Ninh (1102-1106) đời Tống, huyện Thiều Châu chọn chỗ đất cao, rộng rãi, cây cỏ cằn cỗi để lập nghĩa trang từ thiện. Phàm những cỗ quan tài ký gởi tại chùa chiền trở thành vô chủ[48], cùng các hài cốt bị dầm mưa dãi nắng đều được thu nhặt, chôn vào đó. Mỗi ngôi mộ đều ghi rõ vị trí, quê quán, lập bia mộ, lại còn xây một ngôi nhà để thân thuộc đến cúng quải dùng làm chỗ tế lễ và ăn uống [cỗ bàn đã cúng]. Lại còn yết thị công khai cho dân chúng biết. Chuyện này từng được thực hiện trong niên hiệu Hồng Vũ[49]. Nay khuyên những người có chức trách, hoặc hàng thân sĩ trong dân chúng, hãy nên tùy nghi ra sức thực hiện, lập ra một cuộc đất để thu thập mai táng những hài cốt bị bộc lộ vì phần mộ hoặc quan tài hư hại, công ấy sẽ chẳng có gì to hơn được!
Nịnh Tùng Lễ tánh ưa làm lành, thương xót kẻ không được mai táng, thường tạo quan quách để thí. Kẻ không có tiền chôn cất, ông bèn cho tiền. Ông thọ một trăm tuổi mới mất, báo mộng cho người nhà: “Thuở còn sống, ta tạo ra nhà cửa để thí cho người khác, nên con cháu được hưởng điều tốt lành, khoa bảng chẳng dứt!” Về sau, đúng như vậy. Ôi! Thi hài không được chôn cất là chuyện thê thảm nhất. Thí quan quách để khâm liệm, u hồn cảm kích; lòng nhân tột bậc không gì to lớn hơn! Nhưng kẻ sức lực đơn bạc, khó lòng tiếp tục [thực hiện lâu dài], chẳng bằng kết thành một hội. Một hội chia thành mấy trụ, mỗi trụ gồm mấy người. Hễ thí một cỗ quan tài, nếu hội có nhiều người, mỗi người chỉ cần bỏ ra chút tiền. Hội có ít người, mỗi người bỏ tiền cũng chẳng quá mấy trăm đồng, sẽ dễ thực hiện, một vùng sẽ chẳng có nỗi thê thảm thi hài bộc lộ. Cốt sao người chịu trách nhiệm thật tâm, siêng năng, khẩn thiết đó thôi. Nếu [người đứng ra chịu trách nhiệm ấy] là người có thể diện, sẽ càng thêm châu toàn, thỏa đáng mọi bề. Đối với chuyện cho quan tài, hãy nên dựa theo lời trình báo mà kiểm xem có phải là thật hay không, chớ nên không suy nghĩ cách thức thực hiện tốt lành!
Trình Nhất Đức chỉ biết mặt chữ, hiểu nghĩa qua loa, nhưng khăng khăng mong cho kẻ khác làm lành. Phàm là những lời lẽ tốt lành, cách ngôn giáo huấn, ông đều in ra để khuyên kẻ khác. Một đêm, mộng thấy Văn Xương Đế Quân nói: “Do ngươi có thiện niệm, những chuyện khắc in đã được tâu lên thiên đình. Sau này, con cháu ngươi sẽ đỗ đạt rất đông”. Than ôi! Người phát ra thiện nguyện, cõi trời nghe thấu, tiếng như sấm rền, chư Phật không vị nào chẳng hộ niệm, bậc thượng chân[50] không vị nào tâm chẳng khế hợp. Chư Phật và các bậc thượng chân đều trụ nơi giải thoát đã lâu, vẫn còn thích điều thiện như vậy, huống hồ người đời sống trong biển khổ mà chẳng gắng sức ưa chuộng điều lành ư?
Đời Tống, Âu Dương Tu giữ chức Hàn Lâm, thường cầm theo mấy chục tờ bái thiếp để trống. Hễ thấy bậc sĩ đại phu hiền đức, được ca tụng là người lành, bèn hỏi chỗ ở của người ấy, viết tên người ấy vào bái thiếp để xin gặp mặt. Nếu đúng như lời đồn, sẽ ca ngợi thanh danh của người ấy.
Đời Hậu Hán[51], Bàng Thống ca ngợi điều lành của người khác, thường là vượt quá sự thật. Có kẻ trách móc, ông đáp: “Hiện thời, người thiện thì ít, kẻ ác thì đông. Muốn cho phong tục hưng khởi, tăng trưởng đạo nghiệp, nếu chẳng nói lời tốt đẹp, người hành thiện sẽ càng ngày càng ít. Ca ngợi mười phần mà chỉ có năm phần là thật, vẫn là được một nửa rồi, sẽ khiến cho kẻ có chí tự cảm thấy đã được khích lệ, há cũng chẳng đáng [nên làm như vậy] ư?” Quan phu tử đã răn dạy: “Nguyện trời thường sanh người tốt. Nguyện người thường làm chuyện tốt. Nguyện miệng thường nói lời tốt đẹp”. Ông Bàng đáng được gọi là người thấu hiểu lời giáo huấn ấy, giúp cho phong tục được hưng thịnh vậy.
Đỗ Chánh Hiến hễ nghe người khác có điều tốt lành, sẽ vui mừng như chính mình đã làm. Lưu Tập Hiền hễ nghe điều thiện của kẻ khác, đều khen ngợi chẳng thôi. Hàn Trung Hiến (Hàn Kỳ) hễ nghe một điều thiện nhỏ nhặt, ắt nói: “Kỳ chẳng thể sánh bằng!” Mấy vị ấy đều tận tụy trung thành với đất nước, giữ gìn điều lành, chỉ sợ lỡ đánh mất. Vì thế, thích khen ngợi như vậy, ấy là nhằm đề cử người hiền ngõ hầu ích nước lợi dân. Kẻ có chức trách hãy nên biết chuyện này, há chỉ ưa thích suông mà thôi!
(Chánh văn) Tế nhân chi cấp, cứu nhân chi nguy.
(正文)濟人之急。救人之危。
(Chánh văn: Giúp người khác trong lúc cấp bách, cứu người khác trong cơn nguy hiểm).
Người khác gặp tình cảnh cấp bách, như bệnh tật thì thuốc men là chuyện cần kíp. Đối với tang ma thì chuyện tẫn liệm là điều cần gấp. Đói rét thì cơm áo là chuyện cấp bách. Thiếu thuế thì bị truy bức là chuyện cấp bách. Các loại [tình thế cấp bách ấy] chẳng thể kể xiết! Ai nấy hãy đều nên tùy sức lập phương tiện cứu giúp. Khi đó, cần phải quả quyết thực hiện, đừng nghi ngại. Nếu không, sẽ bỏ lỡ phước duyên này, đáng tiếc lắm thay! “Nguy” (危) là ở ngay ranh giới sống chết, như thuyền lật, hoặc hỏa hoạn, nhà tan, người chết, cho đến bị giam cầm, hình phạt, phải ra cửa quan, bị người khác hãm hại v.v… Nguyên Đế[52] nói: “Đối với người đang bị hoạn nạn, khốn đốn, hãy khéo dùng một lời để giải cứu, trên là sẽ giúp cho cha, ông đã khuất, dưới là tạo phước ấm cho con cháu”. Lại nói: “Xô người hay đỡ người đều là cái tay bình thường, hãm hại hay khen ngợi người khác đều do cái miệng bình thường. Thà để tay nâng đỡ người, chớ mở miệng hại người”. Nếu có thể hành theo lời ấy, tương lai sẽ tự vĩnh viễn lâu dài.
Sách Địch Cát Lục viết:
– Kẻ thất phu[53] mà có lòng thương yêu loài vật, ắt sẽ giúp đỡ người khác. Để cứu tánh mạng [của người hay vật mắc nạn], chẳng tốn kém mấy. Đặc biệt là kẻ cơm áo dư dật, chẳng biết đến nỗi khổ đói rét, trông thấy [hoàn cảnh nheo nhóc của kẻ khác] cũng chẳng cảm thấy gì, hời hợt chẳng quan tâm đến. Khi thấy họ (những kẻ túng quẫn) xanh xao cũng chẳng bận lòng, đến khi thấy họ mắc bệnh ngã lăn bên đường, lại cho rằng bệnh tình đã nguy cấp, chẳng thể khỏe lại được, bèn ngồi nhìn người ấy chết. Dẫu kẻ qua đường có lòng, vẫn chỉ là than thở suông mà thôi! Những kẻ khác sẽ ghé mắt nhìn, lần lượt bỏ đi. Chẳng biết người ấy vì đói mà sanh bệnh, do bệnh nên chưa thể đi xin, cho nên càng đói khát dữ dội hơn. Bất quá là ba, bốn thưng gạo giúp đỡ người ấy dưỡng sức, mấy ngày sau người ấy lại có thể đi xin, lại được sống sót. Hoặc thừa lúc người ấy xanh xao, sắp ngã bệnh, mà cứu chữa sớm, sẽ càng hay hơn. Chi phí ăn ở một tối của người giàu đủ để cứu giúp mười người. Chi phí thỉnh sư tăng hoặc đồng cốt [làm trai đàn] đủ để cứu trăm mạng. Đối với chi dụng ăn uống ngàn vàng [của người giàu có, chỉ cần] quyên tặng một phần mười; giảm bớt một phần mười [số tiền dành cho] quần áo, ăn uống mỗi năm, mỗi tháng, sẽ đủ cứu cả ngàn mạng, thực hiện rất dễ dàng! Nếu có được mấy người cùng lập ra hội này, để ra một căn nhà trống, xếp chiếu cỏ trong ấy để chứa người nghèo đói, bệnh tật, khiến cho họ có chỗ tránh gió, khỏi phải lo toan về cơm nước, chỗ nghỉ, họ sẽ càng dễ điều dưỡng. Đối với những lúc trời rét, [chuyện này] càng cấp bách. [Nơi ấy] cần phải do một vị thiện nhân trông coi. Bốn cửa thành đều có cơ sở ấy, ắt những người bị chết yểu sẽ ít đi. Lại mở rộng chuyện này ra khắp chốn, ắt cô hồn lưu lãng sẽ rất ít. Bởi lẽ, khi người ấy đang bị bệnh, không có người trông nom, ngó ngàng, sẽ bệnh nặng hơn một phần. Ở nơi trống trải, gió máy, bệnh nặng thêm hai phần. Do lo âu về nguy cơ túng thiếu, trắng tay, bệnh sẽ nặng thêm ba phần. Trầm trọng hơn là cảnh bụng đói, áo bẩn, lần lượt bị xua đuổi, há còn có hy vọng để sống sót nữa ư? Hãy thử đặt chính mình vào tình cảnh ấy, [sẽ biết] nỗi đau khổ vì bệnh tật là như thế nào! Há có nên tiếc nuối chẳng quyên tặng một hạt gạo cho kho Thái Thương, chẳng làm chuyện ân huệ này! Hơn nữa, họ đều là người. Nếu bọn ta đầu thai chẳng đúng chỗ, sẽ lâm vào tình cảnh giống như thế đó! May mắn được no đủ, lại còn mong muốn hưởng thụ no ấm, dư dật, tính chuyện bền lâu cho con cháu, nhưng đối với chuyện cứu người trước mắt, chẳng bỏ một đồng! Chẳng biết nước, lửa, đạo tặc, tật bệnh, tai họa ngang trái, đều có thể khiến cho tài sản của ta phút chốc tan sạch. Chút phước phận nhỏ nhoi cũng do trời đất ban tặng, há có phải là do chắt bóp, keo kiệt, tham tiền như mạng mà có thể đạt được như vậy ư? Một mai vô thường, [những tài sản đã khổ công tích cóp ấy] chỉ trở thành những món tiền để con cháu rượu chè, gái gú, cờ bạc, phóng đãng đó thôi! Do vậy, đã có món tiền tiêu phí đủ cứu cả ngàn mạng người ấy, sao không dùng để tích đức? [Chuyện tích đức do cứu người] còn sâu dầy hơn cầu trời che chở nữa! Lý ấy tột bậc rõ ràng, [thế mà những kẻ bị] hơi đồng hôi thối nhuốm thân, trọn chẳng suy lường chi cả!
Đời Tống, Hứa Thúc Vi thường cầu xin đỗ đạt. Mộng thấy thần bảo: “Ngươi muốn thi đỗ, cần phải cậy nhờ âm đức”. Ông Hứa tự nghĩ nhà nghèo, không có sức, chỉ có dùng y thuật là được, bèn chuyên ròng nghiên cứu sách thuốc, lâu ngày thông hiểu đến mức hay khéo. Chẳng cần biết người bệnh giàu hay nghèo, đều gấp gáp đến [cứu giúp họ], cứu sống rất nhiều người. Thanh danh càng thêm vang dội, thiện tâm càng tha thiết. Về sau, ông đỗ đạt. Cứu người bệnh tật, vốn là cái nhân lành, nhưng nếu y thuật khó thể tinh thông thì làm như thế nào? Người có chí hãy kiền thành pha chế các loại cao đơn, hoàn tán để thí thuốc, in những bài thuốc hay quý có hiệu nghiệm để lưu truyền; đó cũng là một cách vậy!
Đời Tống, Vương Tăng lên kinh đô dự thi. Trên đường, ông nghe tiếng hai mẹ con khóc lóc rất sầu thảm, hỏi dò hàng xóm, họ cho biết: “Vì thiếu tiền thuế, không đóng được, sắp phải bán con gái, cho nên khóc lóc”. Vương Tăng bèn đến thăm nhà ấy, họ hỏi: “Có chuyện gì hay không?” Ông đáp: “Bà có thể bán con gái cho tôi, khi tôi làm quan, bà vẫn có thể lui tới [thăm viếng], có thể thường gặp gỡ nhau”. Ông bèn giao đúng số tiền họ thiếu thuế, ước định ba ngày sau sẽ lấy cô ta. Quá hạn, ông không tới. Bà mẹ hỏi thăm chỗ trọ của Vương Tăng, [tìm đến nơi, mới biết] Vương Tăng để lại thư, dặn bà ta chọn chỗ xứng đáng gả con, ông ta đã bỏ đi mấy ngày rồi! Về sau, ông Vương đậu Tam Nguyên[54], được phong làm Nghi Quốc Công.
Đời Tống, Ngô Khuê chơi thân với Vương Bành Niên. Ông Vương mất, nghèo túng, không có tiền chôn cất. Ngô Khuê sai trưởng nam lo liệu tang sự, trông nom việc lo an táng, châu cấp cho nhà họ, lại còn lo chuyện cưới gả cho hai cô con gái ông Vương. Về sau, ông Ngô làm quan tới chức Tể Tướng, thụy hiệu là Cung Túc.
Đời Minh, Giải Khai nhà giàu có. Hễ thân thích, bạn bè gặp chuyện cưới hỏi, ma chay mà không đủ sức, liền giúp đỡ. Hễ có người gặp cảnh ngặt nghèo, nói với ông, ông luôn dấn mình vào cảnh nước sôi, lửa bỏng để ra tay giúp đỡ. Ông thường nói: “Có ai mà chẳng muốn tích cóp cho nhiều, nhưng kẻ giàu có sẽ thành nơi kết oán, ta chỉ biết làm lành để đức cho con cháu, há cậy vào vàng, ngọc ư?” Con ông là Luân làm Thị Ngự Sử, [một người con khác tên là] Tấn làm Đại Học Sĩ.
Vùng Tân Kiến bị đói to, có người túng quẫn tột cùng, còn được khoảng một thưng gạo, bèn nấu cơm, bỏ chất độc vào, toan để vợ chồng được ăn no mà chết. Bỗng lý trưởng tìm đến muốn thâu thuế đinh, thấy cơm, toan ăn. Người nghèo vội ngăn lại, bảo: “Ông không thể ăn cơm này được đâu!” Khóc lóc kể rõ nguyên nhân. Lý trưởng xót xa, bảo: “Sao lại như thế? Nhà ta tuy túng thiếu, vẫn còn năm đấu gạo, hãy theo ta đến lấy đem về, có thể cầm cự ít lâu”. Người nghèo mang gạo về, thấy có năm mươi lạng vàng trong ấy, suy nghĩ: “Đây chắc là tiền thuế”, vội đem trả. Lý trưởng nói: “Trọn chẳng phải là tiền thuế, trời ban cho đấy chăng?” Liền chia đều ra, ai nấy đều sống thoải mái hết năm.
Đời Tống, Tôn Giác làm tri phủ Phước Châu. Những kẻ thiếu thuế bị tống giam rất đông. Khéo sao có kẻ giàu có bỏ ra món tiền năm trăm vạn đồng để xin sửa chữa điện thờ Phật. Tôn Giác bảo: “Các ngươi thí tiền là mong được phước. Điện thờ Phật chưa hư hoại quá mức, sao bằng dùng tiền để cứu những người thiếu thuế bị tù, khiến cho mấy trăm người thoát khỏi nỗi khổ gông cùm, ngay cả Phật Tổ cũng sẽ mỉm cười, rủ lòng Từ, sẽ được phước chẳng nhiều hơn ư?” Người giàu có bèn nộp tiền thuế, nhà tù rỗng không. Con cháu của người giàu có ấy đều hiển đạt. Tôn Giác làm quan tới chức Trụ Quốc.
Những người vừa kể trên đây, đều cứu giúp người khác trong tình cảnh cấp bách do ma chay, bệnh tật, hôn nhân, thiếu thuế, ly biệt, nghèo túng, được trời báo đáp sâu xa, đều là hết sức nhanh chóng. Ôi! Người gặp cảnh nguy cấp, chỗ nào cũng đều có. Kẻ có sức gặp những chuyện ấy, hãy nên khéo cứu tế; nhưng kẻ không có sức cũng nên khéo tìm cách xếp đặt, tùy duyên trọn hết tâm lực. Còn như gặp năm mất mùa, dân đói, càng là chuyện đứng đầu và lại còn là chuyện to lớn nhất trong các nỗi nguy cấp. Nếu chẳng phải là người đang giữ chức vị, hễ là kẻ có tiền tài, có thừa sức, hãy góp sức bù đắp cho sự thiếu hụt trong vận trời, hòng cứu vớt, giúp đỡ [kẻ khốn khó], ắt kẻ bần cùng sẽ chẳng bị vùi thây trong ngòi rãnh. Trong lời chú giải cho chữ Trung trong phần trước, đã nhắc đến ý này, nhưng chưa nêu rõ trọn hết. Vì thế, nay sau khi đã luận định về chuyện cứu giúp các nỗi nguy cấp, lại đặc biệt chuyên nói về chuyện này. Chỉ mong những kẻ đang giữ quan chức, những vị có lòng nhân, những vị ưa chuộng điều thiện đều cùng thấu hiểu cặn kẽ!
Đời Tống, Phạm Thuần Nhân làm tri phủ Khánh Châu. Gặp năm đói, xác người chết đói đầy đường. Thuần Nhân xin dùng gạo thóc từ kho Thường Bình để phát chẩn. [Đối với chuyện này], quan đầu quận phải tâu lên [triều đình] rồi mới được phép. Thuần Nhân nói: “Người ta không ăn sẽ chết. Tâu rồi mới phát, há có thể cứu kịp ư? Các ông đừng lo, hễ bị bắt tội, ta sẽ tự chịu”. Bèn phát chẩn ngay hôm đó, những người được cứu sống chẳng thể tính đếm! Về sau, ông làm quan tới chức Học Sĩ, được phong làm Cao Bình Công, thụy hiệu là Trung Tuyên.
Đời Tống, Triệu Biện làm tri phủ Việt Châu. Xứ Ngô Việt bị hạn hán nặng. Ông thừa dịp dân chưa bị đói, gởi thư hỏi các huyện trực thuộc có mấy chỗ bị tai ương? Dân làng đang chờ lãnh gạo [cứu đói] mấy người? Các ngòi nước và đê điều cần phải sửa chữa có thể thuê dân chúng tu bổ mấy chỗ? Tiền trong kho và lương thực tích trữ có thể phát ra được bao nhiêu? Bao nhiêu nhà giàu có thể quyên tặng gạo? Mỗi mỗi đều ghi chép vào sổ. Lại ghi chép những người già cả, cô quạnh, bệnh tật, không thể tự kiếm ăn, [số lượng đến] hơn hai vạn một ngàn chín trăm người. Lại đối chiếu với những ghi chép trước đó, [thì thấy] mỗi năm cấp gạo giúp kẻ nghèo chừng ba ngàn thạch mà thôi. Triệu Biện kiểm kê những khoản quyên góp của những người giàu, và những khoản thặng dư khác [ngoài tiền thuế ra], thu được hơn bốn vạn tám ngàn thạch gạo, bèn góp thêm vào đó khoản chi phí của chính mình. Từ mồng Một tháng Mười, cấp cho mỗi người một thưng gạo mỗi ngày, trẻ nhỏ thì được nửa thưng. Ông sợ mọi người [đến lãnh gạo, nam nữ] xen tạp, bèn cho nam nữ [lãnh gạo] khác ngày, mỗi người [mỗi lần] chỉ lãnh khẩu phần hai ngày. Ông sợ họ phải lang thang [bòn mót cái ăn], bèn ở chốn thành thị, vùng quê, lập ra năm mươi bảy chỗ phát gạo, để cho ai nấy đều nhận lãnh thuận tiện. Lại còn thông cáo: Nếu họ lìa khỏi chỗ ở, sẽ chẳng được cấp gạo. Ông tính toán thấy quan viên [lo việc phát chẩn] không đủ dùng, bèn chọn lấy những nha lại đã nghỉ việc đang sống trong vùng, cấp lương thực để họ đảm nhiệm [công tác phát chẩn] này, truyền cho những kẻ giàu có chẳng được [thừa dịp] mua gạo trữ vào [để đầu cơ]. Các châu đều yết bảng cấm tăng giá gạo. Triệu Biện ra lệnh thu mua gạo của những kẻ có gạo toan tăng giá. Ông tự cởi chiếc đai vàng [do hoàng đế ban tặng] để dưới sân, hạ lệnh thu mua số gạo ấy. Do vậy, người thí gạo đông đảo. Lại xuất hơn năm vạn hai ngàn thạch gạo từ kho gạo công để hạ giá gạo hòng tạo thuận tiện cho dân chúng. Lại lập ra mười tám chỗ bán gạo để người mua gạo khỏi phải bôn ba. Lại thuê dân đi sửa chữa thành trì [số lượng] đến bốn ngàn một trăm người; tính ra số lần thuê nhân công là ba vạn tám ngàn lần, tính theo số lần thuê mà trả bằng gạo trị giá gấp bội. Nếu dân cần vay tiền, bèn bảo những kẻ giàu có ứng trước, đợi đến khi lúa chín sẽ trả nợ. Quan viên sẽ đốc thúc họ trả tiền nợ. Đối với con cái của những người dân [vì đói kém, túng thiếu mà bị] bỏ rơi, bèn lập cách thức thu nhặt về nuôi dưỡng. Mùa Xuân năm sau, do người dân bị mắc bệnh dịch, bèn lập chỗ chữa bệnh để nuôi kẻ lâm vào cảnh bệnh tật mà không có chỗ quay về. Tuyển mộ hai vị Tăng, dặn dò họ trông nom thuốc men và đồ ăn thức uống cho những người ấy để họ không thiếu người chăm sóc. Hễ có người chết, bèn sai người nơi đó thu nhặt, chôn cất. Theo đúng lệ, phát gạo cứu đói cho người nghèo túng cho đến hết ba tháng mới ngưng, tức là đến tháng Năm trong năm đó mới thôi. Hễ ai có chuyện gì cầu xin, phần nhiều hễ xét thấy thuận tiện bèn làm ngay. Triệu Biện tự mình lo liệu, chẳng phiền đến thuộc hạ. Sớm tối dốc cạn tâm lực, không chuyện gì lớn bé chẳng đích thân lo liệu. [Trong đợt] hạn hán, tật dịch khi ấy, dân những quận khác chết mất một nửa, riêng dân trong quận của Triệu Biện cai trị là không bị tổn hại. Về sau, ông làm Tể Tướng dưới thời vua Thần Tông, là bậc danh thần đời Tống.
Đời Tống, Phú Bật làm Xu Mật Phó Sứ. Có kẻ vu cáo ông toan cấu kết với người Khiết Đan dấy binh [làm loạn]. Tống Nhân Tông tức giận, biếm trích ông đi coi Thanh Châu. Khi ấy vùng Hà Sóc[55] lụt to, dân đói tràn vào xứ, không có gì ăn, sắp bị chết đói. Ông quyên mộ hơn mười vạn hộc gạo, chứa ở chỗ thích hợp để phát ra. Lại còn tìm kiếm những căn nhà công và tư hơn mười vạn căn, để phân chia cho họ ở khắp nơi. Thuốc men đều đầy đủ, cho phép di dân được sử dụng những nguồn lợi từ nơi núi non, ao đầm, chủ [những chỗ ấy] không được ngăn cấm. Những người chết được chôn trong một ngôi mộ to. Người theo về cư trụ đông đảo, có người nghi ngại, nói với Phú Bật: “Đấy chẳng phải là đặt mình trong cảnh nguy hiểm, tai họa chẳng lường được ư?” Phú Bật nói: “Há vì [sự an vui của] một thân ta mà đổi lấy tánh mạng của sáu, bảy chục vạn người ư?” Ông càng dốc sức thực hiện. Năm sau, lúa mì chín rộ, ông đều tính toán [quê quán] của họ xa hay gần để cấp lương thực cho họ trở về. Ông đã cứu sống hơn năm mươi vạn người. Vua nghe chuyện, sai người đến ủy lạo, phong cho ông làm Lễ Bộ Thị Lang. Về sau, ông làm Tể Tướng, được phong làm Trịnh Quốc Công, thọ tám mươi tuổi, thụy hiệu là Văn Trung, được thờ phối hưởng trong Thái Miếu.
Đời Minh, Thanh Huệ Công là Đinh Tân, là người xứ Gia Thiện. Ông thích làm lành, chẳng mỏi mệt, ông chú trọng cứu đói tha thiết nhất. Năm Đinh Hợi (1587) trong niên hiệu Vạn Lịch có nạn lụt lớn, giá gạo tăng vùn vụt. Ông mới bắt đầu sai gia nhân đổi gạo lấy vải, chiếu theo thời giá, cứ mỗi xấp vải là bốn thưng gạo. Tốn phí đến hơn một ngàn thạch gạo đã tích trữ. Ông lại tu bổ đê điều ngoài đồng để ngừa hạn hán, lụt lội, tính theo từng trượng để cấp gạo, tốn phí đến sáu trăm năm mươi thạch gạo đã tích trữ. Năm sau, càng đói dữ hơn, ông lập trạm phát cháo, mỗi ngày có mấy ngàn người đến ăn. Ông lại tìm kiếm những người già cả, yếu đuối chẳng thể đến được để cấp phát riêng. [Làm như thế] suốt chín mươi ngày mới thôi. Đến mùa Thu lại khổ vì hạn hán, ông lại cứu tế những người dân bị đói ở gần nơi sông nước. Những kế hoạch cứu đói do ông trù tính đều có sách lược tốt đẹp, cho nên người được sống sót rất đông. Tháng Mười Một, dân chúng bị tai ương phần nhiều khổ sở vì rét buốt. Ông lại tìm kiếm trọn khắp những người cô quạnh, đói nghèo, không nơi nương tựa, ghi chép vào sổ, cấp phiếu, đến kỳ hạn sẽ lãnh. Ông phát hết những súc vải đã đổi [từ gạo] trước kia, kèm theo bông vải. Mỗi người được cấp hai tấm vải, bốn cân bông. Tính toán trước sau, ông đã phát hơn một vạn hai ngàn bốn trăm thạch gạo, ba vạn lẻ bốn mươi xấp vải, sáu vạn tám mươi cân bông. Năm Mậu Thân (1608) lại bị lũ lụt, ông lại cậy Đài Tỉnh[56] dâng sớ xin cứu chẩn, truyền hịch cho vùng Ngô Sở không được cấm mua gạo, lại còn phát tiền từ công khố, chuyển đến các nơi. Lại còn bỏ tiền riêng của mình để cứu tế rộng rãi. Năm Giáp Tý (1624), bị mưa dầm, ông lại mở kho cứu tế, phát hết ba ngàn thạch gạo. Tính chung là bốn lần chẩn tế. Ông lại tính toán trong huyện, những người nghèo chỉ có hai, ba mẫu ruộng, ước tính họ sẽ phải nộp thuế ba ngàn lạng, ông đều đóng thay cho họ. Năm ông chín mươi tuổi, vẫn lo thăm hỏi dân nghèo, kiến thiết làng quê, thọ gần một trăm tuổi.
Đời Tống, Trịnh Cang Trung người xứ Kim Hoa, làm Thông Phán[57] ở Ôn Châu. Gặp năm đói, ông bèn bỏ hết lương bổng để khuyên người khác bán gạo. Thái Thú nói: “Sợ rằng chẳng thể thật sự thí cho kẻ đói”. Ông đáp: “Chẳng khó! Hãy lấy một vạn đồng, trên mỗi đồng tiền ghi một chữ. Tối đến ra đường phố, hễ gặp kẻ đói bèn cho một đồng, căn dặn: “Chớ xóa chữ ghi trên đó, ngày mai [quan phủ] sẽ dựa vào đồng tiền ấy để cấp gạo. [Làm như vậy] sẽ chẳng bỏ sót một ai. Phương pháp phát gạo không có cách nào tốt bằng cách này!” Lại có người đề nghị cứu đói bằng cách dựa theo nhân khẩu để phát lương thực, nửa tháng phát một lần. Đối với họ, đã đỡ tốn công đi lại, họ ở nhà tận lực làm việc. Đối với ta, cũng đỡ tốn sức, giảm bớt những khoản chi phí, có thể cứu sống thêm mấy người nữa! Lại tránh được tình trạng họ tranh giành, chiếm đoạt lẫn nhau. Có người nói: “Dựa theo nhân khẩu để cấp phát lương thực, sợ sẽ có nhiều kẻ mạo danh, lạm dụng, chẳng thể được!” Ông nói: “Ta sẽ có cách thu xếp. Trước hết, hãy thí cháo dăm ba ngày. Nam nữ khác chỗ, cho phép họ mang bình đựng đến để lãnh về hòng nuôi nấng người già, trẻ nít. Cấp cho mỗi người một cái thẻ, đối với người trong một thôn đều ghi chép tên họ, tụ tập họ lại một chỗ, chẳng cho phép họ phân tán. Như vậy thì sẽ có thể ước tính số người trong một thôn. Sau đấy, mới đến từng làng đích thân tra xét, phân định là trung bần hay thượng bần. Thà tính dư, đừng tính thiếu. Dựa theo cái túi do họ đem tới mà cấp cho lương thực đem về. Kẻ già cả, yếu đuối hoặc góa phụ chẳng thể vác nặng, hãy chiếu theo thời giá, chiết tính thành tiền cho họ. Cho họ nhiều hơn một chút, đừng giảm bớt. Đấy cũng là trù tính phương pháp thỏa đáng nhất, mà cũng là phương pháp thích ứng với hiện thời để người có lòng nhân thực hiện thuận tiện”.
Chúc Nhiễm ở Diên Bình thường mỗi khi gặp năm đói kém liền thí cháo cứu dân đói rất đông. Hôm con trai ông ta đi thi Hương, người hàng xóm mộng thấy có người chạy đến, báo tin đỗ Trạng Nguyên, tay cầm lá cờ to, trên đó có đề bốn chữ “thí chúc chi báo” (báo ứng do thí cháo). Quả nhiên con trai ông thi đỗ liên tiếp, đỗ đầu thiên hạ.
Xưa kia, có người luận định phương pháp chẩn tế, coi thí cháo là cách thấp nhất, nhưng khi Tịch Văn Tương cứu nạn đói lớn tại Giang Nam, đặc biệt chủ trương phát cháo, bảo: “Cấp phát tiền và gạo, ắt cần phải biên chép [danh sách], thẩm định tường tận, chánh xác, hòng ngăn dứt những mối tệ, nhưng sanh mạng của dân đói chỉ trong sớm tối, há nên dằng dai? Thí cháo thì những người được ban phát đều là dân nghèo, chính là cách cứu đói khi khẩn cấp”. Có thể thấy đó là cách thấp nhất, nhưng cũng có lúc phải nên dùng. Khi đụng chuyện, hãy nên xét theo tình hình và mức độ để chọn cách thích hợp, chớ nên nhất loạt câu nệ!
Có kẻ luận định chuyện mở trạm thí cháo tuy là việc tốt đẹp, nhưng chưa hoàn toàn ổn thỏa. Một là kẻ già cả, yếu đuối, sẽ không thể đến nhận. Lại như kẻ ở xa mấy dặm, nhịn đói để xông pha gió máy, rét mướt, sẽ dễ ngã bệnh. Nếu như đến nơi phải mất mười dặm, trở về mười dặm nữa, lại phải chờ đợi chen chúc. [Do vậy làm cách này] chưa thể thí trọn khắp ngay được. Hễ ăn nhiều, bụng sẽ căng phềnh. Ăn ít thì đói, lại còn bị mùi hôi thối xông sực, thường đến nỗi xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Có kẻ ăn cháo xong bèn chết ngay, có kẻ vừa khom mình bèn ộc cháo ra. Hãy nên suy xét những nỗi thảm thương như vừa mới kể!
Do vậy ta thấy, để thật sự thực hiện tốt đẹp, nay có một phương pháp tốt đẹp hơn. Không gì bằng làm những gánh cháo. Mỗi gánh dùng năm, sáu thưng gạo trắng nấu cháo, đựng vào thùng có nắp đậy, phía dưới có thể nhóm ít lửa để cháo không bị nguội. Phía ngoài, xếp một cái giỏ nhỏ, đựng mười cái bát, mười đôi đũa, một ít dưa muối. Gánh tới chỗ đường cái, hoặc vùng ngoại thành, hễ gặp người nghèo, bèn bảo họ ngồi thành hàng, cho họ ăn xong, xin nước rửa bát đũa để cho người ăn sau [có bát đũa sạch để dùng]. Ước chừng mỗi gánh có thể cho bốn, năm chục người ăn. Mười gánh sẽ đủ cho bốn, năm trăm người. Gánh đi khắp các hẻm ngõ, hằng ngày đều tiến hành ở các nơi, sẽ đúng là thật sự tùy thời cứu tế, lại chẳng có những khuyết điểm như khi lập trạm tụ tập người đói để phát cháo. Cách thí cháo này tiện lợi nhất, thỏa đáng nhất.
Đời Ngụy, Thời Cử ưa bố thí. Hễ gặp năm đói kém, gạo đắt, liền xuất gạo trong kho để giảm giá gạo, chỉ bán bằng nửa giá lúc đó. Ông từng nói: “Năm mất mùa thì bán nửa giá, năm được mùa thì bán đúng giá. Tuy thâu vào ít hơn, chẳng gây tổn hại”. Ông thường châu cấp những thân thích và bằng hữu nghèo khó. Cả huyện phần nhiều trông cậy vào sự cứu tế của ông. Con ông là Thu Tiết làm quan đến chức Thượng Thư.
Đời Tống, Hoàng Thừa Sự mỗi năm vào lúc thâu hoạch, bèn bỏ tiền mua gạo. Cho đến lúc giáp hạt[58] năm sau, bèn bán ra giúp dân. Giá chẳng tăng, thưng đấu chẳng đổi[59]. Về sau, ông mộng thấy Tử Phủ Chân Quân[60] nói: “Ban cho ngươi đứa con làm tới địa vị Thượng Thư. Bản thân ngươi sẽ được ghi danh vào sổ tiên”. Về sau, những điều ấy đều ứng nghiệm.
Đời Nguyên, chân nhân Khưu Trường Xuân nói: “Bán gạo ra để làm giảm giá gạo đắt đỏ chính là phương tiện to lớn nhất, thật sự đã cứu giúp mọi người trong những năm đói kém, công đức vô lượng. Kẻ có sức, nhằm lúc thâu hoạch, hãy nên mua vào cho nhiều, hoặc là có ruộng đất, bèn gặt hái, cất giữ, gặp lúc thiếu kém, bèn bán ra đúng như giá cũ. Mình chẳng bị tổn hại, mà lại hết sức có lợi cho kẻ khác, cớ sao chẳng vui vẻ làm như vậy? Cách kém hơn là dựa theo thời giá để bán với giá rẻ hơn, nhưng bán đúng giá [trước khi đói kém] thì tốt hơn”.
Đặng Thành Mỹ ước định cùng thân tộc lập hội Châu Lợi, với ý nghĩa gặp năm mất mùa [sẽ giúp cho] người khác chẳng bị chết đói. Phương cách là khi mùa màng bội thu, cứ mỗi mẫu sẽ bỏ ra một hoặc hai đấu gạo, đến mùa Xuân cho vay với lợi tức hai phân, đến vụ gặt mùa Thu sẽ trả. Thành Mỹ giữ lòng công bằng, đứng ra trông coi việc ấy. Về sau, gặp lúc hạn hán, đói kém, không chỉ là cứu được thân tộc, mà còn cứu được những người khác. Ông thọ bảy mươi lăm tuổi. Hôm ông mất, mùi hương lạ khắp nhà, hàng xóm thấy vô số sai nha cõi âm nói oang oang là đến đón ông [Thành Mỹ] làm Thành Hoàng xứ nọ.
Tào Thế Mỹ nhà nghèo, thích làm lành. Một vị Tăng dạy ông hãy thật tâm khuyên lơn, giúp đỡ người khác thì cũng có thể tạo phước. Từ đấy trở đi, Thế Mỹ ước định cùng người khác lập ra nhiều hội từ thiện, thí cháo, thí áo, thí thuốc, thí nước gừng, phóng sanh, tiếc chữ, thí quan tài, chôn cất [những người không có ai lo liệu hậu sự], sửa chữa cầu, đường v.v… Người khác bỏ tiền, tự mình ra sức. Mỗi năm đều như thế, càng lâu càng có sức. Những năm đói kém, ông càng chú ý ra sức khuyên cứu tế. Về sau, do bán dầu cho những người giàu, dần dần có được hơn năm ngàn lạng. Con cháu an hưởng phước dầy. Đối với mọi chuyện, kẻ giàu có sẽ dễ thành công, kẻ nghèo rất khó thực hiện, nhưng do gặp cảnh khó thực hiện mà có thể gắng sức làm thì đấy chính là chỗ khiến họ dễ [đạt được thành tựu] hơn người thường. Cổ nhân có nói: “Kẻ nghèo bỏ công sức một trăm phần bằng kẻ phú quý bỏ công sức ngàn phần”. Do vậy, có thể thấy: Kẻ nghèo há nên tự buông xuôi, chẳng có chí khí mạnh mẽ, kiên quyết ư?
Đoàn Nhập Bát tích trữ gạo đến mấy chục kho, gặp năm đói kém, toan bán ra với giá cao. Quan sai người đến hỏi mượn gạo để cứu đói, hắn đã bằng lòng. Sáng sớm hôm sau, do thấy dân đói tụ tập chờ đợi, bèn hối hận, chẳng chịu phát gạo. Mọi người vừa mới huyên náo, hắn ta bèn cùng người nhà đóng chặt cửa, cự tuyệt mọi người. Bỗng trời nổi trận mưa to gió lớn, xô gạo đổ tung tóe ra đường sá. Dân đói tranh nhau hốt lấy, họ Đoàn bị sét đánh chết tươi!
Trải xem báo ứng họa phước của những kẻ tàn nhẫn hay nhân từ trong các năm đói kém, sách vở đã ghi chép rất nhiều, chẳng thể thuật trọn, chẳng phải là chỉ có những trường hợp trên đây. Tiên nho nói: “Đói kém là mạng trời, nhưng lòng trời nhân ái, thương xót dân đói bội phần tha thiết. Vì thế, bậc trí do hợp lòng trời bèn được những điều tốt lành giáng xuống. Kẻ ngu do trái nghịch lòng trời mà bị trừng phạt. Đó là lẽ tất nhiên”. Báo ứng giáng họa lắm nỗi, càng nhanh chóng hơn phước báo. Chẳng riêng gì cái tội đóng chặt cửa không bán gạo ắt bị trời đánh, ngay như kẻ trữ tiền keo kiệt, trơ mắt nhìn người khác sắp chết chẳng cứu, do nhẫn tâm hại lý, sẽ bị khiển trách càng nặng nề hơn nữa! Kẻ ở sâu trong ngôi nhà tráng lệ, chẳng nghe tiếng than khóc vì đói, chẳng thấy [người chết đói ngoi ngóp] nơi ngòi rãnh, muốn cứu mà cứ do dự, chần chừ, chẳng suy xét người chết đói đã nhiều, thì cũng là trái nghịch lòng trời, chẳng khỏi mắc tai ương! Nếu là kẻ làm cha mẹ của dân, lại ơ hờ chẳng quan tâm nỗi khổ của dân, chần chừ, rề rà, cũng như những kẻ nha lại nẩy sanh thói tệ, giở trò gian trá, khiến cho dân chúng chẳng được thật sự giúp đỡ, tội ấy càng là muôn kiếp khó siêu! Cổ nhân nói: “Cứu một mạng người, tăng thọ mười hai năm”. Huống chi kẻ có thế lực, hễ ra tay, sẽ có thể cứu trăm ngàn vạn mạng. Vì thế, kẻ đang có quyền chức, giống như đang ở trong núi báu, mặc sức ta chọn lựa, nhặt lấy, hãy cẩn thận, đừng ra về tay không!
Điều đáng quý nhất chính là đứng ra xướng suất trước tiên, phỏng theo cổ nhân làm chuyện cứu tế to lớn. Dẫu là kẻ sức lực hữu hạn, cũng nên kết hợp với những người thật sự có thiện tâm để thực hiện chuyện khuyến mộ rộng rãi, tùy duyên tiến hành, ngõ hầu chuyển [những kẻ sẽ vì chết đói mà vùi thân nơi] ngòi rãnh thành bình yên. Âm công mênh mông, trời sẽ báo đáp chẳng sai xuyển. Trong thiên sách này đã nói về chuyện này đặc biệt tường tận, tấm lòng đau đáu, ý tưởng sâu xa, căn dặn hết sức thiết tha. Lại còn dặn dò: Nếu gặp năm mất mùa, khi cần phải cứu chẩn, hãy mau chóng thâu thập, nhuận sắc các thuyết và các câu chuyện cứu đói để in ra lưu truyền, khuyên lơn, gởi tặng rộng rãi các thành phố, làng quê đang bị tai ương, ngõ hầu các bậc thân sĩ, những nhà giàu có đọc kỹ. Lại còn dán [những tờ yết thị phương pháp cứu tế ấy] khắp các chỗ náo nhiệt, sẽ thật sự là điều đại thiện, tạo phước chẳng có ngằn mé!
Phụ lục: Ghi chú về hai mươi biện pháp cứu đói của ông Trần Bằng Niên tại phủ Tô Châu vào đời Thanh
Năm Khang Hy 47 (1708), lụt lội, hạn hán liên tiếp xảy ra. Ông Trần xin quan đốc phủ vùng Giang Chiết hãy ban hành sách lược này. Lúc đầu, gạo giá hai mươi đồng một thưng, [do áp dụng chánh sách do ông Trần đề nghị], chưa đầy hai tháng, mỗi thưng chỉ bán tám, chín đồng. Dân chúng ca ngợi ơn tái tạo của quan cai trị. [Chánh sách ấy như sau]:
– Một là cấm dùng gạo nếp nấu rượu.
– Hai là cấm dùng lúa mì nấu rượu.
– Ba là cấm dùng đậu nành ép dầu.
– Bốn là cấm dùng gạo tấm trắng làm đường.
– Năm là cấm dùng cám gạo làm sợi miến (Hạ lệnh bán những thứ ấy cho dân đói để họ làm bánh cho qua cơn đói. Nghiêm cấm năm thứ trên đây, đối với một huyện trung bình, mỗi ngày sẽ tiết kiệm không chỉ là mấy trăm thạch gạo. Vì thế, ngay lập tức sẽ thấy giá gạo giảm mỗi ngày).
– Sáu là cấm phường đồ tể và nhà buôn rượu bán thức ăn đã nấu chín (giảm bớt tiền tài để tích phước; chỉ được phép bán các thức ăn làm bằng bột, hoặc sợi mì, đồ chay).
– Bảy là khuyên những nhà khá giả và các con buôn giàu có hãy quyên tặng gạo cứu đói. Năm nay, ông Đổng Thiên Quyến ở huyện Bình Hồ được ông Trần chỉ giáo, trước hết cho làm hai mươi bức hoành phi ghi “vi phú bất nhân” (làm giàu bất nhân), chất đống tại huyện đường, đích thân tới những nhà giàu khuyên họ đóng góp, chí thành khiến họ cảm động, [các biện pháp] cứng rắn lẫn mềm mỏng đều dùng. Trước hết là tới chỗ hương thôn, gặp ba nhà giàu có ương bướng [không chịu quyên góp], bèn đóng tấm hoành phi ấy lên cửa, lại còn báo cho họ biết: Hễ họ bán ruộng đất để chuộc tội mà nếu gián đoạn [không trả hết tiền phạt], sẽ bị phạt nặng hơn. Gia nghiệp gần như sẽ đi tong quá nửa! Từ đấy, từ vùng quê cho đến thành thị, những kẻ thích đóng góp đông đảo. Ngoài chuyện cấp gạo, cấp tiền ra, còn lập trạm thí cháo khắp nơi. Lại còn thí thuốc, chẩn tế đến mấy tháng, tới khi “ăn gạo mới”[61] bèn thôi. Số lượng quyên góp nếu dư ra, sẽ sai đem trả lại những nhà giàu có, cứu sống vô vố người.
Đời Tống, tiên sinh Tây Sơn Chân Đức Tú nói: “Rộng lòng giúp đỡ dân nghèo, ắt được trời đất ban phước. Đấy là nói theo lý. Nếu nói theo lẽ lợi hại, không có dân đói, sẽ chẳng có đạo tặc, ắt thôn quê, thành thị bình an. Đấy lại là điều lợi cho những nhà giàu”. Ông Trần Kỷ Đình bảo: “Chuyện cứu đói cần phải do thân sĩ và các nhà giàu có tại các vùng, các thôn cứu giúp dân nghèo gần chỗ họ, sẽ khiến cho cả huyện chẳng có ai bị đói”. Ông Hoàng Chấn nói: “Để cứu đói chỉ có cách khuyên nhủ, [tức là] khuyên những nhà giàu có hãy tạo ân huệ cho dân nghèo. Nếu những khoản quyên tặng có dư, sẽ dùng để cấp thêm cho những kẻ thiếu thốn; đấy chính là đạo trời, là phép nước vậy. Nếu kẻ nào chỉ mong giàu có cho riêng mình, chẳng nghĩ đến tình cảnh tai ách thê thảm vì đói kém, dẫu có thể may mắn trốn thoát phép nước, ắt khó trốn đạo trời tru lục!” Lại nghe Châu Tử nói: “Để khuyên nhủ [kẻ giàu] chia sẻ cứu dân trong cơn cấp bách, chẳng thể không nhẫn nại đôi chút. Nếu gặp kẻ giàu có so đo quá sâu, sợ rằng rốt cuộc sẽ không thể làm được (không thể quyên tặng được), phải sử dụng cả ân lẫn uy thì mới có ích cho việc cứu tế”. Đây chính là ông Trần đã lãnh hội sâu xa đạo cứu đói của Châu Tử vậy.
– Tám là tạo lập công việc để giúp đỡ kẻ thiếu thốn (như đắp thành, khơi sông, tu bổ cầu đường v.v… khiến cho những kẻ làm công sẽ có cái ăn).
– Chín là nới lỏng những nghiêm cấm [trước đó về chuyện khai thác tài nguyên từ] núi, sông, như giảm nhẹ thuế vận chuyển lương thực để tiện vận chuyển theo đường thủy, cũng như chẳng nghiêm cấm những chuyện như đẵn củi v.v… để [dân nghèo] có cách sống tạm thời, chẳng đến nỗi trở thành đạo tặc.
– Mười là đối với những phạm nhân nếu tình cảnh đáng thương, hoặc vụ án đáng ngờ, cho phép họ dùng gạo chuộc tội, dùng số gạo ấy để cứu đói.
– Mười một, bất luận quan lại, quân, dân, phụ nữ, tăng, đạo, đủ mọi hạng người, hễ có thể giúp cứu đói, nếu ít thì tặng hoằng phi, ban thưởng, nhiều thì báo tường tận lên triều đình ngõ hầu họ sẽ được thánh chỉ phong tặng.
– Mười hai, mời mọc các bậc danh y mở phòng thuốc cứu chữa người bệnh.
– Mười ba, dân ở gần núi, dạy họ dùng tùng, bách để đỡ lòng (sách Bác Vật Chí[62] chép: “Năm đói kém không có cái để ăn, có thể nghiền kỹ tùng, bách để vắt lấy nước, hòa với nước lã để uống khỏi đói hòng cầm cự qua ngày”. Nếu hòa với cháo hoặc canh lỏng để uống thì càng hay. Mỗi lần dùng năm hớp nước tùng, ba hớp nước bách hòa chung để uống. Hoặc chỉ dùng lá tùng cũng được. Chỉ cần đừng dùng những thứ thức ăn khác, sẽ có thể khỏi đói, hết bệnh.
– Mười bốn, hoãn hành hình (năm đói kém, lắm kẻ phạm pháp; vì thế, khoan dung).
– Mười lăm, giảm bớt lễ lạc (đối với chuyện làm lễ đội mũ (gia quan), cưới hỏi, ma chay, cúng bái, hãy giảm thiểu những lễ nghi theo phương diện hình thức).
– Mười sáu, cho dân vay mượn để gieo trồng (do sợ [dân đói] bỏ mặc ruộng đất chẳng gieo trồng).
– Mười bảy, cẩn thận phòng ngừa đạo tặc (do sợ chúng nó sẽ làm hại dân).
– Mười tám, hàng quan lại, thân sĩ, hễ gặp ngày mồng Một và Rằm, bèn trai giới, tắm gội, cầm hương đi bộ, ai nấy cầu đảo tại các miếu để cầu cho dân được yên vui (năm mất mùa chính là do cộng nghiệp của nhân dân cảm vời. Cầu đảo, sám hối tội lỗi nhằm vãn hồi vận mạng to lớn. Đấy cũng là một trong các biện pháp cứu đói theo Châu Lễ).
– Mười chín, trong mỗi châu, huyện, chọn lựa người tài đức để chủ trì việc cứu đói (như lo liệu việc cấp gạo, thí cháo v.v…), khiến cho dân đen thật sự được hưởng ân huệ. Khi sự việc đã được lo liệu ổn thỏa, đồng loạt tâu lên [triều đình danh sách] những người đã quyên tiền, tặng gạo.
– Hai mươi, đối với các thuyền chở đậu phộng, đậu, lúa mạch… miễn thuế một tháng, lại còn sai phu kéo thuyền giùm, hộ tống (thuyền chở đậu, gạo từ các quận ngoài được chở tới hằng ngày thì giá gạo mỗi ngày một giảm, đấy là tác dụng to lớn để chuyển thiếu thốn thành sung túc).
Luận về sự cứu tế trong cơn cấp bách, trên đây đã nói tường tận. Còn như cứu nguy, xét theo lý, đại khái giống nhau, nhưng để cho mọi người cảm thấy [cứu nguy] có mối tương quan với sự sanh tử, tôi ghép thêm mấy câu chuyện sau đây.
Trương Bá Hộ ở Cao Bưu từ trong thuyền thấy đằng xa có người bám vào một chiếc thuyền lật úp, lúc chìm, lúc nổi, gào thét cầu cứu. Ông Trương vội gọi thuyền chài đến cứu, họ chẳng đáp ứng. Ông bèn cho họ mười lạng bạc thì họ chịu cứu. Cứu lên thì ra [kẻ mắc nạn] là con trai của ông Trương.
Đời Tống, Châu Tất Đại trong niên hiệu Thiệu Hưng trông coi Hòa Tễ Cục[63] của Hàng Châu. Trong cục bị cháy, [theo quy chế, những người trực ban mà] để hỏa hoạn xảy ra, [sẽ bị phán] tội chết. Ông nói: “Nếu hỏa hoạn do quan gây ra, sẽ bị tội gì?” Nha lại nói: “Sẽ bị cách chức làm dân thường”. Ông nói: “Há nên vì một mình ta mà nỡ lòng nhìn mười mấy người mất mạng ư?” Bèn nói dối là chính mình gây ra hỏa hoạn, chịu tội, mất chức, mọi người đều được cứu sống. Về sau, ông làm Tể Tướng.
Đời Tống, Lôi Hữu Chung đánh dẹp [bọn phản loạn] Vương Quân, muốn tàn sát dân chúng trong thành. Khi ấy, những vị nhân sĩ đất Thục (Tứ Xuyên) là Phạm Xán, Phạm Tuy [là những người] khí tiết cao thượng, có văn tài, và Văn Giám đại sư là một vị nổi danh đức hạnh, cùng kéo đến can gián. Họ dập đầu thưa: “Người đất Thục hiền lành, nhu nhược, bị ép buộc phải theo hắn, đặc biệt sợ chết. Hôm nào thành bị hạ, xin Ngài đừng tàn sát, chỉ cần trừ bỏ đám giặc hung tợn là được rồi”. Hữu Chung thấy ba vị ấy là bậc trượng phu khẳng khái, quên thân vì mọi người, xuất phát từ lòng chí thành, bèn dịu nét mặt, bảo: “Nếu chẳng nghe lời của bậc trưởng giả, ta đã gần như làm bậy rồi”. Một thành bèn được bảo toàn. Con cháu họ Phạm quý hiển, sư Văn Giám ngộ đạo.
Ông Phùng X… vào hôm trời rét dữ, dậy sớm [ra đường], trên đường, thấy một người nằm trong tuyết, thân đã cứng một nửa, vội cởi áo bông của chính mình đắp cho, cõng về cứu tỉnh. Ông mộng thấy thần bảo: “Ông cứu mạng người xuất phát từ lòng chí thành, sẽ ban cho Hàn Kỳ làm con ông”. Về sau, ông sanh con bèn đặt tên là Kỳ, [Phùng Kỳ] tột bậc hiển quý.
Lái buôn đất Huy Châu là Vương Chí Nhân tuổi đã ba mươi mà không con. Giữa đường, gặp một người đàn bà ẵm con nhảy xuống nước. Ông ngăn lại, hỏi nguyên cớ. Người đàn bà thưa: “Chồng thiếp nghèo, nuôi lợn để [lấy lãi] trả tiền địa tô. Ngày hôm qua, [chồng thiếp] đi ra ngoài làm thuê cho người khác, kẻ buôn lợn đến nhà mua lợn, không ngờ đưa toàn bạc giả. Thiếp sợ chồng về đòn vọt, lại cũng chẳng có cách gì để sống, cho nên [tính tìm] cái chết”. Chí Nhân thương xót, cho tiền đủ số. Tới khi người chồng biết chuyện, nghi vợ nói dối, lôi vợ đến chỗ ông Vương cư ngụ để chất vấn. Vương Chí Nhân đã ngủ, chồng bắt vợ gõ cửa, thưa: “Tôi là người đàn bà nhảy xuống nước, đến lạy tạ”. Ông Vương lớn tiếng nói: “Ngươi là đàn bà còn trẻ, ta là khách trơ trọi một mình, đêm tối há nên gặp mặt? Có gì muốn nói, sáng mai hãy cùng chồng ngươi tới!” Người chồng mới sợ hãi thưa: “Vợ chồng tôi cùng có mặt”. Do vậy, Chí Nhân khoác áo ra gặp. Vừa mới mở cửa, tường sập, cái giường ông nằm bị nát vụn như bột. Vợ chồng họ cảm thán, hết sức cảm tạ, lui về. Về sau, ông sanh được mười một đứa con, sống rất thọ.
Đời Đường, Bùi Độ đến chơi chùa Hương Sơn, nhặt được hai cái đai ngọc, một cái đai bằng sừng tê giác, bèn đợi chủ nhân đến tìm. Cho đến chiều tối, người ấy không tới, [ông bèn cầm về], đến sáng lại sang chùa. Một người đàn bà đến khóc lóc, nói: “Cha thiếp vô tội bị tù, ngày hôm qua [tính] nhờ đai báu để giúp cha thoát tội, bất hạnh đánh mất ở nơi đây, chẳng trốn khỏi họa vậy”. Bùi Độ xúc động, trả lại. Trước đó, có người coi tướng bảo Bùi Độ ắt sẽ chết đói. Tới lúc này gặp lại, bèn bảo: “Ông khí sắc khác hẳn, ắt có âm đức giúp đỡ người khác, tiền trình [rạng rỡ] tôi chẳng thể biết được!” Về sau, ông được phong làm Tấn Quốc Công, truy tặng [tước hiệu] Thái Phó.
Đường đời gập ghềnh, gặp những nỗi hiểm nguy khác nhau. Người có lòng nhân cứ từ đây suy ra, sẽ biết trọn hết. Mỗi chuyện đều phải tận hết sức làm, ở đây chẳng thể ghi trọn hết được! Còn như chuyện sống chết do bị hình phạt, tù ngục bức bách, càng là tình cảnh trầm trọng hơn các nỗi nguy khác, sẽ được giảng giải và chép trong phần chú giải câu “nhập khinh vi trọng” (ghép thêm tội nặng vào tội nhẹ) thuộc phần sau. Vì thế, chẳng luận định thêm ở đây!
(Chánh văn) Kiến nhân chi đắc, như kỷ chi đắc. Kiến nhân chi thất, như kỷ chi thất.
(正文)見人之得。如己之得。見人之失。如己之失。
(Chánh văn: Thấy người khác đạt được giống như chính mình đạt được; thấy người khác bị mất mát, giống như chính mình bị mất mát).
Người đời nay thấy kẻ khác được mất, chẳng thể [cảm nhận] như chính mình được mất, chỉ vì có lòng ích kỷ, chấp trước chính mình. Hễ được bèn sợ mất, lại dấy ý niệm chỉ sợ người khác sẽ đạt được, thà khiến cho người khác bị mất mát! Mới đầu vẫn chỉ là lợi mình; về sau, dần dần thành trở ngại người khác, đố kỵ sự thành tựu [của người khác], vui thích trước thất bại của họ. Người khác thành hay bại, liên quan gì đến ta? Chỉ ôm ấp tâm thuật xấu xa, gieo cái nhân ác tự hại chính mình! Chẳng biết công phu của thánh hiền vốn là phải tiêu trừ Ngã Kiến. Trong sự hiểu biết của bậc thông đạt, cũng cần phải phá vỡ những tình tự phàm tục. Nếu ngộ “ta và người vốn cùng một nguồn, được hay mất là do mạng trời”[64], ắt sẽ trông thấy người khác đạt được, không chỉ là chẳng đố kỵ, mà còn tìm mọi cách giúp đỡ. Thấy kẻ khác bị mất mát, không chỉ là chẳng mừng, mà còn cứu giúp nhiều cách. Đấy chính là chỗ thọ dụng chân thật của chính mình.
Đời Đường, Địch Lương Công (Địch Nhân Kiệt) làm Pháp Tào Tham Quân ở Tinh Châu, có [viên quan] họ Trịnh bị phái tới chỗ xa xôi, hẻo lánh. Mẹ ông ta vừa già vừa bệnh. Ông Địch nói: “Mẹ của ông đã như thế, há nên khiến cho ông ta phải chịu nỗi lo vạn dặm?”, bèn đến chỗ Trưởng Sử Lạn Nhân Cơ, xin đi thay. Nhân Cơ thường chẳng thuận thảo với Lý Tư Mã, do [thấy ông Địch làm như thế] bèn nói: “Ông Địch như thế ấy, há bọn ta chẳng nên tự thẹn ư?” Bèn hòa thuận với nhau.
Tiết Viện làm Tướng Quốc nước Yên, cái tâm chưa thể công bằng, đố kỵ khi người khác đạt được, thích thú khi thấy người khác mất mát, chẳng tiến cử người hiền, lại còn ganh ghét, khiến cho họ chẳng được tiến cử. Một đứa con trai [của ông ta] chết trong ngục, những đứa còn lại thì tàn phế. Tử Cao là người công minh, truyền dạy [Tiết Viện] bộ Trung Giới Kinh. Tiết Viện hối hận, thề nỗ lực thực hiện, [rốt cuộc] chỉ bảo toàn được một đứa con.
Đời Minh, Liên Trì đại sư bảo: “Con người đối với cảnh giới tài, sắc, danh, lợi trong thế gian, tôi dùng tỷ dụ để nói rõ. Có một đống lửa ở nơi đây, năm món vật ở bên cạnh. Một là như cỏ khô, hễ vừa chạm đến, sẽ cháy ngay. Hai là như gỗ, hễ quạt lửa vào đó sẽ cháy. Ba là như sắt, không thể cháy được, nhưng có thể bị nung chảy! Bốn là như nước, không chỉ là chẳng cháy, ngược lại còn có thể dập lửa; đổ vào trong nồi, niêu, còn có thể bốc hơi. Năm là như hư không, thiêu đốt bất cứ cách nào, Thể của nó vẫn như như, mà cũng chẳng cần diệt, hành tướng sẽ tự diệt. Để bình tâm, hãy nên quán như thế”.
(Chánh văn) Bất chương nhân đoản, bất huyễn kỷ trường.
(正文)不彰人短,不衒己長。
(Chánh văn: Không phơi bày khuyết điểm của người khác, không khoe khoang ưu điểm của chính mình).
Người ta có những nhược điểm, như nghe tên cha mẹ của họ, tai có thể nghe, nhưng miệng chớ nên nói. Nhưng miệng vốn đã chẳng nên nói, mà tai cũng chớ nên nghe, sẽ càng cao hơn. Nói chung, ai mà chẳng có nhược điểm; hễ phô bày ra, ắt sẽ chẳng tránh khỏi bị lan truyền. [Như vậy thì] tiếng tăm [của người ấy] sẽ bị giảm sút, mà họ còn hành xử khó khăn, lỗi ấy sẽ do ai gánh vác vậy? Nếu chẳng phải là kẻ tiểu nhân không hề kiêng nể gì, sẽ không làm như thế. Ta có sở trường, sẽ giống như tài sản của người buôn bán giỏi, giấu kín thì tốt, chứ để lộ ra sẽ gặp nguy. Nếu là người có sở trường, ắt phải ẩn tài, tu thân dưỡng tánh, sửa đổi cho ngày càng tốt đẹp hơn, sau đấy mới có thể thành tựu đức hạnh. Lão Tử nói: “Thịnh đức dung mạo nhược ngu” (Bậc đức dầy dáng vẻ như kẻ ngu). Tử Tư[65] nói: “Ám nhiên nhật chương, thánh huấn chiêu nhiên” (Đạo đức của bậc quân tử tuy ẩn giấu sâu kín mà ngày càng tỏ lộ, thánh nhân đã giáo huấn rành rành). Mọi người hãy nên tự phản tỉnh.
Thời Châu, Sở Trang Vương cùng quần thần dự dạ yến. Đuốc bị tắt, có kẻ say kéo áo mỹ nhân. Mỹ nhân dứt đứt giải mũ của kẻ ấy, tố cáo với vua. Vua bảo: “Ta cho mọi người uống say, mà lại muốn hiển lộ lòng trinh tiết của phụ nữ hay sao, ta chẳng làm!” Bèn dặn kẻ hầu đừng thắp đèn, truyền lệnh: “Kẻ uống rượu với quả nhân mà không dứt đứt giải mũ sẽ chẳng vui”. Quần thần đều dứt đứt giải mũ, tận tình vui say rồi về. Sau này, lúc vua giao tranh với nước Tấn, thấy một người tận lực chiến đấu. Đấy chính là người khi trước [đã bị mỹ nhân] dứt đứt giải mũ vậy!
Đời Tống, Hàn Kỳ làm quan tại Trung Thư Tỉnh đã lâu. Hễ thấy có thư từ, sớ tấu công kích những lỗi xấu ẩn kín của người khác, đều tự tay phong kín, chẳng cho kẻ khác thấy. Vương Tố làm gián quan, nói: “Nhân tài khó được! Khi không bận chuyện gì, hãy vì triều đình yêu tiếc [nhân tài], chớ nên hạch sách những điều ẩn giấu riêng tư của kẻ khác, phơi bày khuyết điểm của họ”. Trình Minh Đạo làm Ngự Sử, tâu với vua: “Sai thần bù đắp lỗi lầm thì được. Nếu muốn thần tìm tòi, bới móc ưu khuyết điểm của những bầy tôi khác, để được tiếng là kẻ cương trực, thần chẳng thể làm được”. Từ Văn Trinh đãi khách ăn tiệc. Một vị khách lấy cái chén bằng vàng giấu vào trong mũ. Kẻ hầu tìm kiếm cái chén. Ông nói: “Đã cất rồi”. Kẻ ấy say rượu, làm rớt mũ, chén rơi xuống đất. Ông giả vờ chẳng biết, [nhặt chén] bỏ vào trong tay áo kẻ ấy. Văn Trưng Minh tánh chẳng thích nghe kể lỗi người khác. Hễ thấy có kẻ sắp nói [khuyết điểm] của kẻ khác, bèn khéo léo lái sang chuyện khác. Mấy vị ấy giữ lòng trung hậu, [cho nên họ] hưởng lộc to lớn, là những bậc danh thần, đấy là chuyện đúng lẽ vậy!
Điền Tễ cậy tài, cay nghiệt, thường thích bình phẩm, chê bai, khích bác khuyết điểm của các bậc thánh hiền thuở trước và những người nổi danh đương thời. Sau khi mạng chung, do nghiệp nhân ấy, địa phủ hạ lệnh mỗi ngày có ba con rắn và hai con rết chui ra, chui vào bảy lỗ. [Chịu phạt] tròn một năm, bèn thọ sanh làm thân nữ. Ông ta báo mộng cho vợ như vậy. Trương Củng Thần nói: “Chớ dễ duôi bác bỏ điều thiện của kẻ khác. Chớ dễ dãi tin lời kẻ khác. Chớ dễ dãi khiến cho kẻ khác đắc ý. Chớ dễ ngươi bàn luận khuyết điểm của kẻ khác”. Đấy đều là phương cách để tự giữ lòng trung hậu. Chuyện phơi bày khuyết điểm của người khác chính là căn bản của sự khắc bạc, gian hiểm. Huống hồ Điền Tễ là kẻ hủy báng thánh hiền, há cõi âm chịu khoan dung, chẳng tru lực ư?
Đời Tống, Âu Dương Tu giỏi văn chương, thường là tiếp khách bèn nói nhiều về chuyện triều chánh, chẳng nhắc tới văn chương. Thái Tương giỏi việc cai trị, mỗi khi tiếp khách, bàn nhiều về văn chương, chẳng nhắc tới chánh sự. Hai ông đều khéo náu mình, rốt cuộc được nổi danh, đều quý hiển tột bậc!
Đời Đường, trong niên hiệu Vĩnh Thuần[66], Lư, Lạc, Dương, Vương[67] đều do văn chương mà danh tiếng nổi như cồn, mọi người đều nghĩ những người ấy sẽ quý hiển. Bùi Hành Kiệm gặp họ, bèn nói: “Kẻ sĩ có thành tựu cao xa thì trước hết phải xét độ lượng của họ rồi mới xét đến tài văn chương. Hạng người như Vương Bột tuy có tài văn chương, nhưng bộp chộp, lộ vẻ nông cạn, há có phải là hạng người được hưởng tước lộc ư? Chàng Dương hơi trầm tĩnh, nếu có thể chết an lành là đã may rồi”. Về sau, quả đúng như lời ông Bùi đã nói. Tài năng chẳng bằng học thuật, khí tiết chẳng bằng đức lượng, văn chương chẳng bằng cách cư xử. Người xưa đã nói rõ ràng. Vì thế, bậc quân tử chẳng khoe khoang sở trường.
Đời Hậu Hán, Thôi Viện có bài minh bên cạnh chỗ ngồi như sau: “Đừng kể lỗi người khác, chính mình chớ cậy tài. Bố thí đừng nghĩ nhớ. Được thí, chớ nên quên. Tiếng tăm chẳng đáng chuộng. Lòng nhân làm chuẩn mực, nghĩ kỹ rồi mới làm. Bị gièm báng quản chi? Luôn giữ danh hợp thật. Ngu vụng hành chân thật, là hạnh thánh nhân hành. Uế ô chẳng vẩn đục, bề ngoài dường tăm tối, trong đầy ắp quang minh. Bề ngoài dường nhu nhược, Lão Tử từng dạy răn, chớ nên quá kiên cường. Chí bỉ phu cứng cỏi, dần dà sẽ khó lường[68]. Nói năng luôn cẩn trọng, ăn uống vừa phải thôi. Biết đủ, lành khôn ngằn. Nếu hành xử kiên nhẫn. Lâu ngày tự thơm danh”.
Trong thiên sách Khiêm Đức [thuộc bộ Liễu Phàm Tứ Huấn] của Viên Liễu Phàm đời Minh có đoạn:
– Kinh Dịch chép: “Thiên đạo khuynh doanh nhi ích khiêm. Địa đạo biến doanh nhi lưu khiêm. Quỷ thần họa doanh nhi phước khiêm. Nhân đạo ố doanh nhi háo khiêm. Cố Khiêm chi nhất quái, lục hào giai cát” (Đạo trời khiến cho cái quá đầy đủ bị hao bớt, tăng thêm cái khiêm hư. Đạo đất khiến cho cái tròn đầy bị biến đổi, khiến cho cái khiêm hư được thêm tươi nhuận. Quỷ thần giáng họa cho cái tròn đầy, tăng phước cho kẻ khiêm hư. Đạo người thì ghét cái tròn đầy, chuộng khiêm. Vì thế, một quẻ Khiêm cả sáu hào đều tốt)[69]. Sách Thượng Thư chép: “Mãn chiêu tổn, khiêm thọ ích” (Tự mãn sẽ chuốc lấy tổn hại, khiêm hư sẽ được lợi ích).
Tôi đã nhiều lượt cùng các ông đi thi, thường thấy kẻ hàn sĩ sắp hiển đạt, ắt có dáng vẻ khiêm cung đáng mến. Năm Tân Mùi, tôi lên kinh đô dự thi, mười người cùng quê ở Gia Thiện với tôi, chỉ có ông Kính Vũ Đinh Tân trẻ tuổi nhất, tột bậc khiêm hư. Tôi bảo ông Phí Cẩm Pha: “Năm nay, huynh ấy ắt thi đậu”. Ông Phí hỏi: “Huynh dựa vào đâu để thấy?” Tôi đáp: “Chỉ có người khiêm hư sẽ được phước. Huynh hãy xem trong mười người, có ai khiêm cung, thận trọng, chẳng dám giành đi trước người nào như Kính Vũ hay không? Có ai cung kính, thuận thảo, cẩn thận, khiêm nhường, biết nể nang người khác như Kính Vũ hay không? Có ai bị nhục mạ mà chẳng đáp, nghe lời gièm báng mà chẳng tranh cãi như Kính Vũ hay không? Người có thể như thế, ắt được trời, đất, quỷ thần gia hộ, [công danh] há chẳng phát ư?” Đến khi yết bảng, quả nhiên ông Đinh thi đỗ.
Năm Đinh Sửu, tôi ở kinh đô, ở chung với Phùng Khai Chi, thấy ông ta khiêm hư, luôn giữ dáng vẻ ôn hòa, đại khái là đã được huân tập từ bé. Lý Tễ Nham đúng là bạn tốt. Khi đối trước những lời lẽ công kích thị phi, chỉ thấy ông giữ vẻ bình thản, chịu đựng, chưa hề trả treo một tiếng nào! Tôi bảo ông ta: “Phước thì có sự khởi đầu của phước; họa có sự khởi đầu của họa. Nếu tâm thật sự khiêm cung, ắt trời sẽ giúp cho. Năm nay, anh chắc đậu”. Đúng như thế đó.
Ông Dụ Phong Triệu Quang Viễn người huyện Quán, tỉnh Sơn Đông, đi thi Hương từ tuổi thiếu niên, đã lâu mà chẳng đậu. Cha ông ta làm Tam Doãn[70] huyện Gia Thiện. Ông theo cha đến nhiệm sở. Do hâm mộ Tiền Minh Ngô, cầm văn chương [của chính mình] đến gặp, Minh Ngô sổ toẹt những bài văn ấy. Ông Triệu không chỉ chẳng giận, mà còn tâm phục, mau chóng sửa đổi. Năm sau bèn thi đỗ.
Năm Nhâm Thìn, tôi lên kinh đô chầu vua, gặp ông Hạ Kiến Sở, thấy ông ta bẩm tánh nhũn nhặn, nhún nhường, khiêm tốn hơn người. Tôi trở về nói bạn bè: “Trời sẽ giúp cho người ấy. Trước khi phước phát khởi, đã phát trí huệ trước. Trí huệ đã phát thì người hời hợt sẽ tự chắc thật, kẻ phóng túng sẽ tự thâu liễm. Kiến Sở ôn hòa, hiền lành như thế, trời sẽ phát khởi cho ông ta vậy”. Đến khi yết bảng, quả nhiên ông ta thi đỗ.
Trương Úy Nham ở Giang Âm, học rộng, giỏi văn chương, nổi tiếng trong giới nghệ thuật. Năm Giáp Ngọ, ông sang Nam Kinh thi Hương, ở nhờ tại một ngôi chùa. Hôm yết bảng chẳng có tên ông, bèn ầm ĩ chửi bới khảo quan, chắc là mù mắt cả rồi! Khi ấy, có một đạo nhân ở bên cạnh mỉm cười. Họ Trương bèn trút cơn giận sang đạo nhân. Đạo nhân nói: “Văn chương của tướng công ắt là chẳng hay!” Ông Trương càng giận dữ, vặc lại: “Ngươi chẳng đọc văn của ta, làm sao biết là không hay?” Đạo nhân nói: “Tôi nghe nói viết văn thì quý ở chỗ tâm hòa khí bình. Nay tôi nghe Ngài chửi bới, bất bình quá đáng, văn làm sao hay khéo cho được?” Ông Trương bất giác khuất phục, nhân đó bèn thỉnh giáo. Đạo nhân nói: “Để thi đậu, hoàn toàn phải cậy vào mạng. Mạng chẳng thể đậu, dẫu văn hay khéo cũng vô ích, chính mình cần phải tự chuyển biến”. Ông Trương thưa: “Nếu là mạng, chuyển biến như thế nào?” Đạo nhân nói: “Trời tạo mạng, người lập mạng. Hãy nỗ lực làm lành, tích lũy âm đức rộng rãi, có phước gì chẳng thể cầu được!” Họ Trương thưa: “Tôi là gã học trò nghèo, có thể làm gì được?” Đạo nhân nói: “Thiện sự lẫn âm công đều do tâm tạo. Thường giữ tấm lòng ấy, công đức khó lường. Nếu như một mực khiêm hư, hoàn toàn chẳng tốn tiền. Cớ sao ông chẳng phản tỉnh, lại chửi quan giám khảo ư?” Do vậy, ông Trương tự giữ thái độ nhún nhường, mỗi ngày một thêm tu tập điều lành, đức ngày càng thêm dầy.
Năm Đinh Dậu, [ông Trương] mộng thấy đến một căn nhà to lớn, được ban cho một quyển sổ, trong ấy có nhiều hàng bỏ trống. Ông hỏi người bên cạnh, họ bảo: “Đấy là danh sách những người sẽ thi đỗ khoa này”. “Vì sao có nhiều chỗ chẳng có tên?” Đáp: “Cõi âm cứ ba năm khảo duyệt danh sách thi đậu một lần. Phải là kẻ tu tập, tích lũy âm đức, chẳng phạm lỗi thì mới có tên. Như những chỗ khuyết danh, đều là những kẻ trước kia đáng lẽ thi đỗ, do mới có hành vi xấu xa, nên bị gạch tên đi”. Sau đó, [người ấy] chỉ vào một hàng bảo: “Ba năm qua, ngươi giữ mình khá cẩn thận, có lẽ sẽ được thêm tên vào chỗ này. Hãy nên biết tự yêu thương chính mình”. Năm ấy, quả nhiên ông đỗ thứ một trăm lẻ năm.
Do vậy, ta thấy trên đầu ba thước, chắc chắn có thần minh. Hướng đến điều lành, tránh khỏi điều xui, chắc chắn là do ta. Hãy nên giữ vững tấm lòng, khắc chế hành vi, chẳng đắc tội mảy may với trời, đất, quỷ thần. Hãy trống lòng, nhún nhường, khiến cho trời, đất, quỷ thần lúc nào cũng thương ta thì mới có nền tảng để hưởng phước. Những kẻ ngạo mạn ắt chẳng phải là bậc thành tựu cao xa! Dẫu họ có dịp rạng mày nở mặt, cũng chẳng thể hưởng thụ được. Những người hơi hiểu biết, ắt sẽ chẳng nỡ lòng tự thâu hẹp tâm lượng, tự cự tuyệt phước ấy. Huống chi, do khiêm cung, sẽ có thể tiếp nhận sự giáo hóa, đạt được sự tốt lành vô cùng. Nhất là những kẻ chú trọng tu tập đức hạnh, ắt chớ nên thiếu sót chuyện này!
Cổ nhân nói: “Kẻ có chí nơi công danh, ắt sẽ đạt được công danh. Kẻ có chí nơi phú quý, nhất định sẽ được phú quý”. Người có chí như cây có rễ, hãy lập vững chí ấy, niệm nào cũng đều khiêm hư, dẫu là chuyện rất nhỏ nhặt, luôn tạo thuận tiện cho những kẻ khác, sẽ tự nhiên cảm động trời đất. Tạo phước từ nơi ta! Nay những kẻ mong cầu thi đỗ, thoạt đầu chưa hề có chí chân thật, bất quá, nhất thời hứng chí mà thôi. Hễ hứng chí bèn cầu, hết hứng bèn thôi. Mạnh Tử nói: “Vương chi hảo nhạc thậm, Tề kỳ thứ kỷ hồ?” (Nhà vua yêu thích âm nhạc quá mức, nước Tề sẽ có thể hưng thịnh ư?)[71] Đối với công danh, tôi cũng có cách nhìn như thế!
(Chánh văn) Át ác dương thiện.
(正文)遏恶揚善。
(Chánh văn: Ngăn chặn điều ác, tuyên dương điều lành).
Những điều ác của con người vốn chẳng phải do bản tánh tạo thành. Do vì tập khí nhiễm đắm đã sâu mà [tội ác] mênh mông, không có cách cứu vãn! Hoặc là biết rõ mà cố phạm, hoặc do không biết, trót làm quấy. Xét theo cái đã hình thành, sẽ là tạo ra tội lỗi ngập trời, thế mà cái gốc thoạt đầu, chỉ là vì một niệm sai lạc! Nhưng trong lúc đêm thanh, ngày rạng, ai nấy đều sẵn có [bản tánh thiện lương]. Hãy nên trong lúc ý niệm vừa mới sai lầm, ác niệm vừa mới chớm, bèn rát miệng nhắc nhở, dốc cạn sức ngăn chặn, có ai vô tâm [đến nỗi] chẳng thể sửa hạnh hướng theo điều lành ư? Dẫu cho bất hạnh, tội ác đã to rành rành, ta vẫn có thể chí thành cảm hóa. “Át” (遏) là ngăn dứt, chưa chắc là thiện tâm chẳng ồ ạt sanh khởi, phát hiện, mau chóng gội sạch ngàn điều tội khiên. Con người chẳng phải là thánh hiền, há có thể mọi chuyện đều là thiện? Nếu họ có một lời nói, một hành vi đáng để noi theo, liền khen ngợi, truyền nói, ngõ hầu người đã lành sẽ kiên định tín tâm, mài giũa [chính mình] hòng thành tựu. Kẻ chưa lành sẽ nghe biết, bèn dấy lòng hâm mộ, há chẳng phải là thuận theo mạng trời ư?
Vu Thiết Tiều nói: – “Át” là dùng sức để ngăn cấm; không chỉ là vì họ mà ẩn giấu, không nói tới. “Dương” (揚) là xưng nói tột bậc, khuyên dụ, nhắc nhở chẳng tiếc lời. Đấy chính là hành vi được thực hiện nơi mặt Sự của người thương xót kẻ ác, yêu chuộng điều lành vậy.
Đạo Giáo nói: “Át ác dương thiện” (Ngăn chặn điều ác, tuyên dương điều lành). Nhà Phật nói: “Chỉ ác hành thiện” (Ngăn dứt điều ác, làm lành). Nho Giáo nói: “Ẩn ác dương thiện” (Ẩn giấu điều ác, tuyên dương điều lành). Tam giáo đều nói như vậy, như thốt ra từ cùng một miệng. Do vậy biết tâm thể của thánh nhân rỗng rang, linh thông, thấu triệt, chẳng sót lại mảy may dục vọng nào, như gương sáng soi hình dáng, hễ soi bèn hiện, hễ hiện bèn hóa. Vì thế, thấy điều ác bèn tự tiêu mất; thấy điều lành bèn có thể phát huy rộng rãi. Ngăn dứt hay tuyên dương, không gì chẳng nhằm khôi phục tánh thể vốn sẵn có của chúng sanh đó thôi.
Ngu Thuấn ở bến sông, thấy những kẻ đánh cá tranh giành hồ sâu, đầm sâu. Kẻ già yếu đánh cá ở bãi cạn hoặc nơi nước chảy xiết. Ông xót xa, đau lòng, cũng đến đánh cá. Thấy kẻ tranh giành bèn ẩn giấu lỗi của họ, chẳng bàn tới. Thấy có người nhường nhịn, ắt ca ngợi, bắt chước theo. Một năm sau, [những kẻ đánh cá] đều nhường hồ sâu, đầm sâu [cho người già yếu]. Đại Thuấn tán trợ người khác làm lành, chỉ là một chút tâm ý vui sướng, cổ vũ kẻ khác đó thôi. Vì thế, thiện lượng vô cùng. Đấy là bậc thánh nhân, [kẻ bình phàm] chẳng thể sánh bằng được! Nay tôi có một lời để kẻ hạ căn học theo hòng thực hiện, sẽ có thể đạt cao hơn. Sau đấy mới có thể ngăn dứt điều ác của kẻ khác, tuyên dương điều lành của người ta; sau đó mới có thể khuyên người khác làm lành.
(Chánh văn) Thôi đa thủ thiểu.
(正文)推多取少。
(Chánh văn: [Khi phân chia], nhường cho người khác phần nhiều, giữ cho mình phần ít).
Những điều được nói trong câu này rất rộng. Như anh em chia tài sản, bạn bè trao tiền tài v.v… Tình nghĩa anh em thuộc về thiên luân, tiền tài là vật ngoài thân, càng phải nên nhường nhau. Kinh Di Giáo dạy: “Đa dục chi nhân, đa cầu lợi cố, khổ não diệc đa. Thiểu dục chi nhân, vô cầu, vô dục, tắc vô thử hoạn. Nhược dục thoát chư khổ não, đương quán tri túc. Tri túc chi pháp, tức thị phú lạc an ổn chi xứ. Tri túc chi nhân, tuy ngọa địa thượng, do vi an lạc. Bất tri túc giả, tuy xử thiên đường, diệc bất xứng ý” (Kẻ nhiều ham muốn, do cầu lợi nhiều, khổ não cũng nhiều. Kẻ ít ham muốn, chẳng mong cầu, chẳng ham muốn, sẽ không có nỗi lo ấy. Nếu muốn thoát các nỗi khổ não, hãy nên quán biết đủ. Pháp biết đủ chính là chỗ để giàu, vui, an ổn. Kẻ biết đủ dẫu nằm trên mặt đất vẫn an lạc. Kẻ chẳng biết đủ, dẫu ở trên cung trời vẫn chẳng vừa lòng). Vì thế biết là người có thể nhường nhiều, lấy ít, tự nhiên tâm địa an bình, chẳng bị ngoại cảnh quấy nhiễu, thường hành tri túc.
Vu Thiết Tiều nói:
– Tài (tài sản, tiền của) là nguyên khí của trời đất. Nghiêu, Thuấn cai trị thiên hạ nhằm [làm cho dân chúng] tăng thêm tài vật. Đạo để bình trị thiên hạ chính là [biết cách] quản lý tài chánh [chánh đáng]. Người sống trong cõi đời, chẳng có tiền tài sẽ không sống được! Chẳng có ai không yêu mến tiền tài, chẳng có ngày nào không sử dụng tiền tài. Đấy là vật ắt chẳng thể thiếu được! [Đối với mỗi cá nhân], vật này ắt cũng chớ nên nhiều, nhưng đối với tánh cách sử dụng tiền tài, mỗi người có sự thiên chấp riêng. Kẻ ăn xài phung phí, vung tay ngàn vàng! Kẻ keo kiệt chẳng nhổ một sợi lông! Kẻ liêm khiết từ chối [tiền bạc dâng tặng] trong đêm tối. Kẻ tham lam ngang ngược chụp giựt giữa ban ngày ban mặt. Phàm kẻ phung phí hay liêm khiết đều sẽ nổi tiếng, nhưng cũng chớ nên quá lố. Phung phí quá lố, ắt đầu giường hết sạch tiền, chẳng thể sống tiếp! Kẻ liêm khiết quá mức, ắt sáng chiều túng thiếu, cúi ngửa đều ôm lòng oán thán[72]. Nếu keo kiệt và tham lam, sẽ càng sai lệch xa hơn. Kẻ keo kiệt kiến thức nông cạn, hèn kém, coi những thứ nhỏ nhặt như bảo bối, giống như ong giữ mật, như đứa trẻ ôm chặt bánh, chẳng chịu chia cho kẻ khác mảy may, luôn bảo vệ những thứ mình sở hữu. Vì thế, người khác chán ghét, mà trời chẳng tức giận sâu xa ư? Kẻ tham lam ngang ngược cứ muốn đạt được những thứ chính mình vốn không có, chính là [do lòng ham muốn] chẳng có giới hạn, như cá nuốt thuyền, như rắn nuốt voi. Anh em tranh đấu, bạn bè tranh chấp, thù hận, kẻ cường tặc giết người, bọn tham quan phạm pháp, lũ gian thần bán nước, đều là do một niệm tham mà ra! Thiên sách này giảng rộng, răn nhắc nỗi họa hại do tham tài, chẳng phải chỉ là đôi ba lượt. Răn nhắc mọi người đừng lấy bừa bãi, chứ dạy họ thẳng thừng đừng lấy, ắt sẽ chẳng thể! Vì thế, dạy hai chữ “đa thiểu” (nhiều và ít) nhằm khiến cho họ sẽ tùy phần châm chước.
Mong đạt được tiền tài theo lẽ chánh đáng, số lượng nhiều hay ít, vốn chẳng có một tiêu chuẩn nhất định. Kẻ nghèo thì một lạng đã chẳng phải là ít, kẻ giàu thì vạn lạng chẳng nhiều. Người liêm khiết đáng lẽ được trăm lạng, thế mà được mười lạng, chẳng cảm thấy là ít. Kẻ tham [đáng lẽ] được trăm mà đạt tới cả ngàn, chẳng bảo là nhiều! Chỉ nên bình tâm, xét theo lẽ công bằng, cân nhắc số lượng ta đáng nên được, để khỏi lấy quá lố, tức là chọn theo cách “nhận lấy phần ít”. Thế nhưng, lòng người lo ít mong nhiều là chuyện thường tình; chỉ nên tùy duyên, chẳng tranh đua, chính mình chẳng làm ác. Nếu khiến cho [kẻ khác] thấy [chính họ] có thể đạt được nhiều hơn, đâm ra họ sẽ nhường nhịn, há chẳng phải là trái nghịch thường tình ư? Ôi! Nói đến nguồn gốc của tiền tài, cội nguồn của chúng không chỉ là một. Tiền tài có thể đạt được trước mắt, chưa chắc chẳng phải là thứ vốn sẵn có trong mạng của ta; nhưng những thứ đã được ngấm ngầm định sẵn trong mạng, rốt cuộc sẽ không có cách nào khảo sát, tính toán được! Vạn nhất, đó chẳng phải là thứ vốn sẵn có trong mạng của ta, [những món tiền tài ấy] sẽ như thịt nhiễm nấm mốc, rượu ngâm lông chim Trầm, há có thể dùng để no lòng ư? Vì thế, không gì bằng nhường nhịn cho nhau, đấy chẳng phải là do trong mạng sẵn có mà nhường vậy. Bởi đó, có thể tránh khỏi lỗi lầm. Dẫu là trong mạng đáng nên có, mà lầm lẫn nhường [cho người khác], [món tiền tài ấy] nhất định sẽ theo đường khác trở lại. Hãy cẩn thận, chớ nên không thể nhẫn, để rồi làm chuyện càn rỡ ngay trước mắt. Chuyện này đối với người phú quý còn dễ, chứ đối với kẻ nghèo hèn sẽ khó khăn hơn. Biết khó mà tận lực làm, khiến cho quỷ thần soi thấu tấm lòng chẳng dám càn rỡ mảy may ấy, ắt sẽ là tuy ở trong hoàn cảnh gian nan, nhưng chẳng đến nỗi khổ sở vì không thể sống được. Tin cho thật, giữ cho vững, ắt sẽ giữ theo đạo lý “nhận lấy phần ít”. Đấy là chính là phương hướng để làm giàu vậy!
Đời Tống, Từ Tích chia tài sản với chú Hai. Trước hết, mời chú Hai lấy những gì họ muốn. [Ông ta lấy xong], chỉ còn sót một rương sách, hai gian nhà tồi tàn. Từ Tích vui vẻ nhận lấy.
Tại Từ Khê, có hai người bạn chơi thân với nhau. Ông Giáp tìm được một chỗ dạy học trả tiền lương chín lạng, ông Ất cũng tìm được chỗ dạy học, tiền lương chỉ có sáu lạng. Ông Giáp vui mừng bảo: “Hai người chúng ta trong vòng năm sau đều chẳng phải lo lắng [vì chuyện chi tiêu túng thiếu trong nhà]”. Ông Ất nói: “Huynh chỉ có tôn tẩu (chị dâu) ở nhà, chín lạng dư dùng. Đệ thì trên hãy còn có cha mẹ, sáu lạng vẫn chẳng đủ!” Ông Giáp nói: “Đúng thế!” Bèn nhường chỗ dạy học của chính mình cho ông Ất, còn mình đến chỗ dạy học của ông Ất. [Ông Giáp] sau khi đã đến chỗ dạy học, nhặt được một quyển sách rách nát dưới gầm giường, [trong ấy] có chép mấy bài thuốc ngoại khoa. Học trò nói [sách ấy] do vị thầy trước đó bỏ lại. Mùa Đông, ông trở về nhà. Thấy mấy người đầy tớ dáng vẻ rất lo lắng, hốt hoảng thưa hỏi: “Ở nơi đây có [thầy lang chữa bệnh] ngoại khoa hay không?” Hỏi thăm, họ đáp: “Chủ nhân chúng tôi từ đất Mân (Phước Kiến) đến Sơn Đông làm Bố Chánh, bỗng lưng bị nổi nhọt, đau đớn gần chết. Đã ba ngày rồi!” Ông Giáp nghĩ tới phương thuốc khi trước, đúng là phù hợp chứng bệnh này. Do vậy, theo họ đến [xem bệnh]. Dựa theo phương thuốc, dùng ngải để cứu[73], quả nhiên lành bệnh. Quan Bố Chánh rất mừng rỡ, trả công một trăm lạng. Ông nói đến chuyện do nhường chỗ dạy học mà tìm được bài thuốc, quan Bố Chánh càng hết sức tán thưởng. Khéo sao, huyện lệnh Từ Khê là niên điệt[74] của ông ta, [quan Bố Chánh] bèn tận lực tiến cử. [Do đó, ông Giáp] được đề bạt, vào học trường huyện. Ôi! Anh em ruột còn tranh giành tài sản, huống hồ bạn bè ư? Nghĩ bạn bè chẳng có tiền nuôi cha, bèn nhường nhiều, lấy ít, ba lạng tuy ít, tình nghĩa còn [nhiều] hơn một ngàn cỗ xe. Rốt cuộc, danh lẫn lợi đều đạt được, đều là do trong một niệm có thể nhường mà ra. Những kẻ sốt sắng tranh lợi, hễ động đến [lợi ích] liền trở mặt, xem đến chuyện này, lẽ nào chẳng hổ thẹn ư?
(Chánh văn) Thọ nhục bất oán.
(正文)受辱不怨。
(Chánh văn: Bị nhục chẳng oán).
Có chuyện sỉ nhục đưa đến, hãy nên tự hỏi: “Lỗi ở nơi ta ư?” [Nếu đúng như vậy], đáng nên bị nhục! Lỗi nơi người khác, thì chẳng đáng coi là nhục. [Kẻ đó] làm nhục ta, ta vẫn chẳng nhục. Không chỉ là chẳng nên oán, mà thật ra, chẳng có gì đáng nên oán! Những bậc đại trí đại dũng từ xưa, ắt có thể nhẫn những điều sỉ nhục nhỏ và những nỗi phẫn hận nhỏ thì mới có thể gánh vác đại sự, thành công to lớn. Kẻ tâm lượng hạn cuộc, thiên vị, nông cạn, há biết nổi ư?
Đời Minh, Nhan Mậu Do là người xứ Bình Hồ, răn đệ tử rằng:
– Phàm là kẻ chẳng thể nhẫn, chắc chắn sẽ chẳng biết nỗi khó khăn trong chữ Nhẫn. Chẳng đối chiếu, so sánh giữa hai niệm thiện và ác, sẽ trọn chẳng biết sự mầu nhiệm của chữ Nhẫn. Kẻ nào nếu chẳng thể nhẫn nhục chịu khổ, dẫu có thiện tâm, nhưng bị kích động là hỏng, vừa bị thử thách liền bị đọa. Trời trao trách nhiệm to lớn cho kẻ nào, ắt sẽ tác động đến tánh nhẫn trong tâm kẻ ấy, chính là vì muốn cho ai nấy đều vượt được cái ải này! Nói chung, kẻ ra sức giúp đỡ người khác, chẳng ngại bị sân hận, giận dữ. Kẻ mưu tính [tạo điều lợi ích] cho người khác, chẳng nề hà bị oán hận, trách móc. Đảm nhiệm mọi chuyện thì cũng phải nhận luôn sự oán hận, hễ khuyến hóa bèn chẳng ngại bị chê trách. Có tấm lòng khoan dung, nhân hậu, chắc là sẽ bị cười chê, khinh miệt. Đấy là những thứ luôn đi kèm theo! Chẳng biện định rõ căn nguyên này, sẽ chẳng thể là kẻ hành thiện được!
Đời Tống, Lý Hàng làm Tể Tướng, có gã cuồng sinh (học trò ngông cuồng) chặn ngựa, dâng thư, [trong thư ấy] chê trách đủ mọi khuyết điểm của ông ta. Ông Lý từ tốn, cảm tạ: “Để tôi trở về đọc kỹ”. Gã cuồng sinh tức giận, châm biếm: “Ở địa vị cao, chẳng thể cứu tế thiên hạ, lại chẳng thoái ẩn, trở ngại đường tiến thân của bậc hiền năng đã lâu rồi, lòng há chẳng thẹn ư?” Ông ngay lập tức ở trên ngựa rất cung kính, rất lo sầu nói: “Đã nhiều phen xin về, hiềm rằng chúa thượng chưa chấp thuận, chẳng dám tự tiện [từ quan]”. Trọn chẳng có sắc mặt giận dữ.
Đời Tống, Văn Ngạn Bác làm Thủ Tướng[75]. Quan ngự sử Đường Giới đàn hặc Văn Ngạn Bác lúc làm tri phủ Ích Châu đã cho làm những tấm gấm xinh đẹp để tặng cho bọn phi tần trong cung hòng [lo lót, vận động] nắm quyền [tể tướng], xin vua hãy bãi chức [Văn Ngạn Bác]. Vua tức giận, toan đày ông ta đi xa. Khi ấy, Ngạn Bác ở trước mặt vua, Đường Giới quở trách: “Ngạn Bác hãy nên tự phản tỉnh. Nếu có thì chớ nên giấu giếm”. Ngạc Bác bái tạ chẳng ngớt. Vua hết sức tức giận, đày Đường Giới làm Biệt Giá ở Anh Châu, bãi chức [Tể Tướng của Ngạn Bác], sai Ngạn Bác đi làm tri phủ Hứa Châu. Về sau, Ngạn Bác được phục chức Tể Tướng, tâu với vua: “Đường Giới làm Ngự Sử, nói chuyện của thần, phần nhiều là căn bệnh của bậc trung thần. Trong ấy, tuy có chuyện nghe lầm tin đồn đãi, nhưng thuở ấy [ông ta] đã bị trách phạt quá sâu”. Vua bèn triệu [Đường Giới] về trông Gián Viện (Ngự Sử Đài). Người đương thời gọi Ngạn Bác là bậc trưởng giả. Ông làm Thái Sư, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự trải ba triều vua Anh Tông, Thần Tông, và Triết Tông, được cử làm người đứng đầu các vị Tể Tướng (Thủ Tướng), được phong làm Lộ Quốc Công. Ông làm Tể Tướng suốt năm mươi năm, tiếng tăm vang rền bốn biển, thọ chín mươi hai tuổi mới mất.
Đời Tống, Phú Bật giáo huấn đệ tử: “Một chữ Nhẫn chính là cửa ngõ dẫn vào các điều tốt đẹp. Nếu ngoài thanh liêm và tiết kiệm, lại thêm một chữ Nhẫn, sẽ chẳng có chuyện gì không làm được”. Thuở bé, có kẻ chửi ông, người ta bảo: “Chửi mày đấy!” Phú Bật thưa: “Sợ là chửi người khác đấy chớ”, họ bảo: “Nó gọi tên họ mày mà chửi mà”. Phú Bật đáp: “Thiên hạ há chẳng có người trùng tên, trùng họ ư?” Kẻ chửi bới nghe nói như vậy, hết sức hổ thẹn.
Ông Nhan Quang Trung nói: “Chữ Nhẫn khó khăn nhất. Có thể chịu đựng, ắt phẩm đức và tâm lượng to lớn. Nếu như chẳng thể nhẫn, tức là tánh khí kiêu quý đã ngập tràn!” Người xưa có thơ rằng: “Thiếu niên khố hạ an vô ngỗ, lão phụ di biên ngạc bất bình. Nhân sanh nhược phi quan tuế mộ, Hoài Âm hà tất giảm Văn Thành” (Thiếu niên luồn đũng sao không bực, ông cụ bên cầu dễ tức thay. Đời người nếu chẳng xem mai hậu, Hoài Âm danh há kém Văn Thành)[76]. Nói chí lý thay! Hàn Tín chịu nhục luồn đũng quần mà thành vương gia, bọn Giáng, Khoái[77] vì hổ thẹn mà chết. Uống đến đầy ứ, tự nhiên sẽ chẳng tăng thêm được nữa!
Bành Củ ở Thai Châu, hiền lành, an tường, khiêm tốn, đã từng ở trọ với một người khác tại một khách điếm. Ông Bành về trước, kẻ ấy mất chiếc dù, cho rằng ông Bành cầm đi, đến nhà ông Bành giận dữ, mắng chửi. Kẻ đó thấy dáng vẻ ông Bành nhũn nhặn, bèn đòi đền tiền theo giá y phục. Ông Bành đúng theo số mà đền cho hắn bỏ đi. Hàng xóm có kẻ cậy mạnh, xâm chiếm đất của ông Bành, ông mặc kệ, chẳng hỏi tới. Về sau, gã hàng xóm gặp chuyện thưa kiện tại cửa quan. Ông Bành lại lo liệu châu đáo cho hắn thoát nạn. Những việc thiện khác rất nhiều. Do không có con, ông đến Tây Nhạc (Hoa Sơn) cầu con, mộng thấy thần bảo: “Do ngươi nhẫn nhục, nhân từ, nhu hòa, nỗ lực thực hiện các thiện sự, lời thỉnh cầu đã được chấp thuận”. Ông bèn sanh ra ba đứa con. Về sau, đất Thục (Tứ Xuyên) gặp cảnh biến loạn, mười phần chết hết chín, riêng cả nhà ông Bành vô sự!
Ông Hạ ở Giang Âm, đang đánh cờ vây với khách. Bỗng có kẻ chạy ùa tới, gào rít: “Chỉ thiếu nhà mày hai lạng tiền lời, vì sao mày hằng ngày sai người tới bức hiếp tao?” Ông chưa kịp đáp, kẻ đó đã chửi ầm ĩ, xô bàn, phá tan cuộc cờ. Ông cười đáp: “Ông muốn xóa nợ chứ gì?” Liền cất bút viết giấy miễn nợ. Người ấy vội vã cảm tạ, bỏ đi. Khách ca ngợi đức dầy của ông. Ông đáp: “Nhẫn là cửa ngõ dẫn đến các điều tốt đẹp. Nói chung, đối với những chuyện ứng phó sự việc và con người trong cõi đời, đều có những chuyện ngang trái xảy đến với ta. Ví như đi trong rừng gai góc, phải đi thong thả, chậm rãi mà thôi, những thứ gai góc ấy cũng chẳng đáng để tức giận vậy. Lại như thuyền rỗng đụng phải ta, hoặc như viên ngói bị gió thổi văng trúng ta, nếu tấc lòng có thể chẳng bực tức, sẽ cởi gỡ nỗi oán. Huống chi người ấy dáng vẻ hung hăng, ăn nói thô lỗ, ắt có chỗ để trông cậy, sợ sẽ gây thành biến cố ngoài ý muốn. Vì thế, tôi khoan dung miễn nợ”. Đến tối, ông được báo là kẻ ấy đã chết trong nhà xí. Hỏi dò cặn kẽ nguồn cơn, bèn biết là kẻ ấy do nợ nần bức bách, không biết làm sao, bèn uống thuốc độc rồi tìm đến chỗ ông Hạ, tính lừa gạt tiền tài của ông. Do cảm tạ sự khoan dung miễn nợ của ông, cho nên hắn chẳng đành lòng lừa gạt, làm hại. Vì thế, vội về tìm phẩn thanh (nước phân lắng trong) để giải độc, nhưng độc tánh bộc phát, chẳng kịp giải độc. Ông bái tạ trời, mọi người đều kính phục. Nếu ông chẳng phải là thường ngày tiêu trừ giận tức, hàm dưỡng sâu xa, há đến lúc ấy sẽ có thể trấn định ư? Do vậy, nhẫn nhục là yếu quyết để tu thân; kế đó, yếu quyết để giàu có cũng là “phải học chấp nhận thua thiệt”.
Đời Minh, Trang Nghị Công Vương Hoằng, tên tự là Công Độ, lúc làm Khai Phủ tại Duy Dương (Dương Châu), có viên quan cấp dưới tên là Đơn X… hành vi thiếu kiềm chế, ông từng quở trách, ngăn chặn. Bỗng ông bị luận tội, [bị triều đình bãi chức, đuổi] về nhà, đi qua nhiệm sở của kẻ ấy. Họ Đơn chực sẵn đưa đón, tặng lương thực rất ân cần. Ông rất cảm tạ sự khoản đãi chân thành ấy, chọn nhận lấy mấy cái vò [đựng thức ăn], vì nghĩ là tương ủ. Mở ra, toàn là phân nhơ! Chẳng lâu sau, sự việc [gán tội ông Vương] được sáng tỏ, ông lại được làm quan. Họ Đơn bỏ trốn, sai người nhà giả vờ phát tang. Có kẻ cừu oán truy tìm tung tích hắn, bắt được hắn, thưa lên ông Vương. Ông chỉ ôn hòa xóa án, tha cho.
Nếu xét theo kinh Niết Bàn, xưa kia có một người, ca ngợi đức Phật là bậc có tướng đại phước đức. Có kẻ hỏi: “Dựa vào đâu để thấy?” Đáp: “Tuổi tác và chí hướng đều đang độ trẻ trung, mạnh mẽ, nhưng chẳng bộp chộp, chẳng nóng nảy, đánh chẳng giận, chửi cũng chẳng tức, chẳng phải là tướng đại phước đức ư?” Người hiện thời hễ gặp lúc ngang trái, chỉ nói: “Những chuyện ấy thành tựu tướng phước đức cho ta, vẻ vang chi hơn?” Bản thân ta có thể bị kẻ khác xâm phạm mà
chẳng so đo, cũng sẽ có thể khuyến hóa khiến cho kẻ ấy giác ngộ vậy!
Trịnh Huyên nói: “Lặng, lặng, lặng! Vô hạn thần tiên từ nay đắc. Tha, tha, tha, ngàn tai muôn họa bỗng tiêu ma! Nhẫn, nhẫn, nhẫn, trái chủ oán gia từ rày ẩn! Thôi, thôi, thôi, công danh trùm đời chẳng tự do”.
(Chánh văn) Thụ sủng nhược kinh.
(正文)受寵若驚。
(Chánh văn: Được sủng ái mà lo sợ).
Được hưởng sự sủng ái vẻ vang, dẫu là xứng đáng được hưởng, cũng nên biết tình thế, biết đủ. Nếu được hưởng sự sủng ái chẳng đáng nên có, hãy nên nghĩ là đáng kinh, đáng sợ. Bởi lẽ, phước chính là họa ngầm ẩn. Mặt trời chính ngọ rồi sẽ xế, trăng tròn đầy rồi khuyết là lẽ cố nhiên! Đối với quân vương, ơn như trời đất, nếu chẳng thật dạ mong báo đền, kẻ bầy tôi há có thể tự an, há chẳng càng thêm kinh sợ ư?
Châu Thành Vương phong Bá Cầm[78] [làm vua] ở nước Lỗ, Châu Công răn dạy:
– Con đừng vì có nước Lỗ mà kiêu ngạo với kẻ khác. Ta nghe nói, đức hạnh rộng lớn, hễ giữ lòng cung kính thì sẽ được vinh hiển. Đất đai rộng rãi, giàu có, giữ đức tánh tiết kiệm thì sẽ yên ổn. Bổng lộc và địa vị cao quý, vẻ vang, hãy giữ lòng khiêm tốn thì sẽ phú quý. Dân đông, quân mạnh, hãy giữ lòng kiêng sợ thì sẽ thường chiến thắng. Thông minh, sáng trí, hãy giữ thái độ như kẻ ngu thì sẽ được lợi ích. Học rộng, nhớ nhiều, hãy giữ thái độ như kẻ hiểu biết nông cạn thì [kiến thức] sẽ càng rộng thêm. Hãy giữ sáu điều ấy, đó đều là những phẩm đức khiêm cung. Đạo trời khiến cho kẻ tự mãn suy sụp, khiến cho người khiêm tốn được tăng ích. Đạo đất sẽ biến đổi [nhằm giảm thiểu] cái tròn đầy để vun đắp cho cái thấp kém hơn. Đạo người thì ghét kẻ tự mãn, ưa chuộng người khiêm tốn. Con hãy thận trọng, đừng vì có nước Lỗ mà kiêu căng đối với kẻ khác.
Học nhân trong hiện thời nếu thật sự có thể nghiền ngẫm lời giáo huấn ấy, ắt lòng kiêu căng, thái độ ngạo mạn sẽ chẳng do đâu mà nẩy sanh, sẽ hưởng vinh dự, ân sủng càng nhiều hơn. Hễ được hưởng sự ân sủng, hãy luôn giữ lòng kinh sợ vậy!
Đời Đường, Sầm Văn Bổn[79] được phong làm Trung Thư Lệnh bèn lộ vẻ lo âu. Mẹ hỏi nguyên cớ, Văn Bổn thưa: “Chẳng có công huân, chẳng phải là bậc lão thần, thế mà được vinh sủng quá phận, địa vị cao, chức trách nặng nề, cho nên con lo sợ”. Ông bảo những người khách đến chúc mừng: “Nay tôi nhận lời chia buồn, chứ không nhận lời chúc mừng”.
Đời Tống, Văn Chánh Công Vương Đán tuổi già, quan chức càng cao. Tới khi đi sứ Triều Tiên, từ trong cung cấm, ngồi xe to ra khỏi cửa kinh thành. Trăm quan đưa tiễn, đua nhau khen ngợi ông được đãi ngộ vinh hiển. Ông nói: “Tôi có ích gì cho đất nước, chỉ cảm thấy bồn chồn, bất an!”
Tư Mã Ôn Công (Tư Mã Quang) gởi thư cho cháu có đoạn: “Gần đây, ta hưởng ân vua, được phong làm Môn Hạ Thị Lang, cả triều đình kẻ đố kỵ vô số. Ta ngu độn, thẳng tính, ở trong [hoàn cảnh] ấy, giống như chiếc lá vàng trong cơn gió dữ, chẳng mấy chốc sẽ rụng. Do vậy, kể từ khi vâng mạng tới nay, chỉ lo sợ, chẳng vui mừng. Các ngươi hãy nên biết ý này!”
Mấy vị ấy do được sủng ái mà lo sợ, nhưng câu nói “nhận lời chia buồn” của ông Sầm đã diễn tả rõ ràng ý đó. Xưa kia, Tôn Thúc Ngao làm lệnh doãn [nước Sở], có một vị lão nhân đến chia buồn như sau: “Do thân được hưởng sự tôn quý mà kiêu căng với kẻ khác, dân sẽ xa lánh. Ở địa vị cao mà tự tiện chuyên quyền, vua sẽ ghét. Bổng lộc trọng hậu mà chẳng biết đủ, sẽ là ở trong cảnh hoạn nạn!” Lại nói: “Địa vị càng cao, lòng càng khiêm tốn. Quan càng to, tánh càng thêm nhũn nhặn. Bổng lộc càng trọng hậu, bèn thận trọng chẳng dám lạm dụng. Ông giữ cẩn thận ba điều ấy, sẽ đủ để cai trị nước Sở”. Ông Sầm đã lãnh hội sâu xa ý chỉ này. Phương cách ứng xử của người có địa vị cao chính là tuân theo lý này.
Đời Tống, ông Lô Đa Tốn thoạt đầu được phong làm Tham Chánh[80], ăn mặc tiêu dùng dần dần xa xỉ. Cha ông ta âu sầu bảo: “Nhà ta nhiều đời là nhà Nho thanh bạch, một khi được phú quý bèn thành ra như thế, chẳng biết sẽ đọa lạc đến đâu!” Đa Tốn chẳng quan tâm lời cha, rốt cuộc bị suy bại.
(Chánh văn) Thi ân bất cầu báo, dữ nhân bất truy hối.
(正文)施恩不求報。與人不追悔。
(Chánh văn: Ban ân chẳng mong được báo đáp, đã cho người khác sẽ chẳng hối hận).
Thi ân mà cầu báo, tức là cái tâm tham chưa quên! Đã cho người ta rồi hối tiếc, tức là cái tâm keo kiệt chưa tiêu trừ. Đã tham lại còn keo kiệt, bậc quân tử chẳng làm như vậy. Kinh Kim Cang dạy: “Bồ Tát ư pháp ưng vô sở trụ nhi hành bố thí” (Bồ Tát đối với pháp hãy nên chẳng trụ vào đâu mà hành bố thí). Lại nói: “Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng” (Nếu Bồ Tát chẳng trụ vào tướng mà bố thí, phước đức ấy chẳng thể nghĩ lường được). Nhìn từ điều này, người có thể dùng tài vật để giúp đỡ kẻ khác, trong bèn chẳng thấy ta là người có thể thí, ngoài chẳng thấy có kẻ nhận lãnh sự bố thí, chính giữa thì chẳng thấy có vật để thí. Đó gọi là “tam luân thể không”. Nhất tâm thanh tịnh thì một đấu gạo tương ứng với “phước không bờ bến”, một đồng tiêu trừ tai ương ngàn kiếp. Nếu hơi có cái tâm mong cầu được báo đáp, dẫu thí vạn dật[81] vàng ròng, rốt cuộc chẳng thể viên mãn tâm lượng của nhất tâm. Còn như hai chữ “truy hối” (追悔, sau đó lại hối hận) lại càng là chỗ then chốt to lớn trong đời người. Hối tiếc về chuyện ác thì trong tương lai, ác niệm sẽ dần dần ngưng dứt. Đối với việc thiện mà hối tiếc, trong tương lai sẽ chẳng sanh thiện niệm. Kẻ đã bố thí rồi hối tiếc, chẳng thà đừng thí, chẳng cho sẽ hay hơn!
Người đời muốn cho ngũ cốc trong kho năm nào cũng đều chẳng thiếu hụt, ắt phải chọn lấy hạt giống của gạo thóc, lúa mạch, dùng trâu cày bừa ruộng nương để gieo trồng. Hễ không gieo trồng, ắt [thóc gạo trong kho] sẽ cạn kiệt. Trong đạo pháp cũng giống như thế. Dùng hiếu tâm, bi tâm, và kính tâm làm hạt giống, dùng áo cơm, tiền của, thân mạng làm trâu cày, dùng cha mẹ, kẻ nghèo khó, bệnh tật, Tam Bảo làm ruộng nương. Có đệ tử Phật muốn đời đời đạt được trăm món phước trang nghiêm vô tận trong tạng thức thì cần phải vận dụng lòng bi, kính, hiếu, đem áo cơm, tiền của, thân mạng kính cẩn phụng dưỡng, cung cấp cha mẹ, những người nghèo khó bệnh tật và Tam Bảo; đó gọi là “gieo phước”. Chẳng gieo trồng, sẽ nghèo túng, chẳng có phước huệ, sẽ lọt vào đường hiểm sanh tử. Nói “ruộng để gieo phước” là vì giống như ruộng để gieo mạ, cho nên gọi là “phước điền”.
Bố thí có ba loại là Pháp Thí, Tài Thí và Tâm Thí. [Vận dụng] đủ mọi phương tiện hòng khuyến hóa, dạy bảo người khác thì gọi là Pháp Thí. Đó là cao nhất. Tài Thí là dùng đủ loại tiền tài để bố thí. Tâm Thí là [bản thân] nghèo cùng túng quẫn, chẳng có tiền của, nhưng tâm niệm xót xa, mong giúp đỡ [kẻ hoạn nạn] tuy chẳng có cách nào thực hiện thì cũng gọi là Thí.
Đời Minh, Trầm Lý tên tự là Trọng Hóa, người huyện Quy Đức, thích tiến cử bậc hiền năng, nhưng chẳng để cho kẻ khác biết. Ông có bài Cảnh Thế Ngữ (警世語, những lời cảnh tỉnh cõi đời) như sau:
– Ôi chao! Chuyện trong cõi đời sao mà chênh lệch bất công đến nỗi như thế? Ta thường vào mỗi dịp tiệc tùng no say, đã chẳng thể gắp nổi nữa, chủ nhân vẫn dọn lên những món trân quý không ngớt, nhưng có kẻ nghèo suốt đời chẳng biết đến mùi vị nào khác, có kẻ chết đói! Ta mùa Đông khoác áo cừu, mùa Hạ mặc áo the. Lạnh nóng [thay đổi y phục] theo thời, còn muốn xa xỉ đến tột cùng hòng theo kịp thời trang. Kẻ nghèo áo chẳng đủ che thân, nấp ngoài hiên, ngủ ngoài đường, gió bấc buốt xương, lạnh cóng đến nỗi răng va lộp cộp. Ta nhà cao cửa rộng, ở yên ổn hết sức thoải mái, còn phải [tạo dựng] ao, đài, hoa, trúc, hòng thỏa thuê tai mắt đến mức cùng cực, chẳng tiếc ngàn vàng để sắm sửa! Thế mà kẻ nghèo gặp phải lúc khó khăn cấp bách, không thể cậy vào đâu, thậm chí có khi mất mạng, hoặc là cha con, vợ chồng phải tan đàn xẻ nghé! Con cháu trong nhà ta [tiêu xài] rộng rãi có thừa, ta vẫn chú trọng tích cóp cho nhiều, hòng tính kế lâu xa cho con cháu. Kẻ nghèo nhà cửa bé tẹo, ăn bữa sáng chẳng mong chi bữa tối. Ta của cải ngồn ngộn, mắt thấy tai nghe chẳng xuể, chẳng tránh khỏi sống phóng đãng, ngấm ngầm lôi cuốn phường trộm cướp [ngấp nghé]. Đối với kẻ nghèo đói ngẫu nhiên bòn mót đồ vật hoặc thóc lúa ta bỏ bê, ta lại tàn nhẫn, chẳng thể cho họ, hoặc cho vay tính lãi. Họ làm thuê làm mướn vất vả để kiếm chút tiền mọn, vẫn phải tận lực giành nhau [từng công việc một]. Ta của cải chất đầy rương, sọt, [vẫn toan] xun xoe bợ đỡ kẻ quyền thế, sang cả, chỉ sợ họ chẳng tiếp nhận. Người nghèo xin một đồng hòng kéo dài mạng sống trong sớm tối, có kẻ bèn phừng phừng nổi giận! Có kẻ thoái thác “bụng dạ [ta rất cảm thông với nỗi khổ của ngươi]”, nhưng chẳng thể cho người nghèo chút gì để họ cầm về. Ta có nhiều tiền bèn sống phô trương xa xỉ, dâm dật, do đó chuốc họa. Kẻ nghèo mong đợi ta thí cho đôi chút thức ăn thừa, thế mà vẫn chẳng thể được!
Chuyện trong cõi đời sao mà chênh lệch bất công đến nỗi như thế? Tôi nay vì kẻ nghèo giãi bày, chẳng phải là [buộc quý vị] dốc sạch tiền tài để cứu đói, ép uổng người khác làm chuyện khó. Chỉ xin hãy quyên tặng những thứ [chính mình] không dùng đến để biến chúng thành hữu dụng đó thôi! Tiệc tùng nếu đã no say, sao không chia sẻ rượu thịt để thí cho kẻ đói khát sắp chết? Sao chẳng san sẻ canh thừa để thí cho kẻ suốt đời chẳng biết mùi vị gì khác! [Làm như vậy] chẳng phải là thuận tiện cả đôi đằng ư? Quần áo chất đống trong rương thì có khác gì chẳng mặc? Hãy bỏ ra những thứ áo ngắn vải thô để thí cho kẻ không có áo che thân, họ cũng sẽ được hưởng sự ấm áp, mà những thứ quần áo đẹp đẽ của ta vẫn chẳng bị thiếu hụt. [Như vậy là do bỏ ra] những thứ ta chẳng ưa thích mà có thể giữ vẹn tánh mạng và cốt nhục của kẻ khác. Nghĩa cử ấy do được bàn nói rồi sẽ lan truyền. Đêm sâu, hãy tự phản tỉnh, sẽ tự nhận biết: Cái đáng được yêu thích trong thiên hạ, không chi tốt đẹp hơn chuyện này!
Ta tích cóp cho lắm, suốt đời chẳng dùng hết, bèn để lại cho con cháu. Con cháu hiền năng, chúng sẽ chẳng ỷ vào đó mà vẫn đủ dùng. Đứa ngu muội tuy có mà chẳng thể dùng[82], sao bằng ta đích thân bố thí thì còn hữu dụng cho kẻ lo được bữa sáng không mong chi bữa tối? Đối với những thứ ta tiêu xài hoang phí, chẳng cần phải bận tâm, nếu cho kẻ nghèo thì [sẽ giống như] họ đã nhặt được ngoài đường, chẳng hao tổn đến những thứ ta có, ta tiếc nuối nỗi gì? Ta sắm sanh lễ vật thịnh soạn để bợ đỡ [kẻ quyền thế, sang cả], chắc gì họ đã vui lòng? Thí thưng gạo, đấu thóc, thí chén nước cho con cá sắp chết khô trong vết lõm bánh xe, [kẻ được bố thí] sẽ hớn hở khởi tử hồi sanh. Cớ sao chẳng làm chuyện này, mà làm chuyện kia?[83] Ta do lắm tiền nhiều của bèn chuốc họa, làm đôi chút [bố thí như vừa mới nói] sẽ được phước. Ta quyên tặng những thứ ta dư thừa để bù đắp cho kẻ thiếu thốn, tuy là tạo phước cho người khác, thật ra là để giúp ta thoát họa vậy! Đấy là đường lối lợi lạc đôi bên. Vì thế nói: “Quyên tặng những thứ không dùng đến để làm chuyện hữu dụng [cho người khác]” chính là vì lẽ này!
Chẳng thấy [sự biến hóa trong] đạo trời hoặc mối quan hệ nhân sự ư? Thịnh suy đắp đổi, trời còn chẳng trái nghịch! Tiền bạc lưu thông, há cứ ở mãi một chỗ? Những kẻ được gọi là giàu có xưa kia, nay còn được mấy? Con cháu của họ chẳng được hưởng mãi. Nếu chẳng do người đời trước chuộng bố thí, [con cháu làm sao hưởng được. Nếu người đời trước chẳng làm như vậy, tức là] đã chẳng mưu tính sâu xa [cho tương lai]! Thịnh suy đắp đổi lẫn nhau là lẽ đương nhiên! Biết lẽ đương nhiên ấy, đối với thứ đáng nên tích lũy sẽ tích lũy, đối với thứ đáng nên phân tán sẽ phân tán. Thứ chính mình có thể sử dụng mà cũng có thể để cho kẻ khác sử dụng, đấy là bậc thông đạt. Đã tích cóp tiền bạc chất chứa tại một nơi, lại thiết lập cách đề phòng, cứ ngỡ sản nghiệp sẽ ngàn vạn đời chẳng bị suy xuyển, giữ cho tài sản ấy chẳng bị chuyển dời; [suy nghĩ kiểu đó] chính là kẻ ngu vậy! Tích lũy âm đức hòng làm kế sách lâu dài, đó chính là người trí. Hành bố thí chẳng nhằm mục đích nào, đấy chính là bậc quân tử.
Đời Tùy, Lý Sĩ Khiêm, tên tự là Tử Ước, mồ côi cha từ bé, thờ mẹ chí hiếu. Năm mười hai tuổi[84], ông được Ngụy Quảng Bình Vương vời ra làm Tham Quân trong phủ tướng quân. Do nhà giàu có, ông Lý bỏ ra mấy ngàn thạch gạo cho người làng vay mượn. Gặp năm đói kém, ông bèn gọi các nhà thiếu nợ đến, đốt bằng khoán vay mượn, bảo họ: “Nợ đã trả xong rồi!” Đến mùa Xuân năm sau, lại bỏ ra gạo thóc để chia cho những kẻ nghèo nàn, túng thiếu, cứu sống rất nhiều người. Những người đã chết, ông đều chôn cất. Nếu có ai ca tụng âm đức của ông, ông đáp: “Âm đức như tiếng kêu ngầm trong tai, chính mình tự biết, kẻ khác chẳng biết. Nay ông đã biết, còn nói là âm đức chi nữa?” Một hôm, ông mộng thấy có một vị thần áo tía bảo: “Thượng Đế tăng thêm âm đức cho ngươi, khiến cho con cháu ngươi hết sức hưng vượng”.
Đời Tống, ở huyện Thái Thương có một người họ Cố làm nha lại cho quan Tri Châu. Hễ có công vụ phải đón tiếp, đưa tiễn, ắt trọ tại nhà người bán bánh họ Giang ở ngoài thành. Về sau, họ Giang bị kẻ thù vu cáo trộm cắp, [phải tù đày], ông Cố tập hợp mọi người kêu oan, nên họ Giang được thả. Ông Giang cảm ơn, có đứa con gái mười bảy tuổi bèn đưa tới nhà họ Cố xin được làm thiếp. Ông Cố bảo vợ chuẩn bị lễ vật đầy đủ, đưa [cô ta] trả về. Ông Giang lại dẫn con tới, ông Cố lại chối từ. Về sau, ông Cố lên kinh đô, được điều sang làm môn hạ lo việc cho viên Thị Lang[85] họ Hàn. Thị Lang bỗng có chuyện đi vắng, phu nhân trông thấy ông Cố, bèn gọi đến hỏi: “Ông có phải là Cố đề khống[86] ở Thái Thương hay không? Tôi là con gái người bán bánh họ Giang. Tôi vốn được gả làm thiếp cho tướng công, sau đó, được [nâng lên] làm chánh thất. Mọi điều dẫu nhỏ nhặt đều do ông ban cho, tôi sẽ kể với tướng công”. Thị Lang trở về, vợ kể cặn kẽ từ đầu đến cuối. Thị Lang nói: “Đấy là người nhân từ vậy”, rồi tâu lên vua chuyện ấy. Vua khen ngợi, phong cho ông Cố làm Chủ Sự[87] bộ Lễ.
Đời Tống, Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) sai con là Nghiêu Phu trở về Tô Châu lấy năm trăm hộc lúa mạch. Trên đường, gặp người quen biết cũ là Thạch Mạn Khanh kể lể có ba đám tang ma chưa lo toan được, Nghiêu Phu đem cả thuyền lúa mạch cho họ Thạch. [Nghiêu Phu] quay về, chưa kịp thưa chuyện, Văn Chánh hỏi: “Có gặp người quen biết cũ hay không?” Nghiêu Phu bèn thưa chuyện Thạch Mạn Khanh có ba đám tang chưa lo liệu được. Văn Chánh hỏi: “Sao không đem thuyền lúa mạch cho ông ta?” Thưa: “Con đã cho rồi”. Cha con ông Phạm cùng một lòng, thích bố thí như thế. Há có như người thời nay chỉ tôn thờ phú quý, trên gấm thêm hoa, chẳng chịu châu cấp, giúp đỡ kẻ nghèo khổ, đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi ư? Dẫu là có thí, có cho đôi chút, có kẻ nào chẳng mong cầu được báo đáp, hoặc cho rồi hối tiếc hay chăng?
Xưa kia, có một cô gái vào chùa, muốn thí xả mà chẳng có tiền, chỉ có hai đồng bèn quyên cúng. Vị chủ chùa (Trụ Trì) đích thân vì cô ta sám hối. Về sau, cô ta vào cung, phú quý, mang mấy ngàn lạng vàng cúng chùa. Vị Trụ Trì chỉ sai đồ đệ hồi hướng cho cô. Cô lấy làm lạ, hỏi nguyên do, vị Tăng bảo: “Trước kia, vật tuy đơn bạc, nhưng tâm rất chân thành, cho nên lão tăng đích thân bái sám. Nay tài vật hậu hĩnh, nhưng tâm chẳng thiết tha, sai học trò thay mặt bái sám là đủ rồi!” Hễ làm việc thiện, gieo đức, chí tâm là quý nhất. Hễ ý niệm vừa chuyển, sẽ chẳng bằng ý niệm ban đầu, huống hồ còn hối tiếc ư?
Ông Vu Thiết Tiều nói:
– Cầm thú còn biết báo đức, há có lẽ nào con người chẳng cảm ơn? Chẳng biết điều khó chịu nhất [đối với người nhận sự bố thí] là thái độ tự mãn của người bố thí. Hễ thái độ tự mãn lộ ra, sẽ khiến cho kẻ cảm kích ân đức sanh lòng hổ thẹn. Do hổ thẹn mà sanh lòng oán. Xưa kia có một viên nha lại từng cứu mạng kẻ khác. Kẻ ấy dần dần trở thành giàu có, còn viên nha lại trở thành nghèo nàn. Ngẫu nhiên viên nha lại đi qua nhà người ấy, cả nhà ra vái chào, giữ lại uống rượu hết sức cung kính. Viên nha lại uống rượu say ngà ngà, lớn tiếng bảo: “Nếu chẳng do sức của ta, thì vợ con, con hầu, đầy tớ của ngươi và những vật đang thấy trước mắt đây, làm sao ngươi có nổi một thứ gì cho được? Nay ngươi giàu có mà ta nghèo đi, sao lại thế nhỉ?” Nói xong, ngủ lại nhà đó. Họ bàn bạc với nhau: “Gã này có cái tâm mong cầu được báo đáp quá lố, có báo đáp cũng không thể thỏa ý hắn được. Chẳng báo đáp, ắt họa rơi xuống thân ta, chẳng bằng giết quách đi”, liền cắt phăng đầu hắn ta. Ôi! Do cứu người mà ngược ngạo tự giết chết chính mình, trong ấy đương nhiên là có xen vào cái nhân khéo ứng hợp. Sự báo ứng hung ác của họ đương nhiên là có liên quan đến số mạng của viên nha lại, hãy gác lại chớ luận, chỉ nêu ra chuyện này hòng răn nhắc những kẻ [thi ân] cầu báo vậy!
(Chánh văn) Sở vị thiện nhân.
(正文)所謂善人。
(Chánh văn: [Người như vậy] đáng gọi là thiện nhân).
Từ chỗ này cho tới câu “thần tiên khả ký” (có thể mong thành thần tiên) là nói phước báo của thiện nhân to lớn, dồi dào, chẳng sai suyển vậy. Cốt lõi của thiện nhân được bắt nguồn từ chỗ chẳng lầm lẫn giữa đúng và sai, tức là trí và dũng đều trọn vẹn. Cuối cùng là [kiến chấp có] ta và người hai đằng đều chẳng còn, ắt nhân từ và khoan dung sẽ cùng được hành. Huống hồ [bậc thiện nhân] lập tâm dụng ý, [bất luận] đối với chính mình hay đối với người khác, trong thì là ngũ thường, bách hạnh[88], ngoài là thuận theo thời cơ, hành xử thích đáng, không gì chẳng trọn vẹn. Đấy cũng chính là chẳng khác gì Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng tái sanh! Để được gọi là “bậc thiện nhân”, do lòng trời ưa điều thiện, ghét điều ác, lòng người có thiện, chẳng có ác, nhưng con người thường sơ sót đối với những sự nhiễm đắm bởi thói quen, đến nỗi đánh mất thiện tâm ban đầu. Hãy nên có điều thiện bèn tinh tấn, có điều ác bèn hối cải, hòng đáng gọi là thiện nhân vậy!
Đời Tống, Văn Chánh Công Lý Phưởng đã cáo quan xin về hưu. Do tiết Thượng Nguyên, [mọi nơi] treo đèn mừng lễ, Tống Thái Tông sai sắp đặt xe cộ đón ông vào cung, cho ngồi bên cạnh giường ngự, đích thân cầm chén rượu ngự rót mời, chọn lựa những thứ quả hạt quý ban cho, phán: “Khanh là bậc thiện nhân quân tử, từng hai lần làm Tể Tướng, chưa hề ôm lòng tổn thương người, hại vật. Vì thế, trẫm tưởng nhớ khanh”. Ông trở về, răn dạy con: “Tuy ta chẳng có công lao, thành tích to lớn, lạ lùng, kinh hãi thế tục gì, nhưng chưa hề ẩn giấu điều lành của người khác, chẳng quên mất người đã tiến cử, chẳng lừa dối dẫu ở một mình trong phòng kín. Tự xét đức hạnh thì ta vâng giữ bổn phận. Ta tự cho là đã tuân thủ bốn điều ấy. Nay được thánh thượng đối trước quần thần khen ngợi ta là thiện nhân, quân tử. Phàm là bậc thiện nhân, quân tử, Khổng Tử nói còn chưa trông thấy, ta là hạng người nào mà dám đảm nhận [mỹ hiệu ấy]? Các con hãy nên nghĩ tới lời khen ngợi đáng quý ấy của thánh thượng mà thực hiện bốn điều cha vừa nói. Trung với vua, hiếu với cha mẹ, luôn hành xử cẩn trọng, tự lập, tự cường, ngõ hầu có thể chẳng hổ thẹn”. Con ông là Tông Ngạc tuân thủ nghiêm ngặt lời cha dạy, trở thành người nổi tiếng đương thời.
Nói nông cạn, thiện nhân là dứt ác, làm lành. Nói cùng tột, sẽ là chứng thánh, thành tiên, thông hiểu tột cùng sự thần diệu nơi sự vật, thấu đạt lẽ tạo hóa, đều là do từ một thiện niệm mở rộng vậy.
Đời Minh, Trâu Tử Doãn ở Giang Tây sùng tín Tam Bảo, siêng hành trăm điều thiện. Hễ là những chuyện cứu vớt người hoạn nạn, thành tựu chuyện tốt cho người khác, dẫu nước sôi, lửa bỏng, lạnh, nóng, cũng chẳng nề hà. Mọi người gọi ông là “thiện nhân”. Ông mắc bệnh, chết đi, tới trước Diêm Vương, trong lòng chẳng phục. Vua sai nha lại đưa sổ bộ cho xem. Mở sổ ra, bèn nổi lên hai chữ “danh lợi” to đùng. Phàm đối với những việc thiện do Tử Doãn đã làm trong suốt một đời, hoặc ghi chữ Danh, hoặc đề chữ Lợi ở phía dưới. Tử Doãn thẹn thùng, chịu phục. Ông sống lại, nói với người khác: “Hãy vì tôi mà bảo khắp mọi người: Làm lành hãy nên chân thành, thật thà, tấm lòng rỗng rang”. Năm ngày sau, ông Trâu mất.
Đường Thời nói:
– Tôi biết rõ ông Tử Doãn là người có lẽ chẳng tránh khỏi thói háo danh. Đối với lợi, Tử Doãn là người trọng nghĩa khinh tài, sao lại có chuyện này? Ắt là trong lúc được thỉnh cầu, nhờ cậy, ý niệm ban đầu là phát nguyện làm thiện sự, cho đến khi nắm giữ tiền của trong tay, ngẫu nhiên vướng thói tệ sử dụng không đúng mục đích, hoặc là thoạt đầu thì nói: “Ta mượn tạm”, về sau lần khân chẳng trả lại, khiến cho Tử Doãn cả đời siêng năng, vất vả, chỉ đổi lấy hai chữ ấy! Có thể thấy âm ty quen lệ ghi chép những điều tà vạy ngấm ngầm, nhỏ nhặt. Tôi hiểu lòng ông Tử Doãn, nên vì ông ta giải thích rõ. Vì thế, bảo khắp những người làm lành: Hãy nên làm mà không làm, không gì chẳng làm, tùy thuận thời cơ để lợi lạc chúng sanh, sẽ là tốt nhất. Chẳng có cái tâm mong cầu được báo đáp, cứu vớt, dẹp trừ nỗi khổ nạn cho chúng sanh, khuyên kẻ khác làm lành thì sẽ kém hơn một bậc. Tích lũy âm công rộng rãi, cầu cho chính mình tránh khỏi tam đồ, lại kém hơn một bậc nữa. Nếu có mảy may ý niệm vì danh thì đã đi sai đường mất rồi. Nếu có mảy may ý niệm [nhờ làm lành] để kiếm lợi riêng tư, sẽ đọa địa ngục [nhanh chóng] như tên bắn vậy, chẳng đáng sợ ư? Tôi ghi những điều này để mong những người nguyện làm lành trong đời sau sẽ biện định rõ ràng mà dốc lòng thực hiện vậy.
(Chánh văn) Nhân giai kính chi, thiên đạo hựu chi, phước lộc tùy chi, chúng tà viễn chi, thần linh vệ chi.
(正文)人皆敬之。天道佑之。福祿隨之。眾邪遠之。神靈衛之。
(Chánh văn: Mọi người đều kính trọng, trời ban phước cho, phước lộc theo đến, các tà lánh xa, thần linh bảo vệ).
Thiện thì ai nấy đều vốn sẵn có, hễ được khơi gợi, sẽ dấy động. Dẫu là hàng ngu phu ngu phụ, nếu nghe một chuyện lành, mọi người nhất định sẽ ca ngợi. Dẫu ngươi là kẻ hung ác cùng cực, trông thấy người lành, cũng chẳng dám xâm phạm. Ấy là vì lương tâm phát khởi, sẽ đều là chẳng thể không làm như thế được. Bàn đến chuyện “mọi người đều kính trọng” thì ắt là do đạo đức của người ấy thật sự có điểm đáng kính, không một ai là chẳng như vậy!
Đời Tống, Tư Mã Ôn Công được triệu về kinh đô làm quan. Ai trông thấy ông cũng đều lấy tay bưng trán[89]. Ông đi tới đâu, dân chặn đường, thưa: “Ngài đừng trở về Lạc Dương, hãy ở lại làm Tể Tướng cho thiên tử, [giúp cho] lũ dân chúng tôi được sống sót”. Lưu đại gián[90] làm quan tại triều đình, thiên hạ không ai chẳng ca ngợi lòng trung của ông. Phú Văn Trung (Phú Bật) cưỡi con lừa thọt đến cầu Thiên Tân, những người theo sau ông xem [ngày càng đông] đến nỗi chợ vắng tanh[91]. Từ Tiết Hiếu dựng lều trông mộ [mẹ suốt ba năm] tại làng Hoài Âm, trong thành hằng ngày đều có người đến tỏ lòng tôn kính. Thiệu Khang Tiết xuất du, dân chúng không ai là chẳng vội vã tranh nhau đón tiếp. Người đã ưa thích [dường ấy], có thể biết là lòng trời cảm cách dường nào. Nếu họ thật sự chẳng có điểm đáng kính, làm sao có thể khiến cho người khác cảm động dường ấy? Những vị ấy lúc sống sẽ làm bậc Tể Tướng hoặc thầy [của mọi người], khuất núi sẽ thành bậc thần minh vậy.
Thiên đạo chẳng thiên vị yêu thương riêng một ai, nhưng thường thuận theo bậc thiện nhân. Chẳng nói mà ứng hợp hay khéo, chẳng chuốc vời mà tự đến. Ta thật sự dùng lòng thành cảm thông, sẽ chẳng bao giờ không được gia hộ vậy. Chỉ nên trọn hết bổn phận làm người, lòng thành chẳng gián đoạn. Do vậy, rốt cuộc sẽ cảm động lòng trời. Kinh Cứu Kiếp có câu: “Nhất tâm như thử, thính mạng ư thiên” (Một dạ như thế, nghe theo mạng trời). Có thể thấy là [thiện nhân làm lành] chẳng có mảy may ý niệm mong cầu, trông ngóng!
Đời Tống, Châu Tử nói: “Trời đất chẳng làm một điều gì, chỉ lấy sinh vật làm tâm, kẻ nào trong bất cứ niệm nào cũng đều có ý niệm lợi lạc, cứu giúp [người khác] thì sẽ [có cái tâm giống hệt như] trời đất. Kẻ phù hợp lòng trời, lẽ nào trời chẳng ban phước cho?”
Đời Tống, Lưu An Thế dâng sớ thẳng thừng biện định những kẻ tà chánh trong đám triều thần. Ông lại luận định Chương Đôn là hạng tiểu nhân chẳng thể dùng được. Đến khi Chương Đôn nắm quyền, ông bị đày đi xa, trải qua nhiều chỗ thuộc vùng núi non, biển cả, lênh đênh nhiều nơi. Người ta cho rằng ông ắt phải chết, nhưng rốt cuộc ông chẳng sao. Tuổi đã tám mươi, ông chưa hề bị bệnh ngày nào. Trong khi ông bị biếm trích, có kẻ toan lấy lòng Chương Đôn, xin giết ông. Tới khi gã đó rong ruổi đến chỗ ông, toan ra tay, bỗng như bị vật gì đánh trúng, hộc máu chết tươi!
Đường Tử Dư từ đất Thục (Tứ Xuyên) đưa linh cữu của cha về Cát Thủy. Khi ấy, nhằm tiết Thu, nước sông hồ dâng cao, khe Cù Đường[92] nước chảy càng xiết. Trời đổ mưa, nhà thuyền kinh hoảng. Tử Dư ngửa mặt lên trời khóc lớn, mới khóc gào một tiếng, nước đã rút hơn hai mươi trượng. Thuyền đi qua, nước lại dâng lên như cũ. Trung hiếu đứng đầu các đức, cho nên đạo trời che chở dường ấy. Ở đây, nêu lên hai câu chuyện này, [nhằm chứng tỏ] con người chuyện gì cũng có thể cảm thông cõi trời, chuyện gì cũng đều được trời cao che chở, bảo vệ vậy!
Bậc thánh hiền quân tử lời nói tốt lành, hành vi tốt lành, chiêu cảm hòa khí, tự nhiên những điều tốt lành ứng hợp. Kinh Thi có câu: “Lạc chỉ quân tử, phước lộc thân chi” (Vui thay bậc quân tử, phước lộc do đó mà sanh) chính là nói về chuyện này vậy.
Đời Đường, Quách Tử Nghi khôi phục hai kinh đô[93], công che lấp cả triều đình nhà Đường. Ông dốc sức lo liệu cho sự an nguy của thiên hạ suốt ba mươi năm. Ông làm Trung Thư Lệnh, khảo hạch [bá quan] suốt hai mươi bốn năm. Phú, quý, trường thọ, con cháu vinh hiển, xưa nay rất hiếm người sánh bằng. Ông Quách được hưởng phước lộc trọng hậu là vì công lao to lớn, đức hạnh cao tột, chứ chẳng phải là do may mắn mà được như thế. Người làm lành hãy nên suy nghĩ!
Đời Minh, Trịnh Chiếu ở Phượng Dương hằng ngày chú trọng làm lợi cho người khác. Một đêm mộng tới chỗ Thiên Phủ[94], thấy thần bày sẵn ngôi vị trống chờ đợi, bảo: “Ông vốn nghèo hèn, do làm lành, nên sai hai vị thần phước lộc đi theo ông. Mai sau sẽ ngự nơi địa vị này”. Trịnh Chiếu tỉnh giấc, thiện niệm càng thêm vững chắc, thanh danh càng rạng ngời. Đi đến đâu, tiền bạc cũng rủng rỉnh. Tới chỗ nào, phước lộc cũng theo sát bên thân. Cháu con phú quý, hưng thịnh, nhận lãnh chức vị cao sang, bổng lộc trọng hậu cho đến lúc mất. Về sau, quả nhiên thoát xác, chứng quả vị Tịnh Dục Chân Nhân.
Nhan Uyên chết yểu nơi ngõ hẹp. Di Tề[95] chết đói nơi Thủ Dương. Nguyên Hiến nghèo nàn, Phạm Bàng bị hành hình[96], chính là những vị tu đức, nhưng kém phước lộc. Bậc thiện đức ở chỗ nào, nơi đó mặt trời, mặt trăng tranh nhau tỏa sáng, phước lộc tầm thường chẳng thể sánh bằng. Hãy nên biết đó là đạo lý của những bậc vì nghĩa mà xả thân.
Tà và chánh chẳng thể cùng tồn tại. Hễ chánh tới, tà chẳng thể tự dung. Ví như vầng thái dương vừa mọc, ắt băng tuyết tự tiêu tan. Lý Cát Phủ nói: “Thần thánh chuộng chánh trực. Người vâng giữ lẽ chánh trực, ắt thần sẽ phù trợ. Yêu ma chẳng thể thắng nổi bậc đức hạnh. Hễ thất đức, ắt yêu ma lẫy lừng, đó là lẽ tự nhiên”.
Đời Minh, Cảnh Thanh đi thi Hội, đi qua huyện Thuần Hóa. Chủ nhà có một đứa con gái bị yêu quái dựa thân. Ông nghỉ đêm tại nhà ấy; đêm đó, yêu quái không tới. Cảnh Thanh đi rồi, nó lại mò tới. Cô gái hỏi nguyên do, [yêu quái trả lời]: “Tránh né ông tú tài họ Cảnh”. Cô ta bèn kể với cha. Cha cô ta đuổi theo Cảnh Thanh, [kể rõ đầu đuôi], Cảnh Thanh bèn viết bốn chữ “Cảnh Thanh ở đây”, bảo hãy dán lên cửa, nạn yêu quái chấm dứt. Cảnh Thanh hết sức trung liệt, cho đến nay vẫn được người ta ngưỡng mộ.
Thứ đầy ắp trong vòng trời đất chính là Khí (chánh khí). Nếu chánh khí chẳng thiếu khuyết, do sự chánh đại quang minh được lưu hành, yêu ma quỷ quái chẳng dám xâm nhiễu. Vì thế, bậc quân tử có cái học “dưỡng khí” (nuôi dưỡng chánh khí). Dưỡng khí cốt yếu là trị tâm. Dốc sức giữ cho cái tâm thanh tịnh, quang minh, giữ lòng chân thành, tâm sẽ an định, ắt yêu ma quỷ quái chẳng thể xen lẫn vào được. Nếu lòng người tối tăm, mê muội, chẳng cần hỏi tà từ đâu đến, trong tâm đã có sẵn tà quái tụ tập rồi, há có thể nào khiến cho [yêu ma quỷ quái] vừa trông thấy bèn khuất phục ư?
Thần và người cùng một lý. Ai được mọi người kính trọng thì thần cũng gia hộ. Đó gọi là “đạo đức đã cao trọng, quỷ thần đều khâm phục”.
Đời Tống, Hàn Kỳ từ Thành Đức chuyển sang trấn nhậm Trung Sơn. Đi đến Sa Hà, bỗng những người đi đầu trở lại thưa: “Nước lũ sắp tràn tới”. Ông vội truyền chuẩn bị thuyền để vượt sông. Quả nhiên sóng to như núi. Thuyền sắp chìm, những người đi theo đều hết sức kinh hoảng. Bỗng có một con rồng thần từ đầu nguồn chắn ngang dòng nước, nước bèn lặng êm. Thuyền qua sông rồi rồng mới rời đi, nước bèn dâng tràn ồ ạt như cũ.
Đời Minh, ông Kim ở Nghi Trưng mở tiệm cầm đồ. Đầu niên hiệu Gia Tĩnh, bọn cướp sông cướp bóc gần hết những nhà giàu có, chỉ riêng họ Kim là không sao. Quan trên ngờ ông ngầm qua lại với lũ cướp. Đến khi bắt được kẻ cướp, tra hỏi nguyên nhân, bọn cướp thưa: “Đã vài lần đến cướp, đều bị thần kim giáp xua đuổi”. Quan chưa tin, gọi những hàng xóm ông Kim đến dò hỏi, họ đều nói: “Ông Kim thật sự tích đức, các tiệm cầm đồ thường là trả tiền cho khách cầm đồ thì ít, đòi tiền chuộc nặng nề. Chỉ riêng tiệm ông ta là cho cầm và chuộc lại công bình, ước định giá trị của món đồ đem cầm rất rộng rãi, định kỳ hạn chuộc lại dài hơn. Lại còn hỏi thăm, nếu là người già, nghèo khổ, sẽ phá lệ không tính tiền lời. Lại còn vào mùa Đông thì không tính tiền lời đối với áo ấm. Mùa Hè thì không tính tiền lời đối với áo mùa Hè. Hằng năm đều làm như vậy. Trời che chở người lành, sai thần đến ủng hộ, đối với lý ấy, há có ngờ chi?” Quan bèn khen ngợi ông Kim, tâu lên triều đình xin khen thưởng.
Vu Thiết Tiều nói:
– Trong phần đầu là nói đến họa ác. Trong phần trước đã nói “nhân giai ố chi” (mọi người đều ghét), nay nói đến phước thiện, bèn trước hết là nói “nhân giai kính chi” (mọi người đều kính). Bởi lẽ, những chuyện như ác tinh gieo tai họa, thần linh hộ vệ, có lẽ nhất thời chưa trông thấy, mà chuyện [mọi người] đều kính trọng hay đều ghét bỏ chính là những điều báo trước có thể coi như là chứng cớ vậy. Kẻ có tâm học đạo hãy thường phản tỉnh, tự suy xét: “Nếu người kính trọng ta nhiều, sẽ biết thần linh ủng hộ, bảo vệ đông đảo. Nếu kẻ ghét ta nhiều, sẽ biết ác tinh chói ngời trên đỉnh đầu!” Lòng người chính là ý trời, chẳng cần phải tìm tòi từ chỗ chẳng thấy, chẳng nghe!
(Chánh văn) Sở tác tất thành, thần tiên khả ký.
(正文)所作必成。神仙可冀。
(Chánh văn: Việc làm ắt thành, có thể trở thành thần tiên).
Thế gian chẳng có chuyện gì không thành, thiên hạ đều là người có thể thực hiện. Chỉ dùng tâm chân thật để làm lành, ắt việc người đã hợp lòng trời, ý trời há có trái nghịch ước nguyện của con người ư? Tự nhiên ngấm ngầm giúp đỡ, không gì chẳng thực hiện suông sẻ, không gì chẳng làm thành công!
Ông Vu Ngọc Bệ nói:
– Kinh Di Giáo[97] dạy: “Túng thử tâm giả, táng nhân thiện sự. Chế chi nhất xứ, vô sự bất thành” (Buông lung cái tâm này, sẽ làm hỏng thiện sự của con người. Chế ngự tâm vào một chỗ, không chuyện gì chẳng thành tựu). Lại nói: “Nhữ đẳng tỳ-kheo, đương cần tinh tấn, tắc sự vô nan giả. Thí như tiểu thủy trường lưu, tắc năng xuyên thạch. Nhược hành giả chi tâm, sổ sổ giải phế, thí như toản hỏa, vị nhiệt nhi tức. Tuy dục đắc hỏa, hỏa nan khả đắc” (Hàng tỳ-kheo các ông hãy nên siêng năng, tinh tấn, thì mọi chuyện sẽ chẳng khó khăn. Ví như dòng nước nhỏ mà cứ chảy mãi, sẽ có thể xoi thủng đá. Nếu tâm hành giả nhiều lượt biếng nhác, bỏ lửng, sẽ giống như dùi gỗ lấy lửa, gỗ chưa nóng mà đã ngưng, tuy muốn được lửa, khó thể có được lửa).
Kinh Xuất Diệu[98] nói: “Trí giả dĩ huệ luyện tâm, tầm cứu chư cấu. Thí như khoáng thiết, nhập hỏa bách luyện, tắc thành tinh kim. Hựu như đại hải, nhật dạ phất động, tắc sanh đại bảo. Nhân diệc như thị, trú dạ dịch tâm bất chỉ, tiện hoạch quả chứng” (Bậc trí dùng huệ để luyện tâm, tìm tòi đến cùng tột [căn nguyên của] các phiền não. Ví như quặng sắt, bỏ vào lửa nung trăm lần, sẽ thành thép ròng. Lại như biển cả, đêm ngày luôn nổi sóng, sẽ sanh ra vật báu quý giá. Người cũng giống như vậy, ngày đêm rèn luyện cái tâm chẳng ngừng thì sẽ chứng quả).
Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Phù vi đạo giả, thí như nhất nhân dữ vạn nhân địch. Quải khải xuất môn, ý hoặc khiếp nhược, hoặc bán lộ nhi thoái, hoặc cách đấu nhi tử, hoặc đắc thắng nhi hoàn. Sa-môn học đạo, ưng đương kiên trì kỳ tâm, tinh tấn dũng nhuệ, bất úy tiền cảnh, phá diệt chúng ma, nhi đắc đạo quả” (Phàm là kẻ tu đạo, ví như một người đối địch với vạn người. Khoác áo giáp ra khỏi cửa, nếu có lòng khiếp sợ, hoặc nửa đường quay về, hoặc dốc hết sức chiến đấu cho đến chết, hoặc đắc thắng quay về. Sa-môn học đạo, hãy nên giữ vững tấm lòng, tinh tấn, dũng mãnh, bén nhạy, chẳng sợ tiền cảnh, phá diệt các loài ma, bèn đắc đạo quả).
Đời Nguyên, tổ sư Thiên Mục Sơn Trung Phong đã nói:
– Tôi nhớ nhà Nho có bài thơ khuyên học như sau: “Kích thạch nãi hữu hỏa, bất kích nguyên vô yên. Nhân học thỉ tri đạo, bất học phi tự nhiên” (Đập đá bèn xẹt lửa. Chẳng đập, khói chẳng sanh. Người học mới biết đạo, chẳng học chẳng tự nhiên). Đấy là nói trong đá vốn có lửa, chẳng dùng trí xảo để va quẹt, dẫn khởi, sẽ trọn chẳng thể gặp gỡ được. Người hiện thời chỉ biết trong đá có lửa, chẳng bỏ ra nửa điểm công sức trí xảo để va đập, suốt ngày chỉ trỏ hòn đá lạnh ngắt ấy mà nói đến tác dụng của lửa. Nói cho đến nỗi “mắt rơi xuống đất” (đến chết), vẫn là một khối đá trơ trơ như trước, muốn tìm một tí tác dụng của lửa, trọn chẳng thể được! Đấy là kẻ chẳng chịu dốc hết một lòng thực hiện công phu vậy. Lại có một hạng người nghe nói trong đá có lửa, bèn đập nát đá. Do muốn lấy được lửa, bèn đập đá nát bét thành bụi, trọn chẳng được lửa. Chẳng tự trách [chính mình] không dùng trí xảo để có được lửa, lại đến nỗi chẳng tin trong đá thật sự có chân hỏa! Đấy là hạng phàm phu không tin “tự tâm thành Phật”.
Người thời nay nếu muốn hoàn thành chuyện này, trước hết, hãy lấy tín căn làm đá, kế đó, đề khởi đơn độc một câu thoại đầu để làm cái tay quẹt đá. Lại dùng chí nguyện kiên cố chẳng thoái chuyển làm sắt. Quẹt con dao lấy lửa ấy, dùng sức chuyên ròng, siêng năng, dũng mãnh, suốt ngày vận dụng trong động tĩnh để gõ quẹt sao cho chẳng gián đoạn. Lại dùng chủng tánh Bát Nhã làm cỏ khô, bỗng dưng nương nhau thành tựu, nẩy sanh một đốm lửa nho nhỏ, chiếu thấu trời đất. Đấy gọi là “trí xảo”.
Đời Minh, Liên Trì đại sư nói:
– Bất cứ kỹ năng hay nghề nghiệp nào trong thế gian, lúc mới học sẽ khó khăn khôn ngằn, dường như là muôn phần chẳng thể thành được. Do vậy, bèn bỏ đó, chẳng học, sẽ trọn chẳng thể thành được! Vì thế, quý ở chỗ thuở đầu có cái tâm quyết định chẳng nghi. Tuy là quyết định, mà lần khân, trì hoãn, cũng sẽ chẳng thành. Vì thế, tiếp đó là quý ở chỗ cái tâm tinh tấn dũng mãnh. Dẫu tinh tấn, nhưng được chút ít đã cho là đủ, hoặc lâu ngày bèn mệt mỏi, hoặc gặp thuận cảnh bèn mê, hoặc gặp nghịch cảnh bèn đọa, thì cũng chẳng thành. Vì thế, kế đó, quý ở chỗ có cái tâm kiên quyết, luôn giữ vững, chẳng thoái chuyển. Như vậy thì sẽ được gọi là bậc trượng phu thật sự hữu tâm. Giữ tấm lòng như thế, có chuyện gì chẳng làm được, há chẳng nên gắng sức ư?
Thái Thượng là tổ của Đạo gia, cho nên chuyên nói đến chuyện cầu thành tiên. Mạnh Tử nói: “Nhân giai khả dĩ vi Nghiêu Thuấn” (Ai cũng đều có thể thành Nghiêu, Thuấn). Lục Tổ của Thiền Tông Chấn Đán (Trung Hoa) đã nói: “Đản dụng thử tâm, trực liễu thành Phật” (Chỉ dùng cái tâm này mà thẳng thừng thành Phật). Thánh nhân của tam giáo dẫu nói như thế nào, cũng đều là phù hợp khít khao. Do đã có thể thành tiên, vậy thì có thể thành Phật, có thể làm Nghiêu, Thuấn, huống hồ công danh, phú quý trong cõi đời, sống lâu, con cái, lẽ nào chẳng thể cầu được ư? Cũng đều là tùy thuộc người ấy làm như thế nào đó thôi!
Đời Hán, Chung Ly[99] nói: “Tiên cầu người còn hơn người cầu tiên!” Lữ Tổ nói: “Người đời thường hận chẳng được thấy ta. Tuy hằng ngày thấy ta, mà không thể làm theo lời ta, có ích gì đâu?” Có thể thấy người và tiên, tánh thật sự vốn là một! Chỉ vì để tình cảm chi phối quá mức mà đánh mất lẽ chân. Một mai quay lại lẽ chân, tình thức lẫn trần lao đều hết sạch, sẽ chính là thần tiên. Huống hồ lại còn có thể dùng thiện hạnh để giúp sức thêm ư?
Kinh Thai Tức[100] nói: “Thánh thai do sự điều phục hơi thở mà kết thành, chân khí do từ hơi thở đã tĩnh định như hơi thở của thai nhi. Chân khí tiến nhập thân thể thì là sanh. Thần lìa khỏi hình hài thì là tử. Hiểu biết Thần và Khí thì có thể trường sanh. Vì thế, phải giữ cho cái tâm hư vô, nhằm nuôi dưỡng Thần và Khí. Thần thông suốt thì Khí sẽ thông suốt. Thần bị bế tắc thì Khí cũng bị bế tắc. Nếu muốn trường sanh, thì Thần và Khí phải tưới rót lẫn nhau. Tâm chẳng dấy động ý niệm, chẳng đến, chẳng đi, chẳng xuất, chẳng nhập. Siêng năng thực hành như thế, đấy chính là đường lối của chân đạo vậy”.
Đời Tống, Lý Đoan Nguyện hỏi thiền sư Đạt Quán: “Rốt cuộc thiên đường và địa ngục là có hay không?” Sư đáp: “Chư Phật từ trong Vô mà nói Hữu, [giống như người bị mắt nhặm] mà thấy hoa đốm trên hư không. Thái Úy[101] từ trong Hữu tìm Vô, [giống như] lấy tay mò trăng trong nước. Nực cười thay, trước mắt thấy lao ngục mà chẳng tránh[102], ngoài tâm nghe nói có thiên đường bèn muốn sanh về! Chẳng biết vui thích hay sợ hãi đều ở trong tâm, do thiện hay ác mà trở thành cảnh. Chỉ cần Thái Úy liễu giải tự tâm, tự nhiên sẽ chẳng còn mê hoặc nữa!”
Kẻ cầu tiên thời cổ, có tấm lòng trung như Tử Phòng (Trương Lương), có lòng hiếu thảo như Ngô Mãnh. Vương Tiến Hiền chẳng đánh mất tiết hạnh của phụ nữ, Lan Kỳ hòa thuận với anh em, Lưu Dực chịu thua thiệt, phân chia tài sản cho kẻ khác, Triệu Tố Đài giúp đỡ người nghèo, giúp người khác lo liệu ma chay, Hứa Chân Quân thí nước phù chú [để chữa bệnh], Nghiêm Quân Bình dùng điều thiện hướng dẫn người khác, Châu Bá Trì chôn cất thi hài, Lý Ngũ Lang chẳng lừa dối khi đong gạo thóc, Trần An Thế chẳng giết hại sanh mạng loài vật, Lý Hề Tử cứu vớt những loài chim đói, Dương Kính Trực hễ rảnh rang bèn tĩnh tọa, Đường Nhược Sơn tánh chẳng nóng giận. Cho đến Hoàng Vạn Hựu rất ít lỗi lầm, Cảnh Tướng rất thích phóng sanh, Lưu Bình A vốn là một thầy thuốc, Ngô Mục vốn là một huyện lại, Lưu Nghiên vốn là kỹ nữ, Bào Tịnh vốn là một chủ quán, Hạ Sanh vốn là một gã đồ tể, Đinh Ước vốn là một gã lính quèn, Châu Đồn vốn là một gã trộm cướp, Lý Chánh Nguyên vốn là thợ săn. Những người ấy đều do tích lũy công hạnh mà được thành tiên.
Những người cầu thành tiên hiện thời, như ông Triều Hồi làm Tịnh Cư Thiên Chủ, ông Chương Văn Khởi làm Tư Mạng Chân Quân, Vương Tố làm Thị Lang ở Ngọc Kinh[103], Lữ Hối giữ chức Tư Củ cho Thượng Đế, Hàn Kỳ làm chủ nhân tử phủ[104], Phú Bật cai quản Côn Đài[105], Vương Tẩu chưởng quản bánh xe sắt của Dực Thánh [Bảo Đức Chân Quân], Kim Tam làm Phong Bá (thần gió) của Hựu Thánh (Bắc Cực Chân Vũ Đại Đế), Trương Hiếu Cơ làm chủ Tung sơn, Đậu Vũ Quân làm Động Thiên Chân Nhân, cho đến Âu Dương Tu làm chủ động Thần Thanh, Vương An Quốc làm chủ cung Linh Chi, Lữ Trăn làm chủ Quần Ngọc, Thạch Diên Niên làm chủ thành Phù Dung, Trần Tĩnh giữ chức Tư Trực, Điền Thừa Quân cai quản Duy Dương (làm thành hoàng của Dương Châu). Những vị này cũng do tích lũy công hạnh mà được thành tiên. Theo như kinh sách Đạo gia ghi chép, Trung Nguyên Nhị Phẩm[106] ngự trong Tả Động Dương Cung, cai quản đất đai, cửu hoàng[107], sơn thần, tứ duy, bát cực[108], thống lãnh liêu thuộc (quan lại) trong giới thần tiên đến chín vạn chín ngàn chín mươi chín vạn (99.099.000) người. Những người ấy đều là những bậc có công hạnh đối với cõi đời, được hóa độ, tiến nhập [tiên giới], được bổ vào những chức vị ấy.
Lại như Hà Hy Chí do chú giải kinh Kim Cang có ích cho cõi đời, chết đi làm quan kiểm điểm lịch số cho thần Tây Nhạc. Tuy chỉ là một chức quan ở nhạc phủ, nhưng cũng là người đắc độ. Đấy chính là người do làm lành mà có hy vọng được thành thần tiên vậy. Từ xưa tới nay, đã có hơn mười vạn người thành tiên, cả nhà được thành tiên thì hơn tám mươi nhà. Vì thế nói: “Chớ bảo thần tiên không chỗ học, xưa nay bao kẻ đã đăng tiên”. Người thời nay tu hành chẳng chân thật, bèn bảo “trong cõi đời chẳng có thần tiên”. Chuyện này giống như những kẻ ra rả “tuân theo pháp tắc của Khổng Mạnh”, nhưng không thể thực hành những giáo huấn ấy, bèn bảo “cõi đời chẳng có thánh hiền”, có nên hay chăng?
Sách Tánh Mạng Khuê Chỉ[109] chép:
– Muốn tu trường sanh, cần phải nhận biết cái gốc của sự sanh. Muốn cầu bất tử, phải nên hiểu rõ ai là người bất tử. “Người bất tử” chính là chân tâm vốn thường trụ của chúng ta. Cái tâm ấy linh thông, chẳng tăm tối, thường biết rõ rành rành, chẳng đến, chẳng đi, bất sanh, bất diệt. Hiềm rằng người đời chẳng ngộ! Từ vô thỉ đến nay, do mê mất chân tâm, cho nên phải bị luân chuyển, oan uổng vào trong các đường. Chân tâm vốn chẳng vọng, tánh trí vốn sáng suốt, mầu nhiệm, tĩnh lặng, vốn tinh ròng, do vọng chợt dấy lên, bỗng dưng tăm tối, đánh mất sự tinh ròng sáng suốt vốn sẵn có, chấp trước sâu đậm nơi kiến giải. Vì thế, chuyển trí thành thức, tạo thành vọng tâm nơi thân, gọi là Thức. Tâm vốn vô tri, do thức mà có tri (hay biết). Tánh vốn vô sanh, do thức mà có sanh. Chủng tử của sanh thân nẩy mầm từ đó, nở hoa hữu lậu, kết quả sanh tử. Người thời nay lầm nhận trong tâm có một vật sáng ngời, linh thông, hoàn toàn có cùng một Thể với muôn vật, cho là nguyên thần ở ngay nơi đó, chẳng biết thứ như thế chính là thức thần sanh sanh tử tử, là chủng tử để luân hồi bao kiếp dài lâu! Vì thế nói: “Người học đạo chẳng biết lẽ chân, chỉ vì từ trước đã cho rằng thần thức [chính là chân tâm]. Đó là cái gốc để sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay”. Kẻ si gọi [thần thức] là thứ con người vốn sẵn có (chân tâm, bản lai diện mục).
Vua Dị Kiến[110] hỏi tôn giả Ba La Đề: “Phật là như thế nào?” Đáp: “Kiến tánh là Phật”. Vua nói: “Thầy có kiến tánh hay chưa?” Đáp: “Ta thấy Phật Tánh”. Vua hỏi: “Tánh ở nơi đâu?” Đáp: “Tánh ở nơi tác dụng”. Hỏi: “Là tác dụng nào?” Ngài Ba La Đề liền nói kệ rằng: “Ở thai là thân, nơi đời là người. Ở mắt là thấy, ở tai là nghe, ở mũi ngửi hương. Nơi miệng đàm luận. Nơi tay nắm bắt. Ở chân đi lại. Biến hiện bao trùm trọn khắp pháp giới, hễ thâu nhiếp thì [nằm gọn] trong một vi trần. Người biết gọi là Phật Tánh, không biết bèn gọi là tinh hồn (精魂)”.
Vì thế, đức Thế Tôn dạy mọi người trước hết hãy đoạn căn bản của vô thỉ luân hồi, chính là vì ý này. Cái gốc ấy đã đoạn thì các thức chẳng có chỗ nào để nương tựa, khôi phục cái bản thể nguyên sơ chân thường của ta. Đó gọi là chân tĩnh diệu minh, rỗng rang, nhạy bén, thông triệt, rạng ngời, tồn tại duy nhất. Hễ trái nghịch nó thì là phàm phu, thuận theo nó thì sẽ là thánh. Mê thì sanh tử khởi đầu, ngộ thì luân hồi chấm dứt. Muốn dứt luân hồi, không gì bằng vận dụng Chỉ và Quán. Cần phải lúc nào cũng giữ lúc thất tình chưa phát động, niệm nào cũng giữ vẹn cái Thể chưa bị nhuốm bẩn của tám thức. Thần quang vừa lộ, lập tức thâu hồi, chớ để cho nó chiếu bừa bãi trong khoảng sát-na. Bậc tiên nhân thời cổ nói: “Đại đạo dạy mọi người trước hết hãy dứt niệm, ý niệm chẳng trụ cũng uổng công”. Kinh Viên Giác dạy: “Trong hết thảy các thời, chẳng dấy vọng niệm. Đối với các vọng tâm, cũng chẳng ngưng dứt. Trụ nơi cảnh vọng tưởng, chẳng thêm vào sự hiểu biết rành rẽ. Đối với cái chẳng hiểu biết rành rẽ, chẳng biện định chân thật”.
Khởi Tín Luận nói: “Nếu tâm rong ruổi, tán loạn, liền thâu nhiếp, khiến cho nó trụ nơi chánh niệm. Hễ niệm dấy lên bèn giác. Hễ giác, nó sẽ chẳng còn nữa. Diệu môn trong tu hành chỉ nằm ở chỗ này. Hãy nên biết vọng niệm dấy từ thức căn, duyên vào cảnh mà thành vọng, chẳng thật sự có cái Thể. Khi ở nơi chúng sanh thì trí kém cỏi, thức mạnh mẽ, chỉ gọi là Thức. Lúc ở nơi địa vị Phật, trí mạnh, thức kém, nên chỉ gọi là Trí. Chỉ là thay đổi tên gọi, chẳng chuyển cái Thể. Nguồn tâm ban sơ rỗng rang, mầu nhiệm, lặng trong, do từ [tác dụng] hay biết [sẵn có trong tự tánh mà hư vọng] lập ra một cái tri kiến nữa, vọng trần bèn sanh khởi. Vì thế có vọng niệm. Nếu chẳng thấy có tri kiến, trí tánh sẽ thanh tịnh, khôi phục sự mầu nhiệm, lặng trong, ý niệm tan lẫn. Một căn đã trở lại nguồn, sáu căn đều thành giải thoát. Đã không có căn, trần, lục thức, sẽ không có chủng tử luân hồi. Nhất điểm chân tâm độc lập, không nương tựa, muôn kiếp thường tồn tại, vĩnh viễn chẳng có sanh diệt”.
Pháp này chỉ thẳng tâm người, một điều đã giải quyết xong, trăm pháp đều thỏa đáng. Đấy chính là bí quyết mầu nhiệm để thành Phật, thành tiên vậy. Muốn cầu trường sanh, hãy nên tham cứu từ chỗ này!
(Chánh văn) Dục cầu thiên tiên giả, đương lập nhất thiên tam bách thiện. Dục cầu địa tiên giả, đương lập tam bách thiện.
(正文)欲求天仙者。當立一千三百善。欲求地仙者。當立三百善。
(Chánh văn: Muốn cầu thành thiên tiên, hãy nên lập một ngàn ba trăm điều thiện. Muốn cầu thành địa tiên, hãy nên lập ba trăm điều thiện).
Đoạn này nhằm tổng kết đoạn văn trước đó, nhằm nói “làm lành chính là đường lối để thành tiên”. “Lập” (立) là tích lũy. Nói một ngàn, hoặc nói ba trăm nhằm lập định số mục, kỳ hạn, quyết định ắt phải thành, chẳng sanh lòng thoái chuyển.
Thiên tiên và địa tiên sai khác là do tạo lập điều thiện nhiều hay ít sai khác. Trong thiên sách này đã tự nói, xin hãy dùng cách nói “đầu sào trăm thước, lại tiến thêm một bước nữa” để luận định, ngõ hầu người đã được thành tiên chẳng còn đọa lạc, một mực siêu thăng. Người chưa được thành tiên, chẳng cần phải cậy nhờ chi khác, mà liền đạt được. Theo như kinh Lăng Nghiêm đã dạy, tiên có mười loại:
1) Một là do mong thân thể kiên cố, mà ăn các loại thuốc trường sanh, tức là do ăn uống [dược vật] mà được viên thành, gọi là Địa Hành Tiên.
2) Hai là người do mong kiên cố thân thể, bèn ăn thảo mộc, tức là do ăn uống dược thảo mà được viên thành, gọi là Phi Hành Tiên.
3) Ba là kẻ do mong kiên cố thân thể, mà ăn các loại kim đan, tức là do biến hóa mà viên thành, gọi là Du Hành Tiên.
4) Bốn là kẻ do mong kiên cố, mà tập luyện các động tác, tức là do Khí và Tinh mà viên thành, gọi là Không Hành Tiên.
5) Năm là kẻ do mong kiên cố cái tâm, mà gìn giữ các loại tân dịch[111], tức là do thấm nhuần mà viên thành, gọi là Thiên Hành Tiên.
6) Sáu là kẻ do mong kiên cố cái tâm, mà hấp thụ tinh hoa của nhật nguyệt, tức là do hấp thụ tinh túy mà viên thành, gọi là Thông Hành Tiên.
7) Bảy là kẻ do mong kiên cố cái tâm, bèn trì chú thuật, tức là do pháp thuật mà được viên thành, gọi là Đạo Hành Tiên.
8) Tám là kẻ do mong kiên cố cái tâm, bèn trầm tư tĩnh niệm, tức là do suy tưởng, nghĩ nhớ mà viên thành thì gọi là Chiếu Hành Tiên.
9) Chín là do mong kiên cố cái tâm, mà hành phép giao cấu, tức là do cảm ứng mà viên thành, gọi là Tinh Hành Tiên.
10) Mười là do kiên cố cái tâm, mà hành các pháp biến hóa, tức là do giác ngộ mà viên thành, thì gọi là Tuyệt Hành Tiên[112].
Lại nói:
– Những loại ấy đều chẳng nương vào Chánh Giác, tu tập theo những thứ vọng niệm khác, giữ tâm tưởng mong thân thể được bền vững, dạo chơi nơi núi rừng, hoặc những chỗ không ai lui tới, thọ ngàn vạn năm. Đấy cũng là luân hồi, do vọng tưởng lưu chuyển. Khi báo hết, sẽ trở lại [đầu thai] vào trong các đường.
Chung Ly [Quyền] nói:
– Tiên có năm loại:
1) Một là chẳng ngộ đại đạo, chỉ mong chóng được thành tựu, tâm như tro tàn, thần thức thâu liễm vào bên trong, trong Định đã có thể xuất hồn, đến cuối cùng chỉ thành loài quỷ thanh hư, nên gọi là Quỷ Tiên.
2) Hai là tạm ở trong loài người được nghe đại đạo, nhưng nghiệp nặng, phước nhẹ, kiên trì giữ mãi tà niệm thiên lệch, không thay đổi, dứt bỏ ngũ muội[113], chẳng biết có lục khí[114] [để điều hòa], tuy quên mất bảy món tình cảm, chẳng biết có mười giới. Tuy hành pháp thổ nạp (hít thở theo phương pháp chuyên biệt của Đạo gia) lại chê cười pháp thổ nạp là sai, mê đắm cách thái âm bổ dương[115], quở người thanh tịnh là ngu ngốc. Ngồi một mình nín thở, nhịn ăn, không ăn ngũ cốc, chẳng hiểu vô vi, chỉ có thể sống lâu, an lạc mà thôi. Đó gọi là Nhân Tiên.
3) Ba là phỏng theo lý thăng giáng trong trời đất, tuân theo đạo lý giao cảm của mặt trời và mặt trăng. Đối với thân thể, dựa theo năm tháng, mỗi ngày dựa theo thời khắc [để tu luyện tương ứng], hiểu biết cách phối ứng long hổ với Khảm Ly[116], thâu hồi Chân Nhất, tách biệt ngũ hành, định lục khí[117], tuân theo bát quái, điên đảo cửu châu[118], tam điền[119] đắp đổi, luyện thành đan dược, trường sanh bất tử thì gọi là Địa Tiên.
4) Bốn là kẻ đã đắc Địa Tiên bèn rèn luyện thân thể để sống mãi trong cõi đời, tích lũy thành công, siêu phàm nhập thánh, qua lại tam sơn[120], gọi là Thần Tiên.
5) Năm là đã đắc thần tiên, truyền đạo trong cõi đời, có công với đạo, có đức hạnh trong nhân gian. Công hạnh tròn đủ, siêu thăng Động Thiên[121], nhưng lại nhập trong cảnh hư vô tự nhiên thì gọi là Thiên Tiên.
Đáp lời hỏi về đại đạo bèn nói:
– Trong muôn vật, linh quý nhất là con người. Nếu có thể thấu hiểu tận cùng đạo lý trong muôn vật, thấu hiểu tột cùng tánh của chính mình, cùng lý tận tánh. Cho đến đối với mạng bèn bảo toàn sanh mạng sao cho hợp với đạo, tự nhiên sẽ kiên cố bằng với trời đất, tồn tại lâu dài giống như vậy. Như vậy thì gọi là Chánh Giác, hoặc gọi là Đại Đạo.
“Quả” là vật gì vậy? Nói chung, ắt mong nhận biết, giữ lấy tự tâm, chẳng rơi vào tri giải nơi tình kiến. Chẳng nghe ngài Tăng Na[122] đã nói hay sao? Ngài Tăng Na nói: “Muốn hiểu tự tâm thì chỉ cần trong cuộc sống hằng ngày, đi, đứng, ngồi, nằm, thường tự suy xét sâu xa, [khi chính mình] gặp sắc hay gặp thanh, lúc còn chưa dấy lên sự giác quán, tâm ở chỗ nào? Là có tâm, hay không có tâm? Đã chẳng rơi vào chỗ Có hay Không, tự nhiên tâm châu riêng chiếu sáng ngời, thường soi thế gian”. Đấy chính là Chánh Giác, đấy chính là đại đạo, chẳng cách biệt chừng bằng mảy trần, trong một sát-na, đoạn trừ tướng tương tục. Do vậy, Lữ Tổ vì không học thuật luyện kim mà siêu thoát cõi đời. Lại do nghe nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (hãy nên chẳng trụ vào đâu mà sanh tâm), trong lòng mới rỗng rang. Về sau, do gặp thiền sư Hoàng Long, [Lữ Tổ] mới được ấn chứng.
Tôn Chân Nhân (Tôn Tư Mạo) đã dốc trọn tâm y nơi sách thuốc, bèn được siêu thoát cõi đời. Ông lại thường đến thưa hỏi luật sư Đạo Tuyên nhà Đường. Về sau, [Tôn Chân Nhân] đến Thành Đô, lại nghe một vị Tăng hành cước vô danh giảng giải phẩm Đa Bảo Tháp [trong kinh Pháp Hoa] mới chứng chân. Đấy chính là “đầu sào trăm thước, tiến thêm một bước nữa”. Nếu như tạo lập điều thiện, dẫu chẳng cầu thành tiên, cũng là tự thường hằng, há có số lượng ư?
Đời Hán, Chung Ly Quyền truyền thuật luyện đan cho Lữ Tổ Thuần Dương, điểm sắt thành vàng có thể cứu đời. Lữ Tổ hỏi: “Rốt cuộc [sắt đã biến thành vàng ấy] có biến đổi hay không?” Ông Chung nói: “Năm trăm năm sau, nó sẽ trở lại thực chất”. Lữ Tổ suy nghĩ, thưa: “Như vậy thì sẽ có hại cho người năm trăm năm sau, con chẳng muốn học”. Chung Ly Quyền khen ngợi: “Tu tiên thì phải tích lũy ba ngàn hạnh, tám trăm công. Do một lời này của ngươi, ba ngàn tám trăm [công hạnh] đã tròn đủ”.
Lại như Vạn Thiện Đồng Quy Tập chép:
– Vạn thiện là tư lương để Bồ Tát nhập đạo. Các hạnh chính là thềm bậc trợ đạo của chư Phật. Nếu có mắt mà chẳng có chân, há đến được chốn thanh lương? Đắc Thật mà quên Quyền, làm sao về quê hương tự tại cho được? Đấy là Chân Không và Diệu Hữu luôn cùng thành tựu lẫn nhau. Mây giăng cửa Từ, sóng trào biển hạnh.
Nhìn từ chỗ này, sẽ biết Phật và Tiên nhất quán, đều cùng chú trọng dạy con người hành thiện lập công. Vì thế, tuy khác tên với Nho mà thật sự là tương đồng. Nương theo cách tham cứu khác nhau, nhưng đều quy về một. Do vì chia thành các phái để tìm cầu cội nguồn mà lập thành ba. Do vì đã chia thành các môn, [chúng sanh bèn] chấp vào hình tướng. Nay khuyên người đời, hãy nên tham cứu sâu xa lý này, đừng sanh phân biệt, chỉ nên lập công hành thiện, thì cầu Nho, cầu Phật, cầu tiên đều từ nơi đây, muôn phần chẳng sai sót tí nào!
(Chánh văn) Cẩu hoặc phi nghĩa nhi động, bối lý nhi hành.
(正文)茍或非義而動。背理而行。
(Chánh văn: Nếu có kẻ dấy lòng phi nghĩa, làm chuyện trái nghịch đạo lý).
Từ chỗ này cho tới câu “tử diệc cập chi” (cho đến cũng phải chết), nói cặn kẽ về chuyện do làm ác mà chuốc họa. Hai câu [trên đây] chính là đề cương nhằm nêu khái quát, hoàn toàn tương phản với hai câu “thị đạo tắc tấn” (hợp đạo thì tiến). “Động” (動) là manh nha trong tâm, “hành” (行) là thể hiện thành sự. Trước hết, Thái Thượng nói hai câu này nhằm dạy con người: Hễ bắt đầu khởi tâm động niệm, thốt lời, làm việc, phải suy nghĩ, thẩm định cặn kẽ, ý nói: Phải dè dặt, chớ nên trái vượt vậy.
Cổ nhân nói: “Tình cảm của con người giống như nước. Quy củ, lễ pháp là đê đập. Đê đập chẳng vững vàng, ắt sẽ đến nỗi nước xoáy vỡ đê, lũ lụt. Nếu tình cảm của con người chẳng được chế ngự, sẽ buông lung, rối loạn, chẳng có kỷ cương. Vì thế, trừ khử tình chấp, dứt vọng, ngăn ác, dứt tà, chớ nên quên mất quy củ dẫu trong một hơi thở”.
Lại nói:
– Tuấn mã ruổi chạy mà chẳng dám chạy bừa là do có hàm thiếc chế ngự. Tiểu nhân ngang ngược, nhưng chẳng dám buông lung [làm càn] là do có hình pháp khống chế. Tuy ý thức buông lung, chẳng dám phan duyên, là do công năng của giác chiếu. Vì thế, học nhân mà chẳng có giác chiếu, sẽ như ngựa khỏe chẳng có hàm thiếc, tiểu nhân chẳng có hình pháp, dùng điều gì để đoạn tuyệt tham dục, đối trị vọng tưởng đây?
Tác Tĩnh Hư hiếu học, chẳng vâng theo lời mời mọc của quan đứng đầu châu quận. Thái Thú là Âm Đạm đã từng đến chỗ ông ta, [đôi bên đàm luận] suốt ngày, quên cả về. Khi quay về, [Thái Thú] than thở: “Sự dư dật [theo như quan niệm] của người đời chẳng phải là sự phú quý trong tánh. [Sự phú quý trong thế gian chỉ là đối ứng với] mắt ưa năm sắc, tai chuộng âm thanh. Tiên sinh vứt bỏ những thứ mà mọi người thâu thập để tiếp thu những gì người ta chê bỏ. Tuy thân sống trong cõi trần tục, mà tâm ngự nơi nghĩa lý. Há có thể dùng vật ở bên ngoài và những cảnh ngộ bên ngoài để lay động cái tâm ấy hay sao?”
Do ông Tác đã thấy nghĩa lý chuyên ròng, nhuần nhuyễn; vì thế, vâng giữ, tuân theo, xuất phát tự nhiên. Người hiện thời dấy lên ý niệm, cư xử phi nghĩa nghịch lý, làm sao có thể noi theo điều này cho được?
(Chánh văn) Dĩ ác vi năng.
(正文)以惡為能。
(Chánh văn: Coi chuyện làm ác là tài năng).
Câu này chuyên nói về nhân sự (mối liên hệ giữa con người với nhau). Tánh con người vốn lành; thế mà lại coi làm ác là tài năng, tức là đã đánh mất bản thể của tánh thiện vậy. Ngu ý cho rằng, bốn chữ ấy (“dĩ ác vi năng”) chính là cội gốc khiến cho kẻ ác dù to hay nhỏ bị mắc bệnh (chuốc lấy phiền não) trong ngàn đời vạn kiếp vậy! Vì thế, xếp điều này đứng đầu các sự ác. Con người tuy cực ngu, chẳng có kẻ nào cam lòng làm người ác, nhưng cũng chẳng có ai không muốn là bậc tài năng. Chỉ vì hiểu lầm chữ Năng (能, tài năng), cho nên càng làm càng trật; đó là cái gốc khởi đầu vậy. Nói “người tài năng thì hữu dụng, kẻ chẳng có khả năng thì vô dụng. Người tài năng sẽ có kẻ khác kiêng sợ, kẻ không có tài năng sẽ bị người khác khinh rẻ, bắt nạt”, [quan niệm sai lầm ấy] kéo dài đã lâu, dù cũng tự biết đấy là ác, nhưng vẫn nghiễm nhiên làm kẻ ác, chẳng kiêng dè, lại còn che đậy bằng những danh xưng đẹp đẽ!
Tham là cậy thế lấn hiếp, đàn áp, coi chuyện chiếm được nhiều tài vật của người khác là tài năng, lại gọi hoa mỹ là “trí mưu” (mưu trí). Kẻ tàn độc coi chuyện cường bạo, ngang ngược, vô lại, giảo quyệt, xảo trá hãm hại kẻ khác là tài năng, lại gọi hoa mỹ là “lạt thủ” (辣手, thủ đoạn sâu cay). Kẻ dâm đãng coi chuyện phóng túng gian dâm, giả vờ hào hoa để quyến rũ kẻ khác, dụ dỗ vợ con của kẻ khác là tài năng, lại gọi hoa mỹ là “phong lưu”. Kẻ nịnh bợ dùng chuyện đón ý, thốt lời ve vuốt để lừa gạt là tài năng, lại gọi hoa mỹ là “lanh lợi”. Kẻ sàm báng coi việc dựng chuyện, đặt điều là tài năng, lại gọi hoa mỹ “khéo ăn nói”. Những chuyện giống như thế chẳng thể thuật trọn! Đua khôn tranh khéo, coi đó là chuyện hơn người, kẻ hư ngụy noi theo thói đó, chẳng ngờ chi. Kẻ khác nghe thấy [những trò xấu ác đó], lại quen coi đấy là những giai thoại. Vì thế, đôi khi có một, hai người chẳng có trí mưu, chẳng có thủ đoạn độc ác, chẳng phong lưu, chẳng lanh lợi, chẳng có tài ăn nói, không có ai chẳng bị [kẻ khác] cười chê là thứ bất tài trong cõi đời, là thứ đồ bỏ chẳng hợp thời vậy! Cho đến khi chuyện đã qua rồi, báo ứng xảy đến, đóng nắp quan tài rồi mới luận định [công và tội], kẻ “tài năng” như thế nhiều lắm, nay còn lại chi?
Than ôi! Khuyên khắp người đời, chẳng thà tạm khuất mình là phường bất tài, làm thứ đồ bỏ, để đổ công dốc sức hướng thượng đến cùng. Như thế thì sẽ bình đạm, nhưng đầy ý vị, sẽ là bình ổn, chẳng thất bại vậy. Nếu chẳng tin điều này, xin hãy xem những vị thiện nhân trong cõi đời, có ai mà chẳng được trời chở che, chẳng được người khác kính trọng hay chăng? Còn như những kẻ ác có đứa nào chẳng bị trời phạt, người ghét hay chăng?
Đức Phật dạy:
– Hết thảy kẻ ác trong thế gian chết đọa vào địa ngục. Trong địa ngục, có một vị chủ nhân, Ngưu Đầu A Bàng, tánh tình hung ác, chẳng có lòng từ bi, nhẫn nại. Thấy các chúng sanh chịu đựng ác báo, chỉ lo họ không khổ, chỉ lo chẳng tàn độc. Nếu hỏi ngục tốt: “Chúng sanh chịu khổ, đáng nghĩ thương xót sâu xa, thế mà ngươi thường ôm lòng tàn khốc, độc ác, chẳng có tâm từ mẫn?” Ngục tốt đáp rằng: “Những kẻ tội ác như thế, chịu các nỗi khổ đều là do bất hiếu với cha mẹ, hủy báng Tam Bảo, nhục mạ người thân, họ hàng, khinh mạn sư trưởng, vu cáo, hãm hại người lương thiện, giết hại chúng sanh, tạo các ác nghiệp. Hạng người như thế đến đây hứng chịu nỗi khổ. Thường là cho đến ngày họ được siêu thoát, [chúng tôi] thường luôn khuyên răn, dẫn dụ: ‘Nỗi khổ cùng cực ở nơi đây chẳng thể chịu đựng nổi! Ngươi nay được thoát ra, chớ làm ác nữa’. Nhưng những tội nhân ấy vẫn chẳng cải hối, hôm nay được thoát ra, mấy chốc đã quay lại, xoay vần luân hồi, chẳng biết thống khổ. Do vì chuyện này, đối với tội nhân, tôi chẳng có từ tâm”.
Do vậy biết kẻ làm ác nhất định đọa địa ngục. Như nay đã được sống trong cõi đời chừng khoảng sát-na, hãy nên tận lực thi hành nhân từ, rộng tu các điều lành, tiêu trừ tam chướng, thanh tịnh sáu căn, niệm Phật, trì trai, tham Thiền, học đạo, vượt thoát tam giới, xa lìa tứ sanh, đừng buông lung theo tham, sân, si, mà hành giết, trộm, dâm. Đã tạo những ác nghiệp ấy, sẽ hứng chịu ác quả. Lời Phật chẳng dối, mọi người hãy nên tin chắc.
Đời Đường, Ngư Tư Huyên hết sức thông minh, nhạy bén. Vũ Hậu (Vũ Tắc Thiên) muốn chế tạo một cái rương để cho kẻ khác [có thể viết giấy bỏ vào đó nhằm] tố cáo những chuyện thầm kín của kẻ khác. Không người thợ nào chế tạo được, Tư Huyên chế tạo cái rương hết sức vừa ý bà ta. Do vậy, có người bỏ vào cái rương ấy lời tố cáo Ngư Tư Huyên rằng: “Tại Dương Châu, Tư Huyên đã vì Từ Kính Nghiệp chế tạo một loại đao luân dùng để xung trận có thể sát thương rất nhiều quan quân”. Tư Huyên liền bị Vũ Hậu giết chết.
Đời Đường, Từ Kính Nghiệp dấy binh [với chiêu bài “khôi phục nhà Đường, lật đổ Vũ Hậu”]. Vũ Hậu lo lắng, muốn bắt bớ dữ dội để trừ khử những kẻ khác ý. Có gã Tác Nguyên Lễ dò đoán ý chỉ, bèn dâng thư tâu rằng: “[Nước nhà] đang gặp cảnh biến loạn khẩn cấp”. Vũ Hậu vời đến hỏi chuyện, [rất vừa ý], bèn phong cho hắn chức Du Kích Tướng Quân, kiêm chức thôi sứ[123], trông coi hình ngục thuộc Lạc Châu Mục Viện[124]. Hắn nuôi mấy trăm đứa vô lại. Hễ muốn hãm hại ai, bèn sai bọn chúng cùng nhau tố cáo ở mấy nơi. Lời tố cáo đều giống hệt như nhau. [Kẻ bị hại] đã bị hạ ngục, hắn bèn dùng cực hình uy hiếp, không ai chẳng tự buộc tội, nhận tội. Hễ hắn thẩm vấn tù nhân, ắt sẽ truy vấn ráo riết đến cùng, khiến cho mấy trăm người bị liên lụy! Về sau, do hắn ăn hối lộ, bị bắt đưa ra xử. Hắn chẳng nhận tội, nha lại nói: “Mang cái lồng sắt của ông đến đây”. Nguyên Lễ bèn nhận tội, chết trong ngục.
Cùng một thời, lại có gã Châu Hưng, tánh tình tàn khốc, cùng phe đảng với bọn Tác Nguyên Lễ. Có người tố cáo Châu Hưng mưu toan phản nghịch, Thái Hậu tức giận, sai Lai Tuấn Thần tra xét. Khi ấy, Tuấn Thần cùng Châu Hưng thẩm phán. Tuấn Thuần bảo Châu Hưng: “Tù nhân phần lớn chẳng nhận tội, làm thế nào đây?” Châu Hưng nói: “Dễ mà! Lấy một cái chum to, dùng than lửa nung nóng bốn phía, bỏ tù nhân vào trong đó. Chuyện gì mà nó chẳng thừa nhận!” Tuấn Thần sai đốt than nung chum to, đúng như cách Châu Hưng đã nói, bảo Châu Hưng: “Tôi tuân theo mệnh lệnh của triều đình thẩm vấn anh, mời anh bước vào cái chum này!” Châu Hưng kinh hoảng, nhận tội, bị đày đi Lãnh Nam, bị cừu gia tranh nhau giết chết.
Thời Tống Huy Tông, Tống Thăng vào thời đầu niên hiệu Chánh Hòa, giữ chức Chuyển Vận Sứ[125] tại Kinh Tây, chuyên phụ trách tu sửa [các công trình] thuộc phía Tây hoàng cung. Hắn đã từng bảo [cấp dưới]: “Hãy nhanh chóng hoàn thành công việc này, sẽ ngay lập tức được thưởng”. Hắn thường dùng xương trâu bò [đốt thành tro] hòa với tro [để làm vữa trát tường]. [Xương trâu bò] chẳng đủ, bèn cho đào xương người từ các nghĩa địa thí[126], đốt thành tro để thay thế. Khi ấy, quan Vận Phán (Chuyển Vận Phán Quan) là Tôn Huống can ngăn, nhưng Tống Thăng không nghe. Tôn Huống bèn viện cớ bệnh tật, xin từ chức. Tống Thăng do có công [hoàn thành nhanh chóng công trình ấy], được thăng làm Học Sĩ, được vua sắc phong làm Điện Trung Giám. Hắn bỗng bị bệnh ngặt nghèo, tự nói: “Tội ác đốt xương, sẽ bị diệt môn”. Hắn hộc máu mà chết. Không lâu sau, cả nhà hắn chết sạch. Về sau, Tôn Huống bị bệnh chết đi, tới cõi âm, thấy Tống Thăng ở trên giường sắt, cột đồng, máu đầm đìa khắp thân. Lại tới một ngôi điện, quan cõi âm bảo: “Ông khuyên mà hắn chẳng nghe, bèn bỏ quan quay về, đúng là người có lòng, sẽ được tăng thọ mười hai năm”. Do vậy, được sống lại, kể với người khác chuyện ấy.
Ôi! Trong thiên hạ, điều thê thảm nhất không gì bằng cả họ tuyệt diệt! Tống Thăng do ý niệm tham cầu được thưởng bèn mắc nỗi khổ ấy! Cổ nhân nói: “Ác do tham dấy lên, tham là cội gốc của ác. Cách để trị ác cốt yếu là trừ tham”, đúng lắm thay! Còn như những kẻ khác cứ nghĩ làm ác là tài năng chẳng thể nêu trọn. Hơn nữa, nỡ lòng nào chép trọn, mọi người hãy từ những chuyện này mà phản tỉnh!
Trung Giới Kinh[127] chép:
– Nếu kẻ nào làm một điều ác, ý sẽ chẳng an định. Làm mười điều ác, khí lực hư nhược. Làm hai mươi điều ác, sẽ trắc trở, suy bại, hao tán. Hễ xử sự trái lẽ, làm năm mươi điều ác, sẽ trọn chẳng có người phối ngẫu. Cho đến trăm điều ác, sẽ bị tai họa nước lửa, bị dính dáng vào những tai họa ngang trái, kỳ quái, bị hành hình chết thảm. Làm năm trăm điều ác, con cháu tuyệt tự. Làm một ngàn điều ác, sẽ sanh ra đứa phản thần nghịch tử, khiến cả họ bị diệt tộc. Con cháu đời đời thay đổi hình thể, sanh làm loài cầm thú”. Phàm kẻ chất chứa điều ác ngập tràn, sẽ họa hại đến đời sau, chính mình đọa vào địa ngục. Đấy vẫn là còn nhẹ lắm! Đối với lời giáo huấn này, mọi người hãy thời thời khắc khắc nghĩ nhớ thì sẽ tự chẳng làm ác.
(Chánh văn) Nhẫn tác tàn hại.
(正文)忍作殘害。
(Chánh văn: Nhẫn tâm làm chuyện tàn ác, độc hại).
Câu này chuyên nói về sanh mạng của muôn vật. Đại đức là Sanh, thế mà nhẫn tâm làm chuyện tàn hại. Tàn nhẫn gây tổn thương, ác độc làm hại chính là sự ác to lớn tột bậc, xuất phát từ lòng tàn nhẫn, mặc tình buông thả, chẳng có mảy may tâm trắc ẩn, thương xót. Các điều thiện vốn xuất phát từ lòng nhân từ, các điều ác vốn do lòng tàn nhẫn. Trừ bỏ lòng tàn nhẫn, thuận theo lòng Từ, công phu để thành thánh, thành hiền, thành Phật, thành tiên ở ngay nơi đó.
Tham sống, sợ chết, yêu thương người thân, quyến luyến chốn cũ, biết đau đớn, cảm thấy khổ sở, loài vật giống hệt như con người. Nhưng con người có trí, loài vật vô trí. Người có thể nói, loài vật chẳng nói được. Con người có sức mạnh, loài vật sức yếu. Người hiện thời nấu một bữa ăn, không chỉ giết một con vật. Nếu dùng bồ câu, chim ngói, chim cút, chim sẻ, phải giết mười mấy mạng để được một nồi canh. Nếu dùng trai, sò, tôm, hến, [để nấu] một nồi canh, ắt giết hơn trăm mạng! Lại có kẻ do thích vị ngon, cầu thỏa ý, bèn tìm tòi những món ngon vật lạ từ chốn xa xôi, hoặc chuẩn bị các loài vật để chờ nấu nướng, hoặc đem cua còn sống nhăn ngâm vào hèm rượu [để làm cua muối], nuôi cá để làm chả, chất than nướng sống, chọc tiết uống máu tươi, mổ bụng [con vật] lấy bào thai, lột da, bóc mai, trăm kiểu đun nấu, ngàn cách chế biến. Ăn no kềnh bụng bèn vênh váo đắc ý; hơi chậm trễ bèn cáu kỉnh, chửi bới kẻ nấu nướng. Suy nghĩ sâu xa, thống thiết, sẽ [cảm thấy] rất kinh sợ. Kinh dạy: “Nhất thiết úy đao trượng, vô bất ái thọ mạng” (Hết thảy đều sợ đao trượng, không loài nào chẳng yêu quý thọ mạng). Vì thế, Vương Khắc giết dê, dê vùng chạy đến chỗ khách sụp lạy cầu cứu[128]. Trâu Sanh xẻ thịt con nai, [khi sắp bị giết], nai quỳ sụp, khóc thất thanh[129]. Con chim kinh hãi sa mình xuống bàn, cầu vua nước Ngụy cứu mạng. Con thú cùng đường chạy tuôn vào lều mong họ Khu cứu sống. Lại như quan Nội Hàn họ Trầm làm Thông Phán[130] ở Giang Ninh, giết dê trong bếp, nhiều lượt bị mất đao. Rình xem, thấy dê ngậm đao giấu dưới chân tường. Dương Kiệt lúc làm Đề Hình[131], đến chơi núi A Dục Vương. Ngủ trưa nằm mộng thấy hơn trăm người đàn bà dường như có điều muốn bẩm báo. Ông bèn ngầm xuống bếp dã chiến[132] tìm xem, mới biết những con sò cầu xin được sống. Hễ có sanh mạng bèn yêu luyến, có tình chấp như thế đó. Huống hồ khi chúng bị bắt, chẳng có chỗ nào trốn khỏi cái chết, đoái nhìn đồng loại, lưu luyến mà chẳng [làm cách nào khác] được. Kêu ai oán khi bị hành hình, ôm nỗi bi thương mà chết. Đã bị cắt xẻ, lại vào chảo, vạc, đủ mọi nỗi đau khổ thấu tận xương tủy. Tình trạng trong lúc ấy, khác nào con người? Người hiện thời ngẫu nhiên bị tổn thương bởi nước sôi, lửa đao, kim đâm, ắt gào thét cầu cứu. Đầu váng, mắt nhức trong chốc lát, đã gọi bác sĩ, mua thuốc, yêu tiếc bản thân dường ấy, sao lại riêng đối với loài vật bèn chẳng sanh lòng thương xót, mặc tình tàn hại, kết oán, tạo nghiệp. Than ôi! Trong các điều ác, chỉ có chuyện này là thê thảm nhất, Phật, tiên khuyên răn, đạo trời tuần hoàn. Hãy nên gấp đặt mình trong hoàn cảnh ấy, sẽ ngay lập tức mạnh mẽ tỉnh ngộ. Do vì các hạng mục [những loài vật] chớ nên giết sẽ được nói đầy đủ trong phần sau, cúi xin những bậc quân tử có lòng nhân hãy hành theo đó!
Ngày ta được sanh ra, chính là ngày mẹ mắc nạn. Cha mẹ còn sống, cố nhiên là giữ tâm trong sạch, dốc trọn lòng kính. Cha mẹ đã khuất, càng nên ăn chay, đau xót. Há nên vì thỏa thích bụng miệng mà giết chóc các loài ư? Do vậy, ngày sinh nhật chớ nên sát sanh!
Người đời hễ không có con bèn đau buồn, có con bèn vui sướng. Nay để mừng sanh con, bèn khiến cho con kẻ khác phải chết. Hơn nữa, trẻ thơ mới sanh ra, chẳng cầu [cho nó] trường thọ, lại ngược ngạo tạo nghiệp ư? Vì thế, sanh con chớ nên sát sanh!
Tang ma thì lấy đau buồn làm điều chánh yếu. Giết chóc là tội đứng đầu, bày cỗ bàn thịnh soạn trước linh vị người đã khuất, chỉ để cho người sống no say. Xếp cỗ cúng xa xỉ trước quan tài, càng tăng thêm oán nghiệp. Vì thế, tang sự chẳng thể sát sanh!
Cúng tế vào dịp Xuân Thu, hoặc ngày giỗ cúng quải tổ tiên, vốn là con cháu dốc cạn lòng thành, chỉ nên phóng sanh hòng tiêu tội trước [của tổ tiên], há nên giết hại để tạo thêm nỗi ương họa mới nữa ư? Vì thế, giỗ chạp chẳng thể sát sanh!
Người bị bệnh tật liền sát sanh cúng thần cầu phước, chẳng biết chính mình muốn cầu được sống, lại ngược ngạo giết mạng kẻ khác để mạng ta được sống! Nếu thần có linh, há đến hưởng [cỗ cúng] hay sao? Vì thế, cầu đảo chẳng thể sát sanh!
Bình đẳng là Phật, chánh trực là thần, trọn chẳng có chuyện do được hối lộ mà giáng phước. Người thời nay hễ cầu khẩn, bèn hứa nguyện giết chóc. Đó gọi là ác nguyện. Dẫu được thỏa lòng, [sẽ mắc phải] quả báo hung hiểm về sau! Vì thế, hứa nguyện chớ nên sát sanh!
Vợ chồng kết hôn nhằm nối tiếp dòng dõi muôn đời, là cội nguồn của đời đời. Dòng họ nương nhờ vào đấy, nay bèn dốc lòng giết chóc, gieo cái nhân ác [khiến cừu nhân] truy tìm báo cừu. Đấy chính là tụ tập cơ duyên giết chóc trong chốn khuê môn. Vì thế, kết hôn chẳng thể sát sanh!
Chủ khách chén anh chén chú, chẳng nghe tiếng gào ai oán trên thớt. Tiệc tùng cười nói vang nhà, nào có thấy nỗi khổ sở trong nồi? Vì thế, đối với ý nghĩa “dùng hai cái chén[133] đựng ngũ cốc, rau dưa để cúng bái” hãy nên phỏng theo. Do vậy, đãi đằng khách khứa, chớ nên sát sanh!
Trời cao chẳng sanh kẻ nào không có lộc. Nếu có một tài, một nghề, đều có thể có của ăn, của để; sao lại khổ sở vung đao, thọc đao vậy? Đã thế, càng giết, càng nghèo túng. Vì thế, chớ nên kiếm sống bằng cách sát sanh!
Cắt xẻ cầm thú để béo thân mình, làm sao phân định giữa người linh thông và phường xuẩn ngốc? Nấu máu thịt để lèn đầy ruột gan, điên đảo quá mức! Huống hồ mỡ béo dễ hết, oán nghiệp vẫn còn ư? Do vậy, để phụng dưỡng, chớ nên sát sanh!
Giết một mạng để một mạng được sống, kẻ có lòng nhân chẳng làm. Huống hồ đối với chuyện định đoạt sanh tử, chưa chắc đã có thể sống ư? Hại loài vật để chữa bệnh, chỉ tăng thêm oán gia sau khi đã chết. Vì thế, dùng thuốc chẳng thể sát sanh!
Người bệnh cầu được an lành, cũng giống như loài vật ghét bị giết chóc. Người thời nay nói “sanh mạng loài vật khó thể kéo dài, theo đúng lẽ, đáng nên bị mổ xẻ, nấu nướng”, cũng giống như nói: “Kẻ bị bệnh tàn phế thảy đều đáng đem giết sạch” đó ư? Vì thế, dưỡng bệnh chẳng thể sát sanh!
Đạo sĩ sau khi hoàn tất pháp hội cầu phước tiêu tai, dùng lễ vật hậu hĩnh để cảm tạ thần tướng. Lớn thì dê, lợn, nhỏ thì tam sanh[134]. Thần thánh há khăng khăng thỏa thích bụng miệng mà giáng tai họa cho kẻ tu tập, tích lũy công đức ư? Vì thế, lễ tạ thần tướng chớ nên sát sanh!
Gần đây, thế tục vào đêm Giao Thừa, lớn thì mổ dê, nấu lợn. Kém hơn thì dùng gà, cá, đầu lợn. Nào có biết lúc tháng Chạp hết, đầu Xuân chính là khi trăm thần, tổ tiên cùng giáng lâm soi xét [cõi phàm]? Vì thế, đêm Giao Thừa chẳng thể sát sanh!
Khi công danh thăng tấn[135], chính là lúc lòng nhân ái phải nên tràn trề, sao lại nhẫn tâm khiến cho loài vật bị chết yểu, [khiến cho chúng] nẩy sanh nỗi đau u uẩn? Tàn bạo giết chết, tổn thương sinh vật, kiêu căng, xa xỉ, khiến cho phẩm đức [của chính mình] suy bại? Vì thế, gặp dịp vinh hiển, chớ nên sát sanh!
Biếu quà vốn là lễ nghi tốt lành. Do thức ăn tươi béo mà dấy động ý niệm giết chóc. Chính mình đã vì mọi người mà giết chóc, chỉ riêng ta lãnh chịu oan khiên. Đối với người nhận quà, bất quá là thỏa thuê một bữa, nhưng họ chẳng cảm nhận ân đức [biếu xén món ngon vật lạ của ta]. Vì thế, để biếu tặng quà, chớ nên sát sanh!
[Bày tiệc] tiễn biệt, há lẽ nào vô tình? Canh chay cũng có thể giãi bày trọn hết tấm lòng. Cớ gì cứ phải xa xỉ thừa mứa một phen, để rốt cuộc chất chứa cả đống tiếng kêu gào oán hờn ư? Do vậy, tiễn biệt chớ nên sát sanh!
Kẻ nuôi cá vàng, tính ra ắt phải dùng trứng loài trùng nhỏ, tép riu số đến cả vạn. Kẻ nuôi hạc trắng, phải dùng trăm ngàn con cá nhỏ. Người phú quý do sướng mắt vui tai [mà nuôi nấng những thứ chim quý, cá kiểng], đã tạo thành sát nghiệp. Vì thế, chớ nên sát sanh để nuôi động vật làm kiểng!
Những điều vừa nói trên đây đều là nói đại lược, khái quát. Người đọc hãy nên từ đây mà suy rộng ra, ắt trong tấc lòng sẽ có tâm lượng như trời che đất chở vậy.
Ông Hoàng Lỗ Trực có bài tụng rằng: – Ta ăn thịt chúng sanh. Danh khác, Thể chẳng khác! Vốn cùng một chủng tánh, chỉ là khác hình hài. Khổ não chúng đành chịu, ngon béo ta hưởng riêng. Đừng để Diêm Vương xử, hãy tự nghĩ xem sao?
Hãy thử nghĩ [những con vật] hôm qua còn bơi lội, nhảy nhót, bay lượn, hôm nay đã đi về đâu? Dường như còn thấy chúng nó đang còn sống sờ sờ, bay lượn kêu hót, ăn uống. Nay đã hóa thân trong nồi! Lời này thật đáng khiến [cho người nghe] sanh lòng xót xa vậy!
Hứa Chân Quân thuở bé thích săn bắn. Gặp một con nai con, bèn bắn chết. Bên cạnh nó có một con nai to (nai mẹ) cứ liếm mãi một hồi lâu mà nai con chẳng sống lại. Nó bèn lẩn quẩn bi thương rồi chết. Chân Quân mổ thịt, thấy ruột nó đứt từng khúc, bèn ném cung than thở: “Buồn thay! Lòng yêu thương vốn sẵn tánh trời, loài vật mà cũng [yêu thương con cái] tột bậc như thế đó”. Bèn bỏ đi học đạo, giúp người lợi vật, chứng quả tiên.
Đời Đường, Trương Dịch Chi[136] làm lồng sắt để nhốt ngỗng, vịt trong ấy. Chính giữa nhóm lửa than nung đốt. Bên cạnh lồng, đặt đồ đựng chứa nước ngũ vị. Ngỗng, vịt chạy quanh lửa, do khát bèn uống nước. Nước rồi cũng hết mà lửa cứ tăng thêm, [ngỗng, vịt] rụng lông, nát thịt. Hắn bèn lấy thịt chúng để ăn. Về sau, hắn bị Trương Giản Chi giết chết.
Gã lái buôn xứ Thiểm Tây là Nhậm Thiên Nhất hám lợi, tàn nhẫn. Mỗi năm hắn tới vùng Thanh Khẩu thuộc Hải Châu để mổ giết, làm thịt lợn muối. Sau đó, chở thịt lợn về vùng thủy khẩu Cao Bưu, Lục An [để bán]. Ban đêm bị gió to lật thuyền, lợn bị dân chài cướp sạch. Họ Nhậm ở trên bờ kêu khổ, bỗng cột buồm chính của chiếc thuyền lật đổ nhào vào thân, ép hắn thành bánh thịt. Trong mạng có tiền tài thì ở chỗ nào cũng có, cớ gì cứ làm chuyện sát sanh, hại mạng ấy? Kẻ bị báo ứng như gã lái buôn họ Nhậm rất nhiều, mọi người hãy nên tự phản tỉnh. Giả sử vì chẳng thể mưu sanh, bèn ngược ngạo đi theo con đường sai trái, đến nỗi làm những chuyện như làm giặc phóng hỏa cướp của, hoặc làm thủy tặc v.v… chưa chắc sẽ không bị cõi trời dùng cái chết để trả báo cái tội giết chóc vậy.
Đời Tống, Châu Phái thích nuôi bồ câu. Do [chim] bị mèo ăn thịt, Châu Phái bèn bắt mèo, chặt đứt cả bốn chân nó. Mèo kêu gào vài ngày rồi chết. Về sau, Châu Phái sanh con tay chân đều chẳng có.
Lại nữa, Châu Ngang thích ngủ trưa. Trên kèo nhà có tổ chim yến, ba con chim non kêu rít rít chờ mớm mồi. Châu Ngang tức giận, cho chúng ăn quả tật lê[137], chim đều bị nứt bụng mà chết. Về sau, ba đứa con trai của hắn đều câm.
Lại nữa, Trương Lâm tức tối vì ếch kêu, bèn đổ tro nóng [giết chết nó]. Về sau, hắn bỗng bị bỏng vì nước sôi, nứt nẻ mà chết. Gộp lại [những chuyện trên đây] để xem, [sẽ biết] con người có nên nhẫn tâm tàn hại loài vật hay chăng? Đã trót làm, có thể tránh khỏi tội báo hay chăng?
Đời Đường, Lữ Tổ nói: “Ngươi nếu muốn sống lâu hãy nghe lời ta. Đối với mọi chuyện hãy tỉnh táo, giữ sao cho chính mình có lòng khoan dung. Ngươi muốn sống lâu, phải phóng sanh. Đấy là đạo lý tuần hoàn thật sự. Nếu kẻ khác chết, ngươi cứu họ; nếu khi ngươi chết, trời sẽ cứu ngươi. Sống lâu và cầu sanh con chẳng khác gì nhau. Kiêng giết, phóng sanh mà thôi!”
Trong chương Giác Xúc[138] của Kỳ Hề Độ có đoạn viết:
– Nhổ một sợi lông kinh động Tứ Đại, đốt ngải cứu đau khổ toàn thân. Chính là vì mỗi Thể đều là cái Thể vốn trọn đủ các Thể[139], chúng sanh sanh ngay trong tâm ta[140]. Đã có mối liên quan huyết khí, há lẽ nào chuyện bi thảm phát sanh [nơi kẻ khác], lại chẳng hề liên quan đến ta ư? Thế mà lại dùng sự ngon béo từ [thân thể] loài khác để thỏa thích bụng miệng ta. Hãy thử nghĩ ngày hôm qua [chúng nó] bơi lội, nhảy nhót, bay lượn, nay đã về đâu? Dường như còn thấy chúng đang sống sờ sờ bay lượn, kêu hót, ăn uống; [thế mà] đã hóa thành thứ chứa trong nồi! Do vậy, bát trân[141] bày la liệt trước mặt, toàn là kêu gào oán nghiệp. Năm cái đỉnh[142] bày thành hàng, đều là du hồn lẩn quẩn! Tâm tự nhiên xót xa, há còn nuốt nổi ư? Hoặc là chùn tay lại, chẳng thể dám dính dáng đến [chuyện sát hại nữa]. Luôn luôn cảnh tỉnh, niệm nào cũng dấy khởi, vâng giữ sự tỉnh giác, sẽ là đồng thể đại bi, chẳng thấy có tướng chúng sanh [khác biệt với ta], sẽ có thể vận dụng lòng nhân cứu giúp trọn khắp. Khắp toàn thân sẽ là tấm thân tỉnh giác.
Trong phần Giác Tập, ông viết:
– [Cách nói] “gà, lợn, hẹ, mận, hễ gặp bèn ăn” dường như vĩnh viễn là lời lẽ giúp chúng ta bào chữa cho chuyện “dùng cái chết [của loài vật] để nuôi sống [con người], dùng loài vật để cung cấp [thực phẩm] cho con người”. Nếu coi đó là lẽ đương nhiên, há có biết kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu, loài vật còn ghét chuyện tàn hại, thương tổn! Những loài sanh vật được bẩm thọ khí thiên địa, đã có giác tánh, há đành lòng dâng thân cho ta cắn xé ư? Đặc biệt lớn tiếng hô hào [nhằm cảnh tỉnh mọi người, chúng ta] từ lúc còn ẵm ngửa, đã bén mùi vị ngon béo. Tiên thiên chưa đọa[143], bào thai đã quen vị tanh tưởi. Loài có vảy trong ao, loài le nhạn trong vườn, hằng ngày thành món ăn trong bếp. Lợn trong cũi, dê trong chuồng, tùy thời [biến thành món ăn] để chan, gắp. Do huân tập như vậy, khiến cho ta vạn kiếp ngàn lượt luân hồi. Vì thế, thói phàm ăn tháng ngày càng thịnh! Hãy thử ăn những thứ chưa bao giờ nếm tới, khi nhấc đũa sẽ tự cảm thấy do dự. Nếu gặp những món ngon quý chẳng phải là thứ thường ăn hằng ngày, bỏ vào miệng cũng lắm nỗi nghi ngờ, sợ sệt. Vì thế, xứ Ngô Việt coi thịt ếch là ngon lành, người đất Tề trông thấy sẽ rởn da gà! Người xứ U Yên[144] khoái ăn bò cạp, dân Việt trông thấy điếng hồn! Đấy há có phải là do sở thích ăn uống khác nhau, mà là do tập quán lâu ngày thành ra sai khác. Thật sự nghĩ [ta cùng muôn loài] có cùng một tánh, sẽ chẳng nỡ lòng tổn thương thể tánh của [loài khác], há có thể lấy [thân thể] có sanh mạng [của loài khác] để nuôi dưỡng sanh mạng của chính ta? Hễ tháo gỡ được mắc mứu cũ, sáu căn sẽ liền thanh tịnh. Lưới dục tầng tầng, chẳng vung kiếm kim cang mà lưới tự rách. [Nếu cái tâm] có đủ mọi ý niệm giết chóc, sẽ chẳng được sanh vào cõi trường sanh! Xin hãy nghe lời luận định về thói quen, sẽ tự vỡ lẽ!
Phần Giác Uế viết:
– Rết thích ăn mắt rắn, khác nào thức ăn ngon lạ chất đầy trong đồ đựng. Chuột thối rữa quăng cho chim cú, khác nào bầy la liệt ba món thịt tươi! Ấy là vì sở thích ăn uống là do nghiệp tạo ra. Vì thế, nghiệp nặng nề thì tâm sẽ chìm đắm trong thói ham ăn uống, mùi vị [ưa thích] há sanh khởi từ tánh? Tánh tình ngang ngược, sẽ rất ưa chuộng vị thối. Hãy thử nhìn loài ưng, loài cáo xé mồi, sẽ dùng tay áo che mắt, chẳng nỡ ngó. Ruồi nhặng bu theo mùi tanh, mắt thấy lòng muốn nôn mửa. Sao lại trong tiếng nhạc dập dìu, đua nhau bày la liệt trăm ngàn món hải sản; nơi phủ đầy gấm vóc, tìm cầu rộng khắp các thứ thịt rừng sai khác? [Chúng ta ngốn ngấu những món sơn hào, hải vị ngỡ là] thơm ngon ấy ví như bọ hung vò [phân] thành viên. Ăn no đẫy [những thứ đó], khác nào lợn nuôi trong nhà ăn những thứ nước gạo rữa nát. Thậm chí cho đến khi đêm tàn canh lụn, răng lợi còn giữ vị tanh hôi! Lại còn cho đến khi nhạc tàn, rượu cạn, khăn áo tanh tưởi, bẩn thỉu nhức mũi. Thật sự nghĩ đến Pháp Thân thanh tịnh, há chịu đựng nổi khí vị thế gian ngũ trược? Đối với những vật có huyết khí đều cảm thấy ô uế, ắt cái tâm tham ăn tục uống sẽ ngày càng giảm dần.
Phần Giác Nhân viết:
– Hữu tình do đã gieo cái nhân, sẽ tạo thành cái quả. Lý ấy chẳng dối, [giống như] tiếng vọng nương theo âm thanh. Do vậy, cái duyên để thọ sanh, chuyển sanh há có sai chạy? Dẫu củi đã cháy hết, lửa đã truyền, củi quy hết vào lửa. Kéo căng dây cung để mũi tên được bắn đi, mũi tên [bay xa] ắt phải do [sức bật của] dây cung. Hễ bố thí, sẽ được báo ứng. Người bố thí cố nhiên hãy nên quên đi [hành vi bố thí ấy]. Cội rễ do chính mình vun trồng; người vun trồng ắt sẽ hưởng quả lành. [Dẫu được đền đáp như Dương Bảo] được tặng đôi vòng ngọc trắng[145], người thông đạt sẽ chẳng quan tâm. Đối với lò lửa, vạc sôi, người trí huệ thường sanh lòng kinh sợ. Thế mà có kẻ phóng túng đối với chuyện này chẳng chán, cứ giết chóc các loài sinh vật, nấu cá, nướng rùa, há có nghĩ tới tình cảnh [đau khổ] trong vạc dầu sôi sùng sục. Lóc thịt, quay dê, chỉ vì đớp một miếng chả làm khéo đó thôi! Thậm chí [vì săn bắn mà] đuổi nhanh như gió, chạy như chớp, [khiến cho] nhiều loài chim thú yếu đuối phải kêu thét. Lật tung đầm, bãi, vét cạn rừng rậm, khiến cho chim tan đàn kinh hãi bay đi, thú lìa bầy chết trong cô quạnh! Đối với hạng người ấy, chẳng có sinh vật nào không khoái khẩu, lưỡi nếm đủ thứ. Trước hết, họ đã là cọp, sói trong loài người, đến nỗi hễ thấy có con vật ắt đều săn bắt. Dẫu tròng mắt bị rơi xuống đất, [vẫn miệt mài săn bắt]. [Hạng người như thế ấy] tránh sao khỏi đọa làm chim ưng hoặc chó trong loài thú? Hãy nên chân thành suy nghĩ! [Đối với] muôn loài chim thú, chẳng loài nào không có tình cảm. Gởi thân trong vòng trời đất, làm các loài [khác nhau], hãy nên biết đều là do báo ứng. Nguyện từ hôm nay trở đi, vĩnh viễn đoạn trừ nỗi oán xưa kia, sẽ chẳng có nỗi oán hận nào để phải đền trả, chẳng chuốc lấy cái quả lắm bệnh. [Hễ thấy] có [người nào hay loài vật] gặp nguy ắt cứu, cái nhân trường thọ sẽ tự đưa đến. Nếu niệm nào cũng tỉnh giác, sẽ chẳng phải tốn mười năm điều phục con trâu trong tâm. [Hiểu rõ] ba đời rành rành, làm sao đọa làm thân chồn hoang trong năm trăm năm cho được? Đấy chính là vì chẳng gieo duyên lành mà mê mất bè báu. Nghe ta múa lưỡi, hãy nên tự quay đầu.
Phần Giác Hủy viết:
– Có đến thì sẽ có đi, muôn vật thay cũ đổi mới vô thường. Bất diệt, bất sanh, lòng từ bi trong tâm tánh của ta tự tại. Vì thế, [luôn mong] thấy các sinh vật được sống, chẳng nỡ thấy chúng nó chết. Bậc thánh nhân từ đều ôm tấm lòng ấy. Đã tiếc nuối khi chúng bị hủy hoại, ắt sẽ vui sướng vì chúng trưởng thành. Chúng sanh đều cùng có bẩm tánh. [Ngay như đối với] ngói, gạch vô tình, bậc trí huệ còn la thất thanh khi thấy chiếc vò bị rớt vỡ. Đối với những loài trùng bé bỏng có tri giác, bậc chí nhân há vui sướng tàn sát ư? Huống hồ do trứng mà nở ra chim, từ chim con đến khi nó mọc lông vũ [đầy đủ], phải do mớm mồi nhọc nhằn. Há có phải một tiếng kêu, một cái mổ, sẽ hóa thành [một con vật trưởng thành hoàn vẹn] từ hư vô ư? Do biến hóa [dần dần] mà thành con vật sống động, hoạt bát, há có phải là một sáng, một chiều! Thế mà, [đối với] thân thể mười năm chăm bẵm ấy, chỉ vì để nấu nướng một bữa, bèn trăm kế săn bắt, giăng bẫy chỉ hòng no say chốc lát. Sao chẳng nghĩ [sanh mạng] hễ đoạn, sẽ chẳng thể tiếp tục (sẽ chẳng thể sống lại được)? Lóc xẻo thân thể, mỗi miếng đều chứa đựng nỗi đau mà thác. Đã hủy hoại rồi, há có thể phục hồi? Chi thể bị đun, bị nướng, mỗi con vật đều ôm nỗi khổ qua đời! Phàm ngũ cốc để nuôi dưỡng con người, còn khó thể tiêu hóa một hạt, huống hồ là đối với sanh mạng của muôn vật, há nên dấy khởi mảy may ý niệm xằng bậy hủy hoại? Thật sự hãy nên nghĩ: Chúng nó chết đi, trải muôn kiếp chẳng thể sống lại. Ta ăn vào, trong khoảnh khắc, đã chẳng còn chi nữa! Mong cầu sống mà chẳng được, há thấy bị chết mà đành lòng ư? Hãy vĩnh viễn làm chuyện từ bi, luôn rủ lòng cứu vớt, thương tiếc, ắt sẽ chẳng đợi đặt đôi giầy lên đỉnh đầu mà đã cứu con mèo từ trước[146]. Cần gì phải đợi mở miệng, mới giữ vẹn cả ngỗng lẫn vò[147]. Đấy là lý chân thật, há nên thốt lời hư giả! Hãy càng nên tuyên dương, mong sao ai nấy đều cùng dấy khởi ý niệm.
(Chánh văn) Âm tặc lương thiện, ám vũ quân thân.
(正文)陰賊良善。暗侮君親。
(Chánh văn: Lén hại người lương thiện, ngấm ngầm khinh rẻ vua và cha mẹ).
“Âm tặc” (陰賊) là âm mưu làm hại, như mũi tên bắn ngầm làm kẻ khác bị thương, khó đề phòng nhất. Hơn nữa, người khác bị ta hại, ta chẳng mang tiếng ác. Hạng người ấy còn đáng sợ hơn các thứ lỵ mị võng lượng. Làm điều này đối với người khác đã là chớ nên, ngấm ngầm làm hại người lương thiện lại càng chẳng nên. Bởi lẽ, người lương thiện được dân chúng trọng vọng. Ở trong một nước, ắt được cả nước trọng vọng. Ở trong một làng, ắt được cả làng trọng vọng. Há có nên âm thầm hãm hại người ấy hay không?
Đời Đường, Lý Lâm Phủ làm Tể Tướng, âm hiểm chẳng lường, tàn hại người lương thiện. Chuyện ác của hắn chẳng thể kể xiết. Khi hắn sắp tiêu đời, thấy một con quỷ răng như lưỡi cưa, móng tay như móc câu, khắp thân đầy lông lá, mắt như ánh chớp, giơ tay đánh Lâm Phủ. Không lâu sau, Lâm Phủ thất khiếu ứa máu mà chết. Hắn chết rồi, triều đình hạ lệnh lột sạch quan tước, bửa quan tài hành hình xác hắn. Con cháu bị lưu đày xuống vùng Lãnh Nam.
Vào đầu niên hiệu Thuần Hy[148] đời Tống, tại Hán Châu, có một người đàn bà bị sét đánh chết, [trên xác] có chữ viết bằng châu sa rằng: “Lý Lâm Phủ làm bầy tôi bất trung, ngấm ngầm tàn hại kẻ lương thiện. Ba đời làm gái điếm, bảy đời làm trâu. Báo hết, vĩnh viễn đọa trong loài thủy tộc”. Kẻ tiểu nhân hãm hại bậc quân tử, may mắn thành công, bèn nói “đã nắm giữ sự sanh tử của họ”. Chẳng biết họ [bậc quân tử] bị chết trong tay chúng nó (phường tiểu nhân) cũng là do oán đối khiến thành như vậy, chẳng phải là do chúng nó có thể làm như thế được! Nếu bậc quân tử chẳng có oán đối, mặc cho kẻ tiểu nhân giở trò như thế nào đi nữa, rốt cuộc chẳng thể hại chết người ấy! Kẻ ác hại người khác ví như ngửa mặt nhổ lên trời, chẳng nhổ vào trời nổi, mà ngược ngạo rơi xuống ngay chính mình. Chớ nên hủy hoại người hiền, ắt sẽ mang họa chính mình bị tàn diệt cũng giống như thế.
Nhưng hai chữ Âm Tặc chẳng bắt buộc cứ phải là kẻ làm quan! Bất cứ ai khác cũng đều có thể âm tặc, nhưng những kẻ trong nha môn là tệ nhất. Những thói như lạm dụng quyền thế để báo cừu riêng, thừa dịp tra xét để quấy nhiễu, ngấm ngầm khuấy động sóng gió, nặc danh vu cáo… Há có biết đạo trời tuần hoàn, chưa hại được người mà đã hại chính mình trước. Hãy suy nghĩ đi!
“Ám” (暗) là chỗ người khác chẳng thấy, chẳng nghe. “Vũ” (侮) là khinh rẻ. Câu này chuyên vì kẻ hiếu danh và trái nghịch tình lý mà nói ra. Ơn vua và ơn cha mẹ như trời đất. Nếu đã ăn lộc [của vua] mà hành sự biếng nhác, do tham lợi mà làm theo lẽ riêng tư, hoặc gian xảo, dua nịnh, mặc sức lừa dối, cái tâm chẳng thể cho vua biết tức là ngấm ngầm khinh rẻ vua. Phụng dưỡng [cha mẹ] chẳng chân thành, hành xử trong cõi đời không ra gì, hoặc màu mè che đậy sự ngỗ nghịch, cái tâm chẳng thể cho cha mẹ biết, đấy chính là ngấm ngầm khinh rẻ cha mẹ vậy. Bất trung, bất hiếu, hại giáo, phản đạo, không gì tệ hơn nữa! Sống thì sẽ gặp trời giáng họa, chết bị tra khảo trong chốn Phong Đô[149], ắt cũng chẳng thể dung thứ được!
Đời Tống, Doãn Hòa Tĩnh khi sắp vào cung giảng giải kinh điển, ắt tắm rửa, đoan nghiêm, chắp tay, hướng về bộ sách sẽ được giảng trong ngày hôm sau, mặc triều phục lễ lạy. Kẻ khác hỏi nguyên cớ, ông nói: “Ắt mong khiến cho những lời [tôi] nói ra sẽ khiến cho đức vua cảm ngộ, sao lại chẳng trọn hết lòng thành kính cho được?”
Vua Tuyên Tông nhà Minh[150] thích văn từ, thơ phú, hay bảo quần thần xướng họa. Gã học sĩ nọ tự phụ tài cao, mỗi lần vâng mạng vua làm xong bài thơ, liền nói: “Thơ hay như thế, không chỉ là hoàng đế chẳng làm được, mà có xem kiểu nào cũng không hiểu nổi!” Chẳng lâu sau, do làm thơ dùng chữ phạm vào cấm kỵ của triều đình, lời lẽ có phần châm chọc, chế nhạo, phạm tội bất kính, bị lột sạch chức tước.
Thời Tam Quốc, danh sĩ nước Ngô là Cố Đễ mỗi lần nhận thư cha, đều quỳ đọc. Đọc mỗi câu đều thưa vâng. Nếu cha bị bệnh, liền đối trước thư khóc ròng, lời nói càng nghẹn ngào. Lại như Phạm Tuyên đời Tấn, lúc lên tám, ngẫu nhiên ngón tay bị thương, bèn khóc ròng. Có người bảo: “Sao lại đau đớn đến mức ấy?” Phạm Tuyên khóc, thưa: “Chẳng phải vì đau đớn, [mà do nghĩ] da tóc nơi thân được nhận lãnh từ cha mẹ, chẳng dám hủy hoại, tổn thương. Con buồn là vì lẽ này”. Hai ông về sau đều quý hiển.
Có hai anh em nọ, cứ mỗi năm ngày bèn thay phiên nhau nuôi mẹ. Anh nghèo, em hơi giàu. Lúc anh nuôi mẹ, cháo cũng chẳng có, còn hai ngày chưa hết phiên, đã nói: “Mẹ qua nhà em rồi con sẽ bù sau”. Mẹ đến nói với đứa em ý của thằng anh. Đứa em bảo vợ giấu cơm đi, kiên quyết cự tuyệt. Mẹ rơi lệ trở về. Bỗng sấm chớp đùng đùng nổi lên, đánh chết tươi cả hai vợ chồng! Than ôi! Kẻ bất trung bất hiếu bị cõi âm tru lục, thóa mạ vạn năm, họa báo thê thảm như thế đó. Ấy là vì vua và cha đứng đầu trong Ngũ Luân. Vì thế, thờ vua, thờ cha, càng chẳng thể không chú trọng lấy lòng thành làm đầu!
(Chánh văn) Mạn kỳ tiên sinh, bạn kỳ sở sự.
(正文)慢其先生。叛其所事。
(Chánh văn: Khinh mạn thầy dạy, phản bội người mình phải phụng sự).
“Tiên sinh” (thầy dạy) chính là bậc truyền trao đạo của thánh hiền, dạy dỗ học vấn, giải trừ nghi hoặc. Cha mẹ sanh ra thân ta, ắt phải nhờ thầy thành tựu học vấn cho ta. Vì thế, thầy được tôn trọng giống như vua và cha. Người hiện thời mời thầy dạy con, phần nhiều thường là biểu hiện lễ tiết theo hình thức, tiếc tiền, thiếu lễ. Thậm chí ăn nói chẳng nhũn nhặn, thiếu hẳn lễ độ theo lẽ thường, ôm lòng coi thường thầy. Hạng người ấy cố nhiên chẳng khác cầm thú cho mấy! Còn kẻ làm thầy để mở mang đầu óc cho trẻ nhỏ, có âm đức lớn nhất, há có nên vì nhận quà cáp, lương bổng của người ta mà dung túng trẻ, chẳng [dạy dỗ] nghiêm ngặt, đến nỗi kẻ khác mắc họa chẳng thành tài ư? Thầy làm bài tập thay cho trò, dối gạt phụ huynh. Do tham cầu tiền bạc, bèn hối lộ mua chuộc công danh, tôi chẳng biết sự báo ứng của họ sẽ như thế nào? Khinh mạn thầy cố nhiên là chẳng nên, nhưng kẻ làm thầy lại khiến cho kẻ khác khinh mạn thì lại càng chẳng nên vậy!
Hán Minh Đế tôn Hoàn Vinh[151] làm thầy, dốc trọn lòng thành kính. Vua đến phủ Thái Thường, bảo Hoàn Vinh ngồi ở phía Đông, bày gậy chống[152], nhóm họp bá quan kính lễ thầy.
Đời Tống, Du Tạc và Dương Thời cùng theo học với Trình Di. Một hôm, họ đến gặp thầy, ngẫu nhiên Trình Di đang tĩnh tọa. Hai ông đứng hầu. Khi Trình Di tĩnh tọa xong, ngoài cửa, tuyết đã xuống dầy chừng cả thước. Thế mà [hai ông] chẳng có dáng vẻ ủ rũ, càng cẩn thận giữ lòng cung kính hơn. Hai ông đều truyền thừa đạo học của Liêm Lạc[153].
Đời Tống, Bành Nhữ Lệ tôn Nghê Thiên Ẩn làm thầy, lễ tiết, phụng sự tột bậc cung kính. Về sau, vợ chồng ông Nghê đều mất, do ông bà không có con trai, ông Bành bèn đứng ra chôn cất. Lại còn gả con gái của họ cho tiến sĩ Tống Hoán.
Đời Tống, thầy của Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi) là Châu Đồng, dạy Nhạc Phi bắn cung nặng đến ba trăm cân. Châu Đồng chết. Mồng Một và ngày Rằm, Nhạc Phi ắt bày cỗ cúng tế trước mộ, quỳ lạy, khóc lóc, cầm cung tên do Châu Đồng đã tặng, bắn ba phát rồi mới quay về.
Một nông gia sanh được một con trai, ý hết sức tha thiết lo cho con học hành, nhưng đối đãi với thầy qua quít, khinh mạn khôn sánh. Cơm chỉ là ăn với rau, trả lương ắt dùng bạc xấu. Thầy tận tâm dạy dỗ đã lâu, trò đọc văn của người khác thì hiểu rõ ràng, nhưng nó tự viết văn thì chẳng câu nào nên hồn, cũng lạ thay! Về sau, [đứa trẻ ấy] vẫn làm nghề nông.
Một vị thầy khá nhát gan, có đứa học trò lanh lợi lại nghịch ngợm. Nó dán giấy làm thành đầu người khổng lồ, ban đêm đem giơ lên ở ngoài tường. Thầy kinh hoảng, tông cửa chạy, đến ở nhờ nhà bạn bè. Bệnh ba ngày mới dậy được, rốt cuộc chẳng dám đến dạy nữa. Về sau, đứa học trò ấy lại nấp ở ngoài tường, trông thấy đầu người khổng lồ, ngỡ là cái đầu do mình đã dán, liền nhìn nó. Thấy nó liếc mắt, vểnh râu, đứa học trò kinh hoảng, ngã lăn ra chết.
Đạo thờ thầy hãy nên như con em phụng sự cha anh. Đi thì theo sau, ngồi thì ở bên cạnh. Đi đường gặp thầy bèn đứng thẳng, chắp tay. [Khi thầy] nói năng bèn trống lòng, lắng tai nghe. Khi thầy gặp tai họa hay có chuyện lo buồn, thì [cảm thấy] giống như là chuyện cát hung họa phước của chính mình. Thầy còn sống bèn giữ lễ tiết cẩn thận. Thầy đã mất, ắt tâm tang ba năm. Như thế thì gần như đã trọn hết đạo thầy trò vậy.
Ông Vương X… dạy vỡ lòng cho trẻ, ắt trọn hết tâm lực, chẳng màng công sá. Thường nói: “Trời, đất, vua, cha mẹ, thầy, năm ngôi ấy xếp ngang nhau. Trẻ nhỏ một phen tôn ta làm thầy, ắt sự thành bại vinh nhục suốt cả một đời nó đều là trách nhiệm của ta. Nếu chẳng tận tâm kiệt lực, khiến cho con em người khác bị lỡ làng, sẽ có tội giống như gã thầy thuốc dốt giết người”. Ông lại thích kể cho trẻ nghe những câu chuyện hiếu đễ. Ông nói: “Người đi học thì trước hết là học tâm thuật, rồi mới học văn chương, nghề khéo. Trước hết phải vun quén căn bản rồi mới thực hiện lòng nhân. Nếu hiếu đễ thiếu sót, dẫu tài hoa lừng lẫy cõi đời, chẳng đáng coi trọng!” Về già, ông sanh ra Văn Khang Công, mọi người bảo đó là quả báo của sự khéo dạy học trò.
Gần đây, đạo thầy trò suy bại, thật đáng đau đớn khóc ròng, than dài sườn sượt! [Kẻ làm thầy] chẳng nghĩ [tránh sao cho khỏi dạy dỗ] lầm lạc con em của người ta, chắc chắn sẽ bị thần minh khiển trách. Xưa có một nho sĩ, tuổi đã ngoài sáu mươi, bảo vợ: “Ta tuy chẳng có công danh hiển đạt. May là suốt đời gặp chỗ dạy học tốt đẹp, nên có thể thành gia lập nghiệp”. Ban đêm, ông ta mộng thấy cha mình quở mắng: “Ngươi đúng ra là kẻ đỗ đạt. Chỉ vì lúc dạy học thiếu trách nhiệm, cho nên đức Văn Xương gạt tên khỏi sổ quế, thế mà còn khoác lác ư?” Ôi! Xét theo đó, khiến cho con em người khác lầm lỡ cũng nguy hiểm lắm thay!
“Sự” (事) ở đây là kẻ dưới phụng sự người trên, như cấp dưới phụng sự quan trên, bộ hạ, lính tráng tuân theo tướng, soái, nô bộc, tỳ thiếp vâng theo chủ nhân, đều là Sự cả. “Bạn” (叛, phản bội, phản loạn) chẳng phải là trái nghịch hiển nhiên, nhưng lúc người trên gặp cảnh cấp bách, [kẻ dưới] bèn chẳng phải là kẻ trông cậy được, [hoặc kẻ dưới] chẳng bận tâm đến điều lợi lẽ hại của người trên thì gọi là Bạn vậy!
Thời Tam Quốc, Lữ Bố theo phò Đinh Nguyên, [Đinh Nguyên] đối đãi [Lữ Bố] rất thân thiết, rồi vì Đổng Trác mà [Lữ Bố] giết Đinh Nguyên. Đã theo phò Đổng Trác, thề làm cha con, lại vì Vương Doãn [hứa gả Điêu Thuyền cho] mà giết Đổng Trác. Về sau, Lữ Bố bị quân Tào bắt được. Tào Tháo muốn tha cho [Lữ Bố] sống [để dùng làm thuộc hạ], Lưu Bị nói: “Minh công chẳng thấy Lữ Bố phụng sự Đinh Nguyên, Đổng Trác ư?” Tào Tháo tỉnh ngộ, bèn sai người thắt cổ Lữ Bố cho chết.
Dương Trung ở huyện Tứ Minh là nô bộc của Đới Hiến. Họ Đới rất giàu, sai Dương Trung làm chủ một gia trang, nguồn lợi từ cá, muối, tre, gỗ rất phong phú. Đới Hiến chết, con là Bá Giản còn trẻ, thích lêu lổng với lũ trẻ tuổi bất lương. Được mấy năm, tiêu sạch gia sản, chỉ còn sót lại một trang trại ấy. Bá Giản đến nương cậy. Dương Trung ghi chép con số tài sản đưa cho xem. Bá Giản vui mừng, vẫn tiêu xài bừa bãi như cũ. Dương Trung khóc lóc can ngăn, Bá Giản chẳng nghe. Một hôm, lũ bạn lêu lổng ấy lại kéo đến, xúm nhau nhậu nhẹt, cờ bạc. Dương Trung cầm đao bén tiến vào, thộp cổ thằng cầm đầu, nhiều lượt bảo: “Tao phụng sự chủ nhân hơn ba mươi năm. Thiếu gia còn trẻ, bị chúng mày dụ dỗ làm chuyện bất thiện, gia sản tan sạch. May là tao còn giữ được sản nghiệp này. Mày cứ muốn phá sạch ư? Tao chém rụng đầu mày rồi lên quan đầu thú xin được chết để báo đáp chủ nhân dưới lòng đất”. Thằng đó nhận tội, xin hứa từ nay chẳng dám đến nữa. Dương Trung cho nó một ít tiền, đuổi đi. Dương Trung khóc lóc, tạ tội: “Lão nô kinh động, xúc phạm thiếu gia, nguyện từ nay ngài hãy sửa đổi những hành vi trước kia. Chỉ mong nghe theo lời lão nô tận tâm dốc sức, chẳng đầy hai, ba năm, cơ nghiệp cũ sẽ có thể khôi phục. Nếu không, lão nô sẽ dìm mình xuống biển, chẳng đành lòng thấy thiếu gia chết đói, để nhục cho môn hộ”. Bá Giản hổ thẹn, khóc lóc, vâng theo. Mấy năm sau, quả nhiên khôi phục trọn vẹn ruộng nương, nhà cửa. Về sau, Dương Trung hưởng thượng thọ.
Từng nghe nói ở Ngô Quận có ông Trầm Hằng Cát nuôi một con chó. Về sau, Hằng Cát bị bệnh, chó bèn chẳng ăn. Tới khi ông chết, con chó tru ầm lên suốt đêm mới thôi. Qua năm sau, đưa ma, chó bèn va đầu vào sườn mộ chết. Con chó có nghĩa thay! Những kẻ gặp chuyện liên quan đến sống chết bèn biến đổi khí tiết, thay đổi tấm lòng, đúng là chẳng bằng con chó có nghĩa vậy!
(Chánh văn) Cuống chư vô thức, báng chư đồng học.
(正文)誑諸無識,謗諸同學。
(Chánh văn: Lừa dối kẻ chẳng hiểu biết, gièm báng bạn học).
Đối với kẻ chẳng hiểu biết, đúng là phải nên thuận theo từng sự mà chỉ bảo cho họ, dùng nghĩa lý nhắc nhở, dùng điều thiện lẽ ác khiến cho họ động tâm, khiến cho họ giác ngộ, chẳng đọa trong mê hoặc. Há có nên vì họ dễ bị khinh rẻ mà dối gạt họ ư? Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Huyễn hoặc vô thức, nghi ngộ chúng sanh, tử hậu đương đọa nhập Vô Gián địa ngục” (Kẻ lừa bịp người không hiểu biết, khiến cho chúng sanh nghi ngờ, lầm lạc, sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián). Ôi! Sao người ta lại khổ sở làm chuyện như thế?
Ông Lưu Hợp Phong nói:
– Có ba người cùng đi, tới một khe suối. Nhằm đúng lúc nước suối dâng cao, mà thuyền ở bờ đối diện. Trong đó, có một người rất ngu, [hai người kia] bèn dụ người ấy cởi quần áo bơi qua lấy thuyền. Người ấy ngụp lặn trong nước xiết, vượt qua được bờ kia. Lại chống thuyền quay về chở hai người kia. Hai người kia lên thuyền; kẻ ngu bỗng đau bụng muốn đi tiêu, vội lên bờ. Hai người kia vẫy tay bảo: “Mặt trời đã lặn rồi, không thể chờ ngươi được”. Bèn chống thuyền đi. Chốc lát, do nước chảy xiết, thuyền xoay ngang, họ đều bị lật thuyền, chết chìm. Người ngu ở trên bờ thì yên ổn.
Đời Đường, Khương Phủ mặc áo, đội mũ đạo sĩ lên kinh đô. Do không có ai biết, bèn dối gạt nói mình đã mấy trăm tuổi, có thuật trường sanh độ đời. Hắn phụng sự Đường Huyền Tông, được vua ân sủng, nổi tiếng một thời. Về sau, có một sinh viên trường Thái Học là Kinh Nham đến gặp, hỏi: “Tiên sinh rốt cuộc là người thuộc triều đại nào?” Đáp: “Người đời Lương”. Hỏi: “Có làm quan hay không?” Đáp: “Từng làm Tiết Độ Sứ của Tây Lương Châu”. Kinh Nham quát mắng: “Sao mà dối trá đến thế? Trên lừa dối thiên tử, dưới bịp bợm người đời! Nhà Lương ở Giang Nam, lấy đâu ra Tây Lương Châu? [Nhà Lương] chỉ có tứ bình, tứ an, tứ chinh, tứ trấn tướng quân, lấy đâu ra Tiết Độ Sứ?” Khương Phủ cứng họng, hết sức hổ thẹn. Vài ngày sau [Khương Phủ] chết ngắc!
Bạch Sầm gặp dị nhân, được truyền toa thuốc chữa bệnh lên nhọt ở lưng rất hiệu nghiệm. Có viên dịch lại[154] muốn truyền toa thuốc ấy để cứu tế rộng khắp, đưa cho Bạch Sầm mấy chục lạng vàng. Bạch Sầm đưa toa thuốc giả cho ông ta, trị bệnh không công hiệu. Về sau, Bạch Sầm bị cọp ăn thịt, bỏ lại toa thuốc thật sự trên đường, viên dịch lại đi qua nhặt được.
Gã thầy bói họ Trương giỏi chiêm tinh, nhưng toàn là khéo đoán ý hướng của người đến xem bói, luận đoán phần nhiều không đúng. Hoặc là thường nghe theo lời dặn ngầm của kẻ khác, thốt lời điên đảo. Do khiến cho người ta bị lầm lỡ đại sự, về sau, [họ tức giận] cắt lưỡi hắn, hắn chết ngắc.
Nguy Chỉnh có lần ra chợ mua cá. Chủ nhân ngầm điều chỉnh cân để cho Nguy Chỉnh được lợi. Người đánh cá đi rồi, chủ nhân nói: “Ông chỉ mua năm cân, tôi đã ngầm [điều chỉnh cân] cho ông được nhiều hơn, xin hãy mời tôi uống rượu”. Nguy Chỉnh hết sức kinh hãi, đuổi theo người dân chài đền bù đúng giá trị. Lại mời chủ nhân uống rượu nói: “Ông chỉ muốn có rượu thôi, sao lại lừa gạt người nghèo để làm gì?” Than ôi! Người đời nay nếu tấm lòng có thể như ông Nguy, làm sao có chuyện lừa gạt kẻ không hiểu biết cho được?
Bạn đồng học tình như huynh đệ, huống hồ bạn bè là một trong các mối nhân luân, há có nên thốt lời hủy báng bừa bãi, trong bụng đầy ắp gươm giáo ư?
Đức Phật dạy:
– Con người đối với bạn bè, có năm chuyện tương quan lẫn nhau. Một là nếu đôi bên gây tạo ác nghiệp, hãy nên khuyên bảo lẫn nhau ngưng dứt [ác nghiệp]. Hai là nếu đôi bên mắc bệnh khó trị, hãy nên chăm sóc, điều trị lẫn nhau. Ba là đôi bên có những điều chỉ nên nói riêng trong nhà, chớ nên nói với người ngoài. Bốn là hãy nên tôn kính, tán thán lẫn nhau, không ngừng lui tới với nhau, chớ nên ghi oán. Năm là nghèo giàu khác nhau, hãy nên giúp đỡ, đừng nên phỉ báng lẫn nhau!
Nếu hỏi: “Sau khi chơi với bạn, biết bạn chẳng lành, muốn đoạn tuyệt, lại sợ thương tổn tình cảm. Chẳng nghỉ chơi thì lại là ẩn giấu lòng oán hận mà kết giao?” Châu Tử nói: “Đấy chẳng phải là ẩn giấu lòng oán. Nếu trong tâm ôm nỗi hờn oán mà bề ngoài làm ra vẻ thân thiết, đó là ẩn giấu lòng oán. Nếu bạn bè chẳng tốt, [xét theo] tình nghĩa đáng nên chẳng thân thiết, nhưng để lợt lạt tình nghĩa thì phải nên từ từ nhạt dần. Nếu chẳng có chuyện gì hệ trọng, cần gì phải cắt phăng tình bạn? Hãy nên tích chứa lòng thành, khiến họ cảm ngộ. Đó gọi là “đối đãi với người thân chẳng đánh mất tình thân, đối với bạn bè đã lâu chẳng đánh mất tình cố cựu”.
Đời Minh, tiên sinh Dương Minh Vương Thủ Nhân nói:
– Giao du bạn bè chánh yếu là khiêm tốn, nhún mình. Khi tụ hội, cần nên trống lòng, khiêm nhường, thân thiết, tôn kính, bao dung. Nói chung là ít uốn nắn, chỉ trích, mà là dùng sự chân thành để cảm động, khích lệ, khuyến khích cho nhiều.
Ông Ôn Tiết Hiếu nói:
– Chơi với bạn, chỉ quan tâm đến ưu điểm của họ, chẳng màng khuyết điểm! Gặp người tánh tình cứng cỏi, hãy chịu đựng sự nóng nảy của họ. Gặp người rất tài hoa, hãy chịu đựng thói quen không câu thúc của họ. Gặp người chất phác, trung hậu, hãy chịu đựng tính khí chậm chạp của họ. Gặp người khinh bạc phóng túng, hãy chịu đựng tính hời hợt, bộp chộp của họ. Không chỉ là được lợi ích vô lượng mà còn trọn vẹn tình bạn bè.
Đời Tống, Trương Thiên Tải, hiệu là Nhất Ngạc, làm bạn với Văn Sơn[155]. Khi Văn Sơn quý hiển, Thiên Tải đã nhiều lần tránh né, không gặp gỡ. Tới khi Văn Sơn chiến bại, bị giải về Cát Châu. Thiên Tải ngầm đến gặp, nói: “Thừa Tướng! Nếu Ngài bị đưa về đất Yên (Bắc Kinh), Thiên Tải cũng đi theo”. [Sau đó, khi Văn Sơn bị giải về phương Bắc, Thiên Tải cũng] đến ở gần bên chỗ Văn Sơn bị cầm tù, suốt ba năm châu cấp Văn Sơn chẳng thiếu sót. Ngày Văn Sơn bị hành quyết, Thiên Tải ngầm giấu đầu Văn Sơn trong tráp gỗ, dò tìm vợ Văn Sơn là bà Âu Dương trong đám tù nhân, liền thiêu xác, thu nhặt hài cốt[156] để trong đãy, ôm tráp đi về phương Nam, giao cho gia đình của Văn Sơn an táng. Trước đó một hôm, con Văn Sơn mộng thấy cha nói: “Bác của con đã về tới rồi”. Chẳng lâu sau, quả nhiên [Trương Thiên Tải] tới nơi. Người đời sau gọi “tình bạn sống chết” là Thiên Tải Nhất Ngạc, đúng vậy thay!
Trầm Trọng Hóa nói:
– Thiếu sót tình bạn với người đã khuất còn tệ hơn thiếu sót tình bạn với người còn sống. Nay kẻ làm bạn với nhau, hãy tự hỏi có thể chẳng thay đổi tấm lòng trong cảnh sanh tử hay chăng?
Đời Tống, Quách Chí lúc mới nổi tiếng về tài viết những bài phú, bạn học là Lý Miễn đố kỵ bèn gièm báng. Do vậy, Lý Miễn thi mãi không đậu. Về sau, Quách Chí đã đỗ đạt trước, lại làm Tri Cống Cử[157], Lý Miễn mới nhờ khoa thi Minh Kinh[158] mà được có tên để dự thi [Tiến Sĩ]. Ngày ban chiếu [công bố quan chánh chủ khảo là Quách Chí], Lý Miễn hổ thẹn bỏ về. Quách Chí nghe tin, lập tức [sai người] đem Lý Miễn trở lại, do vậy [Lý Miễn] bèn thi đỗ. Có thể thấy là gièm báng chẳng tổn hại người khác, chỉ tự mình chuốc lấy nỗi khắc bạc vậy!
(Chánh văn) Hư vu trá ngụy, công kiết tông thân.
(正文)虛誣詐偽,攻訐宗親。
(Chánh văn: Đặt điều vu cáo hư vọng, xảo trá, dối gạt, công kích thân thuộc).
Khinh mạn vô căn cứ thì là Hư (虛). Xằng bậy đặt chuyện nói xấu, miệt thị là Vu (誣). Dùng quỷ kế gạt gẫm người khác là Trá (詐). Dùng những cách thức dối đời trái lẽ thì gọi là Ngụy (偽). Nói tách ra thì là bốn điều, nói gộp lại sẽ là ‘chẳng chân thành’. “Thành” là đạo của trời, suy nghĩ chân thành là đạo của người. Nay bỏ lòng thành, noi theo hư vu trá ngụy, chẳng phải là trái nghịch đạo trời, đánh mất đạo người hay sao? Cái tâm ấy quá nhọc nhằn, chuyện ấy quá nguy hiểm[159], chính là tướng trạng bạc phước nhất trong thiên hạ! Chẳng vào tam ác đạo thì sẽ đi về đâu?
Đời Thanh, Tôn Đình Thuyên ở Ích Đô là người chất phác, chẳng phù phiếm. Vì thế, Thanh Thế Tổ (vua Thuận Trị) từng gọi ông ta là Tôn Lão Thật (ông Tôn thật thà). Mỗi khi chức vị Thượng Thư ở các bộ bị khuyết, vua liền bảo: “Vẫn là dùng Tôn Lão Thật [điền vào đó]”. Do ba lần gọi Tôn Lão Thật như thế, ông được phong làm Tể Tướng[160]. Thật thà có bao giờ khiến cho người ta bị lầm lỡ đâu nhỉ?
Tiết Phu chuyên bịa chuyện để làm đơn thưa kiện, có thể tô vẽ chuyện vô lý thành hữu lý. Hắn dùng chuyện này để làm giàu. Về sau, hắn làm trai đàn để tạ tội. Đạo sĩ phủ phục, sau đó đứng dậy nói: “Thượng Đế đã phê vào tờ biểu [tấu trình xin tha tội của ngươi như sau]: Nhà thì phó cho hỏa ty, người thì giao cho thủy ty”. Về sau, quả nhiên nhà hắn cháy sạch, Tiết Phu ngã xuống nước chết đuối.
Thời Ngũ Đại, người xứ Mân[161] là Tiết Văn Kiệt có hiềm khích với Ngô Anh. Một hôm, chúa nước Mân là Vương Lân (Vương Diên Quân) sai đồng cốt nhìn xem trong cung có quỷ hay không. Trước đó, Văn Kiệt đã nói với Ngô Anh: “Chúa thượng ngờ ông quyền cao chức trọng, ông hãy nên cáo bệnh. Nếu vua sai sứ giả đến hỏi, hãy nên thưa là bị đau đầu. Tôi có thể nói giúp cho ông”. Ngô Anh vâng theo. Văn Kiệt dặn gã đồng cốt nói: “Ngô Anh sắp làm phản, bị Thượng Đế lấy đinh bằng đồng đóng vào não”. Vua sai người đến [nhà Ngô Anh] dò xét, quả nhiên, Ngô Anh thưa là bị đau đầu. Vua liền giết Ngô Anh. Ngô Anh bị vu cáo, dân chúng đều nghiến răng. Khéo sao, Vương Lân phát binh chống lại nước Ngô[162], quân sĩ không chịu tiến, đòi cầm tù Tiết Văn Kiệt mới chịu tiến. Vương Lân bất đắc dĩ, cùm hắn lại, đưa vào trong quân. Quân sĩ xúm lại xả thịt hắn hết sạch.
Đời Tống, Triệu Đình Thần giả vờ lập thỏa ước với người Động Nhung[163], dụ họ đầu hàng triều đình, [đãi họ ăn uống] no say rồi giết sạch, rêu rao họ làm phản, dối trá tâu đó là công lao [dẹp loạn] của chính mình. Họ Triệu bèn được thăng thưởng hiển hách. Về sau, hắn mộng thấy những người đã bị giết nói: “Sẽ đến báo thù sự dối trá của mày”. Về sau, hắn sanh được một đứa con trai. Nó còn trẻ mà đã đỗ đạt, bỗng dưng cuồng nghịch, phạm pháp, [liên lụy đến] Triệu Đình Thần và vợ bị đày ra vùng Lãnh Nam, bị người Động Nhung giết chết.
Đời Tống, Đinh Vị chẳng nói lời chân thật với người khác, từng bảo: “Nếu ai thật tâm sẽ chẳng làm nổi mọi việc, chỉ luôn bị kẻ khác khinh lấn”. Đinh Vị giữ lòng trí trá như thế, khiến cho người khác chẳng thể dò lường được, bèn bị người đương thời xếp vào Ngũ Quỷ[164], há có phải là do cái tâm trá ngụy mà không chuyện gì chẳng làm đó ư?
Cùng họ là Tông (宗), khác họ là Thân (親)[165]. Tuy có xa, gần, thân, sơ khác nhau, thật sự đều là những người có mối quan hệ thân thiết với ta, hãy nên đối đãi bằng lòng thân ái, trung thành. Cùng chia sẻ hoạn nạn, giúp đỡ người khốn cùng. Giấu giếm những điều xấu trong nhà cho nhau, cùng ngăn ngừa sự lấn hiếp từ bên ngoài, há nên tranh chấp lẫn nhau, so đo từng ly từng tý một, giận dữ, ghen ghét, chiếm đoạt, xét nét, công kích hay chăng? Lặt cành làm đau lòng cây, chặt đứt rễ khiến cho mạng mạch của nó chấm dứt, hãy nên răn dè!
Đời Xuân Thu, Yến Bình Trọng[166] đi xe rách nát, cỡi ngựa gầy. Hoàn Tử cho rằng ông ta cố tình ẩn giấu sự ban thưởng của vua. Yến Tử (Yến Bình Trọng) nói: “Kể từ khi thần được hiển quý, họ bên cha không ai chẳng ngồi xe. Họ bên mẹ không ai chẳng cơm áo no đủ. Họ bên vợ không ai đói lạnh. Học trò nước Tề nhờ thần mà có cái để thổi lửa nấu cơm hơn ba trăm người. Như thế là ẩn giấu sự ban thưởng của quân vương, hay là phô bày ân vua ban thưởng vậy? Trước là họ bên cha, rồi đến họ bên mẹ, sau là họ bên vợ, cuối cùng là đến những người xa lạ. Đó gọi là [giúp đỡ] từ người thân thiết cho đến người xa lạ vậy”. Có thể nói Yến Tử khéo đối xử hòa mục với họ hàng. Người có tấm lòng ấy, há có thói tệ công kích [thân thích] ư? Vì thế, nêu ra chuyện này nhằm khuyên nhủ những kẻ phạm lỗi công kích, mà ác báo của kẻ công kích cố nhiên cũng chẳng cần phải nêu ra nữa!
(Chánh văn) Cang cường bất nhân, ngận lệ tự dụng.
(正文)剛強不仁,很戾自用。
(Chánh văn: Ương bướng bất nhân, độc ác, tàn nhẫn, tự cho là đúng).
Khổng Tử chủ trương cương nghị là chú trọng nơi lý. Thái Thượng răn nhắc về “cang cường” (cứng cỏi, ương ngạnh) là nói đến sự dẫn khởi từ tánh khí. Các thầy thuốc gọi chứng tê bại là “bất nhân” với ý nghĩa “chẳng biết đau, ngứa”. Vì thế, kẻ ưa ương bướng, hành sự thuận theo tình cảm xung động khi đãi người tiếp vật, sẽ chẳng có chút thông cảm nào, thuần là ý niệm cạn tàu ráo máng, thế tục gọi [tánh khí như vậy] là “tấm lòng sắt đá”, làm sao có thể nhân từ cho được? Nhưng kẻ ương ngạnh chẳng có kẻ nào không bị chiết phục. Nếu họ đã nếm trải mấy phen thua thiệt to lớn, sẽ dần dần hóa thành mềm mỏng. Đấy là chuyện muôn phần may mắn của kẻ ương ngạnh vậy, tôi hằng ngày đều mong mỏi.
Đời Tống, Bao Chửng[167] làm Long Đồ Các Học Sĩ[168], có tên thụy là Hiếu Túc. Ông tánh tình cương trực, bất khuất. Thuộc hạ có điều bẩm cáo, ông thường phê bình ngay mặt [nếu nói những điều chẳng hợp lý]. Nếu lời họ thưa trình đúng lý, ông cũng chưa hề không vui mừng, thay đổi [theo ý kiến đề xuất]. Do vậy, mọi người đều kính phục. Phàm cứng cỏi mà hợp lý, gặp chuyện bèn có thể phán đoán rõ ràng, chánh xác, đấy là dũng khí của bậc có lòng nhân vậy.
Đời Tống, Trương Nhữ Khánh làm Đề Hình. Mỗi khi thẩm vấn tù phạm, bất luận phạm tội nặng hay nhẹ, đều sử dụng toàn bộ các dụng cụ hành hình, gọi là “đả nhất sáo” (đánh trọn một bộ). Những kẻ bị ông ra tra khảo đều gọi Trương Nhữ Khánh là “Diêm La thôi đáo” (kẻ đẩy người khác đến chỗ vua Diêm La). Về sau, hết nhiệm kỳ, Nhữ Khánh quay về, thuyền đi đến Cao Bưu, đêm nằm mộng thấy mấy trăm người toác đầu, gãy chân, vây quanh đòi mạng. Về đến nhà, giữa ban ngày mà thấy lệ quỷ, thất khiếu tuôn máu mà chết. Phàm là kẻ ngang ngược, hung bạo, sẽ chẳng được chết yên lành, cố nhiên chẳng cần phải nói nữa! Nhưng sau khi đã chết, còn phải thọ báo trong tam đồ, cho đến khi nào mới được thoát khỏi? Cứ từ câu chuyện này mà suy, hết thảy những kẻ cứng rắn đến nỗi gần như hung bạo, do quen thói cường bạo mà gần như là kẻ giặc, cũng đáng nên phản tỉnh!
Phàm là người làm việc, tham khảo ý kiến của người khác thì là trí, tự cho mình là đúng thì ngu. Tự cho mình là đúng còn chẳng nên, huống hồ hung hãn, tàn nhẫn. Đức Phật nói hung hãn, tàn nhẫn giống như ngựa ác, đáng gọi là khó thuần phục. Con người hung hãn, tàn nhẫn, đối với hết thảy [mọi sự, mọi việc] đều chấp chặt ý kiến của chính mình, tự cho là đúng, chẳng chịu phục kẻ khác. Bạn lành, tri thức ai đến thân cận? Lời lành, lý hay, lấy ai bảo ban? Đấy là cội nguồn tạo ác, chuốc hận, không chi hơn chuyện này.
Đời Tống, Vương An Thạch hẹp hòi, đố kỵ, giả vờ hiền thiện, giấu ác, kéo bè kết đảng để trừ khử những kẻ khác ý, cưỡng từ đoạt lý, tự cho mình [là người có phẩm đức tốt đẹp] như Cao, Quỳ, Tắc, Khế[169]. [Thật ra, hắn ta là] nhân tài khiến cho chánh sự bại hoại, là kẻ mang tấm lòng phá hoại học thuật! Trong tác phẩm Tam Kinh Tân Nghĩa và Tự Thuyết của hắn, những chỗ hủy báng, vu vạ, miệt thị thánh nhân, phá nát đại đạo, không chỉ là một điều! Kinh Xuân Thu phân định chánh đáng danh phận [vua tôi, cha con…], đặt định tiêu chuẩn khen chê (đánh giá các nhân vật lịch sử), khiến cho bọn loạn thần, tặc tử kinh sợ; Vương An Thạch khiến cho người học chẳng nghiên cứu kinh Xuân Thu. Sử Ký và Hán Thư chép những chuyện thành, bại, an nguy, sanh tử, tồn vong, bình trị, loạn lạc, chính là những tấm gương soi, là khuôn phép cho cõi đời. Vương An Thạch khiến cho người học chẳng đọc Sử Ký, Hán Thư. [Đối với chuyện] Dương Hùng[170] không kết tội Vương Mãng soán đoạt, phê phán kịch liệt nhà Tần, ca tụng nhà Tân, Vương An Thạch bèn viết: “Phù hợp với cách nói ‘vô khả, vô bất khả’[171] của Khổng Tử”. Đối với chuyện Phùng Đạo thờ bốn họ, tám vua[172], Vương An Thạch bèn viết: “Khéo tránh nạn để bảo toàn cái thân”, khiến cho hàng công khanh đều vâng theo lời ấy, chẳng có khí tiết, trung nghĩa. Thoạt đầu, An Thạch đối xử hòa hảo với các bậc hiền thần. Do tranh chấp về “tân pháp” chẳng hợp ý, hắn đều bài xích, lưu đày họ. Con trai của hắn là Bàng còn nói: “Chặt đầu Hàn Kỳ, Phú Bật ngoài chợ, tân pháp mới thực hành được”. Như vậy thì có thể biết Vương An Thạch là hạng người như thế nào!
Về sau, do người công kích [tân pháp] quá đông, hắn càng thêm ngạo mạn, hung hãn, phóng túng, hoang đường, bảo: “Điềm trời biến đổi chẳng đáng sợ, lời người khác [phê phán] chẳng đáng quan tâm, pháp tắc của tổ tiên chẳng đáng tuân thủ”. Tội nặng nề, điều ác ngập tràn. Con trai duy nhất của Vương An Thạch là Bàng lưng mọc nhọt độc, chết yểu. Hắn đau thương khôn cầm, nhiều lần lấy cớ bệnh tật xin từ chức. Về sau, Tống Thần Tông chán ghét, bãi chức hắn ta. Trên là không được vua sủng ái, dưới là buồn bã vì tuyệt tự, giữa là bị người đời ghét bỏ. Những bậc hiền năng bị hắn bài xích, xua đuổi trước kia, nối tiếp nhau nắm quyền, phế sạch tân pháp của hắn. Vương An Thạch hổ thẹn, sợ hãi mà chết.
(Chánh văn) Thị phi bất đáng, hướng bối quai nghi.
(正文)是非不當,向背乖宜。
(Chánh văn: Chẳng phân biệt đúng sai, hành xử không thích đáng).
Bậc quân tử khiến cho căn cội nhân nghĩa tăng trưởng phong phú, củng cố phòng vệ lễ nghĩa, sẽ có công năng thẩm định tốt, xấu, phân định thích đáng đúng, sai. Đối với mỗi người, đúng sai có liên quan đến điều thiện, lẽ ác của chính người đó. Đối với một làng, đúng sai sẽ có liên quan đến điều lợi, lẽ hại của làng ấy. Đối với thiên hạ, đúng sai liên quan đến sự an nguy trong thiên hạ. Há có thể chẳng thận trọng, cứ khinh suất [hành xử] chẳng thích đáng, coi sai là đúng, coi đúng là sai ư?
Đời Tống, Doãn Sư Lỗ giữ mình, dạy người, khẳng định đúng sai chánh xác, chẳng có gì phải giấu giếm, chẳng làm chuyện cẩu thả, chỉ chú trọng hết sức phù hợp đạo lý. Khi lâm chung, ông viết thư từ biệt Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm). Văn Chánh bươn bả tới nơi, ông đã tắm rửa, đội mão, thắt đai, ngồi ngay ngắn qua đời. Văn Chánh Công đau đớn, khóc lóc. Ông lại mở mắt, bảo: “Đã từ biệt ông rồi, sao ông lại tới để làm gì? Sống chết là lẽ thường hằng, sao Hy Văn[173] chẳng hiểu vậy?” Nói xong, lại chắp tay [từ biệt], qua đời. Thuở ấy, [đạo đức, học vấn] của ông Doãn được người đương thời học theo. Nếu chẳng thấu hiểu cùng tận tinh vi thì trong lúc tử sanh, những chuyện dấy lên quấy nhiễu ta sẽ nhiều lắm! Nói “nhập đạo vận dụng cả tri lẫn hành, nhưng tri càng quan trọng hơn” chính là nói đến lẽ này.
Đời Tống, Thái Kinh làm Tể Tướng trong các niên hiệu Nguyên Hựu và cuối niên hiệu Nguyên Phù[174], đã cáo buộc tể tướng Tư Mã Quang, thị thần[175] như Tô Thức v.v… quan văn như Trình Di v.v… quan võ như Vương Hiến Khả v.v… [tổng cộng] một trăm hai mươi người là gian đảng, xin hoàng đế hạ chiếu, khắc tên họ lên đá ở cửa Đoan Lễ và các châu huyện [để công bố tội trạng]. Dân chúng đều bất bình. Không lâu sau, bia đá bị sấm sét đánh nát. Thái Kinh cũng do có chuyện [phạm tội mà bị] lưu đày rồi chết.
“Hướng” (向) là hãy nên hướng đến, thuận theo, có nghĩa là phải thuận theo, hướng đến những cái được gọi là “hảo nhân, hảo sự”. “Bối” (背) là hãy nên trái nghịch, chống lại những thứ được gọi là “tà nhân, tà sự”. Hướng theo tà, trái nghịch chánh thì gọi là “quai nghi” (乖宜, chẳng hợp lẽ, chẳng thích đáng). Sơ sót nhất thời, suốt đời thân bại danh liệt, há có thể chẳng cẩn trọng ư?
Đời Đường, Tống Thân Tích làm Tể Tướng dưới triều vua Đường Văn Tông. Do thấy Trịnh Chú quá chuyên quyền, [Thân Tích] muốn trừ bỏ, bèn cậy người bạn là Vương Phan đang làm quan Kinh Triệu Lệnh (quan trông coi kinh thành, giống như đô trưởng hiện thời) ngầm theo dõi xem Trịnh Chú có làm chuyện gì chẳng đúng pháp tắc hay không. Vương Phan do Trịnh Chú [cất nhắc] mà được phú quý, bèn cáo giác âm mưu ấy với hắn. Trịnh Chú sợ hãi, vu cáo ngược lại Tống Thân Tích có hành vi sai trái, [ép vua] đày [Thân Tích] đi làm Tư Mã ở Khai Châu (nay là Khai Huyện, tỉnh Tứ Xuyên). Thân Tích ôm niềm phẫn hận mà chết. Về sau, Tống phu nhân mộng thấy Tống Thân Tích dẫn tới một cái hố ở ngoài thành. Trong hố có mấy người tử tù. [Thân Tích] chỉ một gã bảo vợ: “Đấy là Vương Phan, ta đã thỉnh cầu Thượng Đế [trừng phạt hắn]”. Nhân đấy, phẫn nộ quát tháo. Phu nhân kinh hãi, tỉnh giấc, thầm ghi nhớ [chuyện ấy]. Không lâu sau, Lý Huấn và Trịnh Chú mưu giết hoạn quan, xin vua sai bọn [hoạn quan] đến doanh trại Kim Ngô để xem cam lộ[176]. [Trước đó, Lý Huấn và Trịnh Chú] đã sai mấy người như Vương Phan v.v… dẫn quân đến đó [phục sẵn] để giết bọn hoạn quan. Vương Phan run lẩy bẩy chẳng dám tiến. Rốt cuộc âm mưu thất bại, hắn bị chém ngang lưng ngoài chợ. Có mấy người đều cùng bị chém, chôn ở ngoài thành.
Đời Tống, Trung Túc Lưu Chí[177] từng luận định mười điều tai hại của phép trợ dịch[178]. Vương An Thạch trách ông Lưu là kẻ hành xử không thích đáng, giáng ông xuống trông coi Tư Nông Tự[179]. Vua xuống chiếu, ra lệnh cho ông phân tích [nguyên nhân vì sao phản đối]. Ông thưa: “Thần hướng theo lẽ trung trực, phản đối tà nịnh. Hướng theo đạo nghĩa, phản đối [chỉ chú trọng] lợi lộc. Hướng đến đức vua, phản đối kẻ quyền thần gian trá. Mắc tội như thế, cố nhiên là thần đáng phải chịu. Nhưng phép trợ dịch rốt cuộc gây hại cho thiên hạ, xin bệ hạ đừng quên lời thần [tâu trình]”. Ai nấy đều lo sợ cho ông, riêng ông chẳng đoái hoài. Về sau, ông làm Tể Tướng. Ông Lỗ nói: “Hướng theo cái đáng nên hướng theo, đừng nên hướng theo lẽ riêng tư. Chống đối những cái đáng nên chống đối. Chống đối cũng phải vì lẽ công chánh. Thoạt đầu, đừng tính toán họa phước [cho cá nhân], mà họa phước thuận theo. Chuyện này cũng nhằm cảnh tỉnh những kẻ không làm như ông Lưu mà cam tâm làm Vương Phan vậy”.
(Chánh văn) Ngược hạ thủ công, siểm thượng hy chỉ.
(正文)虐下取功,諂上希旨。
(Chánh văn: Ngược đãi kẻ dưới để lập công, nịnh bợ kẻ trên để đón ý [cầu lợi]).
Đuốc vào ban đêm sẽ có công dụng trừ diệt tối tăm. Thuyền gặp nước, ắt có công dụng chở vật. Đại để, nước chảy thành sông ngòi, công năng sẽ tự thành tựu; vì thế, chẳng cần phải chiếm lấy. Nếu cố ý tranh giành [hòng lập công], ắt kẻ làm tướng sẽ dung túng cho quân lính cướp bóc, giết chóc, kẻ làm nha lại sẽ xằng bậy tăng thêm thuế khóa, lao dịch, kẻ làm quan trông coi hình pháp sẽ ghép thêm nhiều tội cho người khác, sẽ đều chẳng đoái hoài, thương tiếc, mặc sức mà làm! Nhưng những hành vi như thế ấy đều là lấy máu mỡ của dân chúng để đổi lấy công danh cho một người! Có được công trạng, chẳng qua là thăng quan, họa cũng xảy tới, há chỉ là sát thân? Người tuy cực ngu, chắc chắn chẳng đến nỗi ấy! Chẳng nhìn vào những tấm gương của cổ nhân đó ư? Đời Tống, Tào Bân hạ thành trì [của nhà Nam Đường] ở Giang Nam, chẳng tàn sát một ai. Đời Hán, Cấp Ảm giả chiếu chỉ để mở kho [thóc cứu đói], cứu sống mấy vạn người. Đời Hán, Vu Định Quốc làm Đình Úy, dân chúng chẳng bị phán xử oan uổng. Trong thuở ấy, có vị nào chẳng phải là công thần bậc nhất?
Thời Đường Huyền Tông, chi tiêu ngày càng xa xỉ. Vua lại không muốn lấy tiền từ công khố[180] để cung ứng. Viên Ngoại Lang của bộ Hộ[181] là Vương Hồng biết ý vua, bèn đục khoét dân chúng, [tăng thêm] những món tiền bạc ngoài hạn ngạch tuế cống[182] lên đến trăm ức vạn, đều chứa trong nội khố để cung ứng cho chi dụng [của hoàng đế]. Vua tưởng hắn có tài năng làm giàu cho đất nước, bèn phong cho hắn làm Thái Phỏng Sứ[183] ở kinh đô. Không lâu sau, lại phong cho hắn làm Hộ Bộ Thị Lang kiêm Kinh Triệu Doãn, nhưng trong ngoài đều kêu ca, oán thán. Chẳng bao lâu, do bị liên lụy bởi em trai là Vương Đạc [phạm tội], hắn được ban tội chết.
Đời Tống, Vương Thiều đề nghị khai phá vùng Hy Hà[184], giết người quá nhiều, tích lũy công trạng làm tới chức Xu Mật Sứ. Hắn lại thường cố ý giết chết người già và trẻ thơ của dân tộc Khương đã đầu hàng để lấy thủ cấp cho bọn hương thân mạo nhận công trạng hòng nhận lãnh chức tước. Lúc về già, hắn hối hận, đem chuyện nhân quả hỏi các vị trưởng lão. Mọi người đều nói: “Do phép vua mà giết người, giống như thuyền đi lại đè chết ốc, trai, tất nhiên là vô tâm”. Chỉ có Điêu Cảnh Thuần bảo: “Chỉ sợ là chẳng dối gạt tự tâm được. Nếu đã chẳng màng đến tự tâm, ắt sẽ chẳng hỏi!” Vương Thiều càng sợ, sau lưng sanh ra nhọt độc, luôn miệng kêu gào: “Vô số kẻ bị chặt đầu, chặt chân đòi mạng”. [Ghẻ độc] ăn sâu như cái hố lan thủng ngực, hắn bèn chết. Con trai trưởng của hắn hộc máu chết tươi, con trai út do phạm tội mà bị chặt đầu, gia môn tuyệt diệt.
Người dân huyện Chân Dương là Trương Ngũ ăn trộm trâu, những người làng như Hồ Đạt v.v… bắt được, Trương Ngũ bị Hồ Đạt đánh chết. Những tên trộm khác vu cáo Hồ Đạt cướp bóc, thưa lên huyện. Ấp lệnh (quan huyện) là Ngô Mạo muốn tranh công, hạch tội nhóm Hồ Đạt gồm mười hai người phạm tội cường đạo giết người. Do bị tra khảo khốc liệt, họ phải chấp nhận lời vu cáo ấy. Trong số đó, có hai người là Châu Khuê và Trương Vận bị bệnh chết. Đã trình lên phủ, giao việc ấy cho cơ quan tư pháp. Khi ấy, Trương Văn Quy trông coi về tư pháp tại Anh Châu, xét thấy ngôn ngữ và vẻ mặt của các tù nhân [dường như] chẳng phải là kẻ thật sự phạm tội. Khi đã tra hỏi rõ tình hình, lại bắt phe đảng trộm trâu ra đối chứng. Án đã được phán định. Hồ Đạt do đuổi trộm mà giết người, bị phạt đánh trượng vào lưng. Những người khác đều bị đánh vào mông. Châu Khuê và Trương Vận [được phán] vô tội. Mưu kế của Ngô Mạo chẳng thành, hắn hộc máu chết ngắc. Về sau, Trương Văn Quy bỗng bị bệnh nặng, [thần hồn] tới một dinh thự. Trưởng quan hỏi về chuyện của Ngô Mạo, bèn thưa trình đúng sự thật. Trưởng quan bảo: “Ta đã biết tường tận chuyện này, nay cậy khanh tới đây để làm chứng hòng kết thúc vụ án, cốt ý là thẩm tra sự thật vậy”. Văn Quy trông thấy Ngô Mạo ở đằng xa, đang bị gông cùm quỳ dưới đất. Châu Khuê và Trương Vận đứng bên cạnh. Nha lại lấy ra văn thư, chỉ cho Văn Quy thấy phần cuối có ba chữ “thêm một kỷ”. Ông tỉnh lại, bèn lành bệnh. Về sau, đến lúc bảy mươi tám tuổi, lại mộng thấy thần bảo: “Trước kia ông đã được tăng thọ mười hai năm, ông lại giảm tội một người bị chém thành tội xử giảo (treo cổ), nên được thọ thêm nửa kỷ (sáu năm) nữa”. Quả nhiên, [Trương Văn Quy] tám mươi ba tuổi mới mất.
“Siểm” (諂) là nịnh hót, “hy” (希) là tán trợ. Ý cấp trên chưa quyết, còn có thể vãn hồi, chỉ vì có kẻ đón ý xu nịnh mà [cấp trên] trở thành kiên quyết, chẳng thể lay chuyển. Nay không chỉ là bầy tôi đối với vua, mà còn là thuộc cấp đón ý bợ đỡ thủ trưởng, thân sĩ đón ý bợ đỡ quan phủ, nha dịch đón ý bợ đỡ trưởng quan, nô bộc, tỳ thiếp đón ý bợ đỡ gia chủ thì đều là [“siểm thượng hy chỉ”]. Phàm những kẻ làm cấp trên, đối với mọi chuyện đều nên tuân theo lý, hãy cẩn trọng, chớ nên tham cầu lợi lộc riêng tư, khiến cho kẻ khác có kẽ hở để luồn lách. Kẻ làm cấp dưới, há có nên mong cầu công danh chẳng đúng lý, mong mỏi sẽ may mắn hưởng tiền tài bất nghĩa! Hãy nên biết a dua, xúi giục cấp trên, uốn mình luồn cúi, chỉ tổ đánh mất bản tâm, kết oán nghiệp vô cùng!
Trong niên hiệu Tuyên Đức nhà Minh, [Minh Tuyên Tông] đã từng sai Thái Giám Vương Tam Bảo[185] xuống các nước phiên thuộc ở vùng Tây Dương tìm kiếm các thứ báu vật lạ lùng. Trong niên hiệu Thiên Thuận[186], có kẻ tâu xin hoàng đế lại sai người [xuống các nước Tây Dương]. Triều đình sai Binh Bộ tra cứu các tài liệu cũ [về những chuyến sứ trình ấy]. Khi ấy, Hạng Trung đang trông coi Binh Bộ, sai thuộc hạ tra cứu. Lang Trung là Lưu Đại Hạ tới kho trước, giấu sạch tài liệu. Các nha lại không tìm được gì, kiến nghị ấy phải xếp xó. Hạng Trung trách cứ nha lại: “Tài liệu ở trong kho, sao lại bị mất?” Lưu Công mỉm cười nói: “Trước kia, khi [Trịnh Hòa đem quân] xuống các nước Tây Dương, tốn phí gạo tiền mấy chục vạn, quân dân bị chết không đếm xiết. Dẫu tìm được của báu, vô ích cho đất nước. Đối với chuyện tồi tệ này, bậc đại thần hãy nên thống thiết can gián. Nếu tài liệu cũ hãy còn, cũng nên hủy đi để trừ căn cội [gây họa] ấy, há còn truy hỏi có hay không nữa chăng?” Ông Hạng tạ tội, bảo: “Ta suy nghĩ nông cạn, chẳng nghĩ đến lẽ này. Một lời này của ông, âm đức động trời. Địa vị này sẽ thuộc về ông vậy”. Về sau, quả nhiên là như thế.
Đường Thái Tông từng chỉ một cái cây, nói: “Cây này rất đẹp”. Vũ Văn Sĩ Cập[187] bèn hùa theo, ca ngợi chẳng ngớt. Vua nghiêm mặt bảo: “Ngụy Trưng khuyên ta tránh xa kẻ nịnh nọt. Ta chẳng biết đứa nịnh thần là ai, nay mới biết là ngươi”. Sĩ Cập khấu đầu, thẹn thùng, tạ lỗi.
Đời Hậu Đường, Quách Sùng Thao đón ý của Đường Trang Tông, khuyên vua lập Lưu Hậu[188], cứ ngỡ là được lòng bà ta. Về sau, kẻ sàm báng khiến cho nhà vua giết chết Sùng Thao chính là Lưu Hậu. Ôi! Đón ý khuyên vua nên lập hậu, cứ ngỡ là sẽ củng cố địa vị, đâm ra mắc phải thảm họa, siểm nịnh lại có ích gì?
(Chánh văn) Thọ ân bất cảm, niệm oán bất hưu.
(正文)受恩不感,念怨不休。
(Chánh văn: Chịu ân [người khác mà] chẳng cảm kích, luôn ôm lòng oán hận chẳng dứt).
Đối với ân huệ cho một bữa cơm, cổ nhân ắt báo đáp. Nếu không có sức báo đáp, tâm ắt luôn ngầm cảm kích. Luôn nghĩ tưởng tới, chẳng thể quên lãng. Trí Độ Luận có chép: “Chịu ân mà chẳng cảm kích, tệ hơn súc sanh”. Nói hay lắm thay! Có những ân to lớn, một là trời đất, hai là cha mẹ, ba là quốc vương, bốn là sư trưởng, nhưng có kẻ mơ màng suốt cả đời, chẳng báo đáp bốn ân, chỉ chăm chút [mong báo đáp] những ân huệ riêng tư, nhỏ nhặt. Đấy là bỏ cội theo nhánh, chẳng phải là người báo ân vậy!
Đời Đường, Sử Vô Úy kết bạn với Trương Tùng Chân. Vô Úy nhà nghèo, Tùng Chân thường châu cấp cơm áo, giúp tiền cho Vô Úy buôn bán. Mấy năm sau, Vô Úy giàu có, Tùng Chân bị hỏa hoạn, gia sản mất sạch. Tùng Chân đến chỗ Vô Úy, Vô Úy lại phụ bạc tình nghĩa khi trước. Tùng Chân chỉ đành đối trước trời cao nức nở mà thôi. Bỗng mây đen kéo đến dầy đặc, sét đánh trúng Vô Úy, hắn biến thành trâu, có chữ son viết trên bụng rằng: “Sử Vô Úy phụ lòng, trong vòng mười ngày sẽ chết”. Tục ngữ có câu: “Súc sanh biết báo ân, như ngựa thòng dây cương, như chó lăn cỏ, như rắn nhả ngọc, như chim sẻ ngậm vòng[189]. Loài vật còn như thế, sao con người lại bội nghịch ân đức, riêng mình chẳng sợ biến thành trâu ư?”
Đời Tống, Trương Bật chẳng màng danh lợi, hiếu học, tinh thông kinh Dịch, giúp Lý Đại Lượng thoát nạn. Đến khi Đại Lượng sang cả, gặp Trương Bật trên đường, ôm Trương Bật khóc òa, muốn tặng hết gia tài cho. Trương Bật cự tuyệt chẳng nhận. Đại Lượng tâu với vua: “Thần được phụng sự bệ hạ là do sức của Trương Bật. Xin hãy giao sạch quan tước của thần cho ông ta”. Vua bèn phong cho Trương Bật làm Lang Trung, giữ chức Đô Đốc Đại Châu. Trương Bật chẳng nghĩ mình có ân đức, Đại Lượng khăng khăng báo ân, cả hai đằng đều được vinh hiển.
Đối với mối oan cừu của vua, cha, mối hận cốt nhục, bậc quân tử dùng đường lối chánh trực để báo oán. Còn như những mối thù riêng, nỗi oán nhỏ, có thể thuận theo lý để giải trừ, có thể xét theo tình cảm mà dung thứ, thì oán cừu sẽ liền tiêu tan. Nếu cứ nghĩ mãi không ngơi, ắt sẽ oan oan tương báo, há có lúc nào xong?
Đời Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, đã kết oán rất nhiều. Về sau, ông ta bị biếm trích tới Châu Nhai (vùng Đông Bắc đảo Hải Nam), thấy trên vách một ngôi chùa treo mười mấy cái hồ lô. Hỏi dò vị Sư, Sư bảo: “Đó là tro cốt của những người đã làm mất lòng gã Thái Úy (tức Lý Đức Dụ) đang nắm quyền, đều bị hắn ta biếm trích tới xứ này, chết ở nơi đây. Lão tăng thương xót, hỏa thiêu, thu thập hài cốt, chờ con cháu đến lấy”. Đức Dụ nghe nói, sợ hãi bỏ đi, đau lòng mà chết.
Đời Minh, Kim Thành làm Chủ Sự của bộ Hình. Lúc chưa gặp thời, từng bị Ma Trương vây hãm làm nhục. Về sau, Trương phạm tội, bị giải về kinh, trông thấy Kim Thành đằng xa, bèn mỗi bước chín lạy. Kim Thành cười đón, cứu tội cho. Ma Trương yết kiến, Kim Thành giữ lễ như lệ thường. Ma Trương cảm kích khóc òa, gả con gái cho con trai của Kim Thành.
(Chánh văn) Hữu đễ.
(正文)友悌。
Vu Thiết Tiều từng nói:
– Kẻ khác dùng thế lực chèn ép ta, ta dùng sự độ lượng bao dung họ, ắt quét sạch tầng tầng mây dầy, dập tắt lửa báo thù hừng hực. Vì thế, bậc quân tử chẳng nghĩ đến điều ác cũ.
- Chú thích:
[1] Viên Thị Thế Phạm là một bộ sách do Viên Thái soạn vào đời Tống. Sách gồm những lời khuyên về luân lý gia đình như cách cư xử chánh đáng trong các mối quan hệ như cha con, anh em, vợ chồng, chị em dâu, con cháu v.v…
[2] Thiệu Ung (1011-1071), tự là Nghiêu Phu, hiệu là Khang Tiết, sống vào đời Bắc Tống. Ông nghiên cứu kinh Dịch tinh thâm, sáng lập thuật bói Mai Hoa Dịch Số lừng danh. Bộ sách Mai Hoa Dịch Số của ông được xếp vào Tứ Đại Kỳ Thư (Kinh Dịch, Mai Hoa Dịch Số của Thiệu Khang Tiết, Ma Y Tướng Thuật và Địa Lý Toàn Thư). Ông còn được coi là một trong những nhà sáng lập Lý Học, tuy không nổi tiếng như Châu Đôn Di, Trình Hạo v.v… Một tác phẩm lừng lẫy khác của ông là bộ Hoàng Cực Kinh Thế được coi là nền tảng cho sự tổng hợp hoàn thiện giữa tư tưởng của kinh Dịch và Đạo gia.
[3] Trương Công Nghệ sống vào thời đại Tùy – Đường tại Thọ Dương thuộc châu Hầu Vận. Dòng họ ông ta chín đời ở chung với nhau, không tách rời. Ông viết chữ Nhẫn rất to, rất nhiều dán khắp nơi trong nhà để tự nhắc nhở chính mình lẫn người khác. Một câu nói của ông đã trở thành thành ngữ là “bách nhẫn thành kim” (trăm điều nhẫn sẽ thành vàng).
[4] Điền Chân là người đời Hán, ông có hai em trai là Điền Khánh và Điền Quảng, ba người muốn chia riêng nhà để ở. Trước nhà có một cây tử kinh to rất sum xuê. Họ muốn hạ cây xuống, cưa đều ra để chia nhau, bỗng cây ấy chết khô. Họ bèn bỏ ý định tách ra sống riêng.
[5] Ông Thiệu Ung mở đầu và kết thúc mỗi đoạn bằng câu “tử dưỡng thân hề, đệ kính ca” (con cái phụng dưỡng cha mẹ, em kính trọng anh).
[6] “Nan huynh nan đệ” là một thành ngữ nhằm ca ngợi anh lẫn em đều có tài, hiền đức, khó thể phân định ai hơn, ai kém. Thuở trước, Trần Nguyên Phương (Trần Kỷ) và Trần Quý Phương (Trần Kham) đời Đông Hán đều có học vấn lỗi lạc, phẩm đức xuất sắc, nên người đời bèn nói họ là “nan huynh, nan đệ”.
[7] Trọng Do chính là Tử Lộ. Khi còn hàn vi, nhà ông rất nghèo, ông phải đi đội gạo thuê rất xa để có tiền phụng dưỡng cha mẹ. Không có tiền mua thức ăn, ông phải hái các loại rau lê, rau hoắc để nấu canh cho cha mẹ ăn tạm. Trong tác phẩm Nhị Thập Tứ Hiếu, cụ Lý Văn Phức đã ca ngợi: “Thầy Tử Lộ cũng người nước Lỗ, thờ hai thân từng bữa canh lê, thường khi đội gạo đi về, xa xôi trăm dặm nặng nề hai vai, đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc, gót nam du nhẹ bước tang bồng. Xe trăm cỗ, thóc muôn chung. Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao. Thân phú quý ngắm vào thêm tủi. Đức cù lao chạnh tới càng đau. Nào khi đội gạo, canh rau, muốn còn như cũ dễ hầu được ru!” Trần Kỷ (tự là Nguyên Phương) và em là Trần Kham (tự là Quý Phương) là con trai của Trần Thực. Hai anh em đều được xưng là bậc hiền đức, hiếu thảo cao tột thuở đương thời.
[8] Khổng Dung khi còn bé, mỗi khi cùng các anh ăn lê, bèn chọn quả bé hơn. Người lớn hỏi nguyên do, Khổng Dung đáp: “Con còn bé, lẽ đương nhiên là ăn quả nhỏ”.
[9] “Ôm quất” là nói tới Lục Tích đời Hán. Lúc sáu tuổi, Lục Tích theo cha đến Cửu Giang yết kiến tướng quân Viên Thuật, Viên Thuật mời họ ăn quýt. Quýt hết sức ngọt. Lục Tích bèn lén giấu trong tay áo ba quả. Khi ra về, do khom mình vái chào, quýt lăn ra đất, Viên Thuật cười to. Cha Lục Tích hết sức hổ thẹn và tức giận, quở mắng. Lục Tích thưa: “Quý ngọt quá nên con không nỡ ăn, để dành đem về biếu mẹ”.
[10] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này phải hiểu là thấy con cháu, anh em hòa thuận, lòng cha mẹ rất vui sướng. Đấy là niềm vui to lớn nhất đối với cha mẹ.
[11] Nguyên văn “ban y vũ bãi huân trì tấu”, bao gồm hai điển tích về hiếu và đễ. “Ban y vũ” (斑衣舞) là nói Lão Lai đã bảy mươi tuổi vẫn mặc áo vằn vện sặc sỡ, nhảy múa loi choi như con nít, giả vờ trượt chân ngã, khóc lè nhè khiến cha mẹ cười to. Huân (塤) là nhạc khí bằng đất nung, có hình trứng, đầu nhọn có lỗ để thổi, đầu tù có nhiều lỗ nhỏ để người thổi dùng ngón tay bịt hay mở để tạo ra các nốt nhạc khác nhau. Nói chung loại kèn đất này hơi giống loại kèn ocarina của phương Tây, nhưng ocarina thì dẹp trong khi Huân có hình bầu. Trì (篪) là loại sáo thổi ngang, có bảy lỗ, thường làm bằng trúc. Chỗ khác biệt với sáo trúc thông thường là Trì thường được bịt kín một đầu. Loại nhạc khí này chỉ còn dùng trong lễ tế Khổng Tử. Thời cổ, hễ thổi Trì thì sẽ dùng Huân thổi hòa theo; do vậy, anh em hòa thuận thường được ví như xếp đôi Huân và Trì để cùng diễn tấu (bãi huân trì tấu, 罷塤篪奏).
[12] Vương Hàn: Vương ở đây là Vương Tường nổi danh hiếu thảo. Mẹ ngã bệnh, thèm ăn cá, trời mùa Đông không tìm ra cá, ông cởi trần nằm trên băng, cầu xin trời đất. Quả nhiên băng nứt vỡ, một đôi cá chép nhảy ra để ông bắt về nấu cho mẹ ăn. Hàn là Hàn Lăng, cha làm Thái Thú tỉnh Thiểm Tây. Ông mồ côi cha năm bốn tuổi, hết sức hiếu thảo với mẹ, thương yêu em trai. Khi trưởng thành, ông nhường toàn bộ gia sản do cha để lại cho các em, kể cả những anh em họ.
[13] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này có ý nói: Kẻ vốn đã sẵn có của cải vẫn thấy là ít, đối với gia sản do ông bà, cha mẹ để lại vẫn lăm lăm muốn chiếm hữu nhiều hơn! Giành giật được của cải, chiếm tiện nghi của kẻ khác thì vợ chồng rất khoái trá, nghĩ mình giàu có, khôn ngoan, nào ngờ về sau con cháu phá tán cho bằng hết.
[14] Tử kinh (紫荊) là một loại cây có hoa đẹp thường được trồng làm cảnh, thường được biết dưới tên Cercis Chinenis hay đơn giản là Chinese Redbud. Cây có thể mọc cao đến 15 mét, thân cây có đường kính to đến nửa thước. Hoa có màu hồng hoặc trắng sữa, kết thành chùm, cánh hoa đơn rất đẹp. Khi nở hoa vào tháng Tư, cả cây chỉ thấy sắc hoa hồng tươi như hoa đào, hầu như không thấy lá.
[15] Thị Trung (侍中) là một chức quan cố vấn thân cận của nhà vua. Đến đời Tấn, chức vụ này được gọi là Môn Hạ Tỉnh, tức tương đương với Tể Tướng sau này.
[16] Bắc Tề (550-577) là một triều đại khá ngắn ngủi trong thời Nam Bắc Triều. Sau khi nhà Tấn của Tư Mã Ý suy vong, dẫn đến tình trạng quân phiệt cát cứ, chia xẻ Trung Hoa thành nhiều nước, Sử thường gọi là thời Nam Bắc Triều. Triều đại Bắc Tề do Cao Dương sáng lập, nên đôi khi còn gọi là nhà Cao Tề, để phân biệt với nhà Nam Tề (490-502, còn gọi là nhà Tiêu Tề do Tiêu Đạo Thành sáng lập) trước đó. Bắc Tề diệt Đông Ngụy, đóng đô tại Nghiệp Thành. Cao Dương vốn là con của quyền thần Cao Hoan nhà Đông Ngụy. Sau khi cha chết, Cao Dương được Ngụy Tĩnh Đế (Nguyên Thiện Kiến) nhà Đông Ngụy phong làm Thừa Tướng, tước Tề quận vương. Cao Dương phế Ngụy Tĩnh Đế, đổi quốc hiệu thành Tề, nhưng chỉ làm vua được mười năm rồi chết khi mới 33 tuổi! Về sau, nhà Bắc Tề bị Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) của nhà Bắc Châu tiêu diệt.
[17] Hậu Hán (947-951) là một triều đại trong mười quốc gia được thành lập thời Ngũ Đại trước khi Triệu Khuông Dẫn thống nhất giang sơn. Triều đại này do Lưu Tri Viễn sáng lập, chỉ truyền được hai đời vua, là triều đại ngắn nhất và tệ hại nhất trong lịch sử Trung Hoa. Trước sau chỉ tồn tại bốn năm; trong bốn năm ấy, đấu tranh cung đình, chiến tranh liên miên. Đây cũng là triều đại cuối cùng do người thiểu số Sa Đà sáng lập tại Trung Nguyên.
[18] Nguyên văn là Mân (緡). Thời cổ, tiền xâu thành chuỗi, cứ một ngàn đồng thì gọi là một Mân.
[19] Vương Báo là người nước Vệ, sống ở vùng Kỳ Thủy (nay thuộc huyện Lâm, tỉnh Hà Nam). Miên Câu là người nước Tề, sống tại Cao Đường (thuộc tỉnh Sơn Đông hiện thời). Cả hai đều giỏi âm luật, thích ca xướng.
[20] Lý Ưng là người sống vào thời Đông Hán, tánh tình cương trực, giao du rất thân với Quách Thái. Ông ghét bọn hoạn quan chuyên quyền, không chịu luồn cúi, xu nịnh. Người đương thời ca ngợi “thiên hạ khải mô Lý Nguyên Lễ” (Lý Nguyên Lễ là bậc khuôn mẫu cho cõi đời), Nguyên Lễ là hiệu của ông. Người được quen biết với ông đều cảm thấy vinh hạnh như cá chép vượt Vũ Môn thành rồng vậy. Tánh ông kiên quyết đến nỗi em trai của quyền thần Trương Nhượng là Trương Sóc làm huyện lệnh Dã Vương, vốn là kẻ tham tàn, vô đạo, đức lẫn hạnh đều xấu xa, bị ông hạch tội. Trương Sóc sợ oai, trốn về kinh đô, núp trong một cái cột rỗng rất to trong phủ. Ông điều tra ra, bèn kéo người đến bắt, phá cột, giết chết Trương Sóc. Khi ấy, lũ tay chân của Trương Sóc sợ hãi, chẳng dám hó hé tí nào! Cuối cùng bọn hoạn quan vu hãm, đàn hặc, khiến cho ông bị hạ ngục, chết trong tù.
[21] Thái Ung là người giỏi văn chương, học rộng, thông thạo số thuật, thiên văn, lại còn tinh tường nhạc luật, giỏi điêu khắc, khéo viết văn bia, nên thường được mời viết văn bia cho những người nổi tiếng thuở ấy.
[22] Đoan Minh là biệt hiệu của Tư Mã Quang.
[23] Hậu Hán ở đây là nhà Đông Hán, tức nhà Tây Hán được tái lập bởi Lưu Tú (Hán Quang Vũ Đế) sau khi dẹp tan Vương Mãng, không phải là nhà Hậu Hán thời Ngũ Đại của Lưu Trí Viễn.
[24] Vũ Thừa Tự là con trai của Vũ Nguyên Sảng (anh cùng cha khác mẹ của Vũ Hậu). Khi Vũ Sĩ Hộ (cha của Vũ Tắc Thiên chết), Thừa Tự đã được tập tước Châu Quốc Công, lần lượt leo cao dần đến chức Văn Xương Tả Tướng (tả thừa tướng). Hắn ta mong được làm Thái Tử nên đã sai bọn tay chân là Vương Khánh Chi, Trương Gia Phước v.v… dâng sớ xin Vũ Hậu lập Thừa Tự làm Thái Tử. Do đại thần Lý Chiêu Đức can gián, Vũ Hậu bãi chức thừa tướng của Thừa Tự. Về sau, Vũ Hậu lại lập con ruột là Lý Hiển (Đường Trung Tông) làm Thái Tử, giấc mộng làm vua của Thừa Tự tan vỡ. Hắn uất ức phát bệnh mà chết. Vũ Tam Tư là con trai của Vũ Nguyên Khánh (anh cả của Vũ Tắc Thiên), từng được phong làm Lương Vương khi Vũ Hậu xưng đế. Hắn là người tàn ác, xảo quyệt, hết sức tận tụy quét sạch những kẻ chống đối Vũ Tắc Thiên, nên Vũ Tắc Thiên rất yêu mến, tín nhiệm, từng có ý định cho hắn làm Thái Tử. Vũ Tam Tư từng dùng mọi thủ đoạn triệt hạ tông thất nhà Đường, gây nên nhiều biến loạn trong cung đình khiến các đời vua Đường Trung Tông, Đường Duệ Tông bất ổn, nhiễu nhương.
[25] Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) khi mất có thụy hiệu là Văn Vũ Đại Thánh Đại Quảng Hiếu hoàng đế, nên thường gọi tắt là Văn Đế. Ngay trong khi Đường Cao Tông (Lý Trị) còn sống, do quần thần bợ đỡ Vũ Tắc Thiên, đã tôn xưng Cao Tông là Thiên Hoàng Đại Đế, còn Vũ Tắc Thiên được xưng tụng là Thiên Hậu. Vì thế, khi nhắc tới Đường Cao Tông, quần thần thường phải gọi là Đại Đế tuy ông này hôn ám, nhu nhược, hoàn toàn bị Vũ Tắc Thiên thao túng.
[26] Vũ Hậu có sáu người con với Đường Cao Tông là Lý Hoằng, Lý Hiền, Lý Hiển, Lý Đán, công chúa An Định và công chúa Thái Bình. Lý Hoằng nhân từ, sức khỏe yếu, hơi nhu nhược, không tán đồng những hành vi chuyên quyền, đối xử tàn tệ với hoàng tộc nhà Đường, nên bị Vũ Tắc Thiên ghét bỏ, tính phế ngôi Thái Tử. Ông chết đột ngột năm 25 tuổi, có thuyết nói là do bị Vũ Tắc Thiên hạ độc. Người con thứ là Lý Hiền rất hiền minh, chánh trực, nên bị Thái Hậu ghét bỏ vì không theo phe bà. Lại vì một tay đạo sĩ sủng ái của Vũ Hậu là Minh Sùng Nghiễm bị bọn cướp đánh chết, Vũ Hậu càng nghi Lý Hiền ngấm ngầm làm chuyện này, do trước đó Minh Sùng Nghiễm đã nhiều lần công khai gièm pha Lý Hiền trước mặt mọi người. Để tâng công, bọn Tiết Nguyên Siêu, Bùi Viêm, Cao Trí Châu đã âm mưu hãm hại, vu cáo Lý Hiền chiêu tập binh mã mưu mô làm loạn. Lý Hiền bị kết tội, đày đi Ba Thục, cấm không cho về kinh đô. Về sau, Vũ Hậu lại sai người đến ép ông uống thuốc độc tự tử. Do vậy, chỉ còn hai người con trai là Lý Hiển và Lý Đán. Do họ rất nhu nhược nên còn sống sót. Công chúa Thái Bình cũng là người mưu mô thủ đoạn, tiếp tục lũng đoạn triều chánh trong một thời gian dài sau khi Vũ Hậu mất mãi cho đến khi bị Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng) dùng mưu mới trừ khử được.
[27] Lư Lăng Vương là tước phong của Lý Hiển. Về sau, Lý Hiển lên làm vua, tức Đường Trung Tông.
[28] Sau khi Đường Cao Tông mất, Lý Hiển lên làm vua tức Đường Trung Tông, nhưng quyền hành thật sự nằm trong tay Thái Hậu Vũ Tắc Thiên. Bà ta sai hoạn quan Khâu Thần Tích sang Tứ Xuyên ép cựu thái tử Lý Hiền uống thuốc độc tự tử. Do Trung Tông có ý chống đối, bà liền phế Trung Tông, lập Lý Đán lên làm vua, tức Đường Duệ Tông. Ông này chỉ làm vua bù nhìn. Bà ta thâu tóm quyền hành, giết hại công thần, lưu đày hoàng tộc nhà Đường xuống vùng Lãnh Nam. Gã sư phá giới là Pháp Minh lại ngụy tạo bốn quyển Đại Vân Kinh để ca ngợi Vũ Hậu là Phật Di Lặc giáng trần. Bọn bợ đỡ là Phó Du Nghệ cùng hơn chín trăm đại thần bèn thừa cơ dâng biểu xin Vũ Hậu xưng đế. Bà ta liền đổi quốc hiệu là Châu, ngạo mạn xưng tôn hiệu là Thánh Thần Hoàng Đế, giáng Duệ Tông xuống làm hoàng tự (danh xưng khác của Thái Tử), truy tôn cha ông mình thành hoàng đế.
[29] Bình Chương Sự có tên gọi đầy đủ là Đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự, tương đương với chức Tể Tướng. Thời Đường Thái Tông, đã quy định trưởng quan của ba cơ quan hành chánh (Trung Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh và Thượng Thư Tỉnh) là Trung Thư Lệnh, Thị Trung và Thượng Thư Bộc Xạ cùng giữ vai trò Tể Tướng. Cả ba vị này đều được gia phong cấp bậc Đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự, đến thời Vũ Tắc Thiên đổi thành Đồng Phượng Các Loan Đài Bình Chương Sự. Đến đời Đường Đại Tông, chức vụ này mới đổi thành Đồng Bình Chương Sự và mới là Tể Tướng thật sự đứng đầu bá quan.
[30] “Hương đồng” (香童) là trẻ trông coi nhang đèn, làm việc vặt trong các chùa miếu, đạo quán, hoặc làm người hầu cho các vị tăng sĩ, đạo nhân.
[31] Thời xưa, người có học do có thể đỗ đạt làm quan, vợ có thể sẽ được sắc phong, hoặc mai sau con cái đỗ đạt, vinh hiển, có thể xin triều đình sắc phong cho mẹ. Triều đình sẽ xét nguồn gốc dòng họ, do người nữ ấy là trẻ mồ côi không rõ xuất xứ, sẽ dấy lên nhiều nỗi dị nghị, khiến cho chồng hoặc con gặp trắc trở trên đường công danh. Hơn nữa, do con cái đỗ đạt, mẹ xuất thân hèn kém, không rõ nguồn gốc, sẽ gặp cảnh con dâu cậy mình dòng dõi cao quý, khinh rẻ mẹ chồng. Đã thế, nếu mẹ xuất thân hèn kém, con do người ấy đẻ ra sẽ không được coi là dòng chính, bản thân người ấy không được lập thành chánh thất, dẫu được cưới gả trước, vẫn bị coi là tỳ thiếp.
[32] Thục Hán là nước Hán thời Tam Quốc, do Hán Chiêu Liệt Đế (Lưu Bị) lập ra. Do nước này thuộc đất Thục (tỉnh Tứ Xuyên), nên gọi là Thục Hán. Lãnh thổ Thục Hán bao gồm Ích Châu (tức vùng bồn địa tỉnh Tứ Xuyên và Hán Trung). Vùng này từ đời Ân Thương được gọi là Ba Quận do có người Ba sinh sống đầu tiên. Ích Châu bao gồm hai mươi hai quận.
[33] Hoàng Môn là một chức quan thời cổ, gọi đầy đủ là Hoàng Môn Thị Lang. Theo ông Hoàng Bách Lâm, chức quan này trực thuộc cơ cấu Môn Hạ Tỉnh. Chỉ riêng đời Đường Trung Tông, Môn Hạ Tỉnh được gọi là Hoàng Môn Tỉnh, cho nên chức quan đứng đầu Môn Hạ Tỉnh thường gọi là Hoàng Môn Thị Lang. Môn Hạ Tỉnh là cơ quan hành chánh trung ương, chuyên trách cân nhắc nội dung các chiếu lệnh cụ thể trước khi ban hành. Về sau, mở rộng thêm quyền hạn thành cố vấn, đồng thời đặc trách can gián, góp ý. Đến đời Nguyên, chức trách can gián giao hẳn cho Ngự Sử Đài, Môn Hạ Tỉnh chuyên đặc trách các vấn đề chánh sách, rồi dần dần bị phế bỏ. Cả ba tỉnh chỉ còn lại Trung Thư Tỉnh thống trị toàn thể sáu bộ. Thoạt đầu, trong ba cơ cấu thuộc Tam Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh và Trung Thư Tỉnh có chức trách vạch ra kế hoạch, quyết sách, còn Trung Thư Tỉnh đảm nhiệm chức trách chấp hành. Đời Tùy, chức quan đứng đầu Môn Hạ Tỉnh gọi là Nạp Ngôn, đến đời Đường đổi thành Thị Trung, viên phó quan được gọi là Môn Hạ Thị Lang. Lại đặt thêm các chức Cấp Sự Trung, Tán Kỵ Thường Thị, Gián Nghị Đại Phu, Khởi Cư Lang, Thập Di v.v…
[34] Thượng Thư Bộc Xạ (尚書僕射) chính là chức quan phụ tá của Thượng Thư Lệnh (người đứng đầu cơ quan Thượng Thư Tỉnh). Thời Tam Quốc, chia thành Tả Bộc Xạ và Hữu Bộc Xạ. Về sau, mỗi khi chức Thượng Thư Lệnh bị khuyết, Bộc Xạ sẽ lâm thời hoặc trường kỳ đứng đầu Thượng Thư Tỉnh. Thời Đường Tống, Thượng Thư Bộc Xạ đóng vai trò Tể Tướng. Riêng dưới thời Vũ Tắc Thiên, danh xưng của chức vị này được gọi là Văn Xương Tả Tướng và Văn Xương Hữu Tướng. Đến thời Tống Thần Tông, Tả Bộc Xạ bị đổi thành Môn Hạ Thị Lang, Hữu Bộc Xạ đổi thành Trung Thư Thị Lang, giữ vai trò Tể Tướng thật sự. Đến đời Nguyên, cơ cấu Thượng Thư Tỉnh hoàn toàn bị bỏ, chỉ còn giữ lại Trung Thư Tỉnh trong ba tỉnh, chức vụ Thượng Thư Bộc Xạ bị phế trừ, Trung Thư Thừa Tướng đảm nhiệm vai trò của Thượng Thư Bộc Xạ. Các danh nhân từng giữ chức vụ này là Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Lý Tĩnh, Ôn Ngạn Bác, Chử Toại Lương…
[35] Học Sĩ là chức quan được thiết lập từ đời Đường, gọi đầy đủ là Đông Cung Học Sĩ, có nhiệm vụ kèm cặp, dạy học Thái Tử. Vị này thật sự đôn đốc Thái Tử học tập, trong khi các chức quan Thái Phó, Thiếu Phó, Thái Sư, Thiếu Sư thiên về vai trò cố vấn, rèn luyện cách xử lý việc nước hơn là học tập từ chương. Đến thời Minh Trị Duy Tân, chức quan này bị bãi bỏ và người Nhật dùng chữ này để dịch chữ Bachelor (cử nhân) trong lối giáo dục Âu Tây. Các nước khác như Triều Tiên, Trung Hoa v.v… cũng bắt chước dịch theo cách này.
[36] Theo ông Hoàng Bách Lâm, Thái Tổ ở đây chính là Minh Thái Tổ (Châu Nguyên Chương).
[37] Ngu (虞) chính là triều đại của vua Thuấn, vì vua Thuấn sanh trưởng tại đất Hữu Ngu (有虞), nên ông còn được gọi là Hữu Ngu Thị, hay Ngu Thuấn (thật ra, vua họ Cơ, tên là Trùng Hoa, Thuấn là thụy hiệu). Vua Thuấn cũng đặt quốc hiệu là Hữu Ngu.
[38] Thượng Tường (上庠) là danh xưng của trường Thái Học (Quốc Tử Giám) thời cổ.
[39] Quảng Huệ là kho gạo để làm thiện sự được thiết lập dưới thời Tống Nhân Tông. Gạo trong kho này chủ yếu dùng để trợ cấp người già yếu, trẻ thơ, kẻ nghèo túng, hoặc bệnh tật rề rề.
[40] Diêu Lệnh Ngôn là một viên tướng nhỏ dưới quyền Tiết Độ Sứ Mã Lân. Do chiến công, ông ta được phong làm Kim Ngô Đại Tướng Quân, rồi được phong làm Thái Thường Khanh, kiêm Ngự Sử Trung Thừa. Về sau, họ Diêu được cử làm Tiết Độ Sứ Kính Nguyên (thuộc tỉnh Cam Túc). Năm Kiến Trung thứ tư (783), do Tiết Độ Sứ Lý Hy Liệt làm phản, Tiết Độ Sứ Hành Doanh là Ca Thư Hàn bị vây, kinh thành lâm nguy, Đường Đức Tông sai Diêu Lệnh Ngôn đem quân cứu viện. Diêu Lệnh Ngôn dẫn năm ngàn quân về Trường An. Đang tiết Đông giá rét, binh sĩ vừa lạnh vừa đói, thế mà quan kinh triệu doãn chỉ cho ăn cơm gạo xấu. Lệnh Ngôn vào chầu vua, vua chỉ ban thưởng mỗi người hai tấm vải thô! Quân sĩ căm tức, bèn nổi dậy làm cuộc binh biến, tấn công Trường An. Đức Tông phải bỏ chạy sang Phụng Thiên. Quân phiến loạn tôn Châu Thử làm vua. Châu Thử phong cho Lệnh Ngôn làm Thị Trung. Về sau, Lý Hoài Quang đem quân cứu giá, đánh bại quân Châu Thử. Lệnh Ngôn theo Châu Thử chạy sang đất Thổ Phiên (phía Đông Tây Tạng), bị quan giữ thành Kính Nguyên là Điền Hy Giám trở mặt, đóng cửa không cho vào. Sau đó, loạn quân giết chết Lệnh Ngôn.
[41] Long Khánh là niên hiệu của Minh Mục Tông (Châu Tải Hậu) từ năm 1567 đến năm 1572.
[42] Theo ông Hoàng Bách Lâm, điều này có nghĩa là có những kẻ cứ chọn một thời hạn nhất định để phóng sanh như vào dịp Phật Đản, hay Vu Lan, ngày Rằm, mồng Một v.v…
[43] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này phải hiểu như sau: Chúng ta phải thường ít tạo nghiệp, phải tôn trọng các động vật, gắng hết sức ăn chay, phóng sanh cho nhiều, bố thí cho nhiều, bao dung người khác, rộng kết thiện duyên. Đó gọi là “kinh doanh trả nợ”.
[44] Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Câu này phải hiểu là đừng so đo giá cả con vật mắc rẻ. Chẳng hạn do thấy dê, bò giá tiền đắt hơn tôm cá, rồi nghĩ rằng phóng sanh những con vật đắt tiền thì phước đức sẽ to hơn, không chịu hành hạnh phóng sanh cứu vật đối với những con vật bé bỏng.
[45] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của ông Hoàng Bách Lâm.
[46] Nguyên văn “cao giả” (kẻ ở nơi cao). Theo ông Hoàng Bách Lâm, từ ngữ này có nhiều ý nghĩa. Chữ “cao giả” có thể bao gồm những người có địa vị cao quý trong xã hội, hoặc những người phú quý, quyền thế, hoặc những người có phước báo to lớn. Vì lòng ích kỷ, ai nấy chỉ mong chính mình đạt được những điều tốt lành, chẳng muốn chia sẻ với người khác, mà cũng chẳng mong người khác sẽ làm điều tốt lành.
[47] Hy Ninh (1068-1077) là niên hiệu của Tống Thần Tông.
[48] Đây là một hủ tục của Trung Hoa kéo dài mãi cho đến đầu thời Dân Quốc: Những người đã chết phải được đưa về an táng tại quê nhà. Do vậy, những người chưa sẵn tiền, hoặc công việc bận rộn, hoặc chưa kiếm được ngày lành tháng tốt, hoặc chưa kiếm được cuộc đất tốt, thường thuê người đổ nhiều thủy ngân vào quan tài cho xác lâu thối rữa, khâm liệm xong sẽ đem gởi tại các chùa hoặc các đạo quán, chờ khi thuận tiện sẽ đưa về quê an táng. Thời gian quàn xác như vậy có nhiều khi kéo dài đến mười mấy năm. Có nhiều khi con cháu hoặc người thân của những cỗ quan tài ấy bị tai nạn, bị chết bất thình lình, hay lưu lạc, những cỗ quan tài ấy trở thành vô chủ.
[49] Hồng Vũ (1368-1398) là niên hiệu của Minh Thái Tổ (Châu Nguyên Chương).
[50] “Thượng chân” (上真) là danh xưng của Đạo gia để gọi bậc chân tiên.
[51] Hậu Hán ở đây là nói tới nhà Đông Hán, không phải là Hậu Hán do Lưu Tri Viễn sáng lập vào thời Nam Bắc Triều.
[52] Nguyên Đế ở đây là Huyền Thiên Thượng Đế, tức vị thần Trấn Vũ ở phương Bắc trong Đạo Giáo.
[53] “Thất phu” (匹夫) có nghĩa là những kẻ bình phàm trong xã hội, không có chức vị, không có địa vị và thế lực.
[54] Tam Nguyên là đỗ đầu cả ba trường thi, đỗ đầu kỳ thi Hương gọi là Giải Nguyên, đỗ đầu thi Hội thì gọi là Hội Nguyên, đỗ đầu kỳ thi Đình thì gọi Trạng Nguyên.
[55] Hà Sóc là khu vực thuộc miền trung du phía Bắc Hoàng Hà. Từ ngữ này thường dùng để chỉ một khu vực rộng lớn bao gồm cả tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc và Sơn Đông.
[56] Đài Tỉnh (臺省) là cơ quan hành chánh trung ương, thời Hán được gọi là Thượng Thư Đài, thời Tam Quốc đổi thành Trung Thư Tỉnh, là cơ quan đặc trách công bố những chiếu lệnh của hoàng đế, có đặc tánh của cơ quan hành pháp trung ương, chức trách tương ứng với Quốc Vụ Viện hiện thời.
[57] Thông Phán (通判) là chức quan được đặt ra từ thời Tống. Nhằm ngăn ngừa quyền hạn của Tri Châu quá cao, triều đình đặt ra chức Thông Phán làm phụ tá cho Tri Châu, thật ra là để kiềm chế, giám sát Tri Châu. Thông Phán trông coi lương thực, tiền bạc trong một châu.
[58] “Giáp hạt” là từ ngữ chỉ khoảng thời gian giữa hai vụ mùa, khi thóc cũ đã dùng hết, lúa đang trồng chưa gặt hái được.
[59] Những con buôn bất nhân thường xử ép người tiêu dùng bằng đấu non, đấu già, tức là khi gạo đắt thì dùng các dụng cụ đo lường như thưng đấu nhỏ hơn hoặc có đế dầy hơn để giảm thiểu số lượng gạo mỗi lần đong. Khi được mùa, lại ép giá bằng cách dùng đấu rộng hơn, khi đong bèn ém gạo cho chặt hơn để lấy được gạo nhiều mà trả tiền ít hơn.
[60] Tử Phủ Chân Quân là vị thần tiên nổi danh của Đạo Giáo. Ông tên là Vương Thành, tự là Huyền Phủ, người quận Đông Hải, sống vào đời Hán. Về sau, ông được tôn làm vị đứng đầu trong Ngũ Dương Tổ Sư (Vương Huyền Phủ, Chung Ly Quyền, Lữ Động Tân, Lưu Hải Thiềm, Vương Trùng Dương) của Toàn Chân Giáo. Tương truyền ông là Đông Hoa Đế Quân hóa thân. Ông được coi là người tu đạo đắc pháp trường sanh tại núi Chung Nam. Sở dĩ ông được gọi là Tử Phủ Chân Quân vì Nguyên Thế Tổ đã sắc phong ông là Đông Hoa Tử Phủ Thiếu Dương Đế Quân, Nguyên Thế Tông sắc phong thánh hiệu Đông Hoa Tử Phủ Phụ Nguyên Lập Cực Đại Đạo Quân.
[61] “Ăn gạo mới” tức là khi lúa đã chín, người dân có thể tự gặt hái, tự nuôi sống, không cần trợ cấp nữa.
[62] Bác Vật Chí là bộ sách gồm ba quyển do Trương Hoa soạn vào đời Tấn. Nội dung rất rộng, bao gồm nhiều kiến thức địa lý, lịch sử, nhân vật, khoa học thời cổ, cũng như chép về nhiều loại chim thú lạ lùng.
[63] Hòa Tễ Cục (和劑局) là một cơ quan được thiết lập dưới đời Tống, trực thuộc Thái Phủ Tự, có trách nhiệm bào chế thuốc, phòng chống dịch bệnh, giống như sở y tế của mỗi tỉnh trong hiện thời.
[64] Theo ông Hoàng Bách Lâm, nói “mạng trời” ở đây chính là nói đến sự cảm ứng do nghiệp trong đời trước, chứ không có nghĩa là do một vị thần linh nào ban phát.
[65] Tử Tư là tên tự của Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử.
[66] Vĩnh Thuần là niên hiệu của Đường Cao Tông.
[67] Đây là những người được coi là thần đồng về văn chương thuở ấy, tức là Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương, Dương Quýnh, và Vương Bột. Họ được ca tụng là Sơ Đường Tứ Kiệt. Riêng Vương Bột sáu tuổi đã biết làm văn, đến năm mười sáu, hễ nhấc bút là thi tứ ào ạt tuôn ra. Ông nổi tiếng trong lịch sử văn học với bài Đằng Vương Các Tự. Hai câu “lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc” (ráng mây và con diệc lẻ loi cùng bay, nước thu và bầu trời mênh mông cùng một mầu) được coi là những câu tuyệt diệu nhất trong bài phú ấy. Ông chết đuối trên đường trở về sau khi thăm cha đang làm huyện lệnh tại Giao Chỉ. Theo truyền thuyết, mộ phần của ông vẫn còn tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
[68] Theo ông Hoàng Bách Lâm, câu này có nghĩa là đối với những kẻ ngu phu ngu phụ, đừng nên coi thường chí hướng của họ. Kẻ dẫu ngu hèn cách mấy, nhưng tâm chí kiên quyết, kiên nhẫn hành trì sẽ đạt được kết quả chẳng thể suy lường được.
[69] Thông thường, chữ Doanh (盈) ở đây được chú giải là sự tròn đầy quá mức, quá tràn trề, nhưng cũng có vị cho rằng: Doanh phải hiểu là kẻ kiêu căng, tự mãn, phô trương tài năng quá mức.
[70] Tam Doãn (三尹) là chức quan phụ tá cho tri huyện, chuyên quản trị văn thư. Xưa kia, trong một huyện, quan tri huyện thường được gọi là Đại Doãn, phó quan gọi là Huyện Thừa, tục gọi là Nhị Doãn. Cấp thứ ba là Chủ Bạ (quản trị sổ sách), thường gọi là Tam Doãn.
[71] Theo ông Hoàng Bách Lâm, câu này phải hiểu như sau: Nếu nhà vua, tức Tề Huệ Vương, vận dụng cái tâm “ham thích âm nhạc, thích vui sướng” vào chính sách cai trị, làm cho mọi người đều được vui sướng, tức là ai nấy được hưởng cơm no, áo ấm, an lạc, vận mạng của nước Tề sẽ trở thành hưng vượng.
[72] Ông Hoàng Bách Lâm giảng “cúi ngửa” ở đây phải hiểu là hành xử, sinh sống. Do quá liêm khiết, cuộc sống túng quẫn, làm gì cũng khó khăn vì thiếu phương tiện, nên dễ sanh lòng oán hận.
[73] Cứu (炙) ở đây là dùng bột ngải cứu làm thành viên để đốt hơ lên kim châm nhằm truyền sức nóng vào huyệt được châm.
[74] Niên điệt (年姪): Cháu của người thi đậu cùng khoa với mình thì gọi là “niên điệt”.
[75] Người đứng đầu các quan Tể Tướng đời Tống được gọi là Thủ Tướng. Thời Tống, có nhiều Tể Tướng. Nói chung, Tể Tướng là người đứng đầu ba cơ quan Môn Hạ Tỉnh, Trung Thư Tỉnh và Thượng Thư Tỉnh.
[76] Bài thơ này dùng hai nhân vật để nói về chữ Nhẫn. Thuở hàn vi, Hàn Tín bị đói nghèo, người gầy tong teo, thường phải ăn chực cơm của một người đàn bà nghèo làm thợ giặt (phiếu mẫu), bị mọi người khinh rẻ. Có lần gã đồ tể cầm dao dọa Hàn Tín, bắt ông phải luồn qua đũng quần của hắn. Suy nghĩ kỹ, Hàn Tín quyết định luồn dưới đũng quần hắn mặc cho thiên hạ cười chê. Câu thứ hai nói về Trương Lương, người nước Hàn, ôm lòng diệt nhà Tần. Có một hôm, ông đến cầu Hạ Bì, thấy một cụ già tiên phong đạo cốt. Cụ già làm rớt giày xuống gầm cầu, sai Trương Lương xuống nhặt. Ba lần như thế, Trương Lương đều chịu nhịn, nhặt lên. Cụ già mỉm cười, trao cho Trương Lương quyển Thái Công Binh Pháp và Tố Thư, khen: “Đứa bé con dễ dạy!” Nhờ đó, Trương Lương trở thành mưu sĩ bậc nhất của Hán Cao Tổ (Lưu Bang). Ông tiến cử Hàn Tín cầm quân đánh bại Hạng Vũ, giúp Hán Cao Tổ lập ra nhà Hán. Công thành danh toại, Trương Lương bèn từ quan, nại cớ tu tiên để khỏi vào chầu vua, không nắm giữ bất cứ quyền hành nào, nhờ đó giữ trọn tánh mạng, trong khi các công thần khác lần lượt bị Lữ Hậu xúi xiểm Hán Cao Tổ giết chết. Hàn Tín cậy công, đòi Hán Cao Tổ phong làm Hàn Vương. Hán Cao Tổ ưng thuận, nhưng đã đem bụng ghét bỏ Hàn Tín. Về sau, với sự đốc xúi của Lữ Hậu, Hán Cao Tổ lập kế giả vờ ra chơi Vân Mộng (nơi Hàn Tín ở), tịch thâu ấn tín, giáng xuống làm Hoài Âm Hầu, cuối cùng kết tội giết chết. Do vậy, người ta thường dùng chữ Hoài Âm để nói về Hàn Tín. Văn Thành là biệt danh của Trương Lương.
[77] Giáng là Châu Bột, theo Lưu Bang khởi nghĩa từ đất Bái, có nhiều công lao phá Sở, kiến lập nhà Hán. Về sau, ông được Hán Cao Tổ phong làm Giáng Hầu. Ông được phong làm Tể Tướng, tuy tánh tình thuần hậu, chất trực, nhưng kém tài quản lý, sợ địa vị cao sẽ chuốc họa, bèn lấy cớ bệnh tật để từ quan. Sau khi Trần Bình chết, ông lại được cử làm Tể Tướng, rồi bị bãi truất. Khoái là Phàn Khoái, xuất thân làm nghề mổ lợn. Về sau, theo Lưu Bang khởi nghĩa, lập nhiều công to, xả thân hộ vệ Lưu Bang trong hội yến Hồng Môn. Khi Lưu Bang lập đàn bái tướng, Phàn Khoái tự đắc, tưởng Lưu Bang sẽ phong cho mình làm đại tướng. Nào ngờ, Lưu Bang tấn phong Hàn Tín. Phàn Khoái hổ thẹn, tức tối. Về sau, qua những cuộc chinh chiến, Phàn Khoái mới tâm phục tài dùng binh của Hàn Tín.
[78] Bá Cầm là con trưởng của Châu Công (Cơ Đán). Để thưởng công phù tá và nhiếp chánh của Châu Công, Châu Thành Vương (Cơ Tụng, cháu Châu Công) đã phong cho Bá Cầm làm vua chư hầu đất Lỗ.
[79] Sầm Văn Bổn (595-645) là một văn học gia lừng lẫy thời Tùy – Đường, là người huyện Cức Dương, thuộc quận Nam Dương. Ông có tên tự là Cảnh Nhân. Ông nổi danh khá sớm. Đã từng làm Trung Thư Thị Lang khi Tiêu Tiển lập chánh quyền chống lại nhà Tùy ở Giang Lăng. Khi Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) thống nhất sơn hà, đã phong cho ông làm Bí Thư Lang, sai ông và Lệnh Hồ Đức Phân biên soạn bộ sử Châu Thư (lịch sử nhà Hậu Châu thời Ngũ Đại). Về sau, ông được bổ làm Trung Thư Lệnh, ngang quyền với những bầy tôi thân tín nhất của Đường Thái Tông như Trưởng Tôn Vô Kỵ, Cao Sĩ Khiêm, Đường Kiệm, Chử Toại Lương v.v… Đường Thái Tông rất coi trọng ông. Khi đánh Cao Ly, vua đã giao cho Thái Tử Lý Trị giám quốc, nhưng quyền hành xử lý thật sự lại do ông đảm nhiệm. Người đời sau ca ngợi ông có phẩm cách như thừa tướng Tiêu Hà của nhà Hán. Do tận tâm lao lực lo liệu chánh sự, ông ngã bệnh, qua đời khi vừa được năm mươi mốt tuổi.
Trung Thư Lệnh là người đứng đầu Trung Thư Tỉnh. Thoạt đầu, Trung Thư Tỉnh chỉ có tánh chất bảo quản văn kiện, hồ sơ của hoàng đế. Do thường gặp gỡ hoàng đế, dần dần trở thành cố vấn thân cận của hoàng đế. Thời Tùy – Đường, Trung Thư Lệnh có quyền hạn như Tể Tướng.
[80] Tham Chánh là gọi tắt của chức Tham Tri Chánh Sự, tức là phó Tể Tướng đời Tống.
[81] Dật (鎰) là đơn vị đo lượng thời cổ. Một Dật là hai mươi lượng. Có sách lại nói một Dật là hai mươi bốn lượng.
[82] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này có nghĩa là “con cháu hiền năng thì tự chúng biết cách mưu sinh tốt đẹp, chẳng cần phải dựa dẫm tiền bạc của cha mẹ, tổ tiên. Con cháu ngu độn thì tuy có tiền bạc dư dật trong tay, sẽ bị kẻ khác lừa mất, hay phá tán sạch”.
[83] Ông Hoàng Bách Lâm giảng “chuyện này” là chuyện cứu giúp người nghèo đói, “chuyện kia” là chuyện dùng của cải bợ đỡ, xu nịnh người có quyền thế, địa vị cao cả.
[84] Lý Sĩ Khiêm cực kỳ thông minh, tuy mới mười hai tuổi, nhưng có nhiều mưu lược, quyết sách khiến người khác kính phục. Do vậy, Quảng Bình Vương Ngụy Toản đã mời Lý Sĩ Khiêm làm Tham Quân, tức là chức cố vấn tham mưu tuy Lý Sĩ Khiêm vẫn còn là một cậu bé.
[85] Thị Lang (侍郎): Thoạt đầu, theo quy chế đời Hán, đối với các quan lại cấp dưới của quan Thượng Thư, năm đầu gọi là Lang Trung. Sang năm thứ hai mới được gọi là Thượng Thư Lang. Tròn ba năm mới gọi là Thị Lang. Từ đời Đường trở đi, các chức phó quan của Tam Tỉnh (Trung Thư, Môn Hạ và Thượng Thư) đều gọi là Thị Lang. Nói cách khác, Thị Lang tương đương với Thứ Trưởng.
[86] Đề Khống (提控) có nghĩa là chưởng quản, quản lý. Đời Tống dùng từ ngữ này để tôn xưng những viên nha lại làm việc dưới quyền quan Tri Châu hoặc Tri Phủ.
[87] Chủ Sự (主事) là chức quan thuộc về các ty trong sáu bộ, chưởng quản văn thư, ghi chép tài liệu, sổ sách, án liệu, quyền hạn thấp hơn Viên Ngoại Lang.
[88] Ngũ Thường là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. “Bách hạnh” là thành ngữ phiếm chỉ các thứ đức hạnh, phẩm đức. Trịnh Huyền chú giải kinh Thi đã viết: “Sĩ hữu bách hạnh, khả dĩ công quá tương trừ” (Kẻ sĩ có trăm hạnh, có thể dùng công trừ lỗi).
[89] Nguyên văn “dĩ thủ gia ngạch” (以手加額). Theo ông Hoàng Bách Lâm, đây là một nghi lễ thời cổ, dùng hai tay bưng trán nhằm biểu thị sự kính trọng tột bậc.
[90] Lưu đại gián: Vị này tên là Lưu An Thế, danh nhân đời Bắc Tống. “Đại gián” (大諫) là danh xưng gọi tắt của chức quan Gián Nghị Đại Phu. Ông Lưu theo học với Tư Mã Quang (Tư Mã Ôn Công), được Tư Mã Quang tiến cử vào Bí Thư Tỉnh. Lưu An Thế tánh cương trực, từng đàn hặc những nhân vật quyền thế đương thời như Chương Đôn, Thái Xác, Phạm Thuần Nhân v.v… không kiêng nể. Ông nghị luận xác đáng, công chánh, nên cả triều đình đều sợ ông, lén gọi ông là “điện thượng hổ” (cọp trên điện vua).
[91] Phú Bật từng làm Tể Tướng đời Tống Thần Tông. Ông rất mực thanh liêm. Khi vào chầu vua, các quan hoặc cưỡi ngựa hoặc ngồi xe ngựa sang trọng, ông chỉ mua nổi một con lừa gầy, chân nó lại bị thọt. Vì thế, ông phải đi chầu sớm, cưỡi lừa thong thả, tập tễnh qua cầu. Dân chúng hiếu kỳ, kéo nhau đi xem, khiến cho chợ búa vắng tanh.
[92] Cù Đường là một hẻm núi đầu nguồn Trường Giang. Cù Đường cùng với Vu Giáp và Tây Lăng Giáp, tạo thành ba hẻm núi nước chảy xiết lừng danh gọi chung là Trường Giang Tam Giáp. Cù Đường (còn có tên là Quỳ Môn) thuộc địa phận thành phố Trùng Khánh, kéo dài từ thành Bạch Đế ở huyện Phụng Tiết cho đến làng Đại Khê thuộc huyện Vu Sơn, dài tám cây số. Cù Đường nằm kẹp giữa hai dãy núi Xích Giáp và Bạch Diêm. Trong hẻm núi này, Trường Giang có chỗ chỉ hẹp chừng 100m, chỗ rộng nhất chỉ là 150m, nên nước chảy xiết rất mạnh.
[93] Hai kinh đô thời Đường là Trường An và Lạc Dương.
[94] Thiên Phủ (天府) ở đây là tên một ngôi sao trong chòm sao Nam Đẩu. Đây là một vị tinh quân được tôn sùng trong Đạo Giáo.
[95] Di Tề là gọi tắt của Bá Di và Thúc Tề. Hai vị này là anh em ruột, sống vào đời Thương, vốn là con của vua xứ Cô Trúc (Cô Trúc là một nước chư hầu của nhà Thương). Khi cha mất, anh nhường cho em, không muốn làm vua, em cũng kiên quyết nhường cho anh nối ngôi. Cuối cùng hai người cùng nhau bỏ trốn sang lãnh thổ của nhà Châu. Khi Châu Vũ Vương (Cơ Phát) phạt Trụ, họ đã chặn đường khuyên can. Sau khi Vũ Vương diệt nhà Thương, anh em Bá Di và Thúc Tề kiên quyết không ăn gạo nhà Châu, lánh vào núi Thủ Dương hái rau dại ăn qua ngày. Về sau, có người nói: “Tấc đất, ngọn rau đều là của nhà Châu, hai ông ăn rau dại thì vẫn là ăn rau nhà Châu”. Họ bèn nhịn đói mà chết.
[96] Nguyên Hiến là người nước Lỗ, sống vào thời Xuân Thu, tên tự là Tử Tư, là một vị đệ tử hữu danh của Khổng Tử. Ông nghèo hèn nhưng vui nơi đạo. Khi Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, đã cử Tử Tư làm người trông coi thái ấp của Khổng Tử. Về sau, Tử Tư ẩn cư nơi chằm cỏ nước Vệ. Ông được coi là tấm gương sáng của những bậc an bần lạc đạo.
Phạm Bàng sống vào thời Đông Hán. Ông là người thanh cao, liêm khiết, được người dân trong vùng hết sức kính phục. Ông thường đàn hặc những quan lại bậc cao, quở trách những kẻ cậy quyền không hề e dè trước quyền lực của họ. Chán ngán trước cảnh triều chánh hủ bại, ông từ quan, nhưng vẫn bị lũ gian thần hãm hại, bị tù đày, chết trong ngục.
[97] Bộ kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Di Giáo Kinh, còn gọi là Phật Thùy Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh, do ngài Cưu Ma La Thập dịch. Kinh này ghi chép những lời dạy dỗ tối hậu trước khi đức Phật nhập Niết Bàn.
[98] Kinh Xuất Diệu chính là một bản dịch khác của kinh Pháp Cú. Kinh Pháp Cú hiện thời là bản được lưu hành phổ biến nhất dựa theo kinh Dhammapada chép bằng tiếng Pali. Hai bản khác là Gāndhārī Dhammapada và Udāna-varga. Kinh này có bốn bản dịch tiếng Hán:
- Pháp Cú Kinh do nhóm tỳ-kheo Duy Kỳ Nạn dịch vào đời Đông Ngô.
- Pháp Cú Thí Dụ Kinh do hai vị Pháp Cự và Pháp Lập dịch vào thời Tây Tấn.
- Xuất Diệu Kinh do ngài Trúc Phật Niệm dịch vào Diêu Tần.
- Pháp Tập Yếu Tụng kinh do ngài Thiên Tức Tai dịch vào thời Bắc Tống.
[99] Vị này là một trong bát tiên của Đạo Giáo, họ Chung Ly tên Quyền. Do ông ta sống vào đời Hán, nên thường gọi là Hán Chung Ly, chứ họ của ông không phải là Hán. Ông được tôn là Chánh Dương Tổ Sư của phái Toàn Chân, vì theo truyền thuyết, ông đã điểm đạo cho Lữ Động Tân (Thuần Dương Tổ Sư). Lữ Động Tân truyền đạo cho Vương Triết (Vương Trùng Dương), Vương Trùng Dương sáng lập Toàn Chân Giáo.
[100] Đây là một bộ kinh của Đạo Giáo, có tên gọi đầy đủ là Cao Thượng Ngọc Hoàng Thai Tức Kinh, không rõ tác giả, thuộc vào Động Chân Bộ trong Đạo Tạng Kinh. Nội dung dạy về cách hít thở (danh xưng chuyên dụng trong Đạo Giáo là “thổ nạp”) theo các vòng châu thiên trong thân thể.
[101] Lý Nguyên Đoan sống vào đời Tống. Ông làm Thái Tử Thiếu Bảo thời Tống Thần Tông rồi Thái Tử Thái Bảo thời Tống Triết Tông, cho nên ở đây thiền sư Đạt Quán gọi ông là Thái Úy.
Thiền sư Đạt Quán thuộc tông Lâm Tế, có hiệu đầy đủ là Đạt Quán Đàm Dĩnh. Thoạt đầu, Sư xuất gia theo ngài Đại Dương Cảnh Huyền của tông Tào Động, nhưng đắc pháp nơi tông Lâm Tế.
[102] Theo ông Hoàng Bách Lâm, câu này có nghĩa là “do tham, sân, si chẳng đoạn, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần trước mắt, dấy khởi tình thức bèn phan duyên, nẩy sanh tham, sân, si càng lừng lẫy, cho nên bị trói buộc trong luân hồi chẳng thoát ra được, giống như bị hãm sâu trong tù ngục”.
[103] Theo Đạo Giáo, thiên cung nơi Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự được gọi là Ngọc Kinh. Nói đúng ra, Nguyên Thỉ Thiên Tôn ngự tại Ngọc Kinh Sơn, trong đó có Ngọc Hư Cung, thuộc tầng trời Đại La, tức là ở phía trên tầng trời Tam Thanh.
[104] Tử phủ (紫府, động phủ màu tía) là nơi tiên ở.
[105] Côn Đài (崑臺): Theo Đạo Giáo, trên đỉnh núi Côn Luân có năm cái đài bằng vàng, mười hai cái lầu bằng ngọc. Những nơi ấy được gọi chung là Côn Đài.
[106] Trung Nguyên Nhị Phẩm chính là Địa Quan Đại Đế. Trong Đạo Giáo, có ba vị đại đế được tôn xưng là Tam Nguyên Đại Đế (Tam Quan Đại Đế) gồm Thượng Nguyên Nhất Phẩm Thiên Quan Tứ Phước Đại Đế, Trung Nguyên Nhị Phẩm Địa Quan Xá Tội Đại Đế và Hạ Nguyên Tam Phẩm Thủy Quan Giải Ách Đại Đế.
[107] Cửu Hoàng (九皇) thường được biết đến dưới các danh xưng như Cửu Hoàng Đại Đế, Cửu Hoàng Gia, Cửu Vương Gia v.v… Thông thường, Cửu Hoàng được hiểu là Bắc Đẩu Thất Tinh Quân (Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân) cộng với Tả Phù và Hữu Bật. Một thuyết khác cho rằng, Cửu Hoàng là Bắc Đẩu Thất Tinh Quân cộng thêm Tử Vi Đại Đế và Thiên Hoàng Đại Đế. Có thuyết lại giải thích Cửu Hoàng chính là Tam Hoàng Ngũ Đế cộng thêm Bàn Cổ. Có thuyết lại giải thích Cửu Hoàng là Bàn Cổ, Phục Hy, Thần Nông, Toại Nhân, Hoàng Đế, Chuyên Húc, Cao Tân, Thái Hạo và Thiếu Hạo. Có thuyết nói Cửu Hoàng là Thanh Huyền Đại Đế, Trường Sanh Đại Đế, Tử Vi Đại Đế, Thiên Hoàng Đại Đế, Nam Đẩu Tinh Quân, Bắc Đẩu Tinh Quân, Đông Đẩu Tinh Quân, Tây Đẩu Tinh Quân, và Trung Đẩu Tinh Quân.
[108] Tứ duy (四維) là bốn phương bàng, tức Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, và Tây Bắc. Bát cực (八極) là bốn phương chánh cộng thêm bốn phương bàng.
[109] Tánh Mạng Khuê Chỉ có tên gọi đầy đủ là Tánh Mạng Song Tu Vạn Thần Khuê Chỉ, tương truyền do Doãn Chân Nhân (tức Doãn Hỷ) biên soạn, nội dung chủ yếu là hướng dẫn cách luyện đan. Sách chủ trương luyện đan bằng cách tu dưỡng tánh và mạng, đặc biệt là tu luyện tâm tánh theo quan điểm Đạo Giáo.
[110] Vua Dị Kiến là quốc vương xứ Hương Chí ở Nam Ấn Độ. Vị này là cháu của tổ Bồ Đề Đạt Ma. Tôn giả Ba La Đề là đệ tử của tổ Bồ Đề Đạt Ma tại Ấn Độ. Do vua Dị Kiến hạ chiếu cấm dân chúng tin tưởng Phật pháp, tổ Đạt Ma đã sai tôn giả Ba La Đề đến Hương Chí khuyên can. Ngài Ba La Đề thành công xoay chuyển tà tâm của vua Dị Kiến.
[111] Tân dịch (津液) là từ ngữ phiếm chỉ cách chất lỏng, hay chất tiết từ các tạng phủ, không kể máu và những thứ bài tiết ra ngoài (như nước tiểu, đờm rãi), chẳng hạn như dịch vị, dịch tiết từ mật, từ tụy tạng v.v…, kể cả các dịch thể nơi màng bọc các nội tạng và nước miếng đều gọi chung là Tân Dịch.
[112] Chúng tôi dịch phần này dựa theo cách diễn giải trong Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Diệu Tâm Sớ do pháp sư Thủ Bồi biên soạn.
[113] Ngũ muội (五昧) chính là ngũ vị (chua, đắng, ngọt, cay, mặn). Đạo gia chủ trương người tu hành đối với thức ăn chớ nên dùng ngũ vị quá nặng để giữ cho cái tâm thanh tịnh.
[114] Lục khí: Sáu thứ tinh hoa cần phải hô hấp theo Đạo gia, tức Xuân thực triêu hà (mùa Xuân bèn hấp thụ khí của ráng trời lúc sáng sớm), Thu thực luân âm (mùa Thu bèn hấp thụ khí có màu vàng đỏ sau khi mặt trời đã lặn), Đông ẩm hàng giới (mùa Đông hút khí lạnh vào nửa đêm), Hạ thực chánh dương (mùa Hạ hấp thụ khí của mặt trời chánh ngọ tại phương Nam), cùng với hai khí huyền hoàng trong trời đất mà thành lục khí.
[115] Thái âm bổ dương còn gọi là Phòng Trung Thuật, là một cách luyện đan chủ trương thông qua nam nữ giao phối để cân bằng Âm Dương. Họ cho rằng qua hành vi giao phối, kết hợp với những cách hít thở và vận khí theo các vòng châu thiên tương ứng, sẽ nung luyện tinh khí thành tinh hoa chuyển lên bồi bổ Nê Hoàn Cung trên não bộ.
[116] Đây là thuật ngữ trong cách luyện đan của Đạo Giáo, Long (龍) là Dương, Hổ (虎) là Âm. Long sanh từ quẻ Ly (離), Ly thuộc Hỏa. Hổ sanh từ quẻ Khảm (坎), Khảm thuộc Thủy. Vì thế, nói là “hổ hướng thủy biên sanh” (hổ sanh từ bên phía nước). Nếu hiểu theo ngoại đan thì Khảm và Ly lại còn là các loại dược vật. Khảm Nam là hống (汞, thủy ngân), còn Ly Nữ là chì. Nếu xét theo nội đan thì Khảm Nam là âm tinh trong thân thể, còn Ly Nữ là dương khí.
[117] Lục Khí (六氣) ở đây phải hiểu theo nghĩa khác với đoạn trước. Lục Khí ở đây là âm, dương, gió, mưa, tối, sáng.
[118] Cửu châu (九州) là danh xưng của trường phái Nội Đan trong Đạo Giáo chỉ chín bộ vị trong thân thể, tức thận, bàng quang, gan, mật, tim, ruột non, phổi, ruột già, và lá lách. “Điên đảo” theo Đạo Gia nghĩa là khắc phục dục vọng, khiến cho các bộ phận tương ứng sẽ được thăng hoa. Chẳng hạn như thuận theo dục vọng nam nữ (Đạo Giáo thường nói là “ngũ hành thuận hành”) sẽ khiến cho thận bị tổn thương, sẽ đọa xuống sâu hơn. Đó gọi là “pháp giới hỏa khanh” (hầm lửa pháp giới), còn nếu khắc phục, khống chế dục vọng, bồi bổ thận tạng thì gọi là “đại địa thất bảo”. Đó gọi là “ngũ hành đảo hành” (đi ngược chiều ngũ hành).
[119] Tam Điền (三田) là não bộ, tim và Khí Hải. Chân khí nếu tuần hoàn lần lượt theo ba chỗ ấy thì gọi là “tam điền phản phúc”. Khí Hải có thể hiểu là huyệt Khí Hải, hoặc Đan Điền tùy theo từng trường phái luyện đan khác nhau. Huyệt Khí Hải (氣海) nằm ngay dưới rốn một tấc rưỡi (tấc ở đây là lóng tay của người đó). Trung Y tin huyệt này là cội nguồn của Khí trong thân người, có tác dụng như một cái valve điều khiển sự thăng giáng của chân khí trong cơ thể. Có sách giải thích Tam Điền thật ra là ba bộ vị Đan Điền trong cơ thể. Thượng Đan Điền chính là điểm chính giữa hai mày, Trung Đan Điền tức là chỗ lõm ngay giữa ngực (ta thường gọi là “chấn thủy”, ngay trên hoành cách mô), Hạ Đan Điền thì phức tạp hơn, vì cả bốn huyệt Âm Giao, Khí Hải, Thạch Môn và Quan Nguyên đều có thể gọi là Đan Điền.
[120] Tam sơn là ba hòn đảo trên biển nơi chư tiên ở, tức Phương Trượng, Bồng Lai và Doanh Châu.
[121] Động Thiên (洞天) là danh xưng chung chỉ những ngọn núi đẹp trên mặt đất, là chỗ cư ngụ của thần tiên. Họ tin rằng trên quả địa cầu này có mười chỗ lớn (thập đại động thiên) và ba mươi sáu tiểu động thiên, bảy mươi hai chỗ phước địa.
[122] Tăng Na là một trong các vị đệ tử của Nhị Tổ Huệ Khả trong Thiền Tông.
[123] Thôi sứ (推使): Theo quy chế đời Đường, dưới các chức vụ Tiết Độ Sứ và Quan Sát Sứ, sẽ có chức thôi quan (hoặc gọi là thôi sứ), chịu trách nhiệm thẩm vấn, phán án, chưởng quản nhà tù.
[124] Lạc Châu nay là thành phố Lạc Dương thuộc tỉnh Hà Nam. Tại mỗi châu có các quan đứng đầu, quan đứng đầu được gọi chung là châu mục. Cơ cấu quan lại ở mỗi địa phương bao gồm ba cơ quan: Đứng đầu Đài Viện là quan Thị Ngự Sử, đứng đầu Điện Viện là quan Thị Trung Ngự Sử, và đứng đầu Sát Viện là Giám Sát Ngự Sử. Sát Viện trông coi về tư pháp.
[125] Chuyển Vận Sứ là chức quan giám sát việc vận chuyển lương thực, hàng hóa. Kinh Tây là các địa phương ở phía Tây kinh đô Lạc Dương. Về sau, lại lập Chư Đạo Chuyển Vận Sứ để trông coi việc vận chuyển lương thực, hàng hóa ở các tỉnh. Đến đời Đường Đại Tông, lại lập ra chức Diêm Thiết Sứ để chuyên trông coi, đánh thuế việc chuyển vận muối và sắt.
[126] Nguyên văn là “lậu trạch” tức “lậu trạch viên” (漏澤園). Thời cổ, những nghĩa địa do chính quyền lập ra để chôn cất những thi hài vô chủ hoặc thi thể của những kẻ quá nghèo khổ đến nỗi người nhà không có tiền bạc để chôn cất. Những nơi ấy đều được gọi chung là “lậu trạch viên”.
[127] Bộ kinh này có tên là Xích Tùng Tử Trung Giới Kinh, thuộc phần Động Chân Bộ, đánh số 78 trong Đạo Tạng (Đại Tạng Kinh của Đạo Giáo).
[128] Đây là một câu chuyện trích từ sách Nhan Thị Gia Huấn, phần Quy Tâm. Theo đó, Vương Khắc làm Quận Thủ (quan đứng đầu) Vĩnh Quận. Có lần đãi tiệc, mời khách đến nhà. Dê vừa được cởi trói, bèn chạy tới quỳ trước một vị khách, lại khấu đầu hai lần. Sau đó núp dưới vạt áo của vị khách ấy. Vị khách hoàn toàn chẳng nói gì, cũng chẳng xin Quận Thủ tha cho con dê. Một lát sau, con dê ấy bị lôi ra giết, nấu thành món canh đãi khách. Vị khách nếm món canh ấy, vừa nuốt xuống, bỗng cảm thấy toàn thân đau đớn không chịu nổi, thét lên be be như tiếng dê rồi ngã lăn ra chết tươi!
[129] Chuyện này được chép trong quyển sáu mươi tư của bộ Pháp Uyển Châu Lâm. Trâu Văn Lập làm nghề đồ tể, kiêm đầu bếp. Ông ta vốn tính giết con nai, con nai ấy quỳ gối khóc ròng. Tuy nghĩ là điềm chẳng lành, Trâu Văn Lập vẫn giết chết nó, xẻ thịt rồi mới biết con nai ấy đang mang thai. Sau đấy, Trâu Văn Lập rụng sạch râu lẫn lông mày, toàn thân ghẻ lở trị mãi không lành. Ông ta hổ thẹn, hối trách sâu xa, bèn cầu thiền sư Đạo Độ chứng minh để ông ta phát lộ sám hối. Lại còn bỏ hết tài sản để mua đất, dựng một ngôi chùa thờ Phật, tức chùa Tiểu Trang Nghiêm tại làng Định Âm ở Nam Kinh. Chuyện xảy ra vào năm Thiên Giám thứ sáu đời Lương.
[130] Ông này tên là Trầm Cấu, xuất thân từ chức quan Hàn Lâm nên gọi là Trầm Nội Hàn. Thông Phán (通判) là chức quan được đặt từ đời Hán, làm phó cho quan tri châu hoặc tri phủ. Tuy danh nghĩa là phụ tá cho tri phủ, tri châu, nhưng thật ra là để chia bớt quyền hành và giám sát quan phủ. Vì thế, còn gọi là Giám Châu (監州). Giang Ninh chính là tên gọi khác của Nam Kinh vào đời Tống.
[131] Đề Hình (提刑) là một chức quan đời Tống, chưởng quản nhà giam và phụ trách vấn đề tư pháp. Lại còn kiêm nhiệm quản trị nông nghiệp trong một phủ.
[132] Nguyên văn là Hành Trù (行廚), tức là bếp tạm thời để nấu nướng trong khi du ngoạn.
[133] Nguyên văn là Quỹ (簋) là một dụng cụ hình tròn, có chân bằng tròn, có hai quai, giống như hình thức lư hương đế tròn hiện thời. Đôi khi Quỹ có quai hình mặt thú ở hai bên, thường làm bằng đồng xanh dầy nặng. Thông thường, Quỹ có thêm hai chân phụ ngoài đế tròn chính giữa, có nắp đậy. “Quỹ” chuyên dùng để đựng đồ cúng. Quỹ thường phối hợp với Đỉnh là loại đồ đựng cao, có chân nhọn, không có đế tròn. Theo cổ lễ, số lượng quỹ và đỉnh trong một buổi cúng tế bị hạn chế nghiêm ngặt. Chỉ có thiên tử mới được dùng chín đỉnh tám quỹ trong cỗ bàn cúng tế tổ tiên. Dân chúng chỉ được dùng tối đa là ba đỉnh hai quỹ! Về sau, Quỹ chỉ được hiểu thông dụng là tô chén để đựng đồ cúng mà thôi.
[134] Tam sanh (三牲) là lợn, cá, gà.
[135] Nguyên văn “công danh phát nhẫn” (功名發軔). Vào thời cổ, khi đỗ đạt, hoặc được bổ làm quan, hoặc được thăng chức thì gọi là “công danh phát nhẫn”.
[136] Trương Dịch Chi là người đời Đường, rất đẹp trai, giỏi ca hát, tinh thông âm nhạc. Hắn cùng với em trai là Trương Xương Chi là nam sủng của Vũ Tắc Thiên. Do khéo chiều chuộng Vũ Hậu, hắn được phong làm Khống Hạc Giám (người cai quản viện chim hạc), tước Hoàn Quốc Công. Hắn từng hống hách cậy thế, lạm dụng xa giá của Vũ Hậu, bị Địch Nhân Kiệt chặn lại, đánh cho một trận nên thân. Trương Dịch Chi về khóc lóc, tố cáo với Vũ Hậu, xin bà trừng trị Địch Nhân Kiệt. Vũ Hậu nạt: “Ta còn phải nể lão ấy mấy phần, sao ngươi lại dám chọc đến lão?” Trương Giản Chi là một vị quan hiền lương, giữ chức Giám Sát Ngự Sử thời Vũ Tắc Thiên, được phong làm Đồng Bình Chương Sự (tương đương chức Tể Tướng). Niên hiệu Thần Long nguyên niên, do Vũ Hậu bị bệnh, ông cùng với nhóm Hoàn Ngạn Phạm thừa cơ đảo chánh, tái lập nhà Đường, đưa Đường Trung Tông lên ngôi, đồng thời giết sạch những gã sủng thần của Vũ Hậu.
[137] Tật lê (蒺藜) là một loại cây dại, thường gọi là Bindii, Tackweed, Puncturevine, hay Devil’s eyelashes. Nó thường mọc ở chỗ hoang dã, cằn cỗi, mọc thành bụi, có hoa vàng, thân có nhiều lông. Khi quả đã chín, thường nở bung thành năm hạt có gai nhọn. Gai đủ cứng để đâm thủng vỏ xe đạp.
[138] Kỳ Hề Độ viết một tác phẩm gồm năm phần là Giác Xúc, Giác Tập, Giác Uế, Giác Nhân và Giác Hủy, nhằm luận định “Bổn Giác vốn có, phiền não vốn không”.
[139] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này phải hiểu cùng ý nghĩa như trong kinh Phật hay nói: “Mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”.
[140] Nguyên văn “chúng sanh tức ngô sanh chi sanh”, ông Hoàng Bách Lâm nói, câu này phải hiểu là chúng sanh và chúng ta là một bộ phận trong một sanh mạng toàn thể. Cái sanh mạng toàn thể ấy chính là Pháp Thân. Do vậy, “ngô sanh” (sanh mạng của ta) chính là chân tâm của ta.
[141] Bát trân (八珍) là tám món ăn quý theo quan niệm xưa, gồm gan rồng, tủy phụng, thai báo, đuôi cá chép, thịt chim cú nướng, môi tinh tinh, bàn tay gấu và ve non nướng phó-mát.
[142] Khi xưa, đồ cúng thường đựng trong đỉnh (鼎) tức là một thứ đồ đồng có ba chân cao, giống như đỉnh đốt nhang hiện thời. Đỉnh có chân để có thể đốt lửa ở dưới, giữ cho nóng lâu. Thông thường, tiệc tùng hay cỗ bàn của hàng quyền quý (từ quan đại phu trở lên) có năm món thịt khác nhau (dê, lợn, thịt thái lát, cá, thịt thú nướng hoặc quay), nên phải dùng năm cái đỉnh để chứa.
[143] Tiên thiên chưa đọa: Còn nằm trong thai, chưa được sanh ra.
[144] Ngô Việt là vùng Giang Tây, Chiết Giang hiện thời. Nơi này là lãnh thổ của nước Ngô và Việt thời Chiến Quốc. Xứ Tề là vùng Sơn Đông. U Yên là vùng Hà Bắc, Liêu Ninh.
[145] Dương Bảo tánh tình rất từ bi. Lúc chín tuổi, theo cha mẹ lên chơi núi Hoa Âm, trông thấy một con sẻ vàng bị diều hâu đánh văng xuống đất, kiến bu đầy, Dương Bảo xua kiến, nhặt lên ôm về, nuôi dưỡng trên xà nhà. Chim lại bị rắn tấn công, Dương Bảo bèn nuôi trong rương, cho ăn hoa vàng. Đến khi chim mọc đủ lông cánh mới thả đi. Một đêm, ông mộng thấy một đứa bé trai mặc áo vàng đến bái tạ, cho biết nó là sứ giả của Tây Vương Mẫu, do đến núi Bồng Lai đi qua đây bị mắc nạn, nhờ ông từ bi cứu sống. Nay do phải đến Nam Hải, bèn đến từ biệt ông Dương, mỏ ngậm đôi vòng ngọc trắng biếu tặng ông Dương, chúc tụng: “Con cháu ông sẽ trắng sạch như vậy, đạt đến địa vị Tam Công, đời này sang đời kia luôn như vậy”.
[146] Đây là một công án trong nhà Thiền. Đại chúng trong hội của ngài Nam Tuyền Phổ Nguyện tranh nhau con mèo. Ngài Nam Tuyền ra câu hỏi, nếu không có ai trả lời được, sẽ chém mèo. Khi ngài Triệu Châu trở về, đại chúng thúc giục Ngài hãy trả lời câu hỏi của sư Nam Tuyền. Sư nhắc lại câu hỏi, Triệu Châu bèn cởi giầy đội lên đầu, lui ra.
[147] Theo ông Hoàng Bách Lâm, “vò” ở đây là tỷ dụ bụng của ta. Do sát sanh, ăn thịt ngỗng, bụng của ta như vò chứa thịt thối. Do không sát sanh, sanh mạng của ngỗng được bảo toàn, mà bụng ta cũng chẳng trở thành cái vò chứa đựng xác chết!
[148] Thuần Hy là niên hiệu của Tống Hiếu Tông từ năm 1174 đến năm 1189.
[149] Phong Đô là cõi địa phủ theo Đạo Giáo. Trong Phong Đô có Phong Đô Đại Đế cai quản, Thập Điện Diêm Vương dưới quyền Ngài. Phong Đô Đại Đế phù tá Đông Nhạc Đế Quân. Đông Nhạc Đế Quân chưởng quản tất cả chuyện trong cõi âm, Phong Đô Đại Đế chuyên trách địa phủ. Dưới quyền Đông Nhạc, ngoài Thập Điện Diêm Vương và Ngũ Phương Quỷ Đế (Đông Phương Quỷ Đế gồm hai vị Thần Trà và Thái Uất Lũy, Nam Phương Đỗ Tử Nhân, Tây Phương Quỷ Đế gồm hai vị Triệu Văn Hòa và Vương Chân Nhân, Bắc Phương Quỷ Đế gồm hai vị Trương Hành và Dương Vân, Trung Ương Quỷ Đế gồm Châu Khất và Kê Khang. Như vậy là tuy nói Ngũ Đế, nhưng có đến mười một vị quỷ đế), còn có bảy mươi hai cõi âm ty.
[150] Minh Tuyên Tông là miếu hiệu của Châu Chiêm Cơ, hoàng đế thứ năm nhà Minh. Ông là con trai trưởng của Minh Nhân Tông (Hồng Hy hoàng đế, tên thật là Châu Cao Xí). Thời gian cai trị của ông và cha ông được coi là thịnh trị của nhà Minh, nên sử thường gọi là Nhân Tuyên chi trị (thời thịnh trị dưới thời Nhân Tông và Tuyên Tông). Ông có niên hiệu là Tuyên Đức. Dưới thời ông, sau khi Liễu Thăng thất bại, bị chặt cụt đầu tại trận Mã Yên, bá tước Lương Minh đại bại tử vong, Lý Khánh cùng quẫn tự vẫn, Minh Tuyên Tông phải đau đớn hạ lệnh rút quân khỏi Giao Chỉ, công nhận nền độc lập của người Việt, chấm dứt thời kỳ đô hộ Bắc Thuộc lần thứ hai, cắn răng công nhận vương triều của Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Trong Bình Ngô Đại Cáo, Minh Tuyên Tông đã bị cụ Nguyễn Trãi gọi nhiếc móc là “giảo đồng” (thằng nhãi ranh): “Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân, tham nhất thời chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ. Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; nhưng mạng Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần”. Cụ Ngô Tất Tố đã dịch: “Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian. Bởi thế: Thằng nhãi ranh Tuyên Đức động binh không ngừng, đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy”. Thạnh là Mộc Thạnh, Thăng là Liễu Thăng.
[151] Hoàn Vinh quê ở Long Kháng thuộc Bái Quận. Ông là hậu duệ của Tề Hoàn Công (Khương Tiểu Bạch) thời Chiến Quốc. Tổ sáu đời của Hoàn Vinh do dời sang An Huy, đã lấy chữ Hoàn trong thụy hiệu của Tề Hoàn Công làm họ. Hoàn Vinh lúc bé sống tại Trường An, học giỏi. Do nhà nghèo, ông thường phải đi làm thuê kiếm tiền. Về sau, ông được Hán Quang Vũ Đế vời vào cung, giảng sách Thượng Thư. Vua nghe giảng, rất vừa lòng, ban cho ông chức Nghị Lang để dạy thái tử Lưu Trang (Hán Minh Đế). Kế đó, Hoàn Vinh được phong làm quan Bác Sĩ, rồi thăng lên chức Thái Tử Thiếu Phó, sau cùng giữ chức Thái Thường. Thái Thường (太常) trông coi việc nghi lễ trong tông miếu, thoạt đầu được gọi là Phụng Thường, đến đời Hán Cảnh Đế bèn đổi thành Thái Thường. Quan Thái Thường trông coi việc tế lễ xã tắc, tông miếu của hoàng gia cũng như chủ trì các cuộc lễ hội, tang ma của hoàng tộc. Khi vua làm chủ tế, Thái Thường sẽ là người trợ thủ kiêm bồi tế của vua, cũng như quản trị các miếu thờ, vườn lăng của hoàng gia và các hành cung của vua. Những quận huyện nào có đặt miếu thờ, lăng mộ của hoàng triều sẽ trực thuộc quyền quản trị của Thái Thường. Do địa vị là người trông coi điển lễ, làm khuôn mẫu cho cả triều đình trông vào, nên trong thời Hán, chức Thái Thường thường do thầy dạy học của vua đảm nhiệm. Người được phong chức Thái Thường còn được tôn trọng hơn Tể Tướng. Từ thời Hán Vũ Đế, dưới Thái Thường còn đặt ra các quan phụ tá gọi là Thái Nhạc, Thái Tể, Thái Sử, Thái Bộc, Thái Y v.v… Đến thời Đông Hán, để làm quan Thái Thường, phải là bậc danh nho, vì Thái Thường là chánh chủ khảo cho các khoa thi tuyển chức quan Bác Sĩ. Đến đời Minh – Thanh, vai trò của Thái Thường giảm bớt tính quan trọng, được gọi là Thái Thường Tự Khanh, chỉ đứng đầu các quan Thái Nhạc, Thái Sử, Thái Bộc và Thái Y.
[152] Theo nghi lễ cổ, nhằm tỏ lòng tôn kính bậc lão thành thì dùng gậy chống làm lễ vật.
[153] Liêm Lạc là một trong bốn phái Lý Học trong đời Tống. Phái này do Châu Đôn Khê và Trình Di làm lãnh tụ. Họ đều ở tại Lạc Dương nên gọi là Liêm Lạc Phái.
[154] Dịch lại (驛吏) là chức quan nhỏ trông coi dịch trạm. Dịch trạm là trạm nghỉ chân dành cho những viên chức truyền phát công văn hỏa tốc có chỗ nghỉ ngơi, ăn uống và thay ngựa.
[155] Văn Sơn chính là hiệu của Văn Thiên Tường (1236-1283). Ông tên thật là Văn Vân Tôn, tự là Thiên Tường, sau đổi thành Tống Thụy, hiệu là Văn Sơn. Ông là người xứ Lô Lăng, Cát Châu. Ông làm Hữu Thừa Tướng dưới thời Tống Cung Đế. Sau khi nhà Nam Tống bị quân Nguyên đánh bại, ông đã bị bắt về Bắc Kinh. Nhà Nguyên thấy ông có tài năng, dụ hàng, nhưng ông bất khuất thà chết không cam tâm đầu hàng. Ông để lại bài Chánh Khí Ca được coi là một bài thiên cổ hùng văn về lòng tinh trung báo quốc.
[156] Lúc đó, vợ của Văn Thiên Tường cũng đã bị chết trong khi đang bị tù.
[157] Tri Cống Cử (知貢舉): Theo quy chế từ thời Đường – Tống, vị đại thần được vua sai chủ trì khoa thi tuyển chọn Tiến Sĩ thì gọi là Tri Cống Cử.
[158] Minh Kinh (明經) ở đây là khoa thi được đặt ra từ thời Tùy Dượng Đế. Khoa thi Minh Kinh nhằm khảo hạch sự hiểu biết của sĩ tử về kinh điển Nho gia. Đã đỗ khoa thi Minh Kinh thì mới được ghi danh dự tuyển khoa thi Tiến Sĩ. Trong khoa thi Tiến Sĩ, chủ yếu khảo hạch về thơ phú.
[159] Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Do tâm thái ấy mà tạo thành trần lao, phải lưu chuyển luân hồi, nên nói là ‘kỳ tâm thậm lao’ (cái tâm ấy quá nhọc nhằn).
[160] Theo quy chế đời Minh – Thanh, không có chức vụ Tể Tướng hay Thừa Tướng, nhưng do nhu cầu hành chánh, vẫn phải có người đứng đầu bá quan. Do vậy, từ các quan đại học sĩ, nhà Minh lập ra Thủ Phụ (đứng đầu các phụ tá đại thần), thời Thanh thì gọi là Điện Các Đại Học Sĩ (vừa là bí thư riêng của nhà vua, vừa là người đứng đầu các đại học sĩ). Giữa đời Thanh, ngoài Điện Các Đại Học Sĩ, còn lập ra chức Quân Cơ Đại Thần trông nom việc quân, thường là do Điện Các Đại Học Sĩ kiêm nhiệm. Ở đây nói Tôn Lão Thật “đại bái” (được phong làm Tể Tướng) tức là được bổ nhiệm làm Điện Các Đại Học Sĩ.
[161] Mân ở đây là một nước thành lập vào thời Ngũ Đại. Vào năm Cảnh Phước thứ hai (893) đời Đường Chiêu Tông, ba anh em nhà họ Vương là Vương Triều, Vương Thẩm Khuê, Vương Thẩm Tri chiếm cứ Phước Châu, rồi chiếm toàn bộ vùng Phước Kiến. Nhà Đường quá suy yếu, phải phong cho Vương Triều làm Quan Sát Sứ rồi thăng lên làm Oai Vũ Quân Tiết Độ Sứ. Vương Triều chết vào năm Càn Ninh thứ tư (898), di mạng cho Vương Thẩm Tri kế vị. Vương Thẩm Tri được phong làm Lang Da Vương. Tới khi nhà Hậu Lương soán ngôi nhà Đường, đã phong cho Vương Thẩm Tri làm Mân Vương, đóng đô tại Trường Lạc (nay là thành phố Phước Châu, tỉnh Phước Kiến). Khi Vương Thẩm Tri chết, con là Vương Diên Hàn kế vị. Sau đó, Diên Hàn bị anh em là Vương Diên Bẩm và Vương Diên Quân sát hại. Sau đấy, Vương Diên Quân giết Vương Diên Bẩm, lên làm vua, xưng đế, đặt quốc hiệu là Đại Mân, tôn Vương Thẩm Tri làm Mân Thái Tổ. Nước này bị nhà Nam Đường của Lý Biện diệt quốc dưới thời Vương Diên Chánh (Thiên Đức Đế) vào năm 945.
[162] Ngô là một nước khác vào thời Ngũ Đại, do Dương Hành Mật sáng lập, còn được gọi là Dương Ngô, Nam Ngô, Hoằng Nông, hoặc Hoài Nam. Nhân lúc triều đình thời Đường Chiêu Tông suy yếu, Dương Hành Mật đang làm Tiết Độ Sứ tại Hoài Nam bèn chiếm cứ Dương Châu, tự xưng là Ngô Vương, đóng đô tại Quảng Lăng (tức Dương Châu). Địa bàn nước Ngô lớn gấp ba nước Mân bao gồm các tỉnh Giang Tô, An Huy, Giang Tây và một phần Hồ Bắc. Nước Ngô bị Nam Đường diệt quốc vào năm 937.
[163] Động Nhung (洞戎) là tiếng để gọi chung các dân tộc thiểu số thuộc vùng Lãnh Nam, tức là các dân tộc thiểu số tại Quảng Tây, Quý Châu, và Hồ Nam.
[164] Ngũ Quỷ là năm gã gian thần thời đó, tức Đinh Vị, Lâm Đặc, Trần Bành Niên, Lưu Thừa Khuê và Vương Khâm Nhược.
[165] Có thể hiểu là họ bên nội là Tông, họ bên ngoại là Thân. Thân cũng bao gồm quan hệ họ hàng do thông gia, chẳng hạn họ hàng bên vợ, hoặc bên chồng được gọi là Thân.
[166] Yến Bình Trọng tức là Yến Anh (còn gọi là Yến Tử, có khi đọc là Án Anh). Ông làm quan thượng đại phu nước Tề, là con trai của Yến Nhược. Khi cha ông mất, ông được vua Tề bổ nhiệm làm Thượng Đại Phu, đứng đầu bá quan. Tương truyền, ông thân hình thấp bé, loắt choắt, mặt mũi xấu xí, nhưng thông minh tuyệt đỉnh. Ông giữ chức Thượng Đại Phu suốt năm mươi hai năm, trải các đời vua Linh Công, Trang Công và Cảnh Công. Ông ứng đối mẫn tiệp, khéo trị nước, khiến cho triều đình Tề lẫn các nước chư hầu nể phục. Do Tề và Sở cạnh tranh thế lực với nhau, nước Sở thường tìm cách làm nhục sứ Tề. Khi Yến Anh đi sứ nước Sở, họ mở cửa ngách mời ông vào, thay vì mở đại môn. Ông thản nhiên bảo: “Nếu ta đi sứ sang nước của chó thì mới chui lỗ chó mà vào, chứ ta đi sứ nước Sở, chẳng lẽ phải chui lỗ chó hay sao?” Quan tiếp đãi của nước Sở cứng họng, phải mở đại môn. Khi Sở Linh Vương tiếp sứ đoàn, đã hạ nhục Yến Anh bằng câu hỏi: “Bộ nước Tề hết người hiền năng rồi hay sao mà chọn ngươi đi sứ?” Yến Anh thản nhiên đáp: “Nước Tề có hơn bảy ngàn hộ, dân trong thành chỉ cần giơ tay áo lên che là đã khuất bóng mặt trời, thân họ chảy mồ hôi nhiều như mưa, làm sao không có người cho được!” Vua Sở châm chọc: “Vậy tại sao lại chọn ngươi?” Yến Anh cười: “Nước Tề phái người đi sứ nước nào cũng đều chọn người thích hợp với nước đó. Người hiền năng sẽ được phái đi sứ những nước có bậc quân chủ hiền năng, kẻ chẳng hiền năng sẽ bị sai đi sứ những nước có vua chẳng có phẩm đức! Tôi là người tệ hại nhất nước Tề, nên mới được sai đi sứ nước Sở”.
[167] Bao Chửng (包拯, 999-1062), tự là Hy Nhân, người xứ Hợp Phì thuộc Lư Châu (nay là thành phố Hợp Phì tỉnh An Huy). Ông làm quan tới chức Xu Mật Phó Sứ, Triêu Tán Đại Phu, Cấp Sự Trung, Thượng Khinh Xa Đô Úy, tước Khai Quốc Hầu, được ăn lộc một ngàn tám trăm hộ. Ngoài việc từng làm Lễ Bộ Thượng Thư, ông được biết đến nhiều nhất dưới chức vụ Long Đồ Các Trực Học Sĩ. Do tài xử án công chánh, phán án nghiêm minh, phá án chánh xác, ông được ca tụng là Bao Thanh Thiên, và dân gian có câu nói: “Gặp Diêm La Bao Lão, hoàng thân quốc thích hoạn quan bó tay”. Thậm chí dân gian còn truyền tụng: Sau khi chết, ông trở thành Ngũ Điện Diêm La Vương. Dã sử còn tương truyền ông là Văn Khúc Tinh Quân giáng thế, phù tá Tống Nhân Tông. Ông đỗ Tiến Sĩ trong niên hiệu Thiên Thánh thứ năm (1027) đời Tống Chân Tông, được phong làm Đại Lý Bình Sự, bổ làm tri huyện Kiến Xương, nhưng do còn cha mẹ già, nên không đi nhậm chức. Mười một năm sau, khi cha mẹ đều đã qua đời và tang chế đã mãn, ông mới ra làm tri huyện Thiên Trường, rồi tri châu Đoan Châu. Được vua gọi về kinh làm Giám Sát Ngự Sử Lý Hành, thăng lên làm Giám Sát Ngự Sử. Ông cứng cỏi, nghiêm khắc dâng sớ đàn hặc Giang Tây Chuyển Vận Sứ Vương Quỳ, ba lần đàn hặc ngoại thích Trương Nghiêu Tá. Sau đó, ông được cử kiêm nhiệm Tri Khai Phong Phủ, tức chức quan Kinh Triệu Doãn trông coi kinh thành trong khi đang giữ chức Long Đồ Các Trực Học Sĩ. Ông thẳng tay trừng trị những kẻ quyền quý cậy thế. Dẫu là hoàng thân quốc thích mà phạm pháp, cũng bị ông trừng trị tới nơi tới chốn.
[168] Long Đồ Các nằm ở chái tây của điện Hội Khánh, trực thuộc ngự thư phòng của hoàng đế đời Tống, được lập ra từ thời Tống Chân Tông. Long Đồ Các Trực Học Sĩ là chức quan văn thuộc về Chánh Tam Phẩm, đặc trách biên soạn, kiểm thảo các chiếu chỉ và chánh lệnh của hoàng đế, quản lý danh sách, sổ bộ liên quan đến hoàng thân quốc thích, cũng như quản lý các trước tác, sách vở, tài liệu và các văn vật trân quý của hoàng đế.
[169] Cao là Cao Đào. Ông Cao là một vị đại thần nổi danh trông coi về hình pháp. Quỳ là tên viên quan nổi tiếng hiền năng, trông coi về lễ nhạc (do sử không chép đầy đủ tên họ, nên không biết ông này họ là gì). Tắc là Hậu Tắc, người trông coi nông nghiệp. Khế là tên quan Tư Đồ, trông coi về giáo dục. Những vị này đều là bầy tôi hiền năng của vua Thuấn.
[170] Dương Hùng là người Tứ Xuyên, sống vào thời Tây Hán, hiếu học, có tài ăn nói, học rộng, có thể coi là một bậc học giả thời ấy. Ông ta viết rất nhiều sách và có nhiều bộ nổi tiếng như Thái Huyền, Phương Ngôn, Pháp Ngôn v.v… Do vì tham đắm địa vị, ông ta không phê phán Vương Mãng soán đoạt nhà Hán lập ra nhà Tân là phản nghịch, lại còn dùng lời lẽ biện minh cho hành động ấy. Quá đáng hơn nữa là Dương Hùng còn phỏng theo tác phẩm Phong Thiện Văn của Tư Mã Tương Như để phê phán Tần Thủy Hoàng, ca tụng công đức của Vương Mãng.
[171] “Vô khả, vô bất khả”: Trong thiên Vi Tử sách Luận Ngữ có đoạn: “Dật dân, Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Châu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên. Tử viết: – Bất giáng kỳ chí, bất nhục kỳ thân, Bá Di, Thúc Tề dư? Vị Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, giáng chí nhục thân hỹ, ngôn trung luân, hành trung ngu, kỳ tư nhi dĩ hỹ. Vị Ngu Trọng, Di Dật, ẩn cư phóng ngôn, thân trung thanh, phế trung quyền. Ngã tắc dị ư thị, vô khả, vô bất khả” (Đối với những bậc ẩn sĩ như Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Châu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, Khổng Tử nói: “Chẳng hạ thấp chí hướng, chẳng khuất nhục thân phận của chính mình, phải là Bá Di, Thúc Tề đấy ư? Nói đến Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên thì bọn họ đã hạ thấp chí hướng, khuất nhục thân phận, chỉ là ăn nói phù hợp luân lý, hành xử phù hợp lý trí, họ chỉ làm được như vậy mà thôi. Nói đến Ngu Trọng, Di Dật thì họ ẩn cư, ăn nói tự do, giữ thân trong sạch, từ chối quan chức, đấy cũng là hợp lý trí. Ta chẳng giống họ, không gì là có thể, không gì là chẳng thể).
[172] Phùng Đạo sống vào thời Ngũ Đại, khéo luồn lách nên làm tể tướng hoặc các chức quan cao cấp dù triều đại thay đổi. Hễ vương triều này bị xóa sổ, hắn khéo léo luồn lách, bợ đỡ để rồi lại vinh hiển, phú quý trong triều đại mới. Ở đây, Cảm Ứng Thiên ghi là “bốn họ, tám vua”, thật ra Phùng Đạo làm quan cao chức cả suốt năm triều đại, tám gia tộc, mười ba đời vua! Dân gian châm biếm gọi ông ta là Trường Lạc Lão Nhân, hoặc Bất Đảo Ông (con lật đật). Chẳng hạn, ông ta làm tể tướng cho Lý Tự Nguyên (nhà Hậu Đường, tức Đường Minh Tông). Khi Đường Minh Tông mất, con nuôi của tân hoàng đế Lý Tùng Hậu là Lý Tùng Kha làm phản, đoạt ngôi của Lý Tùng Hậu, khiến Lý Tùng Hậu phải chạy sang nương nhờ Thạch Kính Đường. Thay vì xuống chiếu cần vương, Phùng Đạo nhanh chóng dẫn đầu các quan ra tiếp đón, nịnh bợ tân hoàng đế. Tuy không được trọng dụng, hắn vẫn giữ các chức Tiết Độ Sứ rồi Tư Không. Khi Thạch Kính Đường diệt Lý Tùng Kha, lập ra nhà Hậu Tấn, Phùng Đạo lại nhanh chóng bợ đỡ tân vương, được phong làm Tể Tướng. Khi Da Luật Đức Quang xua quân xuống miền Nam diệt nhà Tấn, Phùng Đạo lại nhanh chóng tìm cách luồn lách, trở thành Thái Sư của nhà Liêu…
[173] Hy Văn là tên tự của Phạm Trọng Yêm. Theo cổ lễ, đối với mỗi người, ngoại trừ cha mẹ và thầy dạy, hoặc khi còn bé thì mới gọi tên thật. Sau khi một thanh niên đã làm lễ gia quan, đặt tên tự, ngay cả vua cũng không gọi thẳng tên thật khi nói chuyện với người đó, mà thường gọi bằng tên tự.
[174] Nguyên Hựu (元祐) là niên hiệu của Tống Triết Tông từ năm 1086 đến năm 1094. Nguyên Phù (元符) là niên hiệu của Tống Triết Tông từ năm 1098 đến năm 1100.
[175] Thị thần (侍臣) là các quan bầy tôi thân cận, thường là cố vấn thân cận.
[176] Thời ấy, bọn hoạn quan có quyền lực rất lớn, lũng đoạn triều chánh, lấn hiếp các quan văn võ. Đường Văn Tông (Lý Ngang) không cam lòng bị hoạn quan khống chế, đã âm mưu với Lý Huấn và Trịnh Chú tính giết sạch những đứa thủ lãnh của bọn hoạn quan. Vào ngày Hai Mươi Mốt tháng Mười Một năm Thái Hòa thứ chín, Đường Văn Tông viện cớ đi xem trời hiện ra cam lộ ở trên cây trong hoàng cung, hạ lệnh các triều thần và hoạn quan phải cùng đi xem, sai bọn thủ lãnh hoạn quan sang doanh trại Kim Ngô (quân cảnh vệ hoàng thành) sắp đặt trị an để thừa cơ dùng phục binh giết chết chúng. Trước đó, Trịnh Chú đã sai Vương Phan sắp sẵn phục binh tại doanh trại Kim Ngô, ước hẹn khi bọn thái giám vào doanh, sẽ ùa ra giết sạch không tha. Do Vương Phan nhút nhát, chần chừ, khiến cho thủ lãnh bọn hoạn quan là Cừu Sĩ Lương phát giác. Họ Cừu bèn điều quân đánh nhau với quân cấm vệ, đôi bên giao chiến kịch liệt. Cuối cùng, Lý Huấn, Vương Nhai, Thư Nguyên Dư, Vương Phan đều thảm bại. Đường Văn Đế bị bọn hoạn quan biến thành bù nhìn, từng rơi lệ than thở với Trực Học Sĩ Châu Trì: “Trẫm bị lũ gia nô khống chế, cảnh ngộ còn tệ hơn Châu Noãn Vương, Hán Hiến Đế”. Do vậy, vua uất ức thành bệnh, qua đời khi mới ba mươi hai tuổi.
[177] Vị này tên thật là Lưu Chí, thụy hiệu là Trung Túc. Theo cách nói tôn trọng thời cổ, thường xen thụy hiệu vào giữa tên và họ, nên Cảm Ứng Thiên mới chép là Lưu Trung Túc Chí.
[178] Trợ Dịch là một trong các biện pháp trong chánh sách tân pháp của Vương An Thạch, cho phép những kẻ sẵn tiền có thể bỏ tiền thuê người đi lao dịch thay. Lao dịch là hình thức trưng công lao động tập thể trong những công trình công ích lớn như đắp đê, sửa đường, sửa cầu v.v…
[179] Tư Nông Tự là cơ quan trông coi việc nông nghiệp, gần như tương đương với bộ Nông Nghiệp hiện thời.
[180] Nguyên văn “tả hữu tạng” (左右藏). Đây chính là hai cái kho, thuộc loại quốc khố. Kho ở bên trái (tả tạng) chứa tiền bạc, vải vóc, lụa là, tiền thuế. Kho bên phải (hữu tạng) chứa các thứ vàng ngọc, châu báu, đồng sắt, ngà voi, xương thú, tranh vẽ.
[181] Hộ Bộ (戶部) là một trong sáu bộ. Bộ này có trách nhiệm quản trị đất đai, hộ tịch, thuế khóa, tài chánh. Viên Ngoại Lang (員外郎) có nghĩa gốc là quan viên nằm ngoài chức chánh và phó của một cơ quan hành chánh. Đây là chức quan phò tá cho Thượng Thư và Thị Lang của mỗi bộ. Về sau, những nhà giàu có cũng được gọi là Viên Ngoại.
[182] Tuế cống (歲貢): Những khoản lễ vật bắt buộc phải dâng lên vua hằng năm từ các chư hầu và các thuộc quốc. Thuộc quốc không nhất thiết là các nước bị Trung Hoa xâm chiếm, mà là các nước nhỏ độc lập xung quanh phải cống nạp mỗi năm bao nhiêu đó để Trung Hoa không viện cớ xâm lăng. Việt Nam tuy độc lập từ thời Ngô Quyền, nhưng vì để tránh bị Trung Hoa phát động chiến tranh xâm lược liên miên, đã phải tuế cống mỗi năm rất tốt kém. Họ đòi vàng, bạc, những sản phẩm quý hiếm như ngà voi, sừng tê giác, trầm hương, sâm, quế, nhung, cao hổ cốt, trái vải, lụa là, đồ sứ, cà cuống… Nói chung là những thứ quý hiếm, ngon lạ đều bị vua quan Trung Hoa hạch sách, đòi hỏi. Thậm chí dưới thời nhà Lê, vào những năm đầu, do quân Lê Lợi giết chết tướng nhà Minh, các vua Lê phải đúc tượng vàng to bằng người thật để triều cống.
[183] Thái Phỏng Sứ (采訪使) gần như tương đương với tỉnh trưởng hiện thời. Đời Đường, chia toàn bộ lãnh thổ thành mười lăm đạo. Mỗi đạo tương đương với một tỉnh hiện thời, mỗi đạo đặt quan đứng đầu gọi là Thái Phỏng Xử Trí Sứ, thường gọi tắt là Thái Phỏng Sứ.
[184] Hy Hà nay là huyện Lâm Thao tỉnh Cam Túc.
[185] Thái Giám Vương Tam Bảo tức là Trịnh Hòa. Ông này vốn tên là Mã Văn Bân, tự là Hòa, vốn thuộc sắc dân thiểu số Sắc Mục (Semu) tại Côn Dương, tỉnh Vân Nam. Mã ở đây là họ theo lối Hán Hóa chữ Mohamed của những người theo đạo Hồi tại Trung Hoa. Do Trịnh Hòa có tên thuở bé là Tam Bảo, nên thường được gọi là Tam Bảo Thái Giám. Do làm thái giám theo hầu Yên Vương Châu Đệ (Minh Thành Tổ) có công, Mã Văn Hòa được thăng làm Nội Quan Thái Giám, được ban họ là Trịnh. Năm Vĩnh Lạc thứ ba, Trịnh Hòa phụng mạng Minh Thành Tổ, cùng với bọn Vương Cảnh Hoằng đi sứ các nước Tây Dương, đem theo đội thuyền hơn hai trăm chiếc, biểu dương thanh thế, lực lượng thủy quân của đoàn thuyền ấy có tới hơn hai vạn người. Chuyến đi ấy nhằm dọa dẫm các nước trong vùng, thực hiện chánh sách “viễn giao cận công” (xa thì ngoại giao, gần thì tấn công) của nhà Minh, đồng thời sưu tập những thứ hiếm lạ đem về cho nhà vua. Chuyến hải trình này kéo dài hai mươi tám năm, vừa củng cố thanh thế của Trung Hoa tại các nước hải ngoại, vừa nhằm tạo điều kiện cho người Hoa chiếm lãnh những vùng buôn bán béo bở tại các nước có thế lực quân sự yếu hơn Trung Hoa. Do vậy, người Hoa thờ ông ta gọi là Bổn Đầu Công, thường gọi thông tục là ông Bổn. Tây Dương là chữ người thời Minh gọi các nước hoặc lãnh thổ ở quanh vùng biển Nam Hải và Ấn Độ Dương như Việt Nam, Mã Lai, Thái Lan, Sumatra, Java, Sri Lanka, bán đảo Ả Rập v.v… Trước sau, Trịnh Hòa đã “hạ Tây Dương” bảy lần, có lần đi xa tới tận eo biển Mozambique của châu Phi. Trong năm 1431 của niên hiệu Tuyên Đức thời Minh Tuyên Tông, Trịnh Hòa đã dẫn hạm đội tuần hành Tây Dương lần cuối cùng trước khi chết vào hai năm sau đó.
[186] Thiên Thuận là niên hiệu của Minh Anh Tông từ năm 1457-1464.
[187] Vũ Văn Sĩ Cập (572-642), tự là Nhân Nhân, người xứ Trường An, Ung Châu, giữ chức Trung Thư Lệnh (Tể Tướng) dưới thời Đường Cao Tổ và Đường Thái Tông. Ông ta là con trai của đại thần Vũ Văn Thuật nhà Tùy. Sĩ Cập lấy công chúa Nam Dương là con gái của Tùy Dượng Đế. Ông ta có quan hệ rất tốt với Lý Uyên (Đường Cao Tổ). Khi anh trai của ông ta là Vũ Văn Hóa Cập và Vũ Văn Trí Cập làm chánh biến, giết Tùy Dượng Đế, đưa cháu của Dượng Đế là Dương Hạ lên làm vua, đã cử Vũ Văn Sĩ Cập làm Nội Sử Lệnh. Khi Lý Uyên phản Tùy, tự xưng là Đường Vương, đã phái người lén thông đồng với Vũ Văn Sĩ Cập. Sau khi Lý Uyên thống nhất Trung Hoa, đã phong cho Vũ Văn Sĩ Cập làm Trung Thư Lệnh. Ông ta khôn khéo, quyền biến, sống rất xa hoa, khéo lấy lòng cấp trên.
[188] Lưu Thị là vợ lẽ của Đường Trang Tông (Lý Tồn Húc), vợ cả là Hàn phu nhân. Vua yêu thích Lưu Thị, muốn lập Lưu Thị thành hoàng hậu, nhưng còn e ngại triều thần dị nghị. Quách Sùng Thao đón ý nhà vua, bèn dâng biểu kiến nghị.
[189] Đây là những câu chuyện báo ân của loài vật. Phù Kiên là vua nhà Tiền Tần, bị Mộ Dung Xung (vua nước Tây Yên) tấn công, thua trận, cỡi ngựa tẩu thoát. Phù Kiên vô ý rơi khỏi mình ngựa, té xuống khe suối Lạc Giản. Truy binh đuổi gần tới, Phù Kiên không cách nào thoát ra được. Con ngựa bèn dò dẫm, đến gần khe suối, ngậm dây cương đưa cho Phù Kiên. Phù Kiên chẳng nắm được, nó bèn khụy gối để Phù Kiên nắm lấy, kéo Phù Kiên lên. Nhờ đó, Phù Kiên tẩu thoát đến Lô Giang.
Theo quyển chín bộ Sưu Thần Ký của Đào Tiềm, Dương Sinh ở Quảng Lăng có nuôi một con chó, rất yêu mến nó. Đi đâu cũng dẫn theo. Có một hôm, Dương Sinh say rượu, đi đến một cái đầm cỏ rậm rạp, ngã xuống đám cỏ, ngủ say sưa. Nhằm tháng mùa Đông, có người đốt đồng, lửa cháy gần tới. Con chó sủa ầm ĩ đánh thức chủ, Dương Sinh vẫn ngủ mê mệt. Gần đó có một hố nước, con chó bèn nhảy xuống, nhúng ướt toàn thân, lăn mình quanh Dương Sinh làm ướt cỏ. Nó chạy đi chạy lại như thế nhiều lần, thấm ướt toàn bộ cỏ quanh chỗ Dương Sinh nằm. Nhờ đó, Dương Sinh không bị thiêu chết.
Theo quyển hai mươi trong bộ Sưu Thần Ký, tại Trá Thủy thuộc Tùy Huyện, có một chỗ gọi là Đoạn Xà Khâu (gò chặt rắn). Tùy Hầu trông thấy một con rắn to bị thương, giữa mình nó có một vết chém sâu, bèn bôi thuốc cho nó, rắn đủ sức bò đi. Vì thế, nơi ấy được gọi là Đoạn Xà Khâu. Một năm sau, con rắn ấy ngậm một viên minh châu to cỡ một tấc, trắng ngần, đêm tối bèn tỏa sáng, đến biếu tặng. Viên ngọc ấy được gọi là Tùy Hầu Châu, Linh Xà Châu, hoặc Minh Nguyệt Châu.
Dương Bảo nhờ cứu chim sẻ bị diều hâu đánh văng xuống đất, kiến bu đầy, bèn phủi kiến, đem về chữa thương, nuôi nấng cho đến khi mạnh khỏe bèn thả đi. Một đêm, thấy có đứa bé mặc áo vàng, đến cảm tạ, nói nó là sứ giả của Tây Vương Mẫu, chính là con chim sẻ được Dương Bảo cứu khi trước, biếu Dương Bảo mấy chiếc vòng ngọc, chúc ông con cháu khiết bạch, làm tới Tam Công. Quả nhiên con cháu ông ba đời liên tiếp làm quan đến địa vị Tam Công.