Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên | Quyển Hạ | Phần 5

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao

Tục Biên

Quyển Hạ

(Phần 5)

Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ

 

       IV. Tụng Tán

       (phụ thêm phần kệ)

 

  1. Phật Bảo Tán

      Phật bảo khen ngợi khôn cùng,

Từ trần kiếp[1] trước chứng Đại Hùng,

Thường trụ Tịch Quang bi tâm sâu,

Hóa hiện độ quần mông[2],

Thuyết pháp khế cơ cùng khế lý,

Chấn động điếc – đui trong chín cõi,

Linh Sơn pháp hội nguyện tương phùng,

Thọ ký, rạng tông phong.

 

  1. Pháp Bảo Tán

      Ngợi khen Pháp Bảo khó lường thay!

Không – Hữu thể – dụng thảy trọn bày,

Mảy trần chẳng lập muôn đức trội,

Vô trụ tâm quang tỏa rạng ngời,

Chân – Tục cùng còn, cùng diệt mất,

Thế nào mới có thể tán dương?

Chứng đến chỗ không gì để được,

Ắt đáng xưng là Pháp Trung Vương.

 

  1. Tăng Bảo Tán

      Tăng Bảo thật chẳng thể nghĩ bàn,

Bổn – Tích thánh – phàm há dễ hay!

Ngài Văn Thù thầy bảy đức Phật,

Còn hiện tướng Hàn Sơn si ngây.

Phàm tăng tận lực tu Tam Học (Giới – Định – Huệ)

Gánh vác đạo Bồ Đề Như Lai.

Do vậy, hai khuôn mẫu rộng lớn,

Pháp đạo phàm – thánh mãi truyền trì.

 

  1. Tán dương tượng Phật Dược Sư

      Mười hai đại nguyện đức khó lường,

Xưng danh liền được thoát khổ ương,

Đến khi nghiệp tận tình không ấy,

Đông – Tây cõi giác vốn chân thường!

 

  1. Dược Sư Phật kệ

      Dược Sư Như Lai Lưu Ly Quang,

Thệ nguyện rộng sâu đời khó lường!

Hiển: sanh điều lành, nhóm phước khánh.

Mật: khiến diệt ác, tiêu họa ương.

Dẹp khổ: cốt sao sạch nhị tử[3],

Ban vui: muôn đức ắt phô bày.

Pháp giới thánh – phàm đều quy mạng,

Gội ân mau chứng được chân thường.

 

  1. Tán dương tượng Phật A Di Đà

      Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,

Nghịch ác hướng lòng cũng tiếp nghênh,

Xen trộn đúng – sai không chọn lựa,

Vì thương những kẻ Phật chưa thành.

 

  1. Tán dương kinh tháp Phật A Di Đà

      Bảo tháp nguy nga tột hư không,

      Vô biên pháp tạng chứa vào trong,

      Cực Lạc trang nghiêm đều hiện trọn,

      Di Đà quang thọ vẹn hình dung,

      Sáu phương chư Phật thường ca ngợi,

      Chín giới chúng sanh trọn hướng lòng,

      Một câu sáu chữ hồng danh gọn,

Quy căn kết đảnh thật mênh mông!

     

  1. Tán dương tượng Tây Phương Tam Thánh

      Tam Thánh vô tâm đều đã chứng,

      Vô tâm ứng trọn hữu tâm nhân,

      Dẫn khắp chúng sanh về Cực Lạc,

      Thân – tâm trọn không, chẳng dấu hằn.

 

  1. Tán dương tháp Đa Bảo

      Đa Bảo Như Lai,

Vì thỏa nguyện xưa,

Hiển trọn Thật Tế,

Hiện tháp vọt lên.

Hiển Bổn để làm khuôn mẫu lớn,

Mọi kẻ thấy nghe lên bến kia.

 

  1. Tán dương tượng Quán Thế Âm Bồ Tát

      Khắp trần sát cõi thảy hiện thân,

      Thương nhất Sa Bà lũ thế nhân,

      Hễ còn ai đó chưa thành Phật,

      Tầm thanh cứu khổ chửa nguôi lòng.

 

  1. Kệ tán dương Quán Thế Âm Bồ Tát

      Quán Âm thệ nguyện diệu khôn lường,

      Cảm ứng tùy cơ há trễ tràng!

      Cứu khổ tầm thanh: từ hút sắt[4],

      Hiện thân thuyết pháp: nước in trăng,

      Cứu vớt muôn sự trần sát cõi,

      Sa Bà càng nặng tấm lòng Từ,

      Ân sâu hết kiếp khen sao trọn,

      Che chở quần manh khắp xót thương.

      Quán Âm thệ nguyện thật mênh mông,

      Độ mọi chúng sanh lìa cõi khổ,

      Hưng khởi từ bi khắp sát trần,

      Phổ Môn mỗi mỗi đều thâu nhiếp,

      Nay ứng hiện khắp băm hai thân,

      Khiến chúng rốt ráo chứng tâm Phật,

      Cung kính thường xưng niệm Quán Âm,

      Cát khánh thường hưởng, chướng dứt bặt.

 

  1. Kệ hồi hướng cho Quán Âm Thất

      Nguyện do công đức trì tụng này,

      Liền cảm được Đại Sĩ gia bị,

      Tiêu trừ ta – người nghiệp xưa nay,

      Thiện căn ta – người cùng tăng trưởng,

      Bao kiếp giữ mãi Đại Sĩ tâm,

      Khắp cõi thường hành Đại Sĩ sự,

      Gây tạo lợi ích tột vị lai,

      Khiến mọi hữu tình chẳng họa hại.

      Nguyện do công đức này,

      Tiêu trừ nghiệp xưa – nay,

      Tăng trưởng mọi phước huệ,

      Viên thành thắng thiện căn,

      Tất cả đao binh kiếp,

      Cùng với nạn đói khát,

      Đều bị diệt trừ sạch,

      Thế giới mãi thanh bình,

      Mưa gió thường thuận hòa,

Nhân dân đều an ninh,

Pháp giới các hàm thức,

Cùng chứng vô thượng đạo.

 

  1. Kệ khánh chúc Quán Âm

      Đoan tọa Phổ Đà thường nhập Định,

      Chúng sanh hễ cầu, trọn rủ lòng,

      Muốn biết nghĩa cảm ứng huyền diệu,

      Xin nhìn trăng rọi khắp muôn sông.

 

  1. Sửa đổi cho đúng bài kệ tán dương đức Quán Âm thường được lưu truyền trong cõi đời

      Quán Âm Bồ Tát đức tối ưu,

      Chánh Pháp Minh Phật chứng đã lâu,

      Ân sâu lồng lộng trùm muôn cõi,

      Kim Phật vòi vọi ngự trên đầu,

      Nước bình cam lộ gột trần cấu,

      Tay phóng hào quang diệt ưu sầu,

      Hễ trần sát cảm, trần sát ứng,

      Vầng trăng in bóng trọn muôn sông.

 

  1. Tán dương tượng Đại Thế Chí Bồ Tát

      Như con nhớ mẹ siêng niệm Phật,

      Nhiếp trọn sáu căn tai lắng nghe,

      Vâng theo lời Đại Sĩ khai thị,

      Quả giác ắt khế hợp nhân tâm.

 

  1. Kệ tán dương Đại Thế Chí Bồ Tát

      Thế Chí Bồ Tát đức vô biên,

      Phù tá Di Đà thả từ thuyền,

      Cứu khổ hệt như Quán Tự Tại,

      Dẫn dắt về Tây tợ Phổ Hiền.

      Tu nhân dùng trọn căn – trần – thức,

      Chứng quả đều đạt viên thông thường,

      Nhiếp người niệm Phật về Tịnh Độ,

      Ân này muôn kiếp dễ đâu quên!

      Đại Thế Chí lợi sanh sâu rộng,

      Chuyên chú trọng pháp môn Niệm Phật.

      Như con nhớ mẹ nhớ Thế Tôn,

      Liền được gội ngay ân đức Phật,

      Khế hợp quả giác lẫn nhân tâm,

Lập tức trở về với nguồn cội,

Nhiếp trọn sáu căn diệu khó lường,

Nguyện khắp chín giới thường vâng giữ.

 

  1. Tán dương tượng Địa Tạng Bồ Tát

      Cao cả thay Đại Sĩ! Thệ nguyện rộng sâu, nghĩ thương chúng sanh luân hồi kiếp dài lâu, vận lòng Bi đồng thể, khởi lòng Từ vô duyên, thường ở trong địa ngục để mong cứu kẻ bị treo ngược[5]. Chúng sanh độ hết mới chứng Bồ Đề, địa ngục chưa trống thề chẳng muốn thành Phật. Do nhân duyên ấy, chư Phật ngợi khen. Huống chi những kẻ đang trong lục đạo há nên chẳng bi luyến? Hư không có cùng tận, nhưng thệ nguyện vô cùng. Muốn báo ân sâu, riêng in tôn kinh. Nguyện kẻ thấy nghe đều cùng sanh tịnh tín, lần lượt lưu truyền, lợi ích vô tận.

 

  1. Kệ tán dương Địa Tạng Bồ Tát

      Đại Sĩ thệ nguyện há thể lường,

      Lòng bi trọn khắp cõi vô ương,

      Chúng sanh độ hết mới xong thệ,

      Địa ngục trống rồi nguyện mới thôi.

      Giáo hóa nhiều người thành Phật đạo,

      Tự thân vẫn hiện tướng Thanh Văn,

      Chúng sanh và Phật tánh vốn một,

      Cùng muốn ta người chứng Pháp Vương[6].

      Địa Tạng Bồ Tát đại từ bi,

      Thệ nguyện vĩnh viễn chẳng hề hết,

      Giáo hóa thành Phật số khôn xiết,

      Vẫn hiện oai nghi bậc Thanh Văn,

      Đến khi địa ngục độ hết sạch,

      Mới chịu thị hiện chứng Bồ Đề,

      Khẩn nguyện ban ân khắp u – hiển,

      Cùng theo hải hội dự liên trì.

 

  1. Kệ tán dương Di Lặc Bồ Tát

      Đấng Bổ Xứ Từ Vô Năng Thắng[7]

      Thường ngự Đâu Suất diễn viên âm,

      Hiện thân trần sát nào ai biết?

      Tâm cùng pháp giới tự dung thông,

Dốc cạn kho tàng trong đãy vải,

Tươi cười bình đẳng ban thế nhân,

Nguyện cùng Di Đà thương tiếp dẫn,

Khéo trong ba hội[8] chứng Nhất Chân.

 

  1. Kệ tán dương Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát

      Văn Thù Bồ Tát đức khôn lường,

      Thành Phật Long Chủng Thượng Pháp Vương,

      Do thương chúng sanh mê tự tánh,

      Riêng giúp Thích Ca mở đạo mầu,

      Thầy bảy vị Phật thể khôn thấu,

      Mẹ chư Bồ Tát dụng khôn ngằn,

      Thường trụ Tịch Quang ứng mọi cảm,

      Muôn sông khắp hiện bóng muôn trăng.

      (Long Chủng Thượng Phật chính là danh hiệu khi ngài Văn Thù đã thành Phật trong kiếp quá khứ, hãy nên biết là vị Long Chủng Thượng Tôn Phật được nói trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội là vị khác).

      Văn Thù phù tá Pháp Vương,

      Trí huệ chỉ Phật suy lường được thôi,

      Chấn hưng Viên Đốn đạo huyền,

      Người nghe tình kiến bỗng nhiên mất liền,

      Bồ Đề tràng hiểu cội nguồn,

      Ân quang nguyện gội giống như Thiện Tài,

      Rốt ráo chứng được chân thường.

 

  1. Kệ tán dương Phổ Hiền Bồ Tát

      Bồ Tát từ bi khó thuật trần,

Thánh – phàm đều được chứng viên nhân,

Nhất tâm chẳng trụ, siêu các vị,

Mười nguyện dẫn về, nối Năng Nhân[9],

Tam thừa đều được khế quả giác,

Quần manh mau được thoát phiền trần,

Khăng khắng tuân lời răn thanh tịnh,

Chắc chắn đời này thấu bổn chân.

Đức Phổ Hiền hạnh nguyện sâu thẳm,

Khuyên người phát Bồ Đề đại tâm,

Dạy cho Tam Hiền, Thập Địa thánh,

Đều cùng được thấy Di Đà Tôn,

Mười đại nguyện vương nếu tuân giữ,

Lợi ích chỉ Phật kham tuyên bày,

Quả giác, nhân tâm cùng lặng bặt,

Pháp Thân thanh tịnh chứng lên ngay.

 

  1. Kệ tán dương Trí Tích Bồ Tát

      Lâu xa hầu Đa Bảo,

      Đến lễ Thích Ca Tôn[10],

      Dạo khắp sát trần Phật quốc độ,

      Riêng thương chúng sanh cõi Sa Bà,

      Tượng vẽ hiện oai thần.

Xiển dương Phật hóa đời Lương,

Muốn cho tể tướng triều Đường kính tin.

      Hiện thân Sư trị bệnh người,

      Đại điện được bóng tháp ngời rợp che,

Bí tạng của đức Như Lai,

Ai lên nơi đó tức thời hiểu ra,

Giếng đào trên đỉnh non xa,

Uống vào Bát Nhã đạo huyền đều thông.

Tranh ngài vẽ tướng đang ngồi,

Dợm mình như thể sắp dời chân đi.

Tay cầm gậy giữ thẳng,

Trực chỉ pháp Bất Nhị,

      Tuy chẳng phải đích tổ[11],

      Truyền tâm chùa Linh Nham,

      Quả thật là khách quý,

      Trong biển khổ độ sanh.  

 

  1. Tán dương Trí Tích Bồ Tát

      (năm Dân Quốc 23 – 1934)

      Xét nghĩ Bồ Tát, bi trí rộng sâu, ở phương dưới thường hầu Đa Bảo Phật, thị hiện dấu tích khắp trần sát, hiện thân nơi tượng vẽ, Linh Nham đạo trường tồn.

 

  1. Tán dương Tịnh Độ Tổ Đường

      (năm Dân Quốc 27 – 1938)

Một tông Tịnh Độ khởi nguồn từ đức Phổ Hiền, Viễn công nối tiếp nguồn pháp ở Chấn Đán, trong – ngoài rộng lưu truyền, khiến cho khắp mọi phàm – thánh chứng Niết Bàn ngay trong đời này.

 

  1. Tán dương tượng Viễn Công đại sư

      (năm Dân Quốc 24 – 1935)

      Xét nghĩ Viễn Công, thừa nguyện tái lai, sáng lập Liên Tông, thỏa Phật bổn hoài, khiến các phàm – thánh nhớ niệm Phật danh, cậy Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Bậc đã đoạn Hoặc liền chứng Vô Sanh. Bậc chứng Vô Sanh mau tròn Phật quả. Dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, cảm ứng đạo giao lợi ích thật sâu. Chưa thấy kinh Niết Bàn đã tuyên giảng [Phật tánh] thường trụ, chưa đọc phẩm Hạnh Nguyện đã khuyên khắp mọi người về Tây, lập ra được pháp ngầm hợp ý kinh. Bậc hộ pháp Bồ Tát thể hiện sự đại giác của chính mình. La Thập dâng kinh càng thêm tán thán sâu đậm. Tăng sĩ Tây Vực sanh lòng ngưỡng mộ, tâm hương liền dâng. Hơn ngàn năm qua, chẳng được nghe viên âm. May còn di giáo để hòng noi theo. Kính nguyện thầy ta, sẽ lại thị hiện giáng sanh, dẫn khắp quần luân cùng lên cõi Ngũ Thanh[12]. In di cảo của Ngài để mô tả chân dung đạo pháp của Ngài, hòng kẻ thông sáng mai sau sẽ bắt chước theo.

 

  1. Tán tụng mười hai vị Tổ của Liên Tông

1) Sơ Tổ Đông Lâm Lô Sơn Huệ Viễn đại sư đời Tấn

      Dùng pháp đặc biệt vĩnh viễn làm khuôn phép cho đời, ý chỉ ngầm hợp với phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện, lưu thông khắp trong ngoài nước, khiến cho kẻ tầm thường lẫn bậc cao nhã giải quyết đại sự xong xuôi ngay trong đời này.

      Mở nguồn Liên Tông khiến Trung Hoa được phước, thỏa thích bổn hoài của Phật, lập phương tiện, viên âm vừa được xiển dương, sĩ phu đều về với Lô Sơn, đại pháp sắp hoằng khai, [sơn thần hiển thần thông chuyển vật liệu xây dựng] Thần Vận Điện, hết thảy pháp môn lưu xuất từ đây, hết thảy hạnh môn được thực hiện từ đây, khiến cho các tông đều quy hướng, muôn sông đổ về biển, nương theo hạnh nguyện.

 

2) Nhị Tổ Trường An Quang Minh Thiện Đạo đại sư đời Đường

      Sư sống vào đầu đời Đường, các tông đều hưng thịnh, đề xướng Tịnh Độ thỏa lòng mọi người, Phật lực ai dám sánh bằng? Nếu chịu gieo lòng thành, Tây Phương quyết định vãng sanh.

     Đời truyền tụng Sư là Phật A Di Đà thị hiện, đề xướng giáo nghĩa niệm Phật trọn vẹn, phong phú, thiết tha răn người học phải khiêm nhường, cũng như phải cực lực ưa – chán[13]; về mặt Giải phải thông thạo hết thảy pháp, nhưng về Hạnh chỉ chọn lấy một pháp vừa khế cơ khế lý. Niệm Phật tỏa hào quang khích lệ đại chúng, hãy nên xem lời Ngài như do chính đức Phật nói.

 

3) Tam Tổ Nam Nhạc Ban Châu Thừa Viễn đại sư đời Đường

      Thân gầy mặt bẩn, hầu bên Di Đà. Thần thức ngài Pháp Chiếu du hành [đến cõi Cực Lạc] vãng cãnh[14], Phật chỉ ngôi đình ghi danh ngài [Thừa Viễn], môn đình từ đấy được kế tục, tâm pháp vĩnh viễn truyền dương.

      Ban Châu[15] khổ hạnh đời khó thể chịu đựng được, nhịn cơm dùng bùn đất làm món ăn, thường đem những điều trọng yếu trong kinh và danh hiệu Phật ghi khắp trên các lối ngõ, đá núi. Niệm Phật, Phật dạy pháp đặc biệt, kẻ đến học dùng pháp ấy để an cái tâm, thiên tử nghe tên hướng về Nam vọng bái, vì thế đạo phong lưu truyền bốn biển.

 

4) Tứ Tổ Ngũ Đài Trúc Lâm Pháp Chiếu đại sư đời Đường

      Xét nghĩ Tứ Tổ đức cao đẹp đáng khâm phục, được Phật, thầy chỉ dạy cõi Cực Lạc, đức Văn Thù dạy túc nhân, khiến cho khắp mọi người thấu đạt bổn chân ngay trong đời này.

      Tại Hành Châu[16] thấy được thánh cảnh trong bát, mỗi điều đều đích thân tạo dựng nơi non Ngũ Đài. Nơi Tịnh Độ được thấy sư Thừa Viễn. Tại Trúc Lâm[17] cung kính nhận lãnh lời ngài Văn Thù dạy dỗ. Tiếng niệm Phật vang khắp ngã đường Tinh Châu. [Đường] Đại Tông sai sứ dâng chiếu thỉnh: “Niệm Phật rốt ráo mầu nhiệm như thế nào?” [Sư đáp]: “Khiến được mau thành đạo Bồ Đề”.

 

5) Ngũ Tổ Tân Định Ô Long Thiếu Khang đại sư đời Đường

      Tránh bàn đến thế đế, nên đã bảy tuổi vẫn chưa nói. Thốt lời bèn kinh động trời người. Rộng kết duyên Tịnh Độ, cho tiền trẻ nhỏ, ai nấy đều gieo chín phẩm sen.

      Lên bảy tuổi trọn chẳng thốt một lời, thốt lời liền xưng danh hiệu Thế Tôn. Vừa đọc bài Tây Phương Văn của ngài Thiện Đạo liền biết Tịnh Độ là nơi đáng nương tựa, đem tiền dụ trẻ niệm Di Đà, chưa lâu sau tiếng niệm Phật vang khắp nẻo đường. Niệm Phật, tượng Phật từ miệng bay ra, có ai thấy nghe chẳng tuân theo lời dạy?

 

6) Lục Tổ Hàng Châu Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư đời Tống

     Một bộ Pháp Hoa, một trăm lẻ tám Phật sự, bốn thứ liệu giản lợi lạc kẻ ngu lẫn người thông sáng, muôn điều thiện xét suy, mong siêu bạt trọn khắp, vãng sanh cõi Cực Lạc.

      Thấy các chúng sanh đều là Phật, chỉ nghĩ cứu sanh mạng quên luật nước. Bị giải ra chợ [hành hình] tâm vui vẻ[18], sắc mặt chẳng đổi, được xá tội liền thỏa nguyện xuất gia. Công khóa mỗi ngày là “một trăm lẻ tám Phật sự, tụng một bộ Pháp Hoa, niệm Phật mười vạn tiếng”. Nếu chẳng phải là bậc Đại Quyền thị hiện trong thế gian, ai có thể dựng được pháp tràng như thế?

 

7) Thất Tổ Hàng Châu Chiêu Khánh Tỉnh Thường đại sư đời Tống

      Hâm mộ đạo Lô Sơn, nối gót liên xã, trích máu biên chép phẩm Tịnh Hạnh, tể tướng [Vương Đán] theo về dưới tòa. Một trăm hai mươi vị chí hướng lớn lao, cao nhã, nguyện phỏng theo các ngài Long – Mã (Long Thọ, Mã Minh) [vãng sanh].     

Hâm mộ đạo phong Lô Sơn lập tịnh xã, do vì đời sau ít người thực hành, liền tùy theo sự việc mà phát thệ một trăm bốn mươi mốt nguyện để ai nấy đều được an trụ nơi Bồ Đề. Tể tướng Vương Đán đã quy y, công khanh một trăm hai mươi người được un đúc. Tuy trong Diêm Phù phò tá cơ đồ nhà vua, vẫn chẳng bằng vãng sanh cõi Cực Lạc hưởng phước nhà Phật.

 

8) Bát Tổ Hàng Châu Vân Thê Châu Hoằng đại sư đời Minh

      Vừa trụ tại Vân Thê đã chấm dứt được nạn hổ. Lúc hạn hán, [dân chúng] cầu thỉnh, [Sư] niệm Phật mưa liền tuôn xuống thỏa lòng dân mong mỏi. Thôn dân đều cảm thán, sắm gỗ lo liệu, đạo tràng được trùng hưng.

      Thuở nhỏ nghe niệm Phật ý đã quyết, về sau răn môn đồ đừng làm trò quái gở[19], hạnh là khuôn mẫu cho thế gian, lời lẽ là pháp tắc cho cõi đời. Chú trọng Tịnh Độ và quy giới. Chống đỡ sóng cuồng thật khế lý, khế cơ. Xiển minh Phật tâm, đuổi ong, rết. Khiến cho khắp mọi phàm phu đầy dẫy triền phược cậy vào Phật từ lực, lên cõi sen.

 

9) Cửu Tổ Bắc Thiên Mục Linh Phong Trí Húc đại sư đời Thanh

      Ngay từ nhỏ đã tin Phật, theo mẹ lễ tụng, đến lúc đi học theo đạo Nho liền phóng túng, đọc bộ Trúc Song Tùy Bút[20] bèn tự trách, tận lực hoằng dương Đại Thừa, mong cho mọi người cùng thoát khỏi hầm bẫy.

      Tông thừa giáo nghĩa thảy dung thông. Sở ngộ giống hệt như Phật chẳng khác biệt. Hoặc nghiệp chưa đoạn thì [giống như] bát đĩa [chưa nung], gặp mưa liền rã, uổng công lao đã [tu tập] từ trước. Do vậy, tận lực tu hạnh Niệm Phật. Quyết muốn trong đời này thoát khỏi bẫy lồng. Rát miệng thiết tha khuyên người học đạo, có sanh về được Tây Phương thì mới có thể kế thừa đấng Đại Hùng.

 

10) Thập Tổ Ngu Sơn Phổ Nhân Hành Sách đại sư đời Thanh

      Xiển dương Tịnh Độ, khẩn thiết ít ai bằng, dùng lòng tín nguyện sâu để dốc cạn lòng thành tu tập. Tâm và Phật đôi bên khế hợp, muôn niệm đều dứt, quyết định thoát gò khổ.

      Hám Sơn nguyện xưa chưa làm trọn, nên lại thị hiện giáng sanh làm Triệt Lưu[21], quở trách “kẻ tu phước cõi trời đúng là bọn Xiển Đề, Chiên Đà La[22]”. Tâm tánh của Phật và ta vốn chẳng khác. Phật là đã thành, ta chưa tu. Muốn được tâm và Phật đều không sai khác, hãy nên cầu nơi “nhớ Phật, niệm Phật!”

 

11) Thập Nhất Tổ Hàng Châu Phạm Thiên Thật Hiền đại sư đời Thanh

      Bốn mươi tám nguyện, kính phỏng theo Di Đà, một trăm lẻ tám bài thơ hay hơn Sở Ca[23], người nghe chán Sa Bà, khiến kẻ chần chừ phấn khởi chứng Ba La Mật Đa.

      Thâm nhập kinh tạng rất khó khăn mà Ngài đích thân chứng được, triệt ngộ tâm rồi tận lực hoằng dương Tịnh tông. Muốn cho người đời biết nguyên do, viết văn làm thơ nêu bày Phật lệnh: “Phát tâm Bồ Đề để dẫn đường, chân tín nguyện hạnh làm đường lối thực hiện. Nếu đầy đủ được những pháp thù thắng ấy, sẽ siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này”.

 

12) Thập Nhị Tổ Hồng Loa Tư Phước Tế Tỉnh đại sư đời Thanh (tức Triệt Ngộ đại sư)

      Thông trọn kinh sử, mong làm người hướng dẫn cho cõi đời, vừa bị bệnh liền biết [thông thạo kinh sử] chẳng thể nương cậy được, nghiên cứu chỗ uyên áo của các tông, thấy đều khó chứng được, bèn chuyên chú nơi giáo pháp Tịnh Độ.

      Pháp ngữ dạy đại chúng lợi ích rất nhiều. Kệ niệm Phật thảy bao la. Toàn chân biến thành vọng chỉ do tâm này. Toàn vọng biến thành chân cũng chẳng có gì khác. Bất biến tùy duyên nên tùy tịnh, tùy duyên bất biến chớ thuận theo sai ngoa. Nếu ai nấy y theo nghĩa này để tu trì thì quang thọ sẽ giống như đức Di Đà.

 

  1. Tán dương tượng Triệt Ngộ thiền sư

      Bậc tuấn kiệt làng Nho, đấng khôi hùng cửa Phật, sư tử hùng mạnh nơi hang Thiền, rồng thần nơi biển Giáo, nghiên cứu Từ – Hiền[24] nhưng hoằng dương giáo pháp Thiên Thai, trụ trì chùa Thiền thổi gió sen, chỉ mong khế cơ cùng khế lý, chẳng tính môn đình là dị hay đồng, nêu tỏ ý nghĩa “làm Phật, là Phật”, phá sạch sự tối tăm chấp lý phế sự, đang lúc tà thuyết tung hoành trong đời ác này, kẻ nhỏ nhoi, người có địa vị lớn lao không đâu chẳng noi theo!

 

  1. Tán dương tượng Đạt Ma Tổ Sư

      Đặc biệt từ trời Tây đến đây truyền Phật tâm, Đông Độ vốn nhiều kẻ căn cơ Đại Thừa. Sau đấy một chiếc dép trở về Tây[25], con cháu khắp cõi rền tiếng huyền diệu.

 

  1. Tán dương tượng Tế Công thiền sư

      Nhằm khơi gợi lòng chân tín nguyện cho chúng sanh, nên hiển lộ đủ mọi đại thần thông, chẳng giả khùng điên để che mắt mọi người, làm sao trụ mãi trong cõi đời để đánh động bọn điếc – đui?

 

  1. Ca tụngNam Bình Tông Thừa[26]

      Túy Bồ Đề, Bồ Đề túy. Kẻ vô trí chớ theo đuổi. Nếu nhận lầm phương hướng, muôn kiếp thường đọa lạc Nê Lê[27]. Nguyện người học khéo phân biệt: Thuận tâm nghịch tích[28] là phương cách tối thượng, [nhưng] nếu không có mắt chọn lựa pháp chân chánh, chắc chắn sẽ bị tổn hại không lợi ích.

 

  1. Tán dương bài ký “hình Phật hiển hiện trên răng lợn” của ông Lưu Công Lỗ ở Quý Trì

      Hết thảy chúng sanh, đều có Phật tánh. Do mê trái nên đánh mất lẽ chánh, khởi tham – sân – si, tạo giết – trộm – dâm, ăn thịt kẻ khác để bồi bổ cái thân mình. Sát nghiệp đã kết, trải nhiều kiếp giết lẫn nhau. Đức Như Lai thương xót, bèn làm thuyền từ, khơi mở giáo huấn lớn lao về lòng Từ. Người ta vẫn không tin nên Phật bèn đặc biệt hiện hình dáng để mong chúng sanh tùy thuận [lời Phật dạy]. Vỏ nghêu sò, hông bò, móng dê, răng lợn, yếm rùa, đều có hình Phật ngự [trong đó]. Có người họ Chức vào đời Tống giết lợn quăng đầu, chó giữ [đầu lợn] bốn ngày chẳng dám táp. Đuổi chó chẻ xương, trên răng hàm lợn hiện hình Phật. Mắt biếc, búi tóc xoắn ốc, nghiễm nhiên là bậc Đại Giác. Trước khi chưa giết, [mọi người] đều nói là “súc sanh”, đã giết xong mới biết là Phật. Do vậy, biết sát sanh chẳng khác gì giết Phật, dẫu chẳng phải do Phật hiện thì cũng là vị lai Phật. Giết để ăn thịt, tội quá non biển! Hãy gấp đau đáu ngăn dè, hòng được giải thoát!

      Anh em họ Triều làm văn tán dương, nghĩa lý uyên thâm, văn từ sáng đẹp, ông Thiên Trì biên chép, các vị đề tựa, viết lời bạt, để làm bài cảnh sách vĩnh viễn nhằm khơi gợi hậu giác. Đã hiểu nghĩa này, ai dám giết chóc? Tranh thành, giành đất sẽ chấm dứt ngay. Ông Lưu ở Quý Trì, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, bảo tồn sách của ông Từ, lời đề tựa, lời bạt đều phù hợp, sai con là Công Lỗ đem đưa cho xem, liền kính viết mấy lời tỏ bày chí hướng của tôi. Nguyện kẻ thấy nghe sẽ ăn chay kiêng giết, chắc chắn trong đời này sẽ về cõi Cực Lạc.

 

  1. Tán dương tượng Niệm Thành đại sư

      Nghĩ tới đức lớn của Ngài, ước mong khôi phục Linh Nham, sau cơn tai kiếp một mình ở trong lòng tháp, gặp được ông Bành lên chơi núi, hứa tra xét ruộng đất của nhà chùa, dần dần trở thành chốn danh lam.

 

  1. Bài ca tụng nhân dịp Cô Nhi Viện tại Thượng Hải khánh thành nhà mới

      Giúp đỡ cô nhi, tài cao chót vót. Nếu chẳng cứu giúp, sống bằng cách nào? Đã được nuôi dạy, chánh khí ắt thành. Hoặc là công, thương, học hành, cày cấy, là hiền, là thiện, tốt lành, thuần thục, chăm giữ đạo nghĩa, tuy hèn vẫn vinh. Huống chi chẳng ít anh tuấn lỗi lạc. Do vậy biết rằng: Nuôi dạy cô nhi, lợi ích sâu rộng, lời ông Tử Dư thật đã nghĩ chín, chỉ nguyện người nhân, cùng sẵn từ bi, nhà viện tuy thành, nhu cầu vẫn thiếu, ai nấy ra tay, giúp cho hoàn thành. Thương con của người, con ta ắt nhờ. Hiền thiện tiếp nối, nêu gương cho đời, lợi người, tự lợi, nhân quả như thế, chớ nên chẳng tin. Lời Phật chẳng dối!

 

  1. Ca tụng pháp môn Tịnh Độ thù thắng

      (chỉ do pháp môn này thù thắng mà bà Trí Nghi được vãng sanh)

      Pháp môn Tịnh Độ dạy dỗ không phân biệt, phàm – thánh, trí – ngu đều được bình đẳng nhiếp thọ. Hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, chỉ có mỗi pháp này hoàn toàn cậy vào Phật lực, Phật lực khác biệt tự lực một trời một vực. Tín nguyện ức niệm quyết định sanh về nước Phật. Bao nhiêu người tín niệm, bấy nhiêu người vãng sanh. Phật có lời thệ nguyện, nay đã tỏ lộ dấu hình: Nữ sĩ Trí Nghi tâm niệm Phật tha thiết, niệm chưa được mấy năm đã được Phật đón tiếp. Nguyện người thấy nghe ai nấy chăm chú tu trì, để dự vào hội Liên Trì, vui sướng nào hơn!

 

  1. Ca tụng chuyện sanh Tây của cư sĩ Từ Úy Như

      Cao cả thay ông Từ! Xưa đã trọn đủ huệ căn, hiếu hữu, nhân từ, tận hết bổn phận, trọn vẹn luân thường, nghiêm cẩn tuân theo lời tổ tiên giáo huấn, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tu hạnh niệm Phật, mong sanh cõi Tịnh. Tuổi trung niên tận lực đảm nhiệm việc khắc in kinh điển để nối tiếp huệ mạng của Phật hòng giúp cho cả Mật lẫn Hiển. Thời cuộc chẳng yên, càng ưa – chán thiết tha, nương nguyện về Tây, đại sự giải quyết xong, được Phật thọ ký, liền trở lại Sa Bà, tiếp dẫn khắp hàm thức cùng thân cận Di Đà.

 

  1. Ca tụng đức cao đẹp của ông Sa Tuyết Phảng

      (năm Dân Quốc 22 – 1933)

      Cao cả thay cụ Sa, túc căn rất sâu, hiếu hữu nhân từ, cả làng cùng khâm phục, tuổi đã tám mươi mới tu Tịnh Độ, phát trọn ba tâm, mong sanh Thượng Phẩm, tâm sẵn có, tâm tạo tác, tâm làm, tâm là. Giải lẫn hạnh đều viên dung, Lý – Sự nhất trí. Vì thế, khi lâm chung được an nhiên qua đời, đỉnh đầu ấm, vẻ mặt rạng rỡ, để biểu thị đã thật sự đến được [Cực Lạc].

 

  1. Ca tụng chuyện quy Tây của cư sĩ Khuất Tử Kiến

      (năm Dân Quốc 20 – 1931)

      Phật tâm và chúng sanh tâm, về bản thể vốn chẳng hai. Do nhân duyên mê – ngộ nên [tâm] chẳng khác mà [tướng] thành sai khác. Nếu chịu trái nghịch trần lao, kiêm trì thánh hiệu Phật, hễ được vãng sanh Tây Phương thì sẽ đích thân đến được bờ giác. Cao đẹp thay ông Tử Kiến! Túc căn thật sâu, thác sanh vào gia đình đời đời thiện lương, giữ tấm lòng trung hậu, khoan dung. Chuộng nghĩa, khinh tài, thân – sơ đều bình đẳng quan tâm. Có tư cách lỗi lạc, nhưng chuyên trọng niệm Phật. Tịnh nghiệp đã chín muồi, biết trước lúc nào sẽ đi, quyến thuộc đều nhất tâm niệm Phật tương trợ. Vì thế, được nương nhờ Phật lực vãng sanh cõi Cực Lạc. Di tướng[29] càng thêm rạng rỡ, ai nấy đều khen là lạ lùng, đặc biệt. Các hành nhân đời Mạt muốn thoát khỏi bẫy sanh tử, chỉ có một pháp Niệm Phật là có thể dự vào bậc thánh trong đời này. Nêu toát yếu đại lược hòng lưu lại vĩnh viễn cho con cháu, mong ai nấy đều noi theo đức của người xưa thân cận Di Đà Thế Tôn.

 

  1. Ca tụng đức cao đẹp của cư sĩ Trương Miện Đường

      (năm Dân Quốc 20 – 1931)

      Cao đẹp thay ông Miện Đường! Thừa nguyện thị hiện giáng sanh. Đang trong lúc kiếp nạn ngập trời này, biển cả, đất liền đầy dẫy cọp, kình, nhân dân bị nuốt cắn, phát tâm dẹp cho yên. Do vậy, vào quân ngũ, dùng đức giáo hóa binh lính, lấy nhân nghĩa làm vũ khí, dùng nhân quả làm lũy thành. Phàm đóng quân chỗ nào, tiếng khen ngợi vang rền truyền đến đất Tô. Trừ bạo, an dân lành, hoằng pháp độ hữu tình, ma tà, ngoại đạo đều dẹp yên, Phật nhật được chiếu rạng. Chán nghiệp võ theo nghề văn. Sắt – cầm thường trỗi tiếng. Giảm bớt sự phiền toái trong việc cai trị nên được nhiều lúc rảnh rỗi. Niệm Phật có chương trình nhất định. Dùng móng tay vẽ tượng Tam Thánh, tinh diệu khôn sánh tầy. Phàm có ai thấy nghe, tâm đều hướng về Cực Lạc. “Tâm làm Phật là Phật”, Quán Kinh nghĩa rộng sâu. Sự thế gian, xuất thế, đều lấy gốc nơi lòng thành, nguyện khắp người mọi giới, nghe phong thái đều dấy lòng hành theo, ngõ hầu từ nay trở đi thiên hạ thường thái bình.

 

  1. Ca tụng hạnh cao đẹp của cụ bà họ Từ, mẹ ông Châu

      (năm Dân Quốc 20 – 1931)

      Cao đẹp thay Châu mẫu! Xưa có huệ căn, thờ mẹ nuôi em, tiếng khen rộn xóm làng. Gả về nhà ông Châu, giúp chồng làm điều nhân, sửa đổi nghề nghiệp trước, lòng Từ không ai bằng. Trông nom gia đình, dạy con, buôn bán, làm lành, phàm tính toán những gì đều hợp tình lý, lòng mong lợi lạc, giúp người, tài lẫn pháp cùng thí. Xót thương chỉ dạy, không điều nhỏ nhặt nào chẳng quan tâm đến. Những gì cụ tích tụ [cho riêng mình] suốt cả một đời, chỉ chứa được đầy tráp. Xét về đạo Nho, hạnh của cụ phù hợp với lẽ Đại Đồng, xét nơi đạo Thích, hạnh cụ khế hợp pháp Tứ Nhiếp. Phong thái cao đẹp của hai bà Phi, ba bà Thái vẫn chưa mất; cho nên viết đại lược để nêu gương cho người sau.

 

  1. Ca tụng liệt nữ Trương San Trinh

      Chánh khí trong trời đất, được con người thực hiện rộng rãi. Nam – nữ tuy sai khác, lý này cố nhiên chẳng sai biệt. Do cùng sẵn đủ Phật tánh, tức là cái được gọi là “bỉnh di” (vâng giữ luân thường), nhưng phải khéo mở rộng sự ấy, [muốn] làm thánh hiền phải lấy đó làm nền tảng. Tiếc thay con người trong thời gần đây, cứ coi điều hay là chuyện tệ. Tận lực trừ cho hết sạch phạm vi giữa nam – nữ, gọi luyến ái là cao thượng, coi trinh tiết là tỳ vết! Đúng là muốn cho người trong khắp cõi đời giống hệt như cầm thú. Cao cả thay cô Trương San Trinh! Dẫu chết chí chẳng dời, không được mẹ thông cảm, dùng kéo tự rạch [cổ]. Tuy là con nhà nông, nhưng đáng là điển hình cho nữ giới. Dùng thân phụ trợ Danh Giáo[30], đáng gọi là đại trượng phu. Người tuy đã qua đời, trinh đức chẳng hề mất. Tiếc rằng chưa biết Phật pháp, rốt cuộc khó thoát khỏi bẫy phàm. Nếu sanh được lòng tín nguyện, chí tâm niệm A Di Đà, ắt được Phật tiếp dẫn, vãng sanh ao bảy báu. Thấy Phật nghe diệu pháp, tiến dần lên chứng được Bồ Đề. Đến tận cùng kiếp vị lai, thường làm thầy trời – người.

 

  1. Ca tụng hạnh đẹp của cư sĩ Trình Chí Bằng ở Vụ Nguyên

      (năm Dân Quốc 22 – 1933)

      Sanh trong đời nay mà hành đạo xưa. Nêu gương cho làng ấp. Giữ chí khí, tiết tháo của Liêm Lạc[31]. Tin sâu Phật pháp, chẳng tập tành lỗi lầm “trong lòng tuân phụng ngoài mặt chống trái” [của bọn Trình – Châu]. Nguyện sanh về Liên Bang, lúc mất được cảm ứng đạo giao thù thắng. Ôi! Con người như vậy là trụ đá giữa dòng chảy, là hướng dẫn tốt lành trong đường mê. Do vậy bèn viết đại lược để bảo với người thông sáng đời mai sau.

 

  1. Bài ca tụng nhân dịp minh thọ[32]trăm tuổi của cụ Tề Dữu Nam và Kim phu nhân

      Ông Tề hiếu hữu đức siêu quần, phu nhân càng giúp nêu gương thơm. Chớ bảo bình sinh lo buôn bán, phải biết toàn thân đầy học thức. Học thức ấy thật sự có thể lưu tiếng thơm suốt cả một đời. Tiếc chưa được nghe Phật pháp, ngộ nguồn tâm. May có con cháu vừa hiền vừa hiếu, cầu siêu mong cha mẹ được sanh về cõi trời Cực Lạc. Cực Lạc vui sướng khôn lường! Luôn được đích thân chầu hầu bậc cổ Giác Hoàng[33]. Chứng Vô Sanh Nhẫn nương Bi nguyện, riêng đến cõi này làm thuyền Từ. Thuyền Từ thả trong biển khổ, khiến cho khắp mọi người về Tây bỏ Đông. Đến ngày tự lợi lợi tha đều viên mãn, sẽ trong pháp giới xưng Đại Hùng.

 

  1. Bài tụng hồi hướng cho khắp mọi người trong hiện tại ấn tống và vĩnh viễn lưu truyền Văn Sao

      (năm Dân Quốc 16 – 1927)

      Pháp môn Tịnh Độ là pháp giới tạng, khế cơ và khế lý, thật là vô thượng. Bậc Đẳng Giác đại thánh, kẻ nghịch ác tiểu phàm, Luật – Giáo – Thiền – Mật, đều khắp bao hàm. Mười phương chư Phật hết kiếp tuyên dương vẫn khó nói trọn diệu nghĩa, công huân lạ lùng. Huống chi tôi là kẻ tầm thường phàm tục, ngẫu nhiên nêu tỏ được một hạt bụi trong cõi đất, một giọt nước trong biển cả, thật quá nhỏ nhoi! Tự lượng kém hèn, nếu chẳng phải đức Phật sẽ không thể độ được, cũng có những người cùng chí hướng chỉ chuyên chú nơi chuyện này; do vậy mới có đủ mọi thứ lời lẽ hủ bại. Giãi bày lòng ngu thành, chứ nào phải hoằng dương Tịnh Độ! Do các cư sĩ nghĩ những lời lẽ ấy có lợi cho hàng sơ cơ, ấn hành nhiều lượt để mong [hàng sơ cơ] có chỗ nương tựa. Có ông Diệp Đức Quảng bỏ ra ba ngàn đồng, tính để làm ấn phí mong sách được lưu truyền rộng rãi. Trong tháng Tám, thành Thiểm Tây bị vây hãm, [tình thế] rất đáng buồn, cầu cứu giải vây, liền dùng hết số tiền ấy để cứu đói. Phàm có các thiện sĩ tùy ý quyên góp giúp đỡ, [ấn tống] năm ba ngàn bộ, vẫn gom thành đủ số. Nguyện những người bỏ tiền và những ai đọc tụng đều tiêu trừ nghiệp chướng, tăng cao nền phước, cửa nhà yên vui, thân tâm bình yên, mạnh khỏe, sống dự vào bậc thánh, thác về Tây Phương. Tổ tiên đã khuất, oán thân bao đời, đều nhờ lòng Từ của Phật mà chứng được diệu tâm vốn có. Can qua vĩnh viễn chấm dứt, lễ nghĩa nhân nhượng thịnh hành, nhân dân yên vui, thiên hạ thái bình, trọn báo tứ ân, giúp đều ba cõi, pháp giới chúng sanh cùng chứng Bồ Đề.

 

            Phụ Lục:

      Toa thuốc thần hiệu Bạch Phàn[34] Cứu Mạng

      (Bạch Phàn còn gọi là Minh Phàn hoặc Phàn Thạch)

      Phàm ăn nhầm hà đồn[35] hoặc hết thảy những món độc khác, hoặc do sự việc [trái ngang] bức bách, ý muốn coi rẻ mạng sống, toan tự tận, nuốt nha phiến, tỳ sương, đằng hoàng[36], hết thảy những thứ có thể hủy hoại tạng phủ con người khiến cho con người mất mạng, tức những thứ được đặt tên là độc vật và uống lầm những loại thuốc độc v.v… đều có thể dùng một cục bạch phàn nghiền nát, dùng nước sôi hòa tan, hòa thêm chừng mấy chén nước lạnh, cốt sao nước phèn vẫn giữ được tánh chất, mùi vị chua rít đậm đặc là được. Liền bảo người bị nạn uống mấy chén nước phèn ấy, chưa đầy một khắc đồng hồ, sẽ ói hết sạch những thứ độc vật đã ăn vào, liền bảo toàn được tánh mạng.

      Nếu như ăn phải chất độc thời gian quá lâu, đổ nhiều nước phèn cho lọt vào bụng cũng vẫn có thể cứu chữa được! Dẫu cho tạng phủ đã bị hư hoại, cứu vãn không kịp, cũng không có hại gì. Xét ra, bạch phàn tánh mát, vị chua rít, giải được các chất độc, vì thế rất thích hợp. Cũng có thể dùng bài thuốc này để chữa trị chứng hoắc loạn (bệnh dịch tả). Bài thuốc này do y sĩ Phùng Văn Phù ở Thiên Tân trải hơn mười năm kinh nghiệm, áp dụng trăm lần đều công hiệu, nhiều lần chứng kiến hiệu quả thần kỳ. In toa thuốc lưu truyền rộng rãi ngõ hầu cứu giúp rộng khắp quả thật là dụng tâm của người nhân từ, quân tử, Hơn nữa, bạch phàn ở chỗ nào cũng mua được, giá lại phải chăng. Nguyện người đọc lưu tâm [dùng bài thuốc này] làm phương tiện cứu người, công đức sẽ chẳng thể nghĩ bàn. Liền đem công đức cứu người ấy hồi hướng Tây Phương thì cũng có thể dùng làm duyên tăng thượng thù thắng.

 

            V. Những bài viết khác

 

  1. Lâm chung tam đại yếu (Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung)

      (năm Dân Quốc 19 – 1930)

      Ðiều bi thảm nhất trong thế gian không chi bằng cái chết, nhưng người trong khắp cả cõi đời, không một ai may mắn thoát được! Vì vậy, người có tâm muốn lợi mình lợi người chẳng thể không sớm lo liệu. Thật ra, một chữ CHẾT vốn chỉ là giả danh, do kỳ hạn của quả báo chiêu cảm từ [các nhân] đời trước đã hết nên bỏ tấm thân này rồi lại thọ cái thân khác vậy. Kẻ chẳng biết Phật pháp thì đúng là không tìm được cách gì, chỉ đành mặc cho nghiệp xoay chuyển. Nay đã được nghe pháp môn Tịnh Ðộ phổ độ chúng sanh của đức Như Lai thì phải nên tín nguyện niệm Phật, sắp đặt sẵn tư lương vãng sanh, hầu mong thoát được nỗi khổ luân hồi sanh tử giả huyễn, chứng sự vui Niết Bàn thường trụ chân thật.

      Nếu ai có cha, mẹ, anh, em và các quyến thuộc mắc phải bệnh nặng, bệnh tình khó bề thuyên giảm thì hãy nên phát tâm hiếu thuận, từ bi, khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tây phương và trợ niệm cho họ để mong người bệnh nhờ đó sau khi chết liền được sanh về Tịnh Ðộ. Sự lợi ích như thế làm sao diễn tả được? Nay tôi nêu lên ba điều trọng yếu để làm căn cứ hòng thành tựu sự vãng sanh cho người lâm chung; lời lẽ tuy thô vụng, quê kệch, nhưng ý vốn lấy từ kinh Phật. Gặp được nhân duyên này đều nên làm theo. Ba điều trọng yếu vừa nói đó chính là:

      * Một là khéo chỉ dạy, an ủi, khiến [người sắp mất] sanh chánh tín.

      * Hai là mọi người thay phiên niệm Phật để giúp tịnh niệm [cho người sắp mất].

      * Ba là hết sức tránh dời động, khóc lóc, kẻo làm hỏng việc.

      Nếu có thể tuân theo ba pháp này để hành thì chắc chắn sẽ tiêu trừ được túc nghiệp, tăng trưởng Tịnh nhân (cái nhân để vãng sanh Tịnh Độ), được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây phương. Hễ đã được vãng sanh thì sẽ siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, dần dần tấn tu ắt sẽ đạt tới viên thành Phật quả mới thôi. Sự lợi ích như vậy hoàn toàn nhờ vào sức trợ niệm của quyến thuộc. Có thể làm được như thế mới là chân hiếu đối với cha mẹ, mới thật là chân đễ[37] đối với anh em trai, chị em gái, mới thật là chân từ đối với con cái, mới thật là chân nghĩa, chân huệ đối với bằng hữu và đối với mọi người; dùng những điều ấy để vun bồi cái nhân Tịnh Ðộ của chính mình, khơi gợi lòng tin tưởng của những đồng nhân, lâu ngày chày tháng nào có khó gì mà chẳng tập thành lề thói được. Nay tôi sẽ trình bày từng điều một để chẳng đến nỗi có những điều không thích đáng lúc lâm chung vậy.

 

  1. Ðiều thứ nhất là khéo chỉ bày, an ủi, khiến cho [người sắp mất] sanh chánh tín

      Thiết tha khuyên người bịnh buông xuống hết thảy, [chỉ] nhất tâm niệm Phật. Nếu như cần phải giao phó việc gì thì phải mau giao phó. Giao phó xong thì chẳng đếm xỉa đến nữa, chỉ nghĩ ta nay sắp theo Phật vãng sanh cõi Phật; tất cả sự giàu sang, vui sướng, quyến thuộc thế gian, các thứ trần cảnh đều là chướng ngại, thậm chí khiến ta mắc hại. Vì thế, chẳng nên sanh một niệm quyến luyến, vướng mắc. Phải biết: Một niệm chân tánh của chính mình vốn chẳng có chết. Sự chết vừa mới nói đó chỉ là xả thân này để lại thọ cái thân khác mà thôi! Nếu chẳng niệm Phật thì sẽ phải thuận theo nghiệp lực thiện, ác để lại thọ sanh trong nẻo lành, đường dữ (Đường lành là trời – người. Đường ác là súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. A Tu La vừa gọi là đường lành vừa gọi là đường ác vì họ tu nhân cảm quả đều là thiện – ác xen tạp). Nếu như trong lúc lâm chung, nhất tâm niệm Nam Mô A Di Ðà Phật thì do tâm niệm Phật chí thành ấy, ắt quyết định cảm được Phật dấy lòng từ bi lớn lao, đích thân tiếp dẫn khiến cho ta được vãng sanh.

      Thêm nữa, đừng nghi rằng: Ta là nghiệp lực phàm phu, chỉ do niệm Phật trong một thời gian ngắn sao lại có thể thoát khỏi sanh tử, vãng sanh Tây phương? Nên biết rằng: Vì đức Phật đại từ bi nên dẫu là kẻ tội nhân Thập Ác, Ngũ Nghịch rất nặng, lúc lâm chung tướng địa ngục đã hiện ra, mà nếu có thiện tri thức dạy cho niệm Phật bèn niệm mười tiếng hoặc chỉ một tiếng thì cũng được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây phương. Hạng người ấy chỉ niệm mấy câu còn được vãng sanh, sao còn cho rằng ta nghiệp lực nặng nề, niệm Phật ít ỏi rồi sanh lòng nghi ư? Phải biết: Chân tánh vốn sẵn có của chúng ta và chân tánh của Phật chẳng hai; chỉ vì ta Hoặc nghiệp sâu nặng nên chẳng thọ dụng được! Nay đã quy mạng nơi Phật như con nương về với cha, chính là trở về với quê nhà ta vốn sẵn có, chứ nào có phải là điều gì ra ngoài khả năng của ta đâu! Hơn nữa, xưa kia, đức Phật đã phát nguyện: “Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu của ta mà chí tâm tin ưa, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng được vãng sanh thì chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Vì thế, hết thảy chúng sanh lúc lâm chung phát tâm chí thành niệm Phật cầu sanh về Tây phương thì không một ai là chẳng được Ngài rủ lòng Từ tiếp dẫn. Ngàn vạn phần chẳng được hoài nghi nữa! Hoài nghi tức là tự mình lầm lạc, họa ấy chẳng nhỏ đâu!

      Huống hồ, lìa khỏi thế giới khổ não này sanh về thế giới vui vẻ kia là chuyện hết sức sung sướng, hãy nên sanh tâm hoan hỷ, ngàn vạn phần chẳng được sợ chết! Dẫu sợ chết vẫn chẳng thể không chết, lại còn đâm ra mất phần vãng sanh Tây phương nữa, vì tâm mình trái với tâm Phật rồi! Dẫu Phật sẵn lòng đại từ bi cũng không làm thế nào được đối với chúng sanh chẳng nương theo lời dạy của Phật! Vạn đức hồng danh của Phật A Di Ðà giống như lò luyện lớn lao; tội nghiệp trong nhiều kiếp của chúng ta như một mảnh tuyết trong hư không. Nghiệp lực phàm phu do bởi niệm Phật nên nghiệp liền tiêu diệt, giống như mảnh tuyết ở gần bên lò lửa lớn liền bị tiêu hết chẳng còn gì nữa. Vả lại, huống chi nghiệp lực đã tiêu thì bao nhiêu thiện căn sẽ tự nhiên tăng trưởng thù thắng; sao lại còn ngờ chẳng được vãng sanh và Phật chẳng đến tiếp dẫn nữa ư?

      Mềm mỏng, uyển chuyển chỉ dạy, an ủi như thế thì người bệnh sẽ có thể tự sanh tâm chánh tín. Ðấy chính là những điều chỉ dạy cho người bệnh. Còn như những việc chí thành, tận hiếu mà ta phải nên làm thì cũng chỉ chú trọng ở những điểm ấy; chớ nên thuận theo thói tục van cầu thần thánh, tìm thầy chạy thuốc. Mạng lớn đã sắp hết thì làm sao quỷ thần, thuốc men giữ cho người ấy khỏi chết được! Nếu đã nhọc lòng vì những sự vô ích như thế thì lòng thành khẩn đối với một sự niệm Phật sẽ bị xen tạp, không cách gì cảm thông [đức Phật] được! Nhiều kẻ lúc cha mẹ lâm chung chẳng tiếc tiền của, mời khá nhiều thầy thuốc đến khám. Ðấy gọi là mua tiếng hiếu, muốn được người đời khen ta tận hiếu đối với cha mẹ; nào hay trời đất, quỷ thần thật sự xét soi [tường tận] nỗi lòng. Vì vậy, đối với những sự thuộc về chuyện tống táng cha mẹ mà quá sức phô trương thì nếu chẳng mắc thiên tai ắt cũng bị nhân họa. Kẻ làm con chỉ nên chú trọng những gì thần thức của cha mẹ đạt được! Lời xưng tụng của người đời cố nhiên chẳng đáng cho kẻ sáng mắt nhếch mép cười, lẽ đâu lại dốc lòng mong mỏi, thật chỉ khiến cho ta mắc phải cái lỗi bất hiếu to lớn mà thôi!

 

  1. Thứ hai là mọi người thay phiên niệm Phật để giúp tịnh niệm [cho người chết]

      Trước đó, đã chỉ dạy người bệnh khiến cho kẻ ấy sanh chánh tín; nhưng vì người bịnh tâm lực yếu ớt, đừng nói chi hạng người lúc còn khỏe mạnh chưa bao giờ niệm Phật, chẳng dễ gì niệm liên tục lâu dài được, ngay cả người chuyên trọng niệm Phật đến lúc ấy cũng hoàn toàn nhờ vào người khác trợ niệm thì mới có thể hữu hiệu. Vì vậy, quyến thuộc trong nhà hãy nên cùng nhau phát tâm hiếu thuận, từ bi, vì người ấy trợ niệm Phật hiệu. Nếu bệnh tình còn chưa đến nỗi sắp chết vào bất cứ lúc nào thì nên chia ban niệm Phật. Nên chia thành ba ban, mỗi ban hạn định mấy người. Ban đầu tiên niệm Phật ra tiếng, ban thứ hai và thứ ba niệm thầm. Niệm một tiếng đồng hồ thì ban thứ hai niệm tiếp; ban thứ nhất, ban thứ ba niệm thầm. Nếu có chuyện nhỏ thì nên lo liệu trong lúc niệm thầm; còn trong lúc trực ban trọn chẳng nên bỏ đi. Ban thứ hai niệm xong, ban thứ ba niệm tiếp. Xong rồi liền trở lại từ đầu. Niệm một tiếng, nghỉ hai tiếng; [như vậy thì niệm] suốt cả ngày đêm thì cũng không mệt nhọc lắm.

      Phải biết: Chịu giúp người đạt được Tịnh niệm vãng sanh thì cũng sẽ được hưởng quả báo có người trợ niệm. Chớ có nói “chỉ vì cha mẹ nên mới phải tận hiếu như vậy”, đối với người dưng cũng nên vun bồi ruộng phước của chính mình, trưởng dưỡng thiện căn của chính mình thì mới đúng là cái đạo tự lợi, chứ chẳng phải chỉ vì người khác mà thôi! Thành tựu một người được vãng sanh Tịnh Ðộ chính là thành tựu một chúng sanh làm Phật. Công đức như thế há thể nghĩ lường được ư?

      Ba ban liên tục, tiếng niệm Phật chẳng ngớt. Nếu sức bệnh nhân niệm được thì nương theo đó niệm nho nhỏ theo. Chẳng thể niệm nổi thì lắng tai nghe kỹ, tâm không có niệm gì khác thì tự có thể tương ứng với Phật vậy. Tiếng niệm Phật chẳng nên quá to; niệm to sẽ hao hơi, khó niệm lâu được; cũng chẳng thể quá nhỏ khiến cho bệnh nhân nghe chẳng rõ. Chẳng nên niệm quá mau, cũng chẳng nên quá chậm. Quá mau bệnh nhân niệm theo chẳng nổi, dẫu có lắng nghe [tiếng niệm] cũng khó nghe rõ. Quá chậm thì chẳng tiếp hơi nổi nên cũng khó có ích. Nên niệm chẳng lớn tiếng, chẳng nhỏ tiếng, chẳng rề rà, chẳng gấp gáp; từng chữ phân minh, từng câu rành mạch khiến cho từng chữ, từng câu lọt tai thấu dạ bịnh nhân; như vậy thì dễ có sức [niệm theo]. Đối với pháp khí dùng để niệm Phật, chỉ nên dùng dẫn khánh, hết thảy các thứ khác nhất loạt chẳng nên dùng. Tiếng dẫn khánh trong trẻo khiến tấm lòng người nghe thanh tịnh. Tiếng mõ trầm đục chẳng thích hợp cho việc trợ niệm khi lâm chung.

      Lại nữa, nên niệm Phật hiệu gồm bốn chữ. Lúc bắt đầu thì niệm vài câu sáu chữ; rồi sau đó chuyên niệm bốn chữ A Di Ðà Phật, chẳng niệm Nam Mô. Do ít chữ dễ niệm nên bệnh nhân sẽ niệm theo được hoặc nhiếp tâm lắng nghe, đều đỡ tốn tâm lực. Quyến thuộc trong nhà niệm như vậy mà thỉnh thiện hữu bên ngoài đến thì cũng niệm như vậy. Dù nhiều người hay ít người đều phải niệm như thế, chẳng nên niệm một chốc lại ngưng nghỉ, rồi lại niệm khiến cho bịnh nhân niệm Phật gián đoạn. Nếu gặp lúc ăn cơm thì nên ăn vào lúc thay phiên, đừng ngớt tiếng niệm Phật. Nếu như lúc bịnh nhân sắp tắt hơi thì cả ba ban nên cùng niệm cho đến tận sau khi đã tắt hơi hẳn rồi mới lại chia ba ban niệm suốt ba tiếng đồng hồ nữa. Sau đấy, mới ngưng niệm để lo liệu, sắp đặt mọi việc.

      Trong lúc niệm Phật, chẳng để cho bè bạn đến trước bệnh nhân thăm hỏi, vỗ về. Ðã có lòng đến thăm thì hãy theo đại chúng niệm Phật mấy thời. Ấy mới là tấm lòng yêu mến chân thật, có ích cho bịnh nhân. Còn nếu cứ theo thói tục thường tình thì chính là đã xô người ta xuống biển. Tình ấy tuy đáng cảm, nhưng [để xảy ra] sự ấy thật đáng đau đớn. Toàn là cậy vào người chủ chốt hiểu rõ đạo lý, bảo trước với người [đến thăm] để khỏi tổn thương tình cảm, lại khỏi gây hại cho bệnh nhân bị phân tâm chẳng được vãng sanh vậy.

 

  1. Thứ ba là kiêng dè dời động, khóc lóc để khỏi làm hỏng đại sự

      Lúc người bệnh sắp chết chính là lúc phân biệt giữa thánh, phàm, người, quỷ, [tình trạng khác nào] ngàn cân [treo] đầu sợi tóc; quan trọng cùng cực! Chỉ nên dùng Phật hiệu để chỉ dạy thần thức của người ấy, trọn chẳng nên tắm rửa, thay áo, hoặc dời chỗ nằm. Mặc kệ [người ấy] nằm – ngồi như thế nào, cứ để yên người đó trong tư thế ấy, chẳng nên dời động chút nào. Cũng chẳng nên đối trước [người ấy] mà lộ vẻ buồn bã, thương xót, hoặc đến nỗi khóc lóc. Vì khi đó [người sắp chết] thân chẳng tự chủ được; hễ lay động là toàn thân lẫn chân tay đều bị đau đớn như bị bẻ, chặt, giằng xé. Hễ đau đớn thì sanh tâm sân hận nên [tâm] niệm Phật bị ngưng dứt. Mang tâm sân hận ra đi, phần nhiều bị đọa vào độc loại (những loài vật hung dữ, độc địa như rắn, bò cạp, rết…), đáng sợ hãi quá sức! Nếu [người sắp chết] thấy [thân quyến] đau đớn, khóc lóc thì tâm mến luyến phát sanh nên [tâm] niệm Phật cũng bị ngừng nghỉ. Vì mang tâm ái luyến mà ra đi nên đến nỗi đời đời, kiếp kiếp chẳng được giải thoát.

      Lúc ấy, có lợi nhất thì không gì bằng nhất tâm niệm Phật; điều gây hại nhất không chi bằng vọng động, khóc than. Nếu như vọng động, khóc than đến nỗi [người chết] sanh lòng sân hận hay mến luyến thì dẫu có muốn sanh Tây phương, cả vạn trường hợp cũng chẳng được một!

      Thêm nữa, người sắp chết hơi nóng rút từ dưới rút lên trên là tướng siêu thăng, còn [hơi nóng] từ trên rút xuống dưới là tướng đọa lạc. Vì vậy, có thuyết:

      Ðảnh thánh, nhãn thiên sanh

Nhân tâm, ngạ quỷ phúc

Súc sanh tất cái ly,

Ðịa ngục cước bản xuất

      Nhưng nếu mọi người chí thành trợ niệm thì [người chết] ắt tự có thể sanh thẳng về Tây phương; chẳng nên thăm dò nhiều lượt khiến cho khi thần thức [người chết] chưa rời [khỏi xác], có thể sẽ do bị kích thích như vậy mà tâm sanh phiền đau nên chẳng được vãng sanh. Lỗi lầm ấy thật là vô lượng vô biên. Xin các thân hữu ai nấy đều khẩn thiết niệm Phật, chẳng cần thăm dò hơi nóng cuối cùng bị lạnh đi ở chỗ nào. Kẻ làm con hãy nên lưu tâm điều này mới là hiếu thật sự. Nếu cứ thuận theo các tình cảm thông tục trong thế gian thì chính là xô người thân xuống biển khổ chẳng thương xót, mong một lũ vô tri vô thức xúm lại khen ngợi ta đã tận hiếu! Hiếu như vậy thì có khác chi là tình yêu của La Sát Nữ!

      Kinh dạy: “La Sát Nữ ăn thịt người, bảo: ‘Vì ta yêu ngươi nên ăn thịt ngươi!’ Kẻ vô tri kia thể hiện lòng hiếu khiến cho người thân mất vui bị khổ, há chẳng phải là giống hệt cái tình yêu người của La Sát Nữ hay sao? Tôi nói ra lời này, chẳng phải là không đếm xỉa tình người, chỉ là muốn cho ai nấy đều xét rõ sự thực, cốt sao người chết vãng sanh, kẻ còn sống được phước, để thỏa tấm lòng thành sắt son của con hiền, cháu thảo thương yêu người thân, chẳng ngờ lời lẽ dường như quá khích. Người thương yêu cha mẹ thật sự ắt sẽ lượng thứ cho.

      Thuyết: Ðảnh thánh, nhãn sanh thiên… là nói về khi người đã tắt hơi, toàn thân đã lạnh, chỉ còn đảnh đầu ấm thì ắt là siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nhãn sanh thiên là nếu mắt và trán còn nóng thì sanh trong thiên đạo. Riêng chỗ ngực còn ấm thì sanh vào nhân đạo. Riêng bụng còn nóng thì sanh trong ngạ quỷ đạo. Riêng đầu gối còn nóng thì sanh trong súc sanh đạo. Riêng bàn chân còn nóng thì sanh địa ngục đạo. Ðấy là do hai nghiệp thiện, ác đã tạo của người ấy lúc còn sống đến giờ đây cảm hiện như thế, chứ chẳng thể dựa vào thế lực nào để làm giả ra như vậy được. Khi đó, nếu bệnh nhân có thể chí thành niệm Phật, lại thêm sức của quyến thuộc và bạn lành trợ niệm chắc chắn có thể đới nghiệp vãng sanh, siêu phàm nhập thánh vậy. Chẳng cần phải để ý thử sờ xét nghiệm, đến nỗi làm hỏng việc! Mong mỏi lắm thay!

     

  1. Tịnh Độ Chỉ Yếu (Chỉ bày những điều trọng yếu trong pháp môn Tịnh Độ)

      (năm Dân Quốc 20 – 1931)

      Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp suốt cả một đời đức Như Lai, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn. Bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được, tội nhân nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà thoát khỏi luân hồi; ngay trong một đời này quyết định lên cõi Phật! Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, bỏ pháp môn này làm sao yên được? Phàm những ai tu Tịnh nghiệp thì điều thứ nhất là phải giữ tịnh giới nghiêm ngặt; điều thứ hai là phải phát Bồ Đề tâm; điều thứ ba là phải đầy đủ lòng tín nguyện chân thật.

      Giới là cơ sở, nền tảng của mọi pháp, Bồ Đề tâm là chủ soái của tu đạo, tín nguyện nhằm dẫn đường cho việc vãng sanh. Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín – Nguyện – Hạnh làm tông: Không tin sao có thể phát nguyện cho được? Không có nguyện làm sao khởi hạnh? Không có diệu hạnh trì danh, làm sao chứng điều đã tin, mãn điều đã nguyện cho được? Được vãng sanh hay không hoàn toàn là do có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn do trì danh sâu hay cạn! Tín – Nguyện – Hạnh như ba chân của cái đỉnh, thiếu một sẽ đổ nhào.

      Nếu chẳng chú trọng tín nguyện, chỉ mong trì danh cho đạt được nhất tâm, dẫu đạt được nhất tâm sâu xa, cũng khó thể liễu sanh thoát tử! Vì sao vậy? Do Phiền Hoặc chưa hết sạch, chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh tử được. Tín nguyện đã không có, chẳng thể cậy vào Phật lực để liễu sanh tử! Đời có kẻ ham cao chuộng xa, thường phô phang tự lực, miệt thị Phật lực; chẳng biết từ sống đến chết không chuyện gì chẳng cậy vào sức người khác nhưng chẳng lấy đó làm thẹn, sao riêng đối với đại sự liễu sanh tử và Phật lực lại chẳng muốn tiếp nhận, [chắc là] mất trí điên khùng nên mới đến nỗi như vậy! Hành giả Tịnh tông hãy nên thống thiết răn dè!

      Đối với pháp tắc tu trì, hãy nên thường như con nhớ mẹ, đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng, qua lại, một câu Phật hiệu miên miên mật mật! [Dẫu gặp] bất cứ sự duyên nào cũng chẳng để cho gián đoạn, nhiếp trọn sáu căn tịnh niệm tiếp nối. Người làm được như thế chắc chắn vãng sanh! Lại phải nên tâm niệm nhân từ, rộng lượng, tánh khí khiêm nhường, thuận thảo, nhẫn được những điều người khác chẳng thể nhẫn, hành được những điều người khác chẳng thể hành, chịu cực nhọc thế cho người khác, thành tựu điều tốt đẹp cho người ta. Thường nghĩ mình sai quấy, đừng bàn lỗi của kẻ khác! Bậc Đẳng Giác Bồ Tát trong mười hai thời lễ mười phương Phật để sám trừ túc nghiệp, huống là kẻ còn đang trong địa vị phàm phu! Hãy nên thường hổ thẹn, nào dám ỷ y! Nếu ỷ y, dẫu có tu trì thảy đều thuộc về ma nghiệp. Con người như thế chớ nên thân cận, để khỏi đến nỗi lâu ngày đều bị biến đổi giống như họ.

      Phải vâng giữ chắc tông chỉ, chẳng bị xoay chuyển bởi kinh giáo và lời lẽ của thiện tri thức rồi bỏ pháp này tu pháp khác. Pháp môn này chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu xuất; hết thảy hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này. Vì thế, [pháp này] được chín giới cùng hướng về, mười phương chung khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận cùng tuyên nói. Bọn ta là hạng mạt học sao lại lập dị, tự chuốc lấy tội khiên tự lầm, lầm người ư? Nguyện hãy suy nghĩ sâu xa, xin hãy suy nghĩ sâu xa!

 

  1. Trình bày ý nghĩa ẩn kín nơi cuốn Hành Dư Nhật Khóa của Lâm Văn Trung Công

      (năm Dân Quốc 23 – 1934)

      Xem cặn kẽ khắp những bậc đại trung đại hiếu thuở xưa, lập đại công, dựng đại nghiệp, đạo che trùm thời ấy, đức thấu đến hậu thế, hạo khí lấp trời đất, lòng tinh trung mờ nhật nguyệt đều do học Phật đắc lực mà ra. Những nhà Nho trong cõi đời chẳng biết gốc đạo, chỉ thấy được dấu vết đã bộc lộ, chẳng biết đến cội nguồn của cái tâm, khiến cho cái gốc bị ẩn kín chẳng hiển lộ, tiềm tàng chẳng tỏ rõ. Do những Nho sĩ câu nệ thường đố kỵ Phật, nên [những vị danh nhân] phần nhiều chú trọng tiềm tu mật chứng, chẳng tự bộc lộ. Nếu xét kỹ hành vi của bọn họ, ắt sẽ có những điểm chẳng thể giấu được. Nếu con cháu chẳng đầy đủ chánh tri kiến ắt chỉ sợ bị kẻ tục Nho chê cười, nên cũng chẳng chịu xiển dương. Do nhân duyên này, khiến cho tiềm đức u quang[38] ẩn mất không được nghe đến nhiều lắm!

      Trong bộ Cựu Đường Thư[39], phàm những sự tích về Phật pháp và ngôn luận trao đổi giữa các bậc sĩ đại phu và cao tăng đều được chọn lọc những điều trọng yếu để ghi chép lại. Âu Dương Tu soạn bộ Tân Đường Thư[40] đã gạt bỏ hơn hai ngàn điều. Bộ Ngũ Đại Sử[41] cũng vậy. Ấy là do chỉ sợ thiên hạ đời sau biết Phật pháp hữu ích cho thân tâm tánh mạng, cho nền chánh trị của nước nhà, rồi sẽ học theo! Những sử quan khác đa phần thuộc loại tri kiến hẹp hòi câu nệ ấy. Vì vậy, sự tiềm tu mật chứng của những bậc đại nhân xưa kia đều chẳng được biết đến!

      Văn Trung Công Lâm Tắc Từ học vấn, trí thức, chí khí, tiết tháo, trung nghĩa đều ít thấy trong đời Thanh trước kia. Tuy bận bịu việc nước, ông chẳng hề gián đoạn việc tu trì Tịnh nghiệp chút nào vì học Phật chính là căn bản của học vấn, chí khí, tiết tháo, trung nghĩa vậy. Đã có được căn bản này thì ứng xử đều thích đáng, xử sự đều hợp lẽ. Đấy chính là nguyên do vì sao bậc đại nhân đời xưa vượt trỗi những hạng tầm thường. Một bữa nọ, chắt của Văn Trung Công là ông Tường, tự là Bích Dư, đưa cho tôi xem cuốn kinh gồm các bài kinh chú Di Đà, Kim Cang, Tâm Kinh, Đại Bi do Văn Trung Công đã đích thân viết, trang bìa ghi “Tịnh Độ Tư Lương”. Trên mặt cái hộp đựng sách đề Hành Dư Nhật Khóa (Khóa tụng hằng ngày trong lúc ngồi xe).

      Đủ biết Văn Trung Công ngầm tu pháp môn Tịnh Độ, tuy ra vào, đi lại, vẫn chẳng chịu bỏ phế. Do dùng để trì tụng lúc đi xe, cuốn kinh ấy chỉ dài khoảng bốn tấc, rộng ba tấc. Chữ viết cung kính, mực thước, không một nét bút nào cẩu thả, đủ thấy lòng cung kính, chí thành của ông, chẳng dám coi thường, chểnh mảng chút nào! Bản kinh ấy mỗi trang gồm sáu hàng, mỗi hàng gồm mười hai chữ. Bích Dư sợ thủ bút của tiên nhân lâu ngày bị mất đi, liền cho sắp xếp thành sách in theo lối thạch bản để mong được lưu truyền trong nhân sĩ các giới, ngõ hầu [mọi người] đều biết Văn Trung Công suốt đời tu trì, cốt sao ai nấy gặp việc nhân chẳng nhường, thấy người hiền mong được bằng. Do vậy, sẽ cùng mong vượt ngũ trược lên chín phẩm. [Ông Bích Dư] sai Quang lược thuật nguyên ủy, Quang từ bé đã nghe danh ngưỡng vọng Văn Trung Công, nay biết ông tu trì nghiêm mật như thế, thật có thể nói là bậc thừa nguyện tái lai, hiện thân tể quan để thuyết pháp. Nguyện những người thấy nghe sẽ nhất trí tiến hành, cùng noi theo vết chân thì quốc gia may mắn lắm, mà nhân dân cũng may mắn lắm thay.

 

  1. Nêu tỏ ý nghĩa giáo dục trong gia đình là căn bản khiến cho thiên hạ thái bình

      (năm Dân Quốc 27 – 1938)

      Đời đã loạn đến cùng cực rồi, ai nấy đều mong mỏi bình trị nhưng chẳng biết cội gốc thì có mong cầu cũng uổng công! Hãy nên gấp biết cái gốc nằm ở đâu! Sự dạy dỗ của người mẹ trong gia đình chính là căn bản khiến cho hiền tài được dấy lên đông đảo, thiên hạ thái bình. Chẳng chú trọng nơi ấy, làm sao đạt được bình trị? Mẹ dạy dỗ thì thứ nhất là thai giáo. Thai giáo chính là dạy dỗ về bẩm tánh, phẩm chất từ thuở đầu. Phàm nữ nhân sau khi có thai, hãy chú trọng suy nghĩ, tưởng niệm, xử sự sao cho chỉ một bề chân thành, cẩn trọng. Nhất cử nhất động chẳng trái lẽ chánh. Nhất là phải nên vĩnh viễn dứt trừ những món tanh tưởi, hằng ngày thường niệm Phật khiến cho thai nhi được bẩm thụ chánh khí của mẹ, thì lúc sanh nở ắt được yên vui không khổ sở, sanh được đứa con tướng mạo đoan nghiêm, tánh tình từ thiện, thiên tư thông minh.

      Đến lúc con bắt đầu hiểu biết, liền nói cho nó nghe về đạo lý làm người, như hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ v.v… và tội phước nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo chuyển biến, khiến cho trong tâm nó thường luôn có những điều kiêng sợ, có những điều mong mỏi, hâm mộ. Lại dạy nó niệm Phật, niệm Quán Thế Âm để mong tăng phước, tăng thọ, tránh tai, tránh nạn. Chẳng cho phép nó nói lời dối trá, nói lời thị phi, đánh người, chửi người, chẳng cho nó giẫm đạp giấy có viết chữ, giẫm đạp ngũ cốc, giẫm đạp hết thảy các món đồ vật. Chẳng cho nó ăn uống bừa bãi, chẳng cho nó tụ tập chơi giỡn cùng bọn trẻ cùng xóm. Hơi lớn lên, bèn dạy nó đọc thuộc sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, Văn Xương Âm Chất Văn, Quan Đế Giác Thế Kinh, để cho nó biết có khuôn pháp để noi theo, có những điều ngăn cấm. Đối với mỗi điều đều nói sơ lược đại ý để làm phương tiện hướng dẫn hòng mai sau nó học hành sẽ được lợi ích.

      Lúc bé như thế, càng học hành sẽ càng hiền thiện, lo gì nó chẳng đạt đến địa vị thánh hiền, rạng mày nở mặt tổ tông! Nếu không, cứ mặc cho nó quen thói kiêu căng, nuôi thành phường bại hoại, dẫu có thiên tư cũng chẳng biết học hành là để học làm thánh hiền nên càng học càng thêm tồi bại! Những kẻ đại gian đại ác xưa nay đều là những kẻ có thiên tư tốt đẹp, có bản lãnh lớn lao, chỉ vì cha mẹ, thầy giáo của chúng đều chẳng biết dạy chúng học thành thánh hiền, tận lực thực hiện, chỉ dạy bọn chúng học văn tự để làm căn cứ hòng đối phó với đời, mưu cầu lợi lộc, trí thức hèn tệ đến tột cùng, đến nỗi những thảm kịch phế kinh điển, phế luân thường, tranh thành giành đất tàn sát lẫn nhau ồ ạt diễn ra. Mối họa loạn ấy đều do cha mẹ, thầy giáo chẳng biết phương cách dạy dỗ con em mà ra. Dù chính họ chẳng làm điều ác lớn lao nào, nhưng cái tội hoại loạn thế đạo nhân tâm cũng sẽ khiến cho họ đời đời kiếp kiếp cùng chịu ác báo giống như con em!

      Vì thế, tôi nói: “Dạy con là căn bản khiến thiên hạ thái bình, nhưng dạy con gái càng quan trọng hơn nữa” do con người thuở thơ ấu chuyên cậy vào mẹ dạy dỗ. Cha chẳng thể thường ở trong nhà, còn mẹ thường chẳng rời con. Nếu mẹ hiền lương, có trí huệ thì hành vi, lời lẽ đều đáng làm gương, [con cái] thấy nghe quen mắt, trong tâm đã thành nề nếp, lại do thường xuyên răn dạy, đã tập quen thành tánh như vàng lỏng đúc thành đồ dùng, nếu cái khuôn đúc tốt đẹp, chắc chắn chẳng đến nỗi đúc ra vật xấu xí! Vì thế, dạy dỗ con gái so ra càng khẩn yếu hơn dạy con trai. Bởi lẽ, hiền mẫu do hiền nữ mà có, nếu không có hiền nữ, làm sao có hiền mẫu cho được? Không có hiền mẫu thì lại làm sao có được con cái hiền lương cho được?

      Đạo lý cực bình thường ấy ai cũng đều có thể làm được! Điều đáng đau tiếc là quá ít người đề xướng khiến cho những kẻ làm mẹ chỉ biết nuông chiều mù quáng, những kẻ làm cha cũng chẳng khéo dạy. Đến khi con vào trường học hành, kẻ làm thầy cũng do thuở bé chẳng nghe được nghĩa lý này, vì thế cũng trọn chẳng biết học hành là để học làm thánh hiền, chẳng dạy học trò tận tụy thực hành đạo do thánh hiền đã nói, chỉ học văn tự hòng mưu cầu lợi lộc, chẳng hề biết học làm thánh hiền có lợi ích không chi lớn hơn, chính bản thân mình và con cháu đời đời kiếp kiếp hưởng dùng chẳng hết. Còn mưu cầu lợi lộc, nếu mưu cầu một cách tốt đẹp thì chẳng qua đạt được phú quý nhỏ nhoi trong đời này mà thôi! Nếu mưu cầu xấu xa, trong đời này những kẻ thân bại danh liệt, con chết yểu, cháu tuyệt diệt đâu đâu cũng có!

      Con người cùng trời đất được gọi là Tam Tài là vì có công năng “dùng tiên giác để giác ngộ kẻ hậu giác, kế tục bậc thánh đời trước, mở lối cho người học đời sau”; do vậy mới được tôn xưng như thế. Nếu chẳng chú trọng học làm thánh hiền sẽ là thây đi thịt chạy, chỉ biết niềm vui ăn uống, trai gái, còn khác gì cầm thú nữa đâu? Một chữ “người” còn là mạo danh, há còn có thể cùng với trời đất xưng là Tam Tài nữa ư? Nhưng con người tánh vốn lành, ai nấy đều có thể làm Nghiêu – Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật, nhưng kẻ chẳng thể làm Nghiêu – Thuấn, chẳng thể thành Phật thì chỉ có tánh đức, trọn chẳng có tu đức “đánh đổ lòng ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, dứt lòng tà, giữ lòng thành và tu Giới – Định – Huệ, đoạn tham – sân – si”. Tu đức ấy lúc ban đầu là do cha mẹ hiền, sư trưởng khơi gợi vậy, kế tiếp là do chính mình khăng khăng nỗ lực tu trì. Dẫu chưa thể đạt đến địa vị Nghiêu – Thuấn hay địa vị Phật, nhưng đã khác hẳn một trời một vực với kẻ hạ ngu hằng ngày chôn vùi trong nhân dục rồi!

      Kinh Thư chép: “Duy thánh võng niệm tác cuồng, duy cuồng khắc niệm tác thánh” (Chỉ vì thánh đánh mất niệm mà thành cuồng, chỉ vì kẻ cuồng khắc chế được ý niệm mà thành thánh). Kinh dạy: “Hễ mê thì Phật chính là chúng sanh, ngộ rồi thì chúng sanh chính là Phật”. Ta may mắn có căn cơ làm Nghiêu – Thuấn, thành Phật, là trang nam tử hào hùng, há chịu bỏ mặc cho tánh đức này bị vùi lấp trong nhân dục, vĩnh viễn làm chúng sanh hạ ngu trầm luân trong biển khổ ư? Nguyện những người làm cha mẹ, làm sư trưởng, làm con cái, làm học trò trong cõi đời ai nấy đều gắng sức thì nước ta thật may mắn mà toàn cầu cũng may mắn lắm thay!

 

  1. Nêu tỏ ý nghĩa ẩn tàng của Phật Quang Phân Xã tại Xung Điền, Vụ Nguyên

      (năm Dân Quốc 20 – 1931)

      Phật quang là tâm quang. Tâm quang ấy chúng sanh và Phật đều cùng có, bình đẳng giống hệt như nhau, nơi Phật chẳng tăng thêm, nơi chúng sanh chẳng giảm bớt. Vì thế, lúc mới thành Chánh Giác, đức Thế Tôn than thở sâu xa: “Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì chưa ngộ nên chẳng tránh khỏi biến trí huệ đức tướng ấy thành vô minh nghiệp thức, mê tâm đuổi theo cảnh, trái giác hiệp trần, ví như đi mãi trong đêm dài, chẳng thấy được đường chánh, chẳng va tường đụng vách thì cũng đọa hầm sụp hố, luân hồi lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra!” Đức Như Lai thương xót, thị hiện giáng sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi, diễn nói các pháp, chỉ dạy thể tướng của nhất tâm, nói ra nhân quả ba đời, pháp thế gian lẫn xuất thế gian không gì chẳng trọn khắp.

      Lại muốn lợi lạc khắp ba căn nên đặc biệt mở ra một môn Tịnh Độ, ngõ hầu hết thảy dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương hòng siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, đích thân chứng được tâm quang mà Phật và chúng sanh đều cùng có, cũng như [chứng được] tánh thể vô lượng quang thọ. Lại còn rủ lòng từ tiếp dẫn đến tột cùng đời vị lai, ngõ hầu pháp giới chúng sanh đều được đẫm Phật quang, cùng chứng tâm quang. Quang quang chiếu sáng lẫn nhau, thành một thế giới Thường Tịch Quang mới thôi! Đấy chính là cội nguồn của việc cư sĩ Dịch Viên lập ra Phật Quang Xã.

      Còn những gì được đề xướng trong liên xã thì trọn chẳng lập ra cách thức sai khác, tức là ai nấy đều dốc tâm thực hiện ngay trong những cư xử thường ngày của chúng ta, có nghĩa là “cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành”, mỗi mỗi đều nghiêm túc trọn hết bổn phận. Như thế thì chính là người lành “chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Hơn nữa, trong khi đi lại, nói năng, làm lụng, đi, đứng, nằm, ngồi, [luôn luôn] chấp trì một câu thánh hiệu A Di Đà Phật, dùng vạn đức hồng danh của Phật để hun đúc nghiệp thức vô minh của chính mình, hun đúc lâu ngày thì vô minh nghiệp thức ấy sẽ biến thành trí huệ đức tướng. Thanh Lương quốc sư nói: “Phàm phu cắm cúi niệm Phật, niệm đến cùng cực sẽ có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu”, chính là nói về điều này vậy. Huống chi dùng lòng tin sâu đậm, nguyện thiết tha để cảm Phật, Phật sẽ dùng thệ nguyện từ bi nhiếp thọ; do đó được cảm ứng đạo giao, vạn người tu vạn người về. Lòng từ của đức Như Lai, sự nhiệm mầu của pháp môn không chi hơn được! Nếu không có túc căn sẽ chẳng thể gặp gỡ!

      Cư sĩ [Giang] Dịch Viên đã đạt được lợi ích sâu xa, lại còn khuyên dạy người trong ấp cùng tu pháp này. Do vậy, người do nghiệp tiêu trí rạng mà vãng sanh và những người cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh kể sao cho xiết! Vì thế, các vị thiện sĩ ở Xung Điền nghe tiếng tăm dấy lòng noi theo, lập riêng phân xã để mong cư dân lân cận sẽ cùng được đẫm Phật quang, cùng sanh về Cực Lạc, đủ thấy con người có cùng một tâm này, tâm cùng một lý này, đã gieo thiện căn sâu xa trong nhiều đời nhiều kiếp vậy!

      Phải biết: Phật pháp vốn là tâm pháp, là gốc của hết thảy các pháp thế gian. Nếu biết Phật pháp thì đạo “cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của thế gian đều được viên mãn rốt ráo. Nếu không, chỉ là bày biện nơi cành nhánh, chứ trọn chẳng được lợi ích thật sự nơi căn bản: Vì cái thân mưu tính sẽ chẳng thể vượt ra ngoài thân xác, vì đất nước mưu tính sẽ chẳng thể khiến cho phong thái đại đồng được thông suốt. Bậc thượng mà còn như thế thì bậc hạ cần chi phải nói nữa! Ngu phu, ngu phụ nếu y theo pháp môn Tịnh Độ do đức Phật đã nói để tu trì thì khi còn sống sẽ tận hết bổn phận, trọn hết tình nghĩa để trở thành hiền thiện, mất đi sẽ cao đăng chín phẩm sen liễu sanh thoát tử. Bậc hạ mà còn được như thế huống gì là bậc thượng! Nguyện những thiện tín tham dự liên xã và những ai thấy nghe trong hiện tại, tương lai, đều cùng nhờ vào tâm quang để đề cao Phật quang thì xã hội may mắn lắm mà thiên hạ cũng may mắn lắm thay!

 

  1. Nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của việc thành lập Phật Quang phân xã tại nội thành Vụ Nguyên

      (năm Dân Quốc 22 – 1933)

      Phật quang là tâm quang. Tâm quang ấy nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng. Chỉ vì chúng sanh chưa ngộ nên chẳng thể thụ dụng được, lại ngược ngạo nương vào sức tâm quang ấy để khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi lục đạo trọn chẳng ngừng nghỉ. Vì thế, đức Phật tùy thuận căn cơ của chúng sanh, vì họ nói nhân quả của các pháp môn Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ v.v… và lý tánh sâu mầu trạm tịch viên dung Thường – Lạc – Ngã – Tịnh để chúng sanh y theo đó tu tập, sẽ có ngày tự viên mãn Bồ Đề, rốt ráo đích thân chứng được tâm quang ấy chiếu khắp pháp giới. Nho giáo cũng hết sức chú trọng pháp nhân quả. Vì thế, Khổng Tử khen ngợi Châu Dịch, vừa mở đầu liền nói: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện niềm vui có thừa, nhà tích điều bất thiện tai ương có thừa). Cuối cùng, Ngài nói: “Một Âm, một Dương gọi là đạo”. Phàm tích thiện hay tích bất thiện, đó là nhân; dư khánh, dư ương chính là quả. Đức Phật nói nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo chính là nêu bày nhân quả đến rốt ráo vậy.

      Có người bảo nhân quả là Tiểu Thừa, chẳng chịu đề xướng, đấy đều là hạng chuyên bàn xuông, chẳng tu thật đức! Đức Như Lai thành Chánh Giác, chúng sanh đọa ác đạo đều chẳng ra ngoài nhân quả, sao lại riêng coi là Tiểu Thừa ư? Như [Khổng Tử] nói “một Âm một Dương gọi là Đạo”, thì cái Đạo vừa nói ấy thật sự là đạo gì? Chẳng phải là đạo Thành và Minh hợp nhất đó ư? Thành chính là Minh Đức, tức diệu tánh bất sanh bất diệt vốn sẵn có trong tâm chúng ta, đấy chính là Tánh Đức. Do không có công phu khắc phục [phiền não] nên chẳng thể hiển hiện được; vì thế gọi nó là Âm. Minh chính là như chữ Minh [thứ nhất] trong câu “minh Minh Đức” (làm sáng tỏ đức sáng), tức là công phu “triêu càn tịch dịch[42], gắng sức tu trì”, tức Tu Đức. Do những sự thuộc về Tu Đức hiển hiện rõ ràng nên gọi là Dương. Dốc công Tu Đức đến cùng cực thì Tánh Đức sẽ tỏ lộ trọn vẹn, Thành và Minh hợp nhất, tức là cái thường được gọi là “minh Minh Đức chỉ ư chí thiện” (làm sáng Minh Đức, ở yên nơi tốt lành tột cùng). Công phu phía trước điều này (tức những phương cách tu tập để đạt đến “minh Minh Đức chỉ ư chí thiện”) là cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, còn sự nghiệp phía sau điều này (tức những diệu dụng được thể hiện sau khi đã đạt đến “minh Minh Đức chỉ ư chí thiện”) là tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

      Nhưng [nếu] chỉ dùng [những công phu tu tập] Thành và Minh hợp nhất “minh Minh Đức, chỉ ư chí thiện” này để đạt tới “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” thì chưa thể nào đạt như vậy được, cho nên mới [cần phải] có những điều khiến cho chính ta không thể không làm như vậy được (tức là những điều khiến cho chúng ta phải gắng sức cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ý). Thế nào là “những điều khiến cho chính ta không thể không làm như vậy được?” Chính là nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo! Kẻ tuy chí ngu quyết cũng chẳng chuộng hung ghét lành, vui mừng vì bị tai họa! Nghe “chất chứa điều thiện ắt sự vui có thừa, chất chứa điều bất thiện ắt tai ương có thừa”, người hiền ắt sẽ càng thêm siêng tu, kẻ không ra gì cũng phải gắng sức làm lành. Cố gắng lâu ngày, nghiệp sẽ tiêu, trí sẽ rạng, không có lầm lỗi, đức được sáng tỏ, xưa kia là kẻ chẳng ra gì, nay là bậc đại hiền.

      Do vậy biết đối với việc tự tu thì đạo Thành – Minh đã đủ rồi, nhưng để dạy người khác, nếu chẳng dùng nhân quả để giúp vào thì cũng khó khiến cho trọn hết mọi người đều tuân theo được! Kết hợp hai pháp nhân quả và Thành – Minh thì mới là đạo kế thiên lập cực[43] nêu gương mẫu cho muôn đời của thánh nhân, đấy cũng chính là ánh sáng sẵn có trong tự tâm và Phật quang phổ chiếu pháp giới vậy.

      Bất Huệ thường nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh”. Muốn vãn hồi kiếp vận, cứu chữa nhân tâm nhưng chẳng chú ý điều này thì giống như tìm cá trên cây! Bọn Tống Nho khí lượng hẹp hòi, trộm cắp những nghĩa trọng yếu trong kinh Phật để phát huy tâm pháp của thánh nhân Nho giáo đời trước, muốn cho kẻ học đời sau chẳng nghe tới Phật pháp nên âm thầm sùng phụng, bề ngoài chống trái, càng ra sức bài bác [Phật pháp], cho là thật sự chẳng hề có những chuyện nhân quả luân hồi như đức Phật đã nói, Ngài chỉ nhờ vào đó để gạt gẫm hàng ngu phu ngu phụ tuân phụng giáo pháp của Ngài mà thôi! Do báng Phật nên tuy là nhân quả do thánh nhân đã nói cũng như những sự tích luân hồi sanh tử được chép trong các bộ Sử Ký, Hán Thư họ đều chẳng buồn nhắc tới, chỉ lấy “trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, chánh tâm, thành ý” để làm căn bản trị mình, trị người, trị nước mà thôi!

      Họ lại còn nói con người chết rồi, hình hài đã mục nát, thần thức cũng phiêu tán, dẫu có chém – chặt – xay – giã thì lấy gì để thực hiện? Hơn nữa, thần thức đã phiêu tán, còn ai để thác sanh? Kẻ nói như vậy chẳng những phản bác Phật pháp mà còn hết sức phản bác những sự tích về thác sanh, biến hóa được chép trong Tứ Thư, Ngũ Kinh và Sử Ký, Hán Thư, riêng muốn dùng những cách ngăn lấp hậu học ấy khiến cho hàng hậu học đời đời chẳng được nghe Phật pháp để không ai biết những gì chính họ (tức bọn Tống Nho) đã đạt được [là do đâu mà có] và nhờ đó Nho Giáo cũng sẽ hưng thịnh. Họ chẳng biết cội gốc đã bị tổn thương thì cành nhánh làm sao tươi tốt cho được!

      Từ đấy trở đi, phương cách để duy trì thế đạo nhân tâm chỉ là “trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, chánh tâm, thành ý” mà thôi, hoàn toàn phế bỏ sự lý nhân quả thiện ác là cái thúc đẩy người khác chẳng thể không trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, chánh tâm, thành ý! Cõi đời bậc đại hiền thì ít, kẻ [căn cơ] trung hạ lại nhiều. Nếu coi nhân quả là hư vô, con người chết đi sẽ vĩnh viễn diệt mất thì chính là lấp mất con đường gắng sức làm lành của kẻ trung hạ, mở tung đầu mối cho kẻ cuồng vọng phóng túng chẳng kiêng dè! Đến khi gió Âu vừa thổi qua, bồng bột ngả theo, lại bị biến đổi dữ dội đến tận gốc, rốt cuộc đến nỗi phế kinh điển, phế luân thường, bỏ lòng hiếu, vứt lòng thẹn, mà vẫn khoe khoang, chẳng biết hổ thẹn. Nếu như lý nhân quả chẳng bị bài xích, đả phá, có ai chịu xướng lên những vở tuồng xấu ác ấy để chuốc lấy quả báo vĩnh viễn đọa trong ác đạo ư? Các vị tiên sinh [bên Nho giáo] chỉ biết dùng kiểu đó để bảo vệ đạo Nho, chẳng ngờ do đấy mà đạo Nho bị diệt! Học thuyết gây lầm lạc cho người khác, còn quá nước lũ, mãnh thú, chẳng đáng sợ hay sao?

      Gần đây, phong hóa trong cõi đời ngày một đi xuống, những người hữu tâm ai nấy đều đề xướng học Phật. Tại Vụ Nguyên, kể từ khi được cư sĩ Giang Dịch Viên đề xướng đến nay, nhân sĩ cả một vùng đua nhau phụ họa, đã có nhiều nơi lập phân xã. Ấy là vì mong được nhờ Từ quang của đức Phật để từ đó bỏ ác tu thiện, tiêu tai, lành bệnh, giặc cướp nhiều phen chẳng kéo đến, tật dịch nhiều phen không xảy ra, hễ mưa nắng trái thời thì niệm Phật cầu đảo bèn được ứng nghiệm. Người cả một vùng khâm phục lời lẽ của Dịch Viên giống như bảy mươi người khâm phục Khổng Tử[44] vậy.

      Nay tại huyện thành cũng lập phân xã, trước khi mở cửa, cư sĩ Tề Dụng Tu xin Bất Huệ lược thuật những nét chánh yếu dù ẩn hoặc hiển về Phật quang, cho nên tôi trình bày những chuyện trong hơn tám chín trăm năm qua để bậc thông sáng mai sau có cái để soi xét. Còn đối với những người ắt dốc sức thực hành thì [hãy nên] giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, vâng giữ tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, thực hiện tám sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, lại còn phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật, tự hành dạy người cùng sanh về Tây Phương, cùng chứng vô lượng thọ, vô lượng quang để tâm quang của mỗi người cùng với Phật quang thường tịch và tâm quang từ Hạnh Đàn[45] Tứ Thủy chiếu rọi lẫn nhau thì quốc gia may mắn lắm mà pháp đạo cũng may mắn lắm.

 

  1. Trình bày ý nghĩa ẩn kín của chữ Nhân (人)

      (năm Dân Quốc 27 – 1938, giảng cho một đệ tử)

      Con người là một sinh vật trần trụi, thân bất quá mấy thước, tuổi thọ chẳng quá mấy chục năm, lại cùng với trời cao đất dầy dài lâu không lường xưng là Tam Tài, nghĩa ấy như thế nào? Phải biết: “Tài” là danh xưng của đức năng. Trời có đức năng che phủ trọn khắp, sanh thành trưởng dưỡng muôn vật; đất có đức năng chuyên chở trọn khắp, hàm dưỡng, bồi đắp muôn vật. Con người lấy việc “phụ trợ quyền sanh thành, dưỡng dục của trời đất, kế tục bậc thánh đời trước, khơi lối cho người học đời sau” làm đức năng. Nếu không có đức năng của con người [bổ trợ] thì đức năng của trời đất vẫn còn thiếu sót. Do được đức năng “giúp đỡ, kế thừa, khơi lối” của con người [bù đắp] mà đức năng của trời đất được viên mãn, đầy đủ, theo chiều dọc cùng khắp ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười phương. Con người cùng với trời đất được xưng là Tam Tài là vì lẽ đó! Đức năng của con người nói tổng quát có bốn điều:

      1) Nhân (人 – con người) tức là Nhân (仁), tức lòng nhân từ trắc ẩn, tự lợi, lợi tha, vì thế gọi là Nhân.

      2) Nhân là Nhẫn (忍), chịu thương chịu khó, đảm đương nhiệm vụ chống trời đỡ đất, vì thế gọi là Nhân.

      3) Nhân là Nhiệm (任), tận lực đảm nhiệm tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” sao cho không bị khiếm khuyết. Vì thế gọi là Nhân (Tám sự này thất phu thất phụ cũng đều làm được. Đấy chính là đại sự “giúp đỡ quyền sanh thành, trưởng dưỡng của trời đất, kế tiếp bậc thánh đời trước, khơi lối cho người học đời sau, chống đỡ trời đất” vậy. Nếu coi thường hoặc quên mất một hai sự, hoặc cả tám sự đều quên, sẽ trở thành kẻ giả dối mạo danh con người, chứ không phải là con người thật sự sánh cùng trời đất xưng là Tam Tài. Nếu suy gẫm như thế thì mong thành thánh, thành hiền, học làm Phật, làm Tổ ắt sẽ dư dùng).

      4) Nhân là Tận (盡), tận hết đạo luân thường của Nho giáo để giữ vẹn luân thường, tận hết đạo tâm tánh của Phật giáo để chứng tâm, vì thế gọi là Nhân.

      Ý nghĩa của chữ Nhân lớn lao thay! Nguyện hết thảy những người cùng hàng ai nấy gánh vác bốn nghĩa của chữ Nhân thì nào phải chỉ mình nước ta may mắn, mà thật ra muôn nước trong thiên hạ đều hưởng may mắn sâu xa. Nếu nói: “Ông nói như thế, ông có thực hiện được mỗi một điều ấy không thiếu sót hay chăng?” Thưa rằng: “Con chim sắp chết tiếng kêu cũng bi thương, con người sắp chết cũng nói lời phải. Tôi xót cho tôi mỗi điều đều thiếu sót, chỉ mong sao hết thảy những người cùng hàng điều nào cũng chẳng thiếu sót, để mỗi một người cùng hàng lúc tuổi thọ đã hết sẽ khỏi phải xót xa sâu đậm giống như tôi vậy! Ông chẳng thấy trong kinh Vị Tằng Hữu Nhân Duyên con dã can[46] thuyết pháp, trời Đế Thích vái lạy mà nghe đó ư? Nếu người trong khắp cõi đất đều là trời Đế Thích thì cũng chẳng đến nỗi con dã can phải mở miệng, sao ông lại cố chấp tướng nhân ngã để rồi trách móc tôi vậy? Tôi biết lỗi rồi, từ rày chẳng dám nói nữa!”

 

  1. Nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín của việc học nghề Y

      (năm Dân Quốc 27 – 1938, nói với đệ tử là Châu Thanh Thái)

      Phật là Đại Y Vương trị khắp những bệnh thân – tâm sanh tử cho chúng sanh, nhưng đại bệnh sanh tử do tâm khởi, nên trước hết phải [lấy] trị tâm bệnh làm điều kiện tiên khởi. Nếu có thể tu trì theo đúng pháp thì thân bệnh cũng sẽ nhờ đó mà được trị lành. Thân bệnh có ba thứ: một là túc nghiệp, hai là nội thương, ba là ngoại cảm. Trong ba thứ bệnh này chỉ có túc nghiệp là khó trị! Nếu có thể dốc lòng thành, cạn lòng kính, phát đại Bồ Đề tâm tự lợi, lợi tha niệm thánh hiệu “nam-mô A Di Đà Phật” và “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” để siêu độ những oan gia đối đầu đã bị [người bệnh] hãm hại trong những đời trước. Nếu họ (tức những oan gia đối đầu ấy) lìa khổ được vui thì người bệnh sẽ tiêu nghiệp, lành bệnh; họ chẳng những không còn quấy phá mà trái lại còn cảm cái ơn siêu độ nên sẽ âm thầm phù hộ. Phàm những ai mắc bệnh này và những người chữa trị bệnh ấy đều không thể không biết đến nghĩa này.

      Hai là nội thương, hoặc do dụng tâm quá độ, hoặc do rượu chè, sắc dục, tiền bạc, hút sách, đối với mỗi thứ đều tham ưa. Nếu có thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành và dùng thuốc chữa trị ắt sẽ dễ lành bệnh. Nếu chẳng chú ý nơi căn bản, chỉ cậy vào thuốc men, cũng khó thấy được hiệu quả. Dù có hiệu quả, vẫn khó giữ cho vĩnh viễn không bị tái phát.

      Ba là ngoại cảm, chỉ cần làm theo như cách đã nói trong phần nội thương trên đây. Dẫu có bị trúng phải gió, lạnh, nắng, mưa bên ngoài cũng hết sức dễ chữa. Nếu chẳng chú ý ngăn ngừa giận dữ, gạt bỏ ham muốn, dứt lòng tà, giữ lòng thành thì tuy là bệnh ngoại cảm vẫn chẳng dễ gì chữa trị vì bị tổn thương từ căn bản mà chỉ trị nơi cành nhánh, thật khó được lợi ích! Do vậy, thánh nhân giữ yên đất nước khi chưa loạn, bảo vệ thân khi chưa bệnh, tuy không có kỳ tích bình trị, bảo vệ, nhưng sự bình trị, bảo vệ cũng lớn lắm.

      Tôi hoàn toàn chẳng biết gì về thuốc men, nhưng rất mong cho người đời đều không bệnh tật, hằng ngày trì chú Đại Bi gia trì vào nước sạch, có người mắc bệnh ngặt lâu ngày, thầy thuốc Bắc, thuốc Tây đều chẳng chữa được, [tôi cho người ấy uống nước đã được trì chú Đại Bi], dạy người ấy kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật và niệm Quán Âm, nếu thật sự chí thành sẽ lập tức xoay chuyển được tình thế, không lâu sau tự lành bệnh. Dẫu chẳng thể lành ngay, quyết cũng chẳng lẽ nào bị bệnh nặng thêm, lại còn có thể tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn, lại chẳng tốn kém chi!

      Ông muốn học Y, tuy chú trọng nơi châm cứu, dược phẩm, nhưng cần phải phát đại Bồ Đề tâm, thường dùng thánh hiệu của Phật, Bồ Tát và chú Đại Bi khắp vì ta – người trì tụng, để mong đôi bên cùng được thân tâm an lạc trong đời này, lâm chung quyết định vãng sanh Tây Phương thì chẳng uổng là đệ tử Phật, tùy phần tùy sức thực hiện đạo lợi khắp ta – người. Nếu giống như những gã thầy thuốc tầm thường trong cõi đời chỉ cầu lợi, chẳng coi trọng chuyện cứu chữa người bệnh, dẫu cho giàu nứt đố đổ vách cũng chỉ được kết quả là chính mình vĩnh viễn đọa trong ác đạo, con cháu hoặc thành phường bại hoại, hoặc rốt cuộc bị tuyệt diệt! Uổng có cơ hội tự lợi lợi tha mà lại ngược ngạo biến thành cái quả tự hại, hại người, chẳng đáng thương sao? Chẳng đáng sợ sao? Sách Cảm Ứng Thiên có câu: “Họa phước không cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy”, người thông minh trong cõi đời phần nhiều đều muốn hưởng phước lạc, đâm ra chuốc lấy họa ương. Nếu ông chẳng thuận theo thói đó, ắt sẽ được “danh xứng với thật”, là bậc đại quốc thủ. Nếu không, chỉ trở thành kẻ giặc cho dân mà thôi! Lấy – bỏ thế nào, mong ông hãy tự chọn lựa!

 

  1. Pháp ngữ dạy thầy Hoa Quyền đang bị bệnh

      (năm Dân Quốc 21 – 1932)

      Con người sống trong thế gian ai cũng chẳng thể nào tránh khỏi nỗi khổ tật bệnh, chết chóc! Trong khi những sự khổ như vậy xảy ra, chỉ nên buông xuống muôn duyên, nhất tâm niệm “Nam-mô A Di Đà Phật”. Nếu hơi thở ngắn thì chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật, nhất tâm cầu Phật từ bi tiếp dẫn ông vãng sanh Tây Phương. Trừ một niệm ấy ra, trong tâm chẳng được khởi lên mảy may tưởng niệm khác biệt nào, cũng đừng mong bệnh chóng lành, cũng chớ có tưởng niệm cầu thần cầu trời giáng phước. Hễ có những thứ tưởng niệm ấy, tâm ông sẽ bị cách ngăn với tâm đức A Di Đà Phật; do vậy sẽ chẳng hưởng được sức gia bị do lòng từ của Phật. Ông phải hiểu rằng: Trời đất cha mẹ đều chẳng thể làm cho ông thoát luân hồi sanh tử được, chỉ có đức A Di Đà Phật là có thể làm cho ông thoát luân hồi sanh tử!

      Giả sử ông chịu buông xuống hết thảy, nhất tâm niệm Phật thì nếu tuổi thọ chưa hết sẽ được chóng lành. Nếu tuổi thọ đã hết, liền vãng sanh Tây Phương; nhưng chớ nên cầu bệnh chóng lành, chỉ nên cầu mau được vãng sanh. Nếu tuổi thọ đã hết mà cầu lành bệnh sẽ chẳng được vãng sanh. Cầu vãng sanh thì nếu tuổi thọ chưa hết sẽ mau được lành bệnh. Vãng sanh Tây Phương có những điều hay chẳng thể nói trọn, so với những kẻ sanh lên cõi trời làm thiên đế, thiên vương vẫn cao cả hơn vô số vô lượng vạn vạn vạn vạn lần.

      Ông đừng có si tâm vọng tưởng sợ chết. Có cái tâm sợ chết sẽ chẳng thể vãng sanh được! Chúng ta sống trong thế gian giống như loài giòi trong hầm phân, tù nhân trong lao ngục, khổ chẳng chịu đựng được! Vãng sanh Tây Phương như thoát khỏi hầm phân, lao ngục, đến quê nhà thanh tịnh an lạc tiêu dao tự tại, há nên sợ chết? Nếu có tâm niệm sợ chết, sẽ vĩnh viễn chịu khổ trong sanh tử luân hồi, vĩnh viễn chẳng có thuở thoát khổ. Nếu ông niệm ra tiếng được thì cũng nên niệm nhỏ tiếng, chẳng thể niệm ra tiếng nổi thì niệm thầm trong tâm, tai nghe người khác niệm, trong tâm cũng niệm như thế. Mắt lại dõi nhìn A Di Đà Phật (tức đức Phật được thờ trong thất), trong tâm tưởng đến A Di Đà Phật. Hễ có những niệm khác khởi lên, hãy nên tự trách: “Ta muốn cậy vào Phật lực vãng sanh Tây Phương, sao lại khởi lên những thứ ý niệm này làm hỏng đại sự của ta?”

      Nếu ông chịu niệm theo như lời tôi nói, chắc chắn được vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, bao kiếp vĩnh viễn thường hưởng khoái lạc, trọn chẳng phải thấy nghe mảy may sự khổ gì, há còn có những thứ khổ não tật bệnh như thế này hay sao? Nếu gặp lúc trong tâm dấy lên phiền não, phải hiểu rằng đấy chính là do ác nghiệp trong đời trước xui khiến, muốn phá hoại đạo vãng sanh Tây Phương của ta, muốn khiến cho ta vĩnh viễn bị khổ vì sanh tử luân hồi, ta nay hiểu được nó muốn hại ta, ta chẳng để cho nó xoay chuyển, trừ chuyện niệm Phật ra, chẳng nghĩ đến chuyện gì khác. Như vậy thì tâm tâm tương ứng với Phật, được Phật tiếp dẫn, sẽ liền vãng sanh. Hãy nhớ kỹ lời tôi thì sẽ tự mau được lợi ích không chi lớn hơn được!

 

  1. Pháp ngữ dạy mẹ con ông Ân Đức Tăng(hai bài)

      (năm Dân Quốc 25 – 1936)

      1) Hai chữ “nhân quả” gồm trọn hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian, trọn hết không bỏ sót gì. Do vậy, chẳng riêng gì Phật giáo đề cao [nhân quả] mà pháp thế gian cũng chẳng bỏ qua [nhân quả]. Trong sách Nho đã sớm để lại giáo huấn rõ ràng. Kinh Dịch chép: “Tích thiện dư khánh, tích bất thiện dư ương” (tích chứa điều thiện niềm vui có thừa, tích chứa điều bất thiện tai ương có thừa), kinh Thư ghi: “Tác thiện giáng tường, tác bất thiện giáng ương” (làm lành thì điều tốt lành sẽ giáng xuống; làm điều chẳng lành, tai ương sẽ giáng xuống) chẳng phải là nói về nhân quả hay sao? Nhưng hết thảy những chuyện kỳ kỳ quái quái, thiện thiện ác ác được biên chép trong bộ Xuân Thu Tả Truyện đều là những ghi chép thật sự về nhân quả. Nếu người đời sau đọc bộ sách ấy, xét nghĩ những chuyện ấy sẽ thấy rành rành họa phước vô thường, báo ứng chẳng sai vậy!

      Do có quỷ thần, dè dặt kinh sợ, bậc thượng trí sẽ mạnh mẽ dấy lên chí hướng ưu thời mẫn thế, gắng tu đức của chính mình; kẻ hạ ngu cũng biết nể sợ, chẳng dám làm ác. Vì thế, nhân quả thật sự là sự phòng ngừa lớn lao để ràng buộc lòng người, đáng để phụ trợ cho những chỗ mà sự cai trị của nhà vua chưa được thấu tới, mà cũng là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh, và cũng là mấu chốt khiến cho đất nước yên ổn hay loạn lạc, hưng thịnh hay suy vi từ xưa đến nay vậy.

      Hiện thời thế đạo ngày một suy vi, lòng người chìm đắm, sở dĩ tệ hại đến cùng cực như thế này đều là vì chẳng hiểu rõ lý nhân quả báo ứng mà ra. Lý nhân quả chẳng được sáng tỏ thì tuy cái nhân gần là do bị ảnh hưởng bởi những học thuyết mới, nhưng thật ra cái nhân xa là do Tống Nho bác Phật đã ươm thành. Ấy là vì [từ khi] học thuyết Tống Nho được xướng suất mạnh mẽ: “Quỷ thần chỉ là lương năng của hai khí (Âm – Dương), con người chết đi thần hồn cũng phiêu tán, dẫu có chém – chặt – xay – giã sẽ thực hiện vào đâu, quân tử có làm gì để làm lành thì chuyện làm lành ấy cũng chẳng thật, cần gì phải bàn đến nhân quả?” Phàm “không làm gì mà là làm lành” chỉ để nói với bậc thượng trí, chứ đối với hạng người từ bậc trung trở xuống, ắt phải nhờ vào khuyên bảo “hãy có làm”[47] thì mới là lành. Nay nói: “Chẳng làm gì mà là làm” sẽ ngăn trở con đường hướng thiện của người khác!

      Thánh nhân dùng thần đạo để lập giáo, ngầm khen ngợi thần minh, từ kết quả truy ngược về cội nguồn nên biết được lẽ sanh tử. Tinh – khí là vật, du hồn biến chuyển, do vậy biết được tình trạng của quỷ thần. Nay coi quỷ thần là hư vô, hoang đường, tức là đã phế trừ giáo huấn của các bậc tiên vương! Nếu chết đi đã thành đoạn diệt, không nhân quả, không báo ứng thì hết thảy hạnh nghịch ác hễ tỏ được cái chí thì đâu cần kiêng sợ gì mà không làm cơ chứ? Loạn thiên hạ, gây họa cho nhân loại, ắt đều bắt nguồn từ đây! Bọn Trình – Châu chỉ biết cổ vũ “quân tử không làm gì chính là làm lành”, chẳng thèm lo tới chuyện “bọn tiểu nhân không kiêng sợ nên cứ làm ác” hay sao? Trong thiên hạ, bậc quân tử thì ít, tiểu nhân lại nhiều, lời lẽ của bọn Trình – Châu lợi thiên hạ thì ít, hại thiên hạ cũng nhiều, chẳng đáng đau xót ư? Nhưng cái thuyết Lý Học của bọn Trình – Châu phần nhiều lấy từ các [nghĩa lý trong] kinh Phật, nhưng họ lại toan dùng đó để tự khoe tài, đã học được từ người ta lại ngược ngạo bảo người ta chẳng bằng mình, bịt tai trộm linh, trong lòng sùng phụng, mặt ngoài chống trái, thậm chí chẳng tiếc công đàn áp.

      Thật sự là vì đâu mà lại như thế? Đáp: Do tri kiến môn đình và muốn được phối hưởng[48] trong Văn Miếu mà thôi! Bọn họ chỉ vì tri kiến môn đình, gây họa hoạn vô cùng cho hậu thế. Đấy cũng là điều bọn Trình – Châu chẳng lường tới, nhưng những người có lòng [lo cho đời] đều đau đớn sâu đậm! Trình – Châu từng là những bậc đại Nho một thời dưới đời Tống, công duy trì nhân luân kỷ cương của họ đâu thể không tính kể tới, nhưng lập luận của họ chẳng tránh khỏi trái nghịch tiên thánh, gây lầm lạc cho đời sau. Bọn ta đọc sách để học đòi cổ nhân, há chẳng suy xét sâu xa ư?

      2) Hiện nay muốn xương minh sự lý nhân quả và phương pháp thực hành [điều đó] thì trước hết phải thực hiện bằng sự giáo dục trong gia đình; nhưng giáo dục trong gia đình lại phải lấy phụ nữ làm chủ thể. Bởi lẽ, đời có mẹ hiền thì mới có con hiền. Noi theo bậc hiền mẫu thời cổ, thực hiện thai giáo: un đúc bẩm chất từ lúc ban đầu, nuôi nấng, dạy dỗ từ khi chưa sanh ra ngõ hầu con sẽ tập quen thành tánh. Như ba bà Thái đời Châu (Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự) ngầm giúp đỡ chồng, dạy con từ lúc nó còn nằm trong thai, đều là bậc thánh nhân trong nữ giới, quả thật họ đã lập nên nền tảng mở mang vương nghiệp nhà Châu. Tôi thường nói: “Quyền trị quốc bình thiên hạ hàng nữ nhân nắm quá nửa”. Lại nói: “Dạy con gái là cái gốc để tề gia, trị quốc” tức là nói đến chuyện “trọn hết đạo làm vợ, giúp chồng dạy con”. Nữ giới ngày nay phần nhiều chẳng hiểu nghĩa này, lầm lạc muốn tham gia chánh trị nắm quyền, tính làm đại sự, bỏ mặc đạo căn bản là vun bồi gia đình. Điều này quả thật gom sắt của muôn nước chín châu cũng chẳng đúc được cái lỗi lầm lớn lao ấy[49], thật đáng cảm khái sâu xa!

      Thế nào là đạo căn bản để vun bồi gia đình? Chính là hễ dạy dỗ con cái, ắt phải khi con đang còn trong độ tuổi măng sữa, trước hết phải làm cho nó biết về thuyết nhân quả báo ứng thì đối với hết thảy những hành vi nghịch ác nó sẽ tự kiêng sợ chẳng dám làm. Giảng giải sách nhân quả không chi hay bằng Cảm Ứng Thiên[50] và Âm Chất Văn[51]. Hai cuốn sách ấy phải thường giảng nói, ắt sẽ tự có lợi ích không chi lớn bằng! Bởi lẽ, trẻ thơ thiên tánh chưa xấu xa, lời lành dễ tiếp nhận, tập quen từ bé, lâu ngày sẽ thành bản tánh, đến khi lớn lên sẽ chẳng thay đổi được! Gốc chánh nguồn trong được bắt nguồn từ đấy! Vì thế, kinh Dịch chép: “Mông dĩ dưỡng chánh, thánh công dã” (Dạy cho trẻ thơ điều đúng đắn, có công như thánh nhân vậy).

      Ngày nay thiên hạ sở dĩ đại loạn đều là do cha mẹ chẳng hiểu nguyên lý giáo dục đã ươm thành vậy. Bởi lẽ đã chẳng thể dùng thai giáo để dạy dỗ điều lành từ đầu, lại còn chẳng thể dùng nhân quả để răn nhắc lúc sau. Căn bản đã hỏng thì sẽ bừa bãi, tràn lan chẳng thể nào thâu thập được. Do vậy mới xướng lên những thuyết bất hiếu, không cần cha mẹ, mới bàn đến chuyện cách mạng gia đình không kiêng dè chi! Dẫn đến [tình cảnh] bạn bè chơi với nhau vì lợi lộc hòng bán chác, vợ chồng hợp lại hay chia tay nhau giống như cầm thú, chôn vùi đạo nghĩa liêm sỉ, thiên lý tuyệt diệt [như] nước lũ cuồn cuộn tận trời chẳng biết khi nào ngừng. Dẫu Khổng Tử, Thích Ca sống trong thời buổi này cũng không có cách gì cứu giúp được, nguy ngập vậy thay!

      Làm như thế nào đây? Đáp: Đường lối để cứu vãn chỉ có cách chú trọng giáo dục gia đình sao cho ai nấy giảng rõ sự lý nhân quả cho con cái hòng vun bồi căn bản mà thôi! Đã gieo thiện nhân ắt gặt thiện quả, mới hòng có hy vọng trong tương lai lòng người biến đổi tốt đẹp, phong tục dần dần thuần lương, thiên hạ nước nhà thái bình vậy.

 

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên

Quyển Hạ

(Phần 5 hết)

 

 

[1] Trần kiếp: Gọi đủ là “trần điểm kiếp” hoặc “vi trần số kiếp” tức số kiếp (kalpa) nhiều như số vi trần. Đôi khi còn nói là “Phật sát vi trần số kiếp” (số các kiếp nhiều như số vi trần trong một cõi Phật).

[2] Quần mông: Những kẻ tăm tối, chỉ những chúng sanh bị phiền não vô minh che lấp.

[3] Nhị tử: Biến dịch sanh tử và phần đoạn sanh tử.

[4] Từ hút sắt: Nam châm hút sắt.

[5] Cứu giúp kẻ bị treo ngược: Chữ “treo ngược” (đảo huyền – Ullambana) chỉ những người có tội sau khi đã chết bị đọa trong địa ngục, chịu những hình phạt khổ sở giống như bị treo ngược đầu xuống.

[6] Nguyên văn là Cứu Cánh Tức. Trong nguyên bản có ghi thêm một đoạn chú thích như sau: “Ngài Trí Giả thuộc tông Thiên Thai đã dùng khái niệm Lục Tức để giải thích về Phật. Một là Lý Tức Phật, hai là Danh Tự Tức Phật, ba là Quán Hạnh Tức Phật, bốn là Tương Tự Tức Phật, năm là Phần Chứng Tức Phật, sáu là Cứu Cánh Tức Phật”. Cứu Cánh Tức Phật chính là quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, do đức Phật còn được gọi là Pháp Vương nên chúng tôi chuyển dịch chữ Cứu Cánh Tức thành Pháp Vương cho thuận với âm vận của bài kệ.

[7] Ngài Di Lặc Bồ Tát họ Di Lặc (Maitreya: lòng Từ), tên là A Dật Đa (Ajita – dịch nghĩa là Vô Năng Thắng: Không ai hơn được). Vì thế, đôi khi tên Ngài được dịch nghĩa là Từ Thị Vô Năng Thắng. Do đó, câu này có thể hiểu: Ngài là đấng từ bi không ai hơn được, hoặc chỉ có thể hiểu đơn giản đây là tên họ đầy đủ của Ngài.

[8] Khi ngài Di Lặc thành Phật, sẽ ba lần chuyển pháp luân (tam chuyển pháp luân), mỗi lần chuyển pháp luân đó được gọi là một hội thuyết pháp (chứ không có nghĩa Ngài chỉ thuyết pháp có ba lần), xin xem chi tiết trong kinh Quán Di Lặc Hạ Sanh. Tam Chuyển Pháp Luân là ba giai đoạn giáo hóa của đức Phật, gồm Căn Bản Pháp Luân, Chi Mạt Pháp Luân và Nhiếp Mạt Quy Bổn Pháp Luân. Căn Bản Pháp Luân tức là những giáo pháp dạy cho hàng đại Bồ Tát chứng ngộ cảnh giới siêu việt của Phật, tương ứng với thời Hoa Nghiêm. Chi Mạt Pháp Luân là những giáo pháp dành cho mọi căn tánh nhằm hướng dẫn họ bước vào Phật đạo, lần lượt dạy từng bậc, từng lớp theo mức độ kiến giải cao dần để dẫn nhập họ từ Tiểu Thừa bước vào Đại Thừa. Cuối cùng là Nhiếp Mạt Quy Bổn Pháp Luân tức là nói ra chân tướng sự thật Nhất Thừa, gộp ba thừa vào một thừa, khiến mọi căn cơ đều liễu ngộ căn bản pháp luân, tương ứng với thời Pháp Hoa Do Ngài thành Phật dưới cội Bồ Đề, những cành nhánh của cây Bồ Đề ấy giống như những con rồng đang phun ra những đóa hoa, nên cây Bồ Đề ấy được gọi là cây Long Hoa. Vì thế, kinh sách nhà Phật thường gọi ba hội thuyết pháp của Đương Lai Di Lặc Tôn Phật là “Long Hoa Tam Hội”. Do không hiểu rõ ý nghĩa chữ Long Hoa, Tam Chuyển Pháp Luân, cũng như sự thị hiện giáng sanh của chư Phật, rất nhiều thứ ngoại đạo mượn danh Phật giáo đã lập lờ đánh lận con đen rao giảng Thượng Đế sai Di Lặc Bồ Tát mở hội Long Hoa để thanh lọc chúng sanh, lập đại hội Vạn Linh. Theo họ, hội Long Hoa đã bắt đầu diễn ra từ năm 1992 (sic!), thế gian đang bước vào thời Hạ Nguơn (Nguyên), sắp tận thế, phải tu theo đạo của họ thì mới được quần tiên tiếp dẫn sanh về thiên giới!

[9] Năng Nhân (Śākya), còn được phiên âm là Thích Ca, tức họ của đức Phật. Đức Phật Thích Ca là một vị hiền nhân (Muni, còn dịch là Tịch Mặc) xuất thân từ dòng họ Thích Ca nên có hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Năng Nhân có nghĩa là “người ban bố, thực hiện lòng nhân”. Do vậy, hiểu theo nghĩa hẹp, chữ Năng Nhân chỉ cho Phật Thích Ca; nhưng hiểu theo nghĩa rộng thì đây là danh xưng chung để tán dương các đức Phật. Riêng đối với danh hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật, tổ Ấn Quang còn giảng thêm: “Năng Nhân nghĩa là rộng độ chúng sanh; Tịch Mặc là triệt chứng tự tánh” (xin xem trong bài Duyên Khởi của Phật Học Đồ Thư Quán Phước Châu trong phần “Những bài viết khác” của Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ).

[10] Theo phẩm Hiện Bảo Tháp kinh Pháp Hoa, khi đức Thích Ca Mâu Ni Phật đang giảng kinh Pháp Hoa, từ dưới đất vọt lên tháp báu chứa toàn thân xá-lợi của Phật Đa Bảo, tán thán và chứng minh cho pháp hội Pháp Hoa. Trí Tích Bồ Tát là một trong số những vị thượng thủ theo hầu Phật Đa Bảo đến dự hội Pháp Hoa, đàm luận Phật pháp với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tôn giả Xá Lợi Phất và Long nữ (con gái của vua rồng Ta Kiệt La).

[11] Chữ “đích tổ” ở đây được dùng với ý nghĩa là vị tổ khai sáng một ngôi chùa. Trí Tích Bồ Tát chỉ là một vị Tăng nhập chúng tại Linh Nham Sơn Tự thời Lương, chứ không phải là tổ sư khai sáng ngôi chùa, nên không phải là đích tổ của Linh Nham.

[12] Ngũ Thanh: Tên gọi khác của Cực Lạc, do cõi ấy không có năm thứ nhơ uế (Ngũ Trược) nên gọi là Ngũ Thanh.

[13] Ưa mến Cực Lạc, nhàm chán cõi Sa Bà.

[14] Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, ngài Pháp Chiếu nhập Định, thần thức đến cõi Cực Lạc, thấy bên cạnh Phật Di Đà có một vị Tăng gầy gò đứng hầu, mặt nám đen, mặc áo rách, bèn hỏi thì được biết đó là ngài Thừa Viễn ở Nam Nhạc. Do Tổ Thừa Viễn không muốn mất thời gian hóa duyên để chuyên dành trọn thời gian tu trì, nên ẩn cư trong rừng sâu, thường móc bùn đất ăn thay cơm đỡ đói hòng chuyên tu tập. Do vậy, Ngài gầy nhom, mặt nám đen, quần áo rách rưới.

[15] Ban Châu gọi đủ là Ban Châu Tam Muội (Pratyutpanna-Samādhi), đôi khi còn đọc là Bát Châu Tam Muội là một trong các phép tu Định. Phép này còn được dịch là Thường Hành Tam Muội, Ban Châu Định, Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội hoặc Phật Lập Tam Muội. Căn cứ theo những điều được dạy trong kinh Ban Châu Tam Muội (Pratyutpanna Buddha Sammukhāvasthita Samādhi Sūtra) do ngài Chi Lâu Ca Sấm dịch vào năm Quang Hòa thứ hai (179) đời Hán Linh Đế thì để tu pháp này, trong vòng 49 ngày, ngoại trừ lúc ăn uống ra, hành giả đều phải luôn kinh hành, mỗi bước đều niệm A Di Đà Phật, ý quán tưởng Phật, tam nghiệp tương ứng, cho nên cách tu này được gọi chung là “tam nghiệp vô gián”. Theo sử truyện, tại Lô Sơn, tổ Huệ Viễn đã đề xướng cách tu này đầu tiên. Các vị Thiện Đạo, Trí Khải, Huệ Nhật, Thừa Viễn, Pháp Chiếu đều tiếp tục hoằng dương cách này, vì nếu người dụng công khẩn thiết, chí thành, trong Định sẽ thấy được Phật.

[16] Hành Châu nay là thành phố Hành Dương thuộc tỉnh Hồ Nam, khác với Hàng Châu thuộc tỉnh Giang Tô.

[17] Thoạt đầu Tổ đã hâm mộ di phong của tổ Huệ Viễn, tu Niệm Phật tam-muội, trong Định thấy chính mình qua cõi Cực Lạc gặp được tổ Thừa Viễn thân gầy áo rách đứng hầu bên Phật Di Đà, khi xuất định bèn sang Nam Nhạc y chỉ với ngài Thừa Viễn. Khi Tổ ngụ tại chùa Vân Phong ở Hành Châu đã thấy thánh cảnh Ngũ Đài hiện trong bát cháo. Khi được biết đó là thánh cảnh Ngũ Đài, tháng Tư năm sau, Tổ lên Ngũ Đài triều bái, đến chùa Phật Quang, chợt thấy có hai đồng tử đến đón, dẫn vào chùa Trúc Lâm, được hai vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền dạy cho pháp yếu Niệm Phật cũng như dạy phương pháp Ngũ Hội Niệm Phật (tức niệm Phật gồm năm đoạn với tiết tấu khác nhau), rồi hai vị Bồ Tát bảo Tổ lui ra. Trong lúc theo đồng tử trở ra, Tổ ngầm bẻ cây đánh dấu để sau này có dịp trở lại, nhưng lúc ngoảnh lại, đã thấy tất cả đều biến thành đồng hoang núi vắng, hai đồng tử cũng mất dạng. Bi thương khôn xiết, Tổ lập chùa Trúc Lâm Đại Thánh tại đó để kỷ niệm pháp duyên hy hữu ấy. Nhạc phổ Ngũ Hội Niệm Phật hiện đã thất truyền, khúc Ngũ Hội Niệm Phật đang lưu hành hiện thời do người đời sau soạn ra, chứ không phải là nguyên khúc do Bồ Tát truyền dạy cho tổ Pháp Chiếu. Người đương thời thường cho rằng Tổ là hóa thân của ngài Thiện Đạo (theo Ngũ Đài Sơn Linh Tích, không rõ tác giả, Hòa Tục Xuất Bản Xã, Đài Loan, ấn hành năm 1995).

[18] Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ vừa là tổ thứ sáu của Tịnh Độ, vừa là tổ thứ ba của Pháp Nhãn Tông bên Thiền. Theo Tống Cao Tăng Truyện và Cảnh Đức Lục, Tổ họ Vương, tự là Xung Huyền, hiệu Bão Nhất Tử, nguyên quán tại Đan Dương, sau dời qua Dư Hàng. Từ bé, Tổ từ năm sáu tuổi đã ngưỡng mộ Phật giáo, không ăn mặn. Đến tuổi trưởng thành, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, thường tụng kinh Pháp Hoa, làm chức quan coi kho cho Tiền Văn Mục Vương xứ Ngô Việt, rồi đến năm 28 tuổi, Ngài được thăng lên chức Hoa Đình Trấn Sứ, trông kho quân nhu. Ngài thường lấy tiền trong kho để mua cá, tôm đem phóng sanh đến nỗi tiền trong kho bị thiếu hụt. Sự việc vỡ lỡ, Tiền Văn Mục Vương hạ lệnh giải Ngài ra chợ chém. Tiền Văn Mục Vương sai người theo dõi xem Ngài phản ứng ra sao, thấy Ngài trong khi ngửa cổ đợi đao phủ xuống tay, nét mặt thật vui sướng, hân hoan. Giám trảm quan hỏi duyên cớ, Tổ đáp: “Ta dùng tiền trong kho để phóng sanh, chứ chẳng dùng riêng cho mình một đồng nào nên tâm không thẹn thùng”. Do vậy, Tiền Văn Mục Vương bèn hạ lệnh tha, Tổ bèn đi xuất gia với Thúy Nham thiền sư tại chùa Long Sách.

[19] Một môn nhân của tổ Liên Trì ẩn cư trên núi thường nhập định dự đoán mưa nắng, nói chuyện hậu vận, tai họa cho người khác. Tổ gởi thư quở trách, khuyên hãy chú tâm tu luyện hầu được giải thoát hơn là phô phang huyền thuật.

[20] Trúc Song Tùy Bút là một tác phẩm của tổ Vân Thê Liên Trì gồm ba quyển được biên soạn vào năm Vạn Lịch 43 (1615), gồm hơn bốn trăm bài viết ngắn trình bày những nhận định của Tổ Liên Trì về Thiên Thai, Thiền, Tịnh v.v…

[21] Triệt Lưu là pháp tự của tổ Hành Sách.

[22] Chiên Đà La (Candāla), còn phiên âm là Chiên Trà La, dịch nghĩa là Nghiêm Xí (hừng hực dữ dội), Bạo Lệ (tàn nhẫn dữ dội), Chấp Ác, Hiểm Ác, Chủ Sát Nhân, Trị Cẩu Nhân v.v… Chiên Đà La vốn là một danh xưng chỉ giai cấp hạ tiện nhất trong hệ thống giai cấp của Ấn Độ thời cổ. Bọn họ chuyên làm những nghề coi ngục, buôn bán, đồ tể, đánh cá, chôn người chết, quét dọn nhà vệ sinh v.v… Do nghề nghiệp bị coi là nhơ uế và bị xã hội ruồng rẫy, khinh rẻ, đa số rất hung bạo, tham lam và tìm mọi cách bòn rút khi những người thuộc giai cấp trên có việc phải nhờ đến họ. Theo luật Mã Nỗ (Manu) của đạo Bà La Môn, những người bị xếp vào hạng Chiên Đà La là con của đàn ông thuộc giai cấp Thủ Đà La (Sudra) lén ăn nằm với nữ nhân thuộc dòng Bà La Môn. Bọn họ bị cấm bước vào đền thờ Ấn Độ giáo vì sợ hình bóng của họ sẽ làm ô uế tượng thần! Kinh Phật mượn từ ngữ này để chỉ những kẻ tánh tình bạo ác, hung hăng, không biết nhân từ, lễ nghĩa, chứ không hàm ý miệt thị giai cấp như trong kinh điển Bà La Môn.

[23] Sở Ca là những khúc hát bằng tiếng nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc. Khi quân Hán của Lưu Bang vây hãm quân Sở của Hạng Vũ tại Cai Hạ (nay thuộc huyện Linh Bích, tỉnh An Huy), Hạng Vũ vẫn còn rất đông quân, Trương Lương bèn bày kế cho người thổi sáo và hát những điệu dân ca nước Sở, quân Hạng Vũ động lòng nhớ nhà, đào ngũ gần hết. Do đó, từ ngữ “Sở Ca” thường được dùng để chỉ những câu hát mang tính chất lay động lòng người, khiến người khác thay đổi chí hướng. 108 bài thơ được nhắc đến ở đây là 108 bài thơ khuyên tu, tán dương Tịnh Độ do tổ Thật Hiền đã viết.

[24] Từ là Từ Ân tông (Duy Thức tông), Hiền là Hiền Thủ tông (Hoa Nghiêm tông).

[25] Theo truyền thuyết, tổ Bồ Đề Đạt Ma thị tịch vào ngày mồng Năm tháng Mười nhằm năm Đại Thống thứ hai (536) đời Ngụy Văn Đế. Đến ngày 18 tháng Chạp năm ấy, môn nhân đưa pháp thể tới chôn tại núi Hùng Nhĩ (tỉnh Hà Nam), dựng tháp thờ tại chùa Định Lâm. Ba năm sau, Tống Vân được vua Ngụy sai sang sứ Tây Vực, khi trở về đến Thông Lãnh (tức cao nguyên Pamir hiện thời), gặp Tổ quảy một chiếc dép phiêu diêu đi một mình, liền hỏi: “Sư đi đâu vậy?” Tổ đáp: “Ta trở về Tây Thiên!” Tống Vân trở về, thuật lại chuyện ấy, môn nhân đào mộ, mở quan tài ra chỉ thấy trong ấy có một chiếc dép. Triều đình bèn sai đem chiếc dép ấy về thờ tại chùa Thiếu Lâm. Về sau, đến năm Khai Nguyên thứ 15 (727) đời Đường, có kẻ trộm lấy đưa về thờ tại chùa Hoa Nghiêm trên Ngũ Đài, đến nay không biết đã thất lạc về đâu!

[26] Núi Nam Bình là một trong mười thắng cảnh vùng Tây Hồ (nằm ở phía Tây Hàng Châu, tỉnh Giang Tây), cảnh núi đẹp đến nỗi họa sĩ Trương Trạch Đoan đời Tống đã vẽ một bức họa rất nổi tiếng với tựa đề Nam Bình Vãn Chung Đồ (Bức họa tiếng chuông chiều tại Nam Bình). Trên núi có rất nhiều ngôi chùa nổi tiếng, nổi tiếng nhất là chùa Hưng Giáo (đại bản doanh của phái Sơn Gia tông Thiên Thai) và Tịnh Từ. Trong bài tụng này, tổ Ấn Quang ca ngợi tông phong của chùa Tịnh Từ. Ngô Việt Vương Tiền Hoằng Thục xây chùa Tịnh Từ tại núi Nam Bình vào năm Hiển Đức nguyên niên (954) đời Hậu Châu, thoạt đầu chùa mang tên Huệ Nhật Vĩnh Minh Tự (đến đời Tống Thái Tông đổi thành chùa Thiên Ninh, rồi thành Tịnh Từ), thỉnh ngài Đạo Tế (tức Tế Điên hòa thượng) đến trụ trì, Ngài trở thành tổ khai sơn của chùa. Sư tính đúc tượng mười tám vị La Hán, chưa tâu lên, vua đã mộng thấy mười tám người khổng lồ đến tìm, bèn giúp cho Sư hoàn thành chí nguyện. Khi ngài Đạo Tế thị tịch năm Kiến Long thứ hai (961) đời Tống, vua bèn thỉnh ngài Vĩnh Minh Diên Thọ từ chùa Linh Ẩn về Trụ Trì, chấn hưng tông phong mạnh mẽ, độ hơn 1.700 đệ tử xuất gia. Tổ hằng ngày làm 108 Phật sự, niệm Phật mười vạn tiếng, tụng hết một bộ Pháp Hoa khiến khắp xa gần đều ngưỡng mộ tông phong chùa Tịnh Từ. Ngài Vĩnh Minh cũng đã soạn bộ Tông Kính Lục (100 quyển) lừng danh tại chùa Tịnh Từ. Túy Bồ Đề là xước hiệu của ngài Tế Điên vì Ngài thường làm ra vẻ điên cuồng, hay uống rượu say sưa, nhưng mỗi lời Ngài nói ra không câu nào chẳng hợp Thiền cơ, khiến người hữu duyên nghe xong tỉnh ngộ sâu xa.

[27] Nê Lê (Naraka), còn phiên âm là Na Lạc, Na Lạc Ca, Na La Kha, hay Nại Lạc, dịch nghĩa Khổ Khí, Khổ Cụ, chính là địa ngục. Chữ Nê Lê bao gồm những ý nghĩa “tối tăm, không đúng, chẳng thể vui sướng”. Theo Câu Xá Quang Ký quyển tám, chữ Na Lạc nghĩa là “người”, Ca nghĩa là “ác”. Như vậy Na Lạc Ca là người tạo nhiều tội ác, bị đọa vào trong ấy vì thế gọi là Na Lạc Ca. Có thuyết giải thích Ca có nghĩa là “vui sướng”, Nại là “không”, Lạc là “cùng với, tương ứng”. Như vậy, Nại Lạc Ca nghĩa là “chẳng tương ứng với vui sướng”, hoặc “chẳng thể cứu vớt được”!

[28] Do ngài Đạo Tế thường thị hiện những hạnh trái nghịch phạm hạnh xuất gia như uống rượu, ăn thịt chó, nhằm ẩn giấu thần thông để hóa độ người hữu duyên, nên có nhiều kẻ tưởng lầm tu Thiền đã giải ngộ rồi thì không cần giữ giới luật nữa, cứ phóng túng làm càn, nên tổ Ấn Quang khuyên: “Nếu nhận lầm phương hướng, muôn kiếp thường đọa lạc Nê Lê. Nguyện người học khéo phân biệt”. Sở dĩ gọi là “thuận tâm nghịch tích” vì ngài Đạo Tế là bậc kim thân La Hán, tâm đã giác ngộ thanh tịnh (“thuận tâm”) nhưng thị hiện những hành vi trái với oai nghi của người xuất gia nhằm ẩn giấu thân phận, nên gọi là “nghịch tích” (thể hiện hành vi trái nghịch).

[29] Chỉ thân xác, vẻ mặt của ông Khuất Tử Kiến sau khi đã mất.

[30] Theo tác phẩm Thiên Hạ Tàn Cuộc (tác giả Đàm Bá Ngưu, nhà xuất bản Đồng Tâm, Hoa Lục, 2006): “Chữ Danh tương đương với ‘hình thái ý thức’ trong ngôn ngữ hiện thời, tức là vận dụng lịch sử và kinh nghiệm cá nhân, phương pháp lý luận suy diễn từ nguyên nhân đến hậu quả để đề ra một khái niệm, hay một nguyên tắc hòng định khuôn mẫu cho nếp sống. Giáo tức là dạy dỗ, tuyên truyền sao cho mỗi cá nhân đều sống sao cho đạt được những mục đích chuẩn mực đã đặt ra trong Danh”. Như vậy, Danh Giáo có thể hiểu đại lược là những chuẩn mực về luân lý, đạo đức được đề cao trong xã hội.

[31] Liêm Lạc nói đủ là “Liêm Lạc Quan Mân” là bốn đại học phái Lý Học đời Tống, Liêm là phái Lý Học của Châu Đôn Di ở Liêm Khê, Lạc là phái Lý Học của Trình Di ở Lạc Dương, Quan là phái Lý Học của Trương Tải ở Quan Trung, còn Mân là phái Lý Học của Châu Hy ở đất Mân Việt (Phước Kiến).

[32] Minh thọ là sinh nhật của người đã mất.

[33] Giác Hoàng là một danh hiệu tôn xưng đức Phật, ý nghĩa giống như chữ Giác Vương. Do A Di Đà Phật đã thành Phật từ mười kiếp trước nên gọi là “cổ Giác Hoàng”.

[34] Bạch Phàn (Alumen) thường được gọi là phèn trắng, hay phèn chua, thường có màu trong suốt hoặc trắng ngả vàng, có công thức hóa học là KAl(SO4)2·12H2O. Đông Y thường dùng Bạch Phàn để giải độc sát trùng, chữa ghẻ, hoặc uống để cầm máu, chữa thổ tả, trừ phong đàm.

[35] Hà Đồn (globefish, puffer fish), có tên khoa học Takifugu Rubripes, là một loại cá rất độc, hình dáng giống cá Nóc bên ta, thân hình tròn ung ủng, đuôi và vây ngắn củn, trông giống như quả cầu nhỏ bị thổi phình lên nên còn có tên là Khí Cổ Ngư (cá trông như cái trống bơm căng) hoặc Xuy Đỗ Ngư (cá thổi phình bụng). Do thịt loại cá này ăn rất ngon, nên người Hoa xếp nó vào Trường Giang Tam Tiễn (ba món tươi ngon của sông Trường Giang), tức Hà Đồn, Đao Ngư, và Thời Ngư (cá cháy), nhưng trong mình Hà Đồn nó chứa một lượng chất độc có thể giết chết được ba mươi người trưởng thành (theo Wikipedia). Nếu không biết cách khử chất độc trên da cá, ăn vào sẽ bị trúng độc. Người Nhật gọi loại cá này là Fugu và chế biến thành một món Sushi rất đắt tiền, người đầu bếp làm món này khi được mướn phải trình cho nhà hàng văn bằng chứng nhận anh ta đã được huấn luyện cách chế biến đúng mức. Tuy thế, mỗi năm tại Nhật vẫn có cả trăm trường hợp chết vì trúng độc do ăn món cá này.

[36] Tỳ Sương (Arsenic Trioxide) còn gọi là Thạch Tín, chất độc không giết chết người ngay nếu uống với liều lượng nhỏ. Trong thế kỷ 18-19, do chưa hiểu biết về độc tánh của chất này, Âu Tây vẫn dùng một loại thuốc chứa chất Thạch Tín mang tên Arsphenamine để chữa bệnh!

Đằng Hoàng (Garcinia Morella) là chất nhựa trích từ một loài cây leo thuộc họ Đằng Hoàng (Clusiaceae) thường có hoa đơn màu vàng, mọc thành chùm, trổ từ kẽ lá, lá hình trứng. Chất keo Đằng Hoàng thường được dùng trong Đông Y để cầm máu, sát trùng, chữa bệnh phù thũng. Do họ Đằng Hoàng có nhiều loại cây hình dạng tương tự nên khi thu thập chế biến rất dễ hái lầm loại có chất độc.

[37] Chân đễ: Tình thương yêu, hòa thuận thật sự đối với anh em.

[38] Tiềm đức u quang: Những đức hạnh tốt đẹp ngầm kín, không bộc lộ.

[39] Cựu Đường Thư được biên soạn dưới đời Hậu Tấn. Năm Thiên Phúc thứ sáu (941), Tấn Cao Tổ (Thạch Kính Đường) sai bọn văn thần Trương Chiêu Viễn, Giả Vĩ… soạn bộ sử về triều Đường do tể tướng Triệu Oánh làm Tổng Giám Tu (Chief Editor). Đến năm Khai Vận thứ hai (845) sách mới hoàn thành. Lúc ấy, Lưu Hú đã thay Triệu Oánh làm Tể Tướng nên sách ghi tên vị Tổng Giám Tu là tể tướng Lưu Hú. Thoạt đầu, sách mang tên là Đường Thư, đến đời Tống khi nhóm các văn thần do Âu Dương Tu cầm đầu biên soạn bộ sử mới về nhà Đường, liền đổi tên tác phẩm này thành Cựu Đường Thư. Bộ Cựu Đường Thư dày đến 200 quyển, chép những sự kiện lịch sử từ năm Vũ Đức nguyên niên (618) đời Đường Cao Tổ đến năm Thiên Hựu thứ tư (907) đời Đường Ai Đế.

[40] Bộ Tân Đường Thư do các văn thần Âu Dương Tu, Tống Kỳ, Phạm Trấn, Lã Hạ Khanh cùng biên soạn, tổng cộng gồm 225 quyển. Do Tống Nhân Tông chê bộ Đường Thư biên chép lộn xộn, nhiều chi tiết thừa thãi, văn phong không rõ ràng, nên năm Khánh Lịch thứ tư (1044) xuống chiếu sai Âu Dương Tu, Phạm Kỳ v.v… sửa chữa, tu đính bộ Đường Thư tạo thành bộ sử mới. Bộ sử mới biên soạn trong suốt 17 năm mới xong. So với bộ Cựu Đường Thư, văn phong Tân Đường Thư tao nhã hơn, những bài viết dài hơn, hoa mỹ hơn, nhưng nội dung, dữ liệu chỉ bằng 7/10 bộ sử cũ. Tư Mã Quang khi soạn bộ Tư Trị Thông Giám chỉ sử dụng dữ liệu từ bộ Cựu Đường Thư; ông chê Tân Đường Thư chỉ có ưu điểm văn phong tao nhã, chứ đã tùy tiện lược bớt quá nhiều những sự kiện lịch sử, nhất là những dữ kiện về mối quan hệ ngoại giao giữa Đại Đường và các nước lân cận, lược bỏ truyện ký của những nhân vật có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng học thuật thời ấy như các ngài Huyền Trang và Nhất Hạnh (vì các vị đó là cao tăng nhà Phật), cũng như thiếu hẳn khí thế bi tráng khi mô tả sự kiện như trong bộ Cựu Đường Thư, nhiều sự kiện bị họ Âu tùy tiện sửa đổi theo thiên kiến nên không đáng được coi như một sử liệu khả tín. Sau này, Ngô Chẩn đã viết cuốn Tân Đường Thư Củ Mậu (uốn nắn những sai lầm trong bộ Tân Đường Thư) để nêu lên bốn trăm sáu mươi điều sai lầm trong bộ Tân Đường Thư, đồng thời phê phán rất nặng: “Không biết cách san định những điểm trọng yếu, chỉ biết tuân theo những gì mình ưa thích!”. Học giả Vương Hân Phu còn chê thẳng thừng: “Bọn Âu Dương Tu chỉ biết viết văn, coi thường khảo chứng!”

[41] Ngũ Đại Sử gồm hai bộ Cựu và Tân. Cựu Ngũ Đại Sử vốn có tên là Lương Đường Tấn Hán Châu Thư, nên thường được gọi tắt là Ngũ Đại Sử, được biên soạn từ tháng Tư năm Khai Bảo thứ sáu (973) đến tháng Mười năm Khai Bảo thứ bảy (974) theo lệnh của Tống Thái Tổ, do Tiết Cư Chánh cầm đầu một nhóm văn thần chấp bút. Bộ sử này chép những sự kiện lịch sử từ năm Khai Bình nguyên niên (907) đời Hậu Lương đến năm Hiển Đức thứ bảy (960) đời Châu Thế Tông (tức năm nhà Hậu Châu bị Bắc Tống diệt), gồm 150 quyển. Về sau, Âu Dương Tu tự biên soạn tu chỉnh bộ Ngũ Đại Sử, đặt tên là Ngũ Đại Sử Ký (đến thời Càn Long được gọi là Tân Ngũ Đại Sử), bộ sử mới được hoàn tất vào năm Hoàng Hựu thứ năm (1053), nhưng chỉ cất giữ tại tư gia, không phổ biến. Đến khi Âu Dương Tu mất, người nhà dâng lên triều đình, được phê chuẩn lưu hành. Khi bộ này được lưu hành, bộ Cựu Ngũ Đại Sử dần dần biến mất. Theo những sử quan thời cổ như Tư Mã Quang nhận định, khi biên soạn Tân Ngũ Đại Sử, Âu Dương Tu đã tùy tiện cắt xén những dữ liệu lịch sử theo thiên kiến yêu – ghét cá nhân, thiếu hẳn tính công bình, cẩn trọng cần có nơi một sử quan. Do vậy, đến thời Càn Long, dựa vào những phần được bảo tồn trong bộ Vĩnh Lạc Đại Điển đời Minh và hai mươi bộ sách giá trị khác như Sách Phủ Nguyên Giám, Thái Bình Ngự Lãm, Tư Trị Thông Giám Khảo Dị, Cẩm Tú Vạn Hoa Cốc, Thiên Trung Ký, Cổ Kim Tánh Thị Thư Biện Chứng v.v… Thanh triều đã cố gắng phục hồi diện mạo của bộ Cựu Ngũ Đại Sử, quy định bộ Cựu Ngũ Đại Sử là chánh sử, còn Tân Ngũ Đại Sử chỉ được coi như một tác phẩm văn chương. Ngô Chẩn (một học giả đời Thanh) đã biên soạn cuốn Ngũ Đại Sử Toản Ngộ (tập hợp những sai lầm trong bộ Ngũ Đại Sử) ba quyển để nêu lên những điều sai lầm nặng nề trong bộ Tân Ngũ Đại Sử. Sau đấy, Ngô Lan Đình đời Thanh cũng soạn bộ Ngũ Đại Sử Ký Toản Ngộ Phụ gồm sáu quyển để nêu tiếp những sai lầm trong bộ sử của Âu Dương Tu mà Ngô Chẩn chưa nhắc đến. Các sĩ phu nổi tiếng đời Thanh như Cố Viêm Vũ, Tiền Đại Hân cũng chê Âu Dương Tu luôn tự phụ đã viết sử theo phong cách kinh Xuân Thu, nhưng hoàn toàn chẳng hiểu thấu đáo cách viết sử của kinh Xuân Thu cũng như không phân biệt được sự khác biệt giữa viết sử và viết văn!

[42] “Triêu càn tịch dịch” vốn là một thành ngữ phát xuất từ một câu nói trong sách Châu Dịch: “Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược lệ, vô cữu” (Quân tử suốt ngày từ sáng đến tối cẩn thận dè dặt, không có chút coi thường, chểnh mảng nào, nên không lầm lỗi). Do vậy, “triêu càn tịch dịch” có thể hiểu là luôn cố gắng cẩn thận, giữ gìn, không coi thường, buông lung ý niệm.

[43] “Kế thiên lập cực” là một thành ngữ hiểu theo nghĩa đen là kế thừa ngôi vua, do vua được xưng tụng là thiên tử (con trời), ngôi vị cao nhất trong vạn dân, nên gọi là “kế thiên lập cực”. Hiểu theo nghĩa rộng, “kế thiên lập cực” là kế thừa đạo trời, dự vào ngôi vị cao cả, tức ngôi vị thánh nhân, thuận theo mạng trời, được vạn dân ngưỡng vọng.

[44] Theo Pháp Ngôn Nghĩa Sớ của Dương Hùng, chữ “thất thập tử” phát xuất từ một câu nói của Khổng Tử: “Tốc tai, thất thập tử chi tiếu Trọng Ni” (Nhanh chóng thay, bảy mươi người có thể giống như Trọng Ni vậy). Tiếp đó, Dương Hùng đã dẫn các lời chú giải như sau: “Nhan Sư Cổ chú thích: Thất thập tử nghĩa là [trong số] bảy mươi hai người đệ tử thấu đạt đạo của thầy, chỉ nêu số người đã học thành cái đạo của thầy nên nói là bảy mươi”. Ở đây, Tổ Ấn Quang đã mượn thành ngữ này để khen ngợi ông Giang Dịch Viên cũng như khen ngợi những người do khâm phục ông Giang đã tự đề xướng tu trì Tịnh nghiệp tại các nơi giống như học trò Khổng Tử đã truyền bá cái đạo của thầy vậy.

[45] Hạnh Đàn là tên gọi ngôi nhà nơi Khổng Tử dạy học tại huyện Tứ Thủy thuộc nước Lỗ xưa kia (nay thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông). Hạnh Đàn tại Khổng Miếu hiện thời là một công trình được xây dựng từ đời Kim trên nền cũ của ngôi trường ấy.

[46] Theo Phật Quang Từ Điển, Dã Can (Śrgāla) còn được phiên âm là Tất Già La, là một loại cáo nhỏ. Nhưng trong Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa, ngài Huyền Trang lại giảng: “Dã Can, tiếng Phạn là Tất Già La, sắc vàng lẫn xanh, giống như con chó, sống thành bầy, tối đến tru lên giống như tiếng sói tru. [Chữ Dã Can] đôi khi được viết thành Xạ Can”. Như vậy, có lẽ Dã Can là một loài sói hay chó rừng thì đúng hơn, không biết đây có phải là một loài chó rừng mà người Anh – Mỹ thường gọi là Jackal hay không?

[47] Ý nói: Phải tích cực làm lành (tức là có thực hiện điều thiện thì mới là làm lành), chứ không phải như bọn Lý học rêu rao “hễ có làm gì để làm lành thì là ác”. Các nhà Lý Học không hiểu thánh hiền đạo Nho dạy “không có gì để làm mới là làm lành” chính là làm lành nhưng không chấp trước vào việc làm lành, làm lành với tâm không phân biệt, tự nhiên làm lành như đói cần ăn, khát cần uống, nên làm lành mà cũng như không làm lành.

[48] Văn Miếu là nơi thờ Khổng Tử và 72 môn đệ (Thất Thập Nhị Hiền). Tại Văn Chỉ (một hình thức thu gọn của Văn Miếu tại mỗi làng), những người có chí khí, danh tiết cao đẹp trong làng cũng được thờ trong gian bên cạnh hoặc nơi bàn thờ phụ, gọi là “thờ phối hưởng”.

[49] Câu nói này vốn dựa theo ý một câu nói của La Thiệu Uy vào cuối đời Đường. Theo Tư Trị Thông Giám, nguyên văn câu nói của La Thiệu Uy là: “Hợp lục châu tứ thập tam huyện thiết bất năng chú thử thác” (Gộp sắt của bốn mươi ba huyện trong sáu châu cũng không đúc được lỗi lầm này). Nguyên lai, vào cuối đời Đường, các phiên trấn (những tướng lãnh nắm giữ binh quyền tại các địa phương) thế lực rất lớn. Khi Điền Thừa Tự giữ chức Tiết Độ Sứ vùng Ngụy Bác (bao gồm sáu châu Ngụy, Bác, Tương, Vệ, Bối, Đàn, nay thuộc vùng duyên hải của Bột Hải thuộc phía Bắc Hoàng Hà) đã tuyển lựa những quân sĩ thân tín, chu cấp hậu hĩnh, huấn luyện kỹ càng, tổ chức thành một đội quân tự vệ, gọi là Nha Quân. Đến khi La Thiệu Uy làm Tiết Độ Sứ vùng Ngụy Bác, do thấy Nha Quân thế lực quá lớn, kiêu binh tung hoành không thể kiềm chế được, thậm chí đôi khi còn làm loạn, giết cả Tiết Độ Sứ. Năm Thiên Hựu thứ hai đời Đường Chiêu Tông, một viên chỉ huy của Nha Quân là Lý Công Toàn gây binh biến, La Thiệu Uy bèn cầu cứu viên Tiết Độ Sứ có thế lực mạnh nhất thời ấy là Vũ Châu Ôn (ông này làm Tiết Độ Sứ vùng Tuyên Vũ, nay thuộc huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam). Châu Ôn liền phái bảy vạn nhân mã tiến vào Ngụy Bác, giết được tám ngàn Nha Quân, dần dần dẹp tan sự đối kháng của Nha Quân. Để cung cấp cho quân đội của Châu Ôn, La Thiệu Uy đã phải tốn hơn nửa ức tiền, giết đến gần bảy chục vạn trâu dê cho quân Châu Ôn ăn trong nửa năm, tốn kém lương thảo vô số. Lúc quân Châu Ôn rút đi, lại còn phải biếu tặng cả trăm vạn quan tiền. Từ đấy, vùng Ngụy Bác suy sụp, kiệt quệ, hoàn toàn không còn sức đối kháng ngoại địch. Như vậy, tuy La Thiệu Uy trừ được mối lo do Nha Quân gây ra, nhưng cũng đồng thời tự diệt sạch lực lượng chính bảo vệ vùng Ngụy Bác, hoàn toàn chịu sự chi phối của Châu Ôn. Do đó, La Thiệu Uy mới hối hận thốt lên thời than thở như vậy. Từ câu nói ấy đã phát sanh thành ngữ ‘chú thành đại thác’ vốn thường được dùng để chỉ lỗi lầm chết người do ham mối lợi nhỏ trước mắt mà ra.

[50] Theo thiên Nghệ Văn Chí trong Tống Sử và sách Quận Trai Độc Thư Phụ Chí, ẩn sĩ Lý Xương Linh đời Tống đã biên soạn cuốn Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, thác danh Thái Thượng Lão Quân giáng cơ. Tuy thế, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đồng ý ai thật sự là tác giả của cuốn sách này. Do nội dung sách này khuyến thiện làm lành rất tích cực, nó được người Trung Hoa rất ngưỡng mộ, cũng như được rất nhiều người viết lời chú giải. Sách càng được nổi tiếng lưu hành mạnh mẽ hơn khi được học giả Huệ Đống đời Thanh chú giải tường tận, cho đến hiện thời cuốn sách này vẫn được lưu hành rất rộng và được Phật môn Trung Hoa rất coi trọng.

[51] Âm Chất Văn tên gọi đầy đủ là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn, chưa rõ ai là tác giả. Châu Khuê đời Thanh khi giảo chánh cuốn Âm Chất Văn Chú đã nhận định: “Âm Chất Văn nói những chuyện liên quan đến đời Tống, ắt phải do người đời Tống biên soạn”. Học giả Tửu Tỉnh Trung Phu của Nhật lại cho rằng tác phẩm này phải được hình thành vào cuối đời Minh, nhưng không đưa bằng chứng đủ tính thuyết phục nào. Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của Âm Chất Văn, các đạo sĩ đã biên soạn Văn Đế Cứu Kiếp Kinh và Văn Đế Diên Tự Kinh để tiếp tục xiển dương tư tưởng khuyến thiện trừng ác trong Âm Chất Văn. Âm Chất Văn thác danh Văn Xương Đế Quân giáng cơ. Văn Xương Đế Quân vốn còn gọi là Tử Đồng Đế Quân, theo truyền thuyết vốn là Trương Á Tử, làm quan đời Tấn, chết trận, được dân chúng lập miếu thờ, rất hiển linh. Do các đạo sĩ đời Tống – Nguyên viết truyện nói ông Trương được Thượng Đế sắc phong làm Tử Đồng Đế Quân và đã nhiều lần giáng thế, được thiên đình giao cho nhiệm vụ chưởng quản phủ Văn Xương chuyên coi về việc học hành, thi cử, quan chức của thế gian nên còn có tên là Văn Xương Đế Quân. Do vậy, năm Diên Hựu thứ ba (1316) đời Nguyên, vua đã sắc phong cho Văn Xương Đế Quân một tước hiệu thật dài “Tử Đồng Thần Vi Phụ Nguyên Khai Hóa Văn Xương Tư Lộc Hoằng Nhân Đế Quân”. Chữ Âm Chất phát xuất từ thiên Hồng Phạm sách Thượng Thư: “Duy thiên âm chất hạ dân” thường được giải thích là “trời ngấm ngầm bảo vệ, che chở muôn dân”. Từ đó, Âm Chất được hiểu là làm những việc công đức ngấm ngầm, không khoe khoang, rêu rao cho người khác biết. Đặc điểm của Âm Chất Văn là dung thông những quan điểm của Tam Giáo, đặc biệt đề cao nhân quả, luân hồi, báo ứng, nên rất được Phật môn Trung Hoa coi trọng.

Tin liên quan