Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên | Quyển 4 | Phần 3

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao

Tam Biên

Quyển 4

(Phần 3)

Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ

 

  1. Đáp lời hỏi của Thôi Thụ Bình cư sĩ

Hỏi: Địa Tạng Vương Bồ Tát là bậc phụng hành Phật pháp, nhậm chức U Minh Giáo Chủ[1] trong chốn Âm Tào, vào trong lục đạo để độ chúng sanh. Nhưng thường nhân hay tưởng lầm Ngài là thần kỳ[2] hoặc là linh quỷ. Những loại quan niệm như vậy chẳng phải chỉ có một mà thôi. Làm thế nào để phân biệt vị Bồ Tát phụng hành Phật pháp và thiên tiên, quỷ thần?

Đáp: Thần kỳ là do nghiệp báo cảm thành nên có thể bảo là “nhậm chức”. chứ Địa Tạng Bồ Tát do hoằng thệ đại nguyện bèn ở trong U Minh độ thoát chúng sanh, sao lại bảo là Ngài “nhậm chức”? Người đời chẳng hiểu rõ phàm – thánh, nhất loạt coi là quỷ thần, cũng không có chi lạ cả! Ví như đứa bé chỉ biết người trong nhà, hết thảy những người khác nó đều hoàn toàn chẳng biết tới, sẽ bảo hết thảy mọi người đều chẳng tôn quý bằng cha mẹ nó! Đã biết: Bậc đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử chỉ mới là bậc thánh nhân trong Tiểu Thừa; còn bậc phá vô minh, chứng Pháp Tánh thì mới đáng gọi là Đại Thừa Bồ Tát. Nhưng [những vị nào] chưa đoạn phiền não, cậy vào phước lực trong đời trước thì sẽ làm thần kỳ, địa vị còn kém xa chư thiên, huống là so với bậc đại Bồ Tát đã chứng Pháp Thân ư? Nếu chẳng biết Phật pháp thì có phán định cũng chẳng hiểu rõ. Nếu đã biết Phật pháp thì cần gì phải phán định nữa!

Hỏi: Cảm Ứng Thiên là do ai trước tác? Đối với sách vở của các tôn giáo khác thì dùng pháp nào để phân biệt, đoán định?

Đáp: Bản Cảm Ứng Thiên thường được lưu hành có ghi hai chữ Thái Thượng, [là vì người đời] cho [tác phẩm này] là do Lão Tử[3] viết ra. Cũng có kẻ cho rằng nó vốn là [một thiên sách trích từ bộ] Bão Phác Tử[4] rồi được mở rộng ra. Nhưng bất tất phải xét tìm ai là tác giả? Chỉ cần quan tâm đến những điều lợi ích do sách ấy đem lại. Đấy gọi là “chẳng vì người mà bỏ lời[5] vậy! Tuy thánh nhân lập pháp, nhưng cố nhiên không nhất định phải coi [toàn bộ] những lời thánh nhân [đã nói] là khuôn mẫu, chỉ nên quan tâm chọn lấy những gì có ích cho thế đạo nhân tâm. Trùng Văn, Điểu Thư[6] là đầu mối mở mang văn tự lớn lao, nào dám vì Trùng, Điểu không đáng trọng mà chẳng dùng đến văn tự ư? Nêu lên một chuyện này thì sẽ có thể dứt được những lời lẽ rườm rà vô ích bàn bạc đúng – sai xằng bậy! Những lời lẽ rườm rà ấy vẫn chẳng có phong vị thiên nhiên như chim mùa Xuân ríu rít lúc ban ngày, trùng mùa Thu rền rĩ ban đêm vậy.

      Hỏi: Thế nào là Ngũ Bộ Lục San?

      Đáp: Đấy là sách do ngoại đạo bịa đặt viết ra, chia thành năm bộ loại, nhưng có sáu cuốn, nên gọi là Ngũ Bộ Lục San[7]. Loại sách ấy cần gì phải hỏi đến? Hỏi đến thì sẽ giống như chẳng coi Tứ Thư Ngũ Kinh là đúng, cứ muốn nghiên cứu những khúc hát quê mùa do lũ trẻ nít xướng lên ngoài ngõ! Uổng phí tâm thần, trọn chẳng có ích gì!

Hỏi: Bình (Thôi Thụ Bình tự xưng) làm luật sư, thụ lý hồ sơ vụ án. Do chức vụ, con phải soạn án từ, cố nhiên vẫn tùy thời chú ý để khỏi gieo nhân ác. Nhưng để giải oan cho người khác, con thường gặp những trường hợp có đủ chứng cớ phạm tội, khi giao cho Đề Hình[8] khởi tố, tuy bản án phát xuất từ ý chỉ của những người được ủy thác [làm nhiệm vụ xét xử], nhưng do con soạn án từ mà kẻ ấy bị lãnh tội, trong tâm trọn chẳng yên. Những kẻ nắm giữ luật pháp hiện thời chỉ nói riêng tại Thượng Hải đã có hơn tám trăm người, cố nhiên chẳng thiếu những kẻ còn giữ được một ít lương tâm, nhưng có rất nhiều kẻ tuy chẳng cẩn thận vẫn chẳng hề bận tâm, thậm chí hèn tệ chẳng thể kham được! Những người trực tiếp hay gián tiếp mắc phải họa hại bởi lũ ấy không thể nào gập ngón tay [để đếm xuể]. Dám xin thầy khai thị, đấy cũng là một đầu mối để cứu vãn lòng người vậy.

      Đáp: Đối với những chuyện ấy phải thường xuyên giữ lòng nghĩ tưởng trời đất, quỷ thần, Phật, Bồ Tát đều thấy rõ, biết tỏ cái tâm của ta thì sẽ tự chẳng đến nỗi tạo ác nghiệp. Nếu không, vốn nhằm giải quyết khó khăn, tháo gỡ rắc rối mà lập ra biện pháp ấy, nhưng thật ra là căn cứ để gạt gẫm dân lành, ban thưởng khích lệ kẻ gian trá. Đáng sợ đến cùng cực! Nếu có cách sanh sống khác, cố nhiên tốt nhất là nên thoát khỏi phạm vi ấy!

 

  1. Đáp lời hỏi của Huyễn Tu Học Nhân

      Hỏi: Chuyên tu trì danh, nguyện được Niệm Phật tam-muội, cầu sanh Tịnh Độ thì dụng công ra sao?

      Đáp: Dùng tín nguyện sâu để niệm Phật. Niệm Phật tam-muội cũng chẳng dễ gì đạt được, nhưng phải thường nên phát cái tâm ấy. Đấy gọi là “noi theo pháp bậc thượng, chỉ đạt được bậc trung”.

      Hỏi: Có kẻ nói niệm ra tiếng, trì danh theo lối Truy Đảnh[9], có người bảo niệm Kim Cang trì, có người nói niệm thầm, có người bảo nhớ số, có người nói “tùy tức” v.v… Muốn đắc nhất tâm bất loạn thì có nên chuyên trì một pháp hay không?

      Đáp: Truy Đảnh dễ bị bệnh. Niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng, niệm Kim Cang hay thầm niệm, đều tùy theo tinh thần của chính mình mà điều chỉnh để dùng. Há nên chấp chết cứng một pháp đến nỗi bị bệnh ư? Tùy Tức chẳng bằng Tịnh Thính (lặng lẽ lắng nghe), bởi lẽ Tùy Tức không khéo thì cũng bị bệnh, còn Tịnh Thính thì chẳng bị bệnh!

      Hỏi: Có lúc Kim Cang trì, có lúc niệm thầm, có lúc nhớ số, có lúc niệm theo lối Tùy Tức v.v… chẳng biết [niệm như vậy] có gây trở ngại cho nhất tâm hay không?

      Đáp: Nhất tâm là do niệm, chứ không phải do âm thanh niệm Phật, sao lại bảo là trở ngại? Nhớ số cũng chỉ là nhớ khi động, chứ khi ngồi tịnh tọa chỉ nên niệm thầm, đừng nên lần chuỗi. Nếu lần chuỗi ắt bị tổn thương.

      Hỏi: Hiện thời trong khi tịnh tọa, học nhân niệm ra tiếng bốn chữ hồng danh, nhiếp tâm niệm thiết tha, áp dụng phương pháp “tâm – miệng [niệm Phật] phân minh, rõ ràng để chấp trì, dùng tai lắng nghe”, hơi cảm thấy khinh an (nhẹ nhàng, dễ chịu). Con muốn tu sao cho đạt đến nhất tâm bất loạn thì có thể chuyên hành pháp ấy hòng đạt được hay không?

      Đáp: Pháp ấy rất hay! Lúc tịnh tọa nên niệm thầm, niệm ra tiếng cũng được. Nhất tâm bất loạn là do tâm chuyên chú và khẩn thiết vậy!

      Hỏi: Trong bộ Văn Sao cao quý của thầy, pháp Tùy Tức được cực lực đề xướng, nhưng chưa nói rõ cách niệm như thế nào? [Niệm Phật Tam Muội] Bảo Vương Luận ghi: “Có thể nương cậy lớn lao vào pháp này”, nhưng cũng chỉ nói: “Xưng danh hiệu Phật theo hơi thở”, con vẫn chưa hiểu rõ cách niệm như thế nào? Chỉ có sách Sức Chung Tân Lương ghi: “Tùy Tức Niệm Phật dùng khi thở ra chứ không dùng khi hít vào. Cứ mỗi một hơi thở ra là một câu, hoặc hai chữ đều được” Học nhân nghi rằng: Khi hít vào chẳng niệm, há chẳng phải là gián đoạn ư? Con thường thử luyện mỗi hơi thở ra là một câu, cảm thấy rất phí sức, mà niệm cũng chẳng rõ ràng cho lắm! Chỉ có khi hít vào niệm A Di, thở ra niệm Đà Phật thì đã không gián đoạn, mà còn được rõ ràng, lại chẳng tốn sức. Chẳng biết cách niệm như vậy có được hay chăng? Hay là lúc hít vào thì chẳng được niệm?

      Đáp: Khi hít vào chẳng niệm, trong khi ấy sao lại nói là gián đoạn? Thở ra niệm một câu, hít vô bèn chẳng niệm; chứ khi hít vô lẫn thở ra đều niệm ắt sẽ bị tổn khí. Nếu chỉ niệm hai chữ thì trong một hơi hít vô thở ra niệm một câu Phật hiệu sẽ chẳng trở ngại chi!

      Hỏi: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, hành trì như thế nào?

      Đáp: Tông chỉ của Niệm Phật là sanh lòng tin chân thật (tức Tín), phát nguyện thiết tha (tức Nguyện), chuyên trì Phật hiệu (tức Hạnh). Ba pháp Tín – Nguyện – Hạnh là tông chỉ của Niệm Phật. Phương pháp dụng công Niệm Phật hay nhất là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. “Nhiếp trọn sáu căn” là cái tâm niệm Phật chuyên chú nơi danh hiệu Phật, tức là nhiếp Ý Căn. Miệng phải niệm sao cho rõ ràng rành rẽ, tức là nhiếp Thiệt Căn. Tai nghe cho rõ ràng rành rẽ tức là nhiếp Nhĩ Căn. Ba căn ấy được nhiếp trong Phật hiệu thì mắt quyết chẳng thể nhìn ngó loạn xạ. Khi niệm Phật nên buông rèm mắt xuống, tức là hạ thấp mí mắt xuống, chớ nên mở banh mắt. Mắt đã nhiếp rồi thì mũi cũng chẳng thể ngửi loạn được, tức là mũi cũng được nhiếp! Thân phải cung kính tức là thân cũng bị nhiếp. Sáu căn đã nhiếp, chẳng tán loạn thì tâm không vọng niệm, chỉ nghĩ đến Phật; đấy mới là tịnh niệm.

Hễ sáu căn không nhiếp thì tuy niệm Phật trong tâm vẫn có vọng tưởng tơi bời, khó đạt được lợi ích thật sự. Nếu có thể nhiếp trọn sáu căn để niệm thì gọi là “tịnh niệm tiếp nối”. Tịnh niệm đã có thể thường tiếp nối thì nhất tâm bất loạn và Niệm Phật tam-muội sẽ đều có thể dần dần đạt được. Xin chú ý chỉ mong đạt được “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” thì nghiệp sẽ tiêu, trí sẽ rạng, tâm địa sẽ khai thông, lo gì chẳng hiểu rõ nghĩa kinh nữa! Xin hãy gắng sức!

 

  1. Đáp lời hỏi của cư sĩ Châu Văn San

      Con có những điều thưa hỏi kể ra như sau, kính xin thầy chỉ bày. Công đức vô lượng!

      1) Lão pháp sư niệm Phật phát chí nguyện lớn lao như thế nào?

      Đáp: Nguyện sanh Tây Phương, thấy Phật, nghe pháp, chứng Vô Sanh Nhẫn, trở vào Sa Bà phổ độ chúng sanh.

      2) Thân người cầu liễu thoát đến nơi đâu?

      Đáp: Đến Cực Lạc thế giới.

      3) Phật nói: “Chúng sanh đều có trí huệ của Như Lai” là đã gộp cả Tín – Nguyện – Hạnh vào trong ấy hay chăng?

      Đáp: Trí huệ của Như Lai không pháp nào chẳng bao gồm, nói trên phương diện chúng sanh thì chỉ là Lý Tánh mà thôi, chớ nên hiểu lầm!

      4) Chúng sanh cõi Sa Bà sanh vọng tưởng thì là Ngã Kiến hay không phải Ngã Kiến?

      Đáp: Vọng tưởng bao gồm hết thảy phàm tình, Ngã Kiến là [phàm tình] nặng nề nhất.

 

  1. Đáp lời hỏi của cư sĩ Du Đại Tích

      Kính đem những nghĩa con thường nghi chia thành mười bốn điều như sau, cúi xin thầy chỉ dạy uốn nắn.

      1) Người tu hành dứt ác làm lành là chuyện thuộc về bổn phận, đáng nên gắng công, nhưng có điều ngoài công khóa và mười hai thời ra, ba tâm quá khứ, hiện tại, vị lai qua lại loang loáng, nói chung là chưa thể trừ. Tâm nghiệp chưa trừ cho sạch được thì có gây trở ngại cho sự vãng sanh hay chăng?

Đáp: Công khóa hãy nên chuyên, đừng nên xen tạp. Hễ chuyên sẽ dễ nhiếp tâm, còn tạp sẽ khó thể quy nhất được! Vãng sanh là do tín nguyện chân thiết. Nếu không có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu cho tâm thanh tịnh cũng khó được vãng sanh. Chớ nên không biết!

2) Cổ đức nói: “Ái chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà”. Phải nên trừ ái là lẽ đương nhiên! Nhưng trong vòng con cháu, giữa lẽ lợi – hại, nói chung chẳng thể mặc kệ, quên bẵng tình cảm thì làm như thế nào để chế ngự được?

Đáp: Yêu thương con cháu thì phải yêu thương theo đúng lẽ đạo: Dạy cho chúng nó đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, tín nguyện niệm Phật thì lòng yêu thương ấy liền trở thành Trợ Hạnh cho tịnh nghiệp. Đấy chính là căn cứ lớn lao để ngừa hại đạt lợi vậy!

3) Tử Bách lão nhân nói: “Làm chủ được giấc mộng thì khi lâm chung sẽ tự chủ được”. Như vậy là cảnh trong mộng hết sức quan yếu! Khi lên giường sắp ngủ, con cũng từng niệm thầm, nhưng đến khi mộng vẫn là tơi bời tán loạn, chẳng dính dáng gì đến Niệm Phật hết. Thậm chí có lúc [nằm mộng thấy] ăn mặn, có khi biết ngay, hoặc chẳng biết liền, thật đáng hận, đáng thẹn! Con nên dùng cách nào để vãn hồi?

Đáp: Muốn mộng cảnh tương ứng hãy nên cật lực cầu tương ứng trong khi ban ngày. Nếu lúc tỉnh thường tương ứng thì trong mộng sẽ tự được tương ứng.

4) Người tu hành có cảnh giới tốt đẹp thì hoặc mộng đến Tây Phương, hoặc gặp mặt Di Đà, hoặc ngửi thấy mùi hương lạ, hoặc thấy hoa sen. Cư sĩ Vương Quý Quả ở tỉnh Tương (Hồ Nam) thường được thấy như thế. Con niệm Phật suốt mười năm không có tướng lành nào phát hiện, lỡ lâm chung vẫn như thế thì có phải sẽ khó đến được Cực Lạc hay chăng? Rốt cuộc có nên cứ để xuôi theo tự nhiên, đừng sanh lòng mong mỏi gì hết ư?

Đáp: Chỉ cầu tâm hợp với Phật, chẳng cần phải dốc sức để thấy được cảnh giới. Tâm đã tương ứng với Phật mà có tín nguyện chân thật sẽ chắc chắn vãng sanh. Nếu tâm mong cầu cảnh giới mà chưa tương ứng thì hễ có cảnh hiện ra, có thể sẽ bị ma dựa.

      5) Tuổi tác già suy, chẳng thể thức dậy ngay trong đêm. Con có nên suốt cả một ngày tận hết tâm lực để dụng công [tụng niệm, tu tập], đến chỗ nào cần phải thể hiện lòng thành kính nhưng tâm không thấy được thì lạy nhiều để biểu lộ. Trong mười đại nguyện vương, điều đầu tiên là lễ kính, lợi ích như thế nào?

      Đáp: Tuổi già thân thể vẫn mạnh thì cố nhiên lễ nhiều là tốt. Chứ nếu không thì trong hết thảy thời, hết thảy chỗ thường giữ lòng kiêng nể thì cũng là ý nghiệp lễ kính!

      6) Khi niệm Phật, ngồi xếp bằng trước tượng Phật, miệng niệm, tai nghe, tay lần chuỗi, tâm tưởng Vô Lượng Quang Phật để mong tam mật tương ứng, nhưng vẫn không thể tránh khỏi hôn trầm, tán loạn thì nên thong dong để đợi khi thuần thục hay là có pháp nào để giúp đạt được “nhiếp trọn sáu căn” hay chăng?

      Đáp: Ngồi xếp bằng niệm thì chớ nên lần chuỗi. Hễ lần chuỗi tâm sẽ khó lắng bặt suy tư, có thể bị bệnh. Hãy nên dựa theo đồng hồ để tính số câu niệm, một khắc niệm được bao nhiêu câu Phật hiệu sẽ giống hệt như lần chuỗi. “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” chính là pháp chế ngự cái tâm hay nhất.

7) Ưa điều lành dường như phát xuất từ tánh mà thành. Chỉ vì lực bất tùng tâm nên chẳng thể tài thí, cũng không thể pháp thí được. Chỉ đành hễ gặp ai thì đều khuyên bảo niệm Phật, ăn chay. Cũng như năm năm trước đây, buổi sáng con tụng công khóa, buổi chiều ra khỏi cửa thu nhặt giấy có viết chữ bị [người ta] quăng bỏ; gần đây tinh lực suy nhược hơn, công khóa cũng tăng, chẳng thể chuyên chú, thành kính đi ra ngoài thâu nhặt [giấy có viết chữ] được nữa. Chỉ trong lúc đi đường thì vẫn chú ý thâu nhặt; xét ra có trở ngại gì cho việc niệm Phật hay không?

Đáp: Người niệm Phật nên tu hết thảy thiện hạnh, nhưng cần phải chia ra thành Chủ – Bạn, Chánh – Trợ. Nếu đảo lộn vị trí của Chủ và Bạn sẽ được lợi rất nhỏ. Nếu có thể dùng Bạn để giúp cho Chủ thì sẽ như một người khoanh tay, trăm quan lo liệu việc cai trị, nào còn có trở ngại gì để nói nữa đây?

8) Tam phước, tam tâm trong Quán Kinh phải giữ gìn cẩn thận, hễ hơi dễ duôi liền mất ngay, chưa khỏi có chỗ không thực hiện được! Con thường tự oán, tự thẹn, do vậy thường niệm Sám Hối Văn, rốt cuộc có tiêu trừ được tội khiên hay không?

Đáp: Tiêu trừ tội khiên chẳng thể nói lơ mơ được. Chẳng viên thành Phật đạo sẽ chẳng thể nào hết sạch tội khiên! Chúng ta tiêu trừ được bao nhiêu chỉ là do lòng Thành cạn hay sâu mà định.

9) Người già dẫu khỏe mạnh cũng chẳng đáng tin cậy, phải chuẩn bị sẵn biện pháp cho cái chết. Con tính không nhận lễ phúng điếu, lúc liệm hoàn toàn dùng vải, chỉ mặc một cái áo hải thanh, y năm điều, ngọa cụ xếp bên cạnh. Nếu dựa theo cấm chế của Phật thì những thứ ấy chẳng dùng để liệm theo, nhưng nay người ta thường liệm theo [người chết]. Có nên chẳng câu nệ đội mão Tăng, đi hài Tăng, hết thảy [cỗ bàn cúng bái] đều dùng món chay, cúng thất, thỉnh Tăng niệm kinh?

Đáp: Nên lấy những lời khuyên răn nhắc nhở trong Văn Sao của Quang để dặn sẵn con cháu, [bảo họ] ắt phải chiếu theo đó để hành, ngõ hầu ông chẳng đến nỗi bị con cháu phá hoại chánh niệm.

10) Niệm Phật tự biết chẳng đắc lực, muốn tăng thêm công khóa nhưng chỉ vì không có sức, lại không có thời gian, nếu cứ để như vậy mãi, sợ ít có cơ hội nắm chắc vãng sanh, nhưng chí lại quyết muốn vãng sanh, rốt cuộc con nên dùng cách nào để có thể muôn phần trông cậy?

Đáp: Được vãng sanh hay không, hoàn toàn do có tín nguyện hay không? Sao lại nói bừa, tán gẫu, chẳng lấy lời cổ nhân đã nói để làm kim chỉ nam vậy?

11) Ở nơi đây hai thứ Long Hoa Giáo[10] và Tiên Thiên Giáo[11] rất thịnh hành. Khuyên can, ngăn trở thì chúng nó cứng chắc không thể phá, khoe hai giáo ấy cũng sanh về Tây phương được. Rốt cuộc [tu tập hai giáo ấy] có thể làm trợ nhân [cho sự nghiệp vãng sanh] hay chăng? Nếu có thể làm như vậy được thì con sẽ học theo để “tắt lại càng thêm tắt!”

Đáp: Ông đã quy y Phật pháp, tu trì Tịnh nghiệp, mà còn nghe theo lời ma mị của ngoại đạo, muốn học theo. Sao chẳng biết tốt – xấu đến mức như thế?

12) Khi niệm Phật tâm thường hay tán loạn, có kẻ nói là bị ảnh hưởng bởi tuổi tác. Nếu như tuổi già tâm tán loạn, chẳng thể thâu tóm được, thì người già quyết chẳng thể vãng sanh ư? Rốt cuộc có phải là vì tuổi tác hay là do công phu chưa đến mức đúng đắn?

Đáp: Ông không nhất tâm là do trong tâm không có chánh kiến; do không có chánh kiến nên không có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha. Hễ có tín nguyện chân thật, thiết tha, dẫu chưa thể nhất tâm vẫn được vãng sanh. Nếu không có tín nguyện chân thật, thiết tha, dù có thể nhất tâm, cũng khó thể vãng sanh bởi vãng sanh là do nương vào Phật lực vậy.

13) Trong số các đạo hữu ở đây, có một người rất chịu dụng công, thọ giới, ăn chay trường, chỉ có điều nhà ông ta giàu nứt đố đổ vách nhưng đối với chuyện công đức chẳng chịu bỏ tiền ra, [như vậy thì] có trở ngại cho sự niệm Phật sanh về Tây phương hay không?

Đáp: Gã thần giữ của ấy tâm địa ô trược, hèn tệ, vẫn muốn cho con cháu phú quý lâu dài. Sợ rằng do cái tâm tham tài sẽ chuyển thành quả báo sanh trong loài ngạ quỷ cho nên trong kiếp vị lai hắn mới được thọ dụng thiện căn niệm Phật.

14) Một người suốt ngày niệm Phật và cùng với mọi người niệm Phật nửa ngày thì so ra lợi ích nào lớn hơn? (Hội niệm Phật ở nơi đây cứ vào ngày thứ Tư liền nhóm chúng niệm Phật nửa ngày).

Đáp: Cùng nhau niệm Phật là chuyện đề xướng. Tùy phận tùy lực tu trì cố nhiên chẳng ăn nhập gì tới niệm chung với đại chúng hay hành riêng một mình; nhưng muốn tu hành thật sự hãy nên bớt phô trương ngõ hầu có lợi ích thật sự.

Mười bốn điều trên đây phần nhiều là đại bệnh sát sao của Đại Tích, nên con chẳng ngại mạo muội thưa hỏi từ nơi xa xăm, thiết tha cầu xin thầy chia thành từng điều để chỉ dạy. Thầy liền phê ngay vào lá thư gốc, chẳng khác nào lò rèn nung luyện vậy. Đệ Tử Du Đại Tích dập đầu lần nữa.

[Sư phê]: Xin hãy đọc kỹ Văn Sao thì mọi mối nghi sẽ tự cởi gỡ. Ở đất Hỗ do lắm việc bận bịu nên tôi chẳng thể viết cặn kẽ được!

 

  1. Đáp lời hỏi của cư sĩ Vương Tụng Bình (lược câu hỏi đi)

      1) Tịnh Độ là “duy tâm sở tạo” (chỉ do tâm tạo) thì hãy nên nói là “duy tâm”, chẳng nên vừa gọi là Tịnh Độ, lại vừa gọi là “sở tạo”. Nếu đã là cõi Tịnh Độ chỉ được tạo bởi tâm, sao lại chỉ nói là duy tâm, chứ trọn chẳng có Tịnh Độ nào khác là cảnh ở bên ngoài ư? “Duy tâm Tịnh Độ” là dùng tâm thanh tịnh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đến khi lâm chung, sẽ do tịnh tâm của chính mình mà cảm đức Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. [Chẳng hạn] như phương này chính là duy tâm Tịnh Độ. Nếu không có Tịnh Độ thì chỉ có thể nói là “duy tâm”, há lẽ nào từ trong Không lại sanh ra Có, có thêm một cái Tịnh Độ nữa ư? Lại có thêm một cái được tạo nữa ư? Vốn không có Tịnh Độ thì tạo cái gì? Kẻ tà kiến ngăn trở người khác tu hành, tự cao giọng đề xướng, chẳng biết những lời lẽ của chính mình đã hoàn toàn mâu thuẫn lẫn nhau. Muốn phá người khác tu trì nhưng thật ra là tự phá, tự phô bày tri kiến tà vạy, lầm lạc mà thôi!

      2) Độc ác và từ thiện chẳng chống trái nhau. Nếu ai tâm không độc ác thì rắn, cọp cũng có thể làm bạn được. Dẫu chưa đạt đến địa vị ấy, nhưng nếu là người lành thường niệm Phật, niệm kinh, chắc chắn chẳng bị những giống ấy làm hại. Do sẵn lòng từ thiện sẽ có thể cảm hóa được những loài độc ác ấy, huống chi người tu hành thường được thiện thần hộ vệ ư?

      3) Chưa đạt đến địa vị “Chân cùng, Hoặc tận” thì tự nhiên thân tâm thế giới sẽ là có thật. Đã đạt đến địa vị “Chân cùng, Hoặc tận” thì trong cái nhìn của người đó [thân, tâm, thế giới] đều là không, còn trong cái nhìn của người chưa đắc được đạo ấy thì chúng đều là có. Chớ nên lẫn lộn thánh – phàm, lý – sự để rồi ăn nói hàm hồ, xằng bậy! Bản thể của tâm chúng sanh chính là Chân Như Thật Tướng, hiềm rằng do [chúng sanh] chưa ngộ được nên tuy suốt ngày nương vào sức Chân Như ấy mà suốt kiếp vẫn chẳng biết Chân Như nằm đâu! [Tuy] nói “vô minh vốn không có cội rễ, đầu mối”, nhưng do chúng sanh chưa ngộ, lại muốn dạy cho họ biết về cái chẳng phải tự họ vốn sẵn có[12], cho nên nói là “Chân Như chẳng giữ lấy tự tánh, nhưng khởi vô minh”, chứ thật ra chẳng phải là ban đầu không có [vô minh], về sau lại có! Nói như vậy là vì muốn cho người khác dễ hiểu bản thể. Ví như vàng nằm lẫn trong quặng, chứ không phải thoạt đầu thuần là vàng sau đó mới sanh ra quặng. Cần biết rằng: Vàng nằm trong quặng, nhưng vàng vẫn chẳng phải là quặng. Luyện quặng sẽ được vàng, quặng chẳng trộn lẫn vào vàng. Chúng ta hãy nên dốc sức ở chỗ phá vô minh, chớ nên bận tâm nơi những danh từ như “thế giới có hay không, Chân Như, vô minh, sanh diệt” để rồi sanh nghị luận lầm lạc! Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Bát Nhã Ba La Mật Đa nên thấy thấu suốt Ngũ Uẩn đều không, thân, tâm, thế giới chính là Ngũ Uẩn. Chúng ta chưa đạt đến địa vị Bát Nhã sâu xa, hãy nên coi thân, tâm, thế giới là thật có. Thế giới hư huyễn, nhưng phàm phu thường nghi [điều ấy] là sai; chứ nếu phàm tình đã hết sạch thì sơn hà đại địa đều chẳng trở ngại lẫn nhau. Vì thế, cổ đức nói: “Nếu có thể ngay lập tức mất sạch tình kiến thì sẽ đi thẳng qua vách núi [không bị ngăn ngại gì]”.

 

  1. Đáp lời hỏi của cư sĩ Duyên Tịnh

      Hỏi: Hành nhân niệm Phật, đầu tiên phải lấy nghiêm trì Ngũ Giới làm nhiệm vụ cấp bách, ngõ hầu niệm Phật dễ được tịnh tâm, lâm chung vãng sanh cũng ổn. Nhưng hai chúng tại gia sống nơi Phật pháp suy đồi, khó thể tìm được một vị cao tăng hòng thọ giới đúng pháp. May là trong kinh Phạm Võng từng mở ra một phương tiện lạ, cho phép đối trước tượng Phật chí thành sám hối bảy ngày, nếu thấy hảo tướng liền có thể tự thệ thọ giới. Kinh Địa Trì[13] cũng nói như thế nhưng không có đoạn kinh văn nào nói về chuyện [phải] thấy hảo tướng [rồi mới được phép tự thệ thọ giới], so với kinh Phạm Võng lại càng dễ hơn nữa. Khi ấy, đệ tử nghi ngờ, chẳng biết rốt cục nên tuân theo kinh nào mới đúng? Về sau, đọc Linh Phong Tông Luận, trong ấy đã giảng rõ lý lẽ: [Pháp tự thệ thọ giới] trong kinh Phạm Võng được lập ra cho kẻ chưa phát tâm, còn Địa Trì là lập ra cho kẻ đã phát tâm. Nay bọn đệ tử tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, có thể coi là kẻ đã phát tâm thì có thể nương theo kinh Địa Trì để thọ giới được hay chăng? Ngay trong lá thư gởi cho bà X… trong bộ Văn Sao của thầy đã có giảng về cách tự thệ thọ giới, cũng không thấy có đoạn văn nào bảo phải thấy được tướng hảo [sau khi sám hối thì mới được phép thọ giới]. Đấy có phải cũng là vì bà ta đã phát tâm nên được phép nương theo kinh Địa Trì [để thọ giới], chẳng cần phải câu nệ nơi thấy tướng hảo đấy chăng? Nhưng bà X… tiết tháo băng khiết, còn lũ đệ tử chúng con nghiệp sâu chướng nặng, có nên tham chiếu theo đó để làm hay chăng? Đây cũng là một nghĩa chúng con đang nghi ngờ cho nên chẳng nề hà mạo muội, lại vì những hành nhân niệm Phật tại gia thông thường thỉnh cầu thầy chỉ dạy phán quyết hòng tiện tuân hành.

      Đáp: Phật pháp rộng lớn như biển cả, hãy tùy theo căn tánh của mỗi người mà thọ trì. Nếu muốn thọ giới mà có chỗ để xin thọ được thì cố nhiên nên thọ với sư tăng. Nếu không có ai, hãy hướng về đức Phật sám hối, tự thệ thọ giới. Còn như nói “thấy hảo tướng” thì há có phải là chuyện nói dễ dàng ư? Sợ là người đời nay chẳng có thiện căn ấy đâu! Hoặc do chẳng hiểu rõ tâm địa, cứ dùng cái tâm bộp chộp, vọng động để mong cầu đến nỗi kẻ bị ma dựa thì nhiều, người được lợi ích ít ỏi! Hiện nay, những kẻ có hành trì đôi chút hễ động đến là khoe thấy đủ thứ cảnh giới! Những thứ cảnh giới ấy đều do vọng tâm cảm nên. Nếu là thánh cảnh giới biến hiện thì người khác tuy chẳng thể biết được nhưng người ấy phải có những dấu hiệu cho thấy tâm hạnh chuyển biến lớn lao. Nếu vẫn cứ y như cũ thì chẳng phải là thánh cảnh mà chính là ma cảnh đấy! Chớ nên không biết [điều này]!

Phàm hết thảy mọi người hãy đều nên “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Đấy chính là giới kinh đại lược của chư Phật ba đời, ai nấy đều phải nên vâng giữ, chớ nên phạm. Hễ trì sẽ có công đức, còn phạm sẽ mắc tội lỗi. Trì cho đến mức cùng cực sẽ có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, thậm chí thành Phật. Những ai phát tâm thọ giới mà không có thầy truyền trao thì hãy nên chí thành khẩn thiết đối trước đức Phật sám hối bảy ngày, tự thệ thọ giới trước đức Phật là được. Cố nhiên không cần nói đến hảo tướng, cũng không cần phải nói đã phát tâm hay chưa. Thời cơ hiện tại không giống như thời cơ khi đức Phật tại thế, nhưng đã vì vãng sanh Tây Phương mà thọ giới thì hãy nên chân thật thọ trì. Nếu chỉ cầu danh xuông thì sẽ trở thành đùa bỡn, tội lỗi quả thật chẳng nông cạn, ít ỏi đâu nhé!

      Hỏi: Nếu hành nhân không thọ giới sẽ vĩnh viễn bỏ mất Phật hải, đánh mất lợi ích lớn lao. Nếu phát tâm không chân thật, cứ cẩu thả thọ giới, hễ phạm lại mắc thêm một tầng tội là phạm giới nữa. Như vậy, thọ giới thì sợ sẽ vi phạm, còn không thọ lại bị mất lợi ích lớn lao, dường như tấn thoái đôi bề đều khó. Đối với điều này, đệ tử có ngu kiến cho rằng: Nếu thật sự phát tâm chân thật, ắt sẽ mang ý niệm sợ tội sâu đậm, quyết sẽ ít vi phạm nên chẳng ngại lập tức thọ giới. Nếu không, do tập khí quá nặng, hoặc do tâm cảm động nhất thời, tham cái danh “thọ giới”, liền mù mờ thọ giới, trong tương lai ắt sẽ dễ dàng vi phạm. Đâm ra chẳng bằng nương theo giới luật vâng giữ hai ba năm, nếu không vi phạm thì mới xin thọ giới cũng không muộn. Làm như vậy sẽ được lợi ích nơi giới lại chẳng đến nỗi tăng thêm tội phạm giới, dường như có ích vô hại!

Cách này đệ tử đã từng thử để khuyên người khác ăn chay khá có hiệu nghiệm. Nhân mấy năm gần đây con từng gặp người phát tâm tu hành liền khuyên họ trước hết hãy giữ sáu ngày chay và kiêng giết, giảm bớt ăn thịt, kiêm quán tưởng chúng sanh [và chúng ta] có cùng một thể, huyết nhục bất tịnh v.v… Trong vòng chưa đầy mấy năm, những người nhờ đấy mà ăn chay trường không dưới mười mấy người. Nay đối với giới pháp, con chưa biết là có nên chiếu theo cách này để thực hiện hay không?

Lại còn có một hạng hành nhân khá hiểu rõ nhân duyên tội phước, tuy chưa thọ giới, nhưng có thể chiếu theo Luật Nghi để vâng giữ, khắng khít niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Nếu sau này họ vãng sanh thì phẩm vị của họ sẽ chẳng thua kém gì người đã thọ giới niệm Phật vãng sanh. Nếu quả thật như vậy thì tựa hồ mâu thuẫn với nghĩa “tâm địa vốn không có tự tánh giới, vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần” của Lục Tổ. Nếu không, trong Luật lại nói: “Người thọ giới đúng pháp thì mới phát sanh giới thể, lại được thiên thần hộ vệ”. Luật còn giảng rõ sự khác biệt lớn lao giữa người đã thọ giới với người chưa thọ giới. Đệ tử chưa hiểu nghĩa này, vì thế đặc biệt viết lại ở đây để xin thầy chỉ dạy. Huống chi con đã tính vâng giữ [giới pháp] trước rồi sau đấy mới thọ giới. Nếu như có khác biệt, giả sử kẻ đang trong thời hạn học Giới ấy mạng chung giữa chừng thì chẳng phải là mất hết hay sao? Con đang nghi ngờ điều này, càng chẳng thể không mong được thầy sớm giải quyết!

      Đáp: Đã muốn thọ giới, cố nhiên nên chân thật. Đã không chân thật thì cần gì phải thọ? Lợi ích là do chân thật trì giới mà được, chứ không phải vì mang danh thọ giới sẽ liền được lợi ích. Mối nghi của ông đáng gọi là vô vị đến cùng cực! Hễ tu hành thì phải luận trên tâm địa, chứ không luận trên hình tích. Chưa thọ giới mà đã trì giới thì là người tu hành chân thật, há lẽ nào người chân thật, hành hạnh chân thật lại đâm ra tầm thường, kém cỏi ư? Nhưng Phật, Bồ Tát cực lực khuyên con người thọ giới là vì hễ thọ giới ắt phải trì, chứ không phải vì những kẻ chỉ khoác cái danh thọ giới hiện thời mà phát khởi vậy! Chỉ khoác cái danh thọ giới tức là người thọ giới lại hủy giới cấm của Phật, tội tăng thêm một tầng nữa! Những câu hỏi của ông đều là chấp chết cứng vào hình tích, dấy lên những nghị luận lầm lạc! Ăn nói như thế đều gọi là hý luận!

“Thọ giới sẽ phát giới thể” chính là bậc túc căn sâu dầy, chứ không phải là chuyện của những kẻ hời hợt hờ hững chỉ mang cái danh [thọ giới] hiện thời! Chẳng thọ giới mà có thể trì giới chỉ là thiểu số, chứ không phải đa số. Vì thế, chớ nên dùng cách ấy để làm khó dễ người ta. Những người như thế thuộc hạng tánh chất đặc biệt, còn những kẻ kia là hạng nên dạy dỗ theo đường lối thông thường, há nên so sánh hẹp hòi? Đúng là vốn không có một chuyện gì lại lầm lẫn khuấy lên sóng gió, đáng than quá đỗi! Bàn luận lợi ích trên hình tích, chẳng xét đến thật tình nơi tâm địa là vì người trong cả cõi đời đều thích giả mạo làm người tu đạo vậy!

      Hỏi: Đứa con gái nhỏ của con hiện thời hai mươi hai tuổi, lập chí không lấy chồng, ăn chay niệm Phật tính ra đã được mấy năm. Mùa Xuân năm nay mẹ nó mất, nó buồn thương, càng thêm chuyên dốc, thiết tha, mấy ngày không ăn uống. Về sau đệ tử bảo nó niệm Phật cho mẹ để mong mẹ được tăng cao phẩm sen; từ đấy nó đối trước linh vị mẹ niệm Phật, nóng – lạnh không gián đoạn. Nhưng khi nó niệm Phật đến lúc thuần nhất, thường thấy mười phương tỏa quang minh, trong ấy hiện ra tượng Phật. Từng nhớ trong mùa Hạ năm nay, vào dịp lễ Thích Ca Văn Phật đản sanh, có một bữa nó đóng kín cửa, ngồi trong Phật đường niệm Phật, tự mình cảm thấy thần thức dạo chơi cõi Tịnh Độ, chân đạp lên mặt đất mềm mại như đạp lên vải nỉ, hoa trời theo đúng thời khắc trút xuống, thấy Phật và hai vị Đại Sĩ lướt qua trên hư không. Quán Âm Bồ Tát nhìn nó mỉm cười, tay cầm cành liễu rưới nước cam lộ lên trán nó, và thấy vô số vị tu hành hoặc ngồi hoặc đứng, dáng vẻ đều xinh đẹp, có quang minh. Sau đấy, do có người đưa cơm đến cho nó ăn, cảnh tượng ấy liền biến mất. Đệ tử nghĩ cảnh nó được thấy tuy phần nhiều hợp với kinh luận, nhưng trước đấy nó đã từng tu theo cách tịnh tọa của Đồng Thiện Xã hai năm (hiện nay đã ngưng tu theo cách tịnh tọa của Đồng Thiện Xã mấy năm), ngay trong thuở ấy cũng thấy có cảnh giới, quang minh. Nay chẳng biết cảnh tượng nó được thấy trong khi niệm Phật ấy có phải là cảnh tượng của Tịnh Độ hay không? Hay chỉ là huyễn ảnh của công phu tịnh tọa trước kia? Vì thế, đặc biệt xin thầy hãy phán định, chỉ dạy.

Thêm nữa, đứa con gái ấy vào ngày Phật Đản, hoặc khánh đản đức Quán Âm và sinh nhật của ông bà nội, cha mẹ cũng như sinh nhật của chính mình, phần nhiều thường giữ thanh trai suốt một ngày một đêm không ăn. Nhân đấy đệ tử đọc các kinh luận, trọn chẳng thấy có đoạn kinh văn nào khen ngợi chuyện không ăn. Ngay cả trong pháp Bát Quan Trai đã lập cũng chỉ chế định không ăn quá Ngọ. Do vậy, đệ tử yêu cầu nó đổi sang trì Bát Quan Trai, không biết là vào hôm trì [Bát Quan Trai Giới] có nhất định phải theo đúng pháp đối trước tượng Phật thọ giới hay chăng? Hơn nữa, đệ tử xem kinh không nhiều, chẳng biết rốt cuộc suốt một ngày đêm không ăn và không ăn quá Ngọ có hơn – kém chi chăng? Hơn nữa, mẹ con trường trai niệm Phật cũng đã được mấy năm, trong khi yên tịnh cũng thường thấy hình tượng có quang minh, nếu chẳng chấp vào đấy thì cũng được cảnh giới tốt lành, đúng chăng? Lại cầu xin thầy phán định, chỉ dạy cho trọn vẹn một bề!

      Đáp: Lệnh ái túc căn khá sâu, lập chí nguyện ấy thật đáng khâm phục, kính ngưỡng. Cảnh giới được nói đó có lẽ là thánh cảnh, nhưng chớ nên cho đó là đúng. Chỉ nên giữ nhất tâm, đừng hâm mộ thấy cảnh. Nếu đạt đến nhất tâm thì không thấy cảnh cũng chẳng trở ngại gì. Nếu chưa đạt đến nhất tâm mà cảnh được thấy chẳng thật, hoặc thấy rồi sanh lòng hoan hỷ đều đủ để làm hỏng chuyện. Gần đây, con người đa số hễ vừa dụng công liền thấy có cảnh giới; những cảnh ấy thật ra quá nửa là cảnh ma! Dẫu là cảnh thánh đi nữa mà nếu như không hiểu rõ tâm địa, chẳng hiểu tường tận nghĩa lý, hễ sanh chấp trước liền đến nỗi bị hỏng chuyện; chớ nên không biết! Nói tới chuyện Thanh Trai thì trong kinh chưa hề nhắc đến, nhưng do Phó Đại Sĩ đời Lương (do Di Lặc Bồ Tát thị hiện thân cư sĩ) thường hành [Thanh Trai] nên cũng không phải là chớ nên hành. Nếu miễn cưỡng nhịn đói thì cố nhiên chẳng nên hành, chứ nếu an nhiên không bị tổn hại, tự tại như pháp thì cũng chẳng phải là không được. Hơn nữa, người đời nay chỉ nên chiếu theo đường lối hành đạo thông thường để tu, chớ nên lập riêng tướng trạng khác lạ nhằm ngăn lấp những thói tệ hám danh phô phang chuyện lạ để mê hoặc mọi người v.v…

      Hỏi: Đệ tử nghiên cứu Phật học, tự xem Lăng Nghiêm, Viên Giác, Khởi Tín v.v… các kinh luận Đại Thừa xong, hơi biết thiên địa vạn vật và hết thảy cõi nước tịnh – uế đều y theo Nhất Chân mà huyễn hiện. Đối với những nghĩa như “tâm tịnh cảm cõi tịnh, tâm nhơ cảm cõi nhơ” v.v… con khá tin tưởng sâu chắc, đích xác, thiết tha. Vì thế, tuy đọc các ngữ lục nhà Thiền chẳng những con không đến nỗi sanh lòng nghi ngờ Tịnh Độ mà tín nguyện càng thêm kiên cố. Từ đấy dường như chẳng đến nỗi bị những lời lẽ đề cao hay chèn ép Thiền – Tịnh, Tánh – Tướng mê hoặc. Chỉ đối với những câu “Phật giới chẳng tăng, chẳng giảm; chúng sanh giới cũng chẳng tăng, chẳng giảm” như trong kinh luận đã nói thì có lúc dấy lên nghi tình. Ấy là vì luận theo tánh thể thì chư Phật lẫn chúng sanh xét về Thể vốn tương tức[14], thật có thể nói là chẳng có sai biệt, tăng – giảm. Còn xét về phía chúng sanh giới, tuy chúng sanh đông đảo nhưng đều thấy là huyễn hình, tựa hồ chẳng thể bảo là vô số được! Đã có số lượng thì chư Phật ứng thế sẽ đều độ bấy nhiêu chúng sanh thành Phật. Phật tánh ví như nước biển, chúng sanh ví như bọt sóng. Bọt sóng vỡ lại trở về với biển cả. Nói nước không tăng giảm thì được, nhưng tướng bọt sóng ấy rõ ràng có số lượng, sao lại nói là không tăng – giảm? Hoặc nói không tăng – giảm là vì một bọt sóng vừa tan thì một bọt sóng khác lại trồi lên ư?

Như thế thì chư Phật phát nguyện độ sanh tựa hồ nhọc nhằn uổng công, mà lý “chúng sanh đã thành Phật sẽ chẳng còn mê nữa” cũng bị mâu thuẫn! Nếu nói bọt sóng tan chẳng còn dấy lên nữa thì chúng sanh trong biển tánh ấy, bọt tuy nhiều, nhưng một đức Phật đã độ được chúng sanh không lường nổi số; huống chi sau đấy lại còn có nhiều vị Phật giáng sanh trong thế gian. Như vậy thì tất cả chúng sanh sẽ chẳng những ngày một ít đi mà còn rốt cuộc sẽ có ngày độ hết. Nếu như vậy thì chẳng khác gì mâu thuẫn với chuyện không tăng – giảm được nói trong kinh luận, mà cũng không thấu hiểu được ý chỉ “rốt cuộc chúng sanh giới lúc ban đầu là do đâu mà có” (Kinh dạy: “Vô minh không có khởi đầu”. Nếu chúng sanh giới có hết thì vô minh liền có khởi đầu vậy).

Ở chỗ này, trong kinh Viên Giác, Kim Cang Tạng Bồ Tát đã từng thưa hỏi. Để trả lời, đối với Phật giới thì đức Phật dẫn thí dụ “quặng đã thành vàng, chẳng trọng nơi quặng” để giảng rõ lý “Phật chẳng còn mê”. Đối với chúng sanh vốn khởi vô minh thì Ngài nói: Do tâm luân hồi sanh ra cái thấy luân hồi, có nghĩa là “chưa đích thân chứng được Viên Giác thì chẳng thể suy lường!” Chuyện này được phân biệt như thế cũng không phải là lời hỏi nhằm đúng ngay vấn đề, nhưng sách Khởi Tín Nghĩa Ký cũng dẫn thí dụ “chim bay trên hư không” để chỉ rõ “chúng sanh vô lượng”. Vì thế, chẳng thể nói là có tăng – giảm, rốt cuộc cũng khó khiến cho con người quyết định chẳng ngờ vực! (Rõ ràng chúng sanh vốn có số lượng, sao lại nói là vô lượng? Nếu thật sự vô lượng, trừ phi một chúng sanh có thể hóa thành nhiều chúng sanh. Nếu thật sự như thế thì cũng tránh được mối nghi “trong Phật giới lại khởi lên chúng sanh giới”. Nhưng mỗi một chúng sanh là một linh thức, lý này lại nói chẳng xuôi được). Nghĩa này sâu xa, do chúng sanh còn mê nên đức Phật khó thể nói thông suốt. Dẫu có nói thì chúng sanh vẫn không biết y như cũ.

Đệ tử là hạng người nào, há dám dùng tri kiến phàm phu để suy lường chuyện này. Chỉ vì bậc thân sĩ học Phật ở tệ xứ, do thấy đệ tử học Phật sớm hơn họ, tưởng đệ tử đã hiểu được lý này, phần nhiều [đem lý này] đến chất vấn. Đệ tử tuy viện dẫn kinh luận để đáp, nhưng bọn họ nói chung vẫn chưa thỏa ý, lại còn nghi ngờ những lý đã được nói trong Phật học. Cũng có những kẻ do chẳng hiểu trọn vẹn bèn ngã lòng tin tưởng! Do vậy, con đặc biệt chép lại đoạn này, tính xin thầy chỉ dạy về lý ấy. Thầy có thể dùng thí dụ khác để xiển minh đại lược hay chăng? Một là tránh cho đệ tử khỏi khởi lên sự sai lầm ấy nữa, hai là giúp cho con có cái để đáp lời chất vấn của bọn họ thì may mắn lắm thay!

      Đáp: Phật giới, chúng sanh giới cả hai đều chẳng tăng, chẳng giảm. Đấy chính là luận theo Lý; sao ông lại dựa trên hình tướng huyễn vọng để luận? Chẳng thấy kinh Kim Cang dạy: “Độ sạch hết thảy chúng sanh nhưng chẳng thấy một chúng sanh nào được diệt độ” ư? Nếu luận theo hình tích thì lời Phật nói sẽ trở thành mâu thuẫn! Nếu biết [lời nói ấy nhằm] dạy thẳng vào Lý Thể thì [sẽ thấy] giống như dạy cho kẻ say, người mê đang tưởng “nhà quay, phương vị đổi dời” biết rằng “nhà vốn chẳng quay, phương vị vốn chẳng đổi dời”. Hơn nữa, há có nên cho rằng [quan niệm] nhà xoay của kẻ say, phương vị đổi dời của người mê là đúng, coi lời lẽ của người không say, không mê là sai hay sao? Những điều như ông đã nói đều thuộc về hý luận! Kẻ say, kẻ mê ấy trước khi chưa ngộ, trọn chẳng thể chết lòng tin tưởng vào sự “không xoay chuyển, không đổi dời” vì kẻ ấy đích thân thấy như vậy. Đến khi đã ngộ, mới biết [những sự thấy biết trước kia] là vọng, không phải là chân. Há ông lấy điều đó (tức những sự thấy biết trước khi ngộ) làm chuẩn hay sao? Hay là lấy điều này (tức sự thấy biết sau khi đã ngộ) làm chuẩn? Hiểu rõ rồi thì cần gì phải biện luận nữa đây?

Ông nói đến chuyện bọt sóng trong biển đều là chấp trước trên mặt hình tích. Do đức Phật muốn cho con người biết “chính mình toàn thể là Phật, vì đang mê nên có tướng chúng sanh”, nhưng ngay cả cái tướng chúng sanh ấy toàn thể đều là vọng! [Do mê, do say nên thấy] nhà xoay, phương hướng đổi dời, ông liền chấp trước vào sự xoay chuyển, đổi dời; đáng gọi là “bỏ gốc chạy theo ngọn”, sẽ thấy thường xoay, thường dời chẳng ngớt vậy! Phật là vàng đã tách khỏi quặng, Phật tánh của chúng sanh là vàng vẫn còn nằm trong quặng. Vàng ở trong quặng trọn chưa thành vàng! Chẳng qua người sáng suốt biết trong quặng có vàng thì họ mới đổ công nung luyện, tách vàng ra [khỏi quặng], hòng được thọ dụng. Đức Phật sợ chúng sanh chẳng chịu gánh vác nên chú trọng nói rõ về bản thể. Bởi lẽ, [nếu chúng sanh] đã biết bản thể thì sẽ trọn chẳng chịu tự khinh, không tu tập. Nếu biết luận định từ bản thể thì không cần phải nghi! Nếu bỏ Thể để luận theo hình tích thì xin các hạ hãy thỉnh vị đại thông gia khác phán đoán, luận định. Quang là một ông Tăng tầm thường không có trí huệ biện tài ấy đâu!

 

  1. Lời phê trên lá thư của cư sĩ Niệm Phật

(Những chữ viết theo lối Đảnh Cách[15] là lời phê của Ấn Công để đáp lời hỏi, còn những chữ viết thấp hơn một chữ là những chữ được dùng trong lá thư gốc của cư sĩ Niệm Phật ở Vĩnh Gia)

      Vâng đọc lời huấn dụ từ bi, thuần là những lời tha thiết đến cùng cực, tạo phương tiện đến cùng cực, buồn khóc vì đi vào ngõ rẽ cả mấy năm, một hôm biết được đường chánh. Từ nay về sau nhất tâm niệm Phật, hồi hướng cho khắp chúng sanh cùng sanh Tịnh Độ. Những điều mong mỏi khác dù Tục hay Chân đều đã buông xuống. Quả thật chỉ có một pháp này là có thể an thân lập mạng, tự lợi, lợi tha, trên an ủi bi nguyện, báo đáp hồng ân, cầu xin ban cho sự gia bị, thường hành tinh tấn. Con tính trong tháng tới hoặc trong tháng Tám sẽ lại không nói năng gì (tịnh khẩu), thầm niệm thánh hiệu Quán Âm, thời hạn ngắn hay dài sẽ tùy sức, tùy duyên. Tất cả những nghi thức lễ niệm trong khi bế quan và các nghi vấn kính cẩn trình bày như sau xin thầy chỉ dạy, con sẽ cảm kích tuân hành.

      [Tổ Ấn Quang phê]: Tâm thường nghĩ đến tu trì, bế quan hay không đều chẳng khẩn yếu cho lắm. Nhưng phải nên viên thông, chớ nên chấp chết cứng, kẻo sẽ đến nỗi chẳng yên lòng, đâm ra vô ích! Đức Quán Âm từ bi rộng lớn, chắc chắn hễ có cảm liền ứng, nhưng tâm chớ nên quá gấp rút bộp chộp, mong được ứng ngay. Ví như trồng lúa, ngày hôm nay vừa gieo giống liền mong thâu hoạch ngay trong bữa nay sẽ trở thành kẻ si! Cố nhiên, hễ có ai khởi lòng niệm Bồ Tát thì sẽ liền được gia bị; nhưng chớ nên có những quan niệm hẹp hòi mong cầu ấy thì sẽ có lợi ích lớn lao vậy!

      1) Vào ngày bế quan đầu tiên

      Sáng dậy con niệm Phật mười hơi. Súc miệng, rửa ráy xong, lễ thập phương thường trụ Tam Bảo, mỗi lần một lạy, lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ba lạy, lễ Tây Phương giáo chủ bốn mươi tám lạy, lễ kinh luận Tịnh Độ ba lạy, lễ Quán Âm ba mươi hai lạy, Thế Chí, Hải Chúng mỗi danh hiệu ba lạy, Địa Tạng Vương, Liên Tông chư Tổ (sư tăng hiện tại), mỗi vị một lạy. Niệm chú Cúng Dường[16] hai mươi mốt biến. Niệm bài Tây Phương Nguyện Văn của đại sư Liên Trì một biến. Niệm Quán Âm Tán một biến. Tiếp đó chuyên niệm thánh hiệu. Trong khoảng ấy, trừ lúc ăn ngủ ra, hễ gần tới giữa trưa và sau giờ Ngọ, hoàng hôn và giữa buổi tối, lễ Quán Âm ba mươi hai lạy.

       [Tổ Ấn Quang phê]: Nghi tiết đơn giản mới hay!

      2) Mỗi ngày sau đó:

      Sáng dậy niệm Phật mười hơi. Rửa ráy, súc miệng xong, lễ Quán Âm ba mươi hai lạy, tiếp đó chuyên niệm thánh hiệu. Trong khoảng thời gian ấy, trừ lúc ăn ngủ ra, còn kèm thêm vào gần tới giữa trưa và sau giờ Ngọ, chập tối và giữa tối, lễ Quán Âm ba mươi hai lạy giống như ngày thứ nhất.

      Hoàn mãn một ngày.

      Nghi thức lúc sáng dậy và lúc gần sụp tối giống như trước. Ngay lúc đêm xuống, niệm thánh hiệu xong, niệm Tây Phương Nguyện Văn một biến, lễ Tây Phương Giáo Chủ bốn mươi tám lạy, lễ Quán Âm ba mươi hai lạy, Thế Chí, Hải Chúng mỗi danh hiệu ba lạy. Hơn nữa, trong bài nguyện văn của Liên Trì đại sư câu “chuyên niệm A Di Đà Phật vạn đức hồng danh” con tự đổi thành “chuyên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát vạn đức hồng danh”, những câu khác có cần thay đổi hay không?

      [Tổ Ấn Quang phê]: Nên châm chước để lượng định.

      Đoạn đầu của bài nguyện văn có câu: “Kim ư Phật tiền kiều cần ngũ thể” (Nay con đối trước Phật cung kính năm vóc mọp lạy). Niệm đến câu này, con chỉ cúi đầu lễ xong rồi đứng dậy, hay là cần phải mọp lạy tới mấy câu nữa rồi mới đứng dậy?

      [Tổ Ấn Quang phê]: Mọp lạy một lúc lâu sẽ có thể bị tổn khí, chớ nên không biết!

      Trong bài tán Quán Âm phổ biến có câu: “Quán Âm Đại Sĩ, tất hiệu Viên Thông, thập nhị đại nguyện thệ hoằng thâm” (Quán Âm Đại Sĩ, luôn có hiệu Viên Thông, mười hai đại nguyện thệ rộng sâu) bốn chữ “thập nhị đại nguyện” sợ là dẫn lầm từ nhân duyên của Dược Sư Như Lai, con phải nên nói như thế nào?

      [Tổ Ấn Quang phê]: Mười hai đại nguyện không có xuất xứ, đổi thành “từ bi thệ nguyện tối hoằng thâm” (từ bi thệ nguyện rộng sâu nhất) cũng được!

      Nếu lúc nằm xuống không ngủ được, bèn chỉ quan tâm ức niệm thánh hiệu để dỗ giấc, hay là phải tạm ngưng niệm thánh hiệu, lắng lòng để đối trị?

      [Tổ Ấn Quang phê]: Lắng lòng niệm thánh hiệu.

      Lúc dục niệm khởi, phải tưởng như đã chết, hay là tưởng sắp chết. Trong khi bế quan vẫn còn có chuyện gì cần phải chú ý xin thầy đều dạy hết cho.

      [Tổ Ấn Quang phê]: Làm sao chỉ ra hết mọi chuyện cho được? Chỉ chí thành cung kính, đừng gấp rút, bộp chộp mong cầu linh ứng. Chỉ giữ lòng sao cho tương ứng với thánh hiệu, chẳng cầu cảm thông thì sẽ tự được cảm thông. Nếu không, sẽ có thể bị ma dựa!

     Con thường nằm mộng thấy ở trong nhà bay lên niệm Phật, nhưng bị xà nhà và mái ngói ngăn trở, chẳng thể vượt thoát ra được. Lại còn một hôm [mộng thấy] ở ngôi chùa nọ có một bức tranh thủy mặc vẽ hình tượng Quán Âm, thân và mắt rất to, cho đến nay vẫn còn cảm thấy sợ hãi. Qua hai duyên trên đây, chẳng biết tội chướng như thế nào?

      [Tổ Ấn Quang phê]: Giấc mộng ấy thuộc về cảnh giới tốt đẹp, nhưng vẫn chưa đạt đến mức nghiệp lực tiêu trừ lớn lao. Vì thế vẫn còn bị ngăn ngại. Thấy tượng sợ hãi cũng chẳng sao cả. Nhưng chớ nên ghim mãi chuyện này trong lòng.

       Hơn nữa, ân sư thường nói: “Hành nhân thấy cảnh có một phân thì không được nói một phân mốt, cũng chẳng được nói chín ly chín. Nói quá cũng mắc tội, mà nói bớt đi cũng không được”. Lại nói: “Thứ cảnh giới ấy nói với tri thức để cầu chứng minh tà – chánh, đúng – sai thì không phạm lỗi. Nếu chẳng nhằm xin chứng minh, chỉ muốn khoe khoang thì cũng mắc lỗi. Nếu hướng về hết thảy mọi người để nói thì sẽ có lỗi. Trừ cầu tri thức chứng minh ra, [trong mọi trường hợp khác] đều không được nói” v.v… Nhưng nếu hành nhân thấy có cảnh giới, hoặc do tâm tưởng không trọn vẹn, hoặc do văn tự sơ sài, vụng về, đến nỗi nói ít, nói nhiều thì cũng gây trở ngại hay chăng? Đệ tử từng được ân sư ba lần dạy bảo về giấc mộng, đã kể cho người bạn là X… nghe. Tuy chẳng phải là muốn khoe khoang, chẳng phải vì cầu chứng minh, mà thật ra là muốn khơi gợi lòng tin cho người ấy, chẳng biết làm như vậy có mắc tội lỗi hay không?

      [Tổ Ấn Quang phê]: Cảnh được thấy trong mộng không quan hệ lớn lao cho lắm, chứ đối với cảnh được thấy trong khi Thiền Định thì phải thận trọng. Người tu hành thường phạm phải căn bệnh chưa đắc đã bảo là đắc!

      Sống tại gia xử thế, thấy người khác có chuyện chẳng đúng pháp, đã không có đủ oai đức để chế phục, lại chẳng khéo khuyên dụ khiến cho người ấy cảm động, nhận hiểu, chỉ đành nhẫn nại mặc kệ kẻ ấy, ức niệm Quán Âm để mong Ngài từ bi che chở thì có được hay không? Khẩn cầu thầy khai thị thì may mắn lắm thay!

      [Tổ Ấn Quang phê]: Lòng Thành đến cùng cực thì đá vàng cũng phải nứt. Dẫu cho người ấy chẳng được lợi ích thì chính mình cũng đã được lợi ích lớn lao.

     

  1. Kệ tu trì

      Giữ vẹn luân thường,

Trọn hết bổn phận,

Ngăn dứt lòng tà,

Gìn giữ lòng thành,

Đừng làm các ác,

Vâng làm các thiện,

Kiêng giết, cứu mạng,

Ăn chay niệm Phật,

Hồi hướng vãng sanh

Thế giới Cực Lạc,

Dùng để tự hành,

Lại còn dạy người,

Ấy gọi Phật tử.

Hành giả hãy nên

Làm như thế ấy

Công đức vô lượng.

 

 X. Thư từ

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Thái Cát Đường

      Ngày Hai Mươi Sáu tháng Tư, Quang từ Dương Châu trở về Thượng Hải thấy ông gởi cho Quế Viên[17] và hương. Cám ơn lắm! Bản thảo Quán Âm Đại Sĩ Tụng tuy đã gởi tới, nhưng vẫn cần phải giảo chánh tường tận thì mới cho sắp chữ được. Sợ là chưa thể in ra sách trong năm nay được đâu! [Chuyện vận động quyên mộ đóng góp cho] Viện Mồ Côi hãy cứ tùy duyên lo liệu. Được nhiều thì tốt, ít cũng không sao. Dẫu chẳng thể giúp đỡ, chỉ gởi xuông sổ quyên mộ trở lại cũng không sao cả! Đối với hết thảy mọi chuyện, Quang đều tùy duyên, trọn chẳng vì nhiều – ít, có – không mà khởi lên tâm phân biệt, suy tính. Thầy Chân Đạt gởi lời hỏi thăm ông. Cư sĩ Vưu Tích Âm còn chưa di chuyển, chẳng bao lâu nữa sẽ xuống miền Nam, địa chỉ cư ngụ vẫn chưa định được! Đợi đến khi nào ông ta tiến hành công việc cho Quang thì sẽ gởi tới. Đang trong lúc thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống này, hãy nên phát khởi lòng Thành niệm Phật để cầu được che chở, ngõ hầu chẳng phụ thời gian tốt đẹp này. Nếu không, sẽ như người vào biển cả, đã không có người hướng dẫn, lại không có la bàn, muốn khỏi bị chìm đắm, há có được ư?

 

  1. Thư gởi hòa thượng Tâm Tịnh

      Hôm nay có người từ Như Cao đến, trao giùm thư của Thôi Tông Tịnh. Cái chuông như thầy đã nói, lớn – nhỏ có thích hợp hay chăng? Nếu thích nghi thì hãy nên bảo những người trong nhóm mua. Nếu giá chuông hãy còn, chưa bị mục nát thì cũng nên mua luôn để khỏi phải làm cái khác. Cũng nên gõ thử chuông ngay để coi xem tiếng chuông [có vừa ý hay không]. Trống lớn nếu có người phát tâm [cúng dường] là được rồi. Nếu không, hãy bảo họ quyên mộ để đặt làm, nhưng hãy nên làm sao cho thích hợp, đừng nên làm quá to. Hãy nên cho họ biết kích thước đại lược để họ tiện quyết định đặt làm. Chi phí thỉnh chuông trống đều phải do chính người [phát tâm] ấy bỏ tiền ra, chẳng cần Pháp Vân Tự phải bù tiền thêm. Hãy nên nói trước với họ về chuyện đó để chẳng đến nỗi phải lo lắng khó lòng đáp ứng được!

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Cát Khải Văn

      Túc nghiệp của mọi người đã cảm thành ác quả ấy. Ông có thể ở chùa Hộ Quốc tụng kinh lễ sám quả thật là may mắn lớn. Lúc này, trừ niệm Phật và niệm Quán Âm cầu gia bị ra, không có cách tốt đẹp nào khác! Đừng vọng tưởng đạt được chuyện tốt lành. Nếu có thể chí thành khẩn thiết tụng kinh lễ sám thì chính mình cũng đạt được lợi ích không chi lớn bằng. Nếu chỉ mong cho xong chuyện mà muốn được Phật, Bồ Tát gia bị sẽ khó như lên trời! Trừ chí thành niệm Phật, niệm Quán Âm và chí thành khẩn thiết tụng kinh, lễ sám ra, không có phương pháp thứ hai nào cả! Xin hãy sáng suốt soi xét!

     

  1. Thư trả lời cư sĩ Lý Cẩn Đan

      Nhận được thư, biết các hạ có lòng bảo vệ đạo tột bậc chân thật, tha thiết. Những gã chủng tử địa ngục muốn làm cao nhân bậc nhất từ ngàn xưa đến nay cực đáng thương xót. [Ngụy thuyết] “Khởi Tín Luận là ngụy tạo” không phải do Lương Nhậm Công (Lương Khải Siêu) đề xướng, mà là do Nhậm Công lấy ma thuyết của Âu Dương Cánh Vô[18] làm căn cứ, coi đó như luận thuyết quyết định nhằm phô phang “ta là kẻ học rộng có thể phân định chân, ngụy!” Âu Dương Cánh Vô là hạng ma chủng đại ngã mạn, mượn cái danh hoằng pháp để cầu danh, cầu lợi. Ông ta cho Lăng Nghiêm, Khởi Tín Luận là ngụy tạo, chính là vì muốn mê hoặc hàng sĩ đại phu vô tri vô thức nhằm mong họ sẽ sùng phụng mình như một vị đại pháp vương! Ông ta mượn cái danh thông suốt Tướng Tông (Duy Thức) để ngạo mạn cổ kim. Phàm những gì các vị cổ đức tông Thiên Thai, Hiền Thủ đã nói chẳng hợp với ma kiến của ông ta đều bài xích là “thả rắm”, nhưng những kẻ thông minh do thấy ông ta thông hiểu Tướng Tông liền đua nhau sùng phụng là bậc thiện tri thức! Tướng Tông lấy Nhị Vô Ngã[19] làm chủ yếu, ông ta chỉ hoại một thứ là Ngã Kiến, chứ trọn chẳng có khí phận Vô Ngã của Tướng Tông. Kẻ ma mị mà ai nấy vẫn tin, đáng buồn thay!

Chưa thọ giới, chớ nên đắp mạn y năm điều hoại sắc. Y năm điều ấy không chia thành khối (Y năm điều, mỗi một điều cắt ra thành một miếng dài một miếng ngắn, [mỗi một miếng nhỏ ấy gọi là một khối]), cũng không phải là hải thanh; hải thanh là áo dài rộng tay. Ngày nay trong pháp môn không có người nên [ai nấy] mặc sức làm càn. Vì thế, người thọ Ngũ Giới đều đắp y Ngũ Điều[20], trái nghịch cấm chế của đức Phật, nhưng Tăng lẫn tục đều bình chân như vại, cũng đáng cảm khái lắm thay!

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Diệp Phước Bị

      Ngày hôm qua, thầy Đương Gia đưa thư của ông cho Quang. Quang đọc thư, biết tuy cường đạo đến cướp đồ đạc của ông mà ông chẳng bị mất một vật nào, còn bà cụ ở phòng đối diện bị cướp mất một cái rương và các thứ quần áo. Đấy chính là chứng cớ rõ ràng Tam Bảo gia hộ [cho ông]. Chỉ nên gắng sức niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, há nên lầm lạc sanh lòng sợ hãi, muốn dời đi chỗ khác! Ông xem có chỗ nào là nơi yên vui đâu? May mắn là chỗ ấy nghèo nàn nên vẫn còn chưa gặp họa lớn. Nếu ở nơi am giàu có, sợ sẽ càng nguy hiểm hơn!

Năm Dân Quốc 19 (1930), ông Quách Chấn Thanh, chủ tiệm giấy Hợp Pháp ở đường Cảnh Đức, Tô Châu, theo một người già trong nhà ông ta đến quy y. Quang bảo ông ta: “Hiện thời là tình thế hoạn nạn, hãy nên chí thành niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Âm, sẽ liền có thể gặp dữ hóa lành, gặp nạn mà được hên”. Tháng Chạp năm sau, ông ta qua Thượng Hải. Chiến sự nổ ra ở Thượng Hải, chẳng thể không trở về đất Tô được. Đến mùa Xuân năm Dân Quốc 21 (1932) vẫn còn chiến tranh, chẳng thể quay về được. Do đường xe lửa bị cắt đứt, Chấn Thanh liền ngồi tàu thủy nhỏ đi vòng theo ngã Gia Hưng trở về Tô Châu. Nhưng thuyền bè qua lại thường bị cường đạo cướp bóc; Chấn Thanh sợ bị cướp, trong tâm thầm niệm thánh hiệu Quán Âm. Không lâu sau, cường đạo kéo đến, cả thuyền đều bị cướp sạch sành sanh. Chấn Thanh là một kẻ mập mạp, mặc một cái áo da, nhưng ở giữa bao người, bọn cường đạo trọn chẳng thèm hỏi tới ông ta! Đủ biết niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát quyết định được Bồ Tát gia bị, chẳng đến nỗi gặp tai họa ngoài ý muốn.

Quang đọc qua thư ông, bỏ trong ngăn kéo của bàn viết, nay muốn phúc đáp, tìm khắp nơi không thấy. Do vậy nghĩ đấy là do Bồ Tát thị hiện cho ông một dấu hiệu để ông nhất tâm niệm Phật, niệm Bồ Tát hòng ngừa họa giữ thân. Nếu ông chí thành, cường đạo thấy ông mà như không thấy, hoặc thấy những đồ đạc của ông là thứ chúng chẳng cần, chẳng đến nỗi gây tổn thương cho ông. Hiện thời bất luận là ai, đều phải niệm A Di Đà Phật và niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để làm quả núi nương tựa. Chỉ nhất tâm thường niệm, chẳng cần phải sợ hãi! Xin hãy sáng suốt suy xét!

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ nhất)

      Chương trình của hội niệm Phật rất hay, nhưng đối với phụ nữ đang độ tuổi thanh xuân hãy nên bảo họ ở yên trong nhà niệm Phật, đừng đến dự hội. Bởi lẽ, hiện thời lòng người quá bại hoại, lại còn có binh sĩ [trấn đóng khắp nơi], sợ giữa đường gặp chuyện chẳng đúng pháp thì người ấy lẫn hội niệm Phật đều mất thể diện. Đấy chính là ý nghĩa trọng yếu để né hiềm lánh họa. Dương Thúc Cát đã xuống núi vào hôm Mười Ba tháng trước. Hiện thời thiên hạ rối beng, đất Thiểm càng rối ren quá mức. Há nên đang vô sự lại manh nha tâm niệm du hành? Há chẳng phải là đang ở trong yên ổn lại tìm kiếm nỗi nguy hiểm ư? Ngàn muôn phần chớ nên đi ra ngoài! Dẫu muốn cùng mọi người đi du lịch ngắm cảnh, cũng nên đợi tới lúc thái bình không có chiến tranh thì mới nên. Ở nhà tuy phiền, nhưng chẳng đến nỗi phải có chuyện lo nghĩ chi khác. Đang trong thời loạn này, dẫu đi ra ngoài thân chẳng gặp phải họa ương thì vẫn phải suốt ngày lo nghĩ cho gia quyến, há chẳng nên giữ cho cõi lòng thanh tịnh, không phải bận tâm chuyện gì ư?

Cái chết của Hy Chân là do bị trời phạt, ông ta nhận được một lá thư tiến bộ liền muốn giết sạch hết thảy những người thuộc giới chánh khách. Do vậy, chưa đến được kinh đô liền ngã bệnh, tới kinh đô chết liền. Nếu người ấy không chết, ắt sẽ đến nỗi đại loạn! Trời già có mắt, khiến cho ông ta bị chết trước để ông ta chẳng đến nỗi bỗng dưng gây nhiễu loạn được! Hùng Đại Minh có một đứa con hết sức có thiện căn (chưa đầy nửa tuổi đã biết lôi kéo bà nội và cha mẹ, ép họ lễ Phật. Nếu họ thuận theo thì nó sẽ vui vẻ). Do tham dự cuộc Bắc Chiến và chiến trận Hồ Hám[21], đứa con ấy liền chết; ông ta gần như cuồng si, gởi thư kêu khổ. Quang bèn chỉ thẳng [nguyên nhân] là do bị trời phạt; nếu chẳng sửa đổi hành vi, hình phạt ấy đâu phải chỉ có như thế! Các ông đã tín phụng Phật pháp, hãy nên lấy tâm Phật làm tâm [của chính mình] thì sẽ hữu ích. Nếu [cứ hành xử] giống như Đại Minh và Hy Chân thì đáng gọi là “uổng làm đệ tử Phật” vậy! Mắt Quang không tốt chứ không phải là thường sanh bệnh.

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ hai)

      Trước kia đã gởi cho ông những sách cho chính Quang giảo duyệt in ra; nay lại muốn nói rõ ý Quang, bởi lẽ mọi việc cần phải suy nghĩ sâu xa thì mới thành được. Tiếp đó, tôi suy nghĩ: Nói tới sự giải trí thì chẳng thể làm như vậy được. Hơn nữa, trẻ nhỏ vừa mới hiểu biết liền dạy cho nó đóng tuồng, sợ nó sẽ chẳng vận dụng tâm tư nơi hành hiếu hành đễ; cứ chăm chút đổ công tô son trát phấn làm đào, kép, kép nhọ, hề[22]… sẽ trở thành bỏ gốc chạy theo ngọn, biến khéo thành vụng! Thuở nhỏ, Quang nghe người già kể trong làng của Quang vào ba bốn chục năm trước, chỗ nào cũng đều véo von [những ca khúc] Tạp Hý[23] (tức là con em bình dân và những người làm ruộng, làm thợ v.v… hễ rảnh rang đều hát xướng), nhưng chẳng hát tuồng Vũ Hý[24], còn những mặt khác đều giống như hát tuồng. Hễ có ai mời hát [thì người mời] đều phải tự sắm sửa hết thảy rương tráp, trang phục, vật dụng, còn họ (tức người nhận lời đến hát) chỉ đi tay không tới. Lại còn phải có đầy đủ thiếp mời, dập dầu phụng thỉnh, vì [diễn viên] chẳng nhận tiền, được đãi đằng như khách. Rước đến, tiễn đi mọi người đều vui vẻ như vậy. Về sau, do mỗi lần diễn xướng Tạp Hý ắt bị hạn hán, từ đấy mới thôi! Đủ thấy viện lẽ giải trí [để tập tành hát xướng] chẳng thể không biến thành diễn tuồng thật sự!

Tình cảm của phàm phu bị xoay chuyển theo vật, đối với hình hài đất gỗ hễ trang sức đẹp đẽ liền sanh tâm tham nhiễm. Huống chi con em đang độ thơ ấu, hóa trang cho nó thành thân gái, tuy nói là đề cao giáo hóa, nhưng thật ra là dạy cho con em phạm lỗi khinh bạc! Huống chi muốn diễn xuất cho thật giống, nếu chẳng để hết tâm trí vào vai diễn thì làm sao có thể khiến cho người khác sướng mắt được? Quang vốn là tăng nhân, sao lại hỏi đến chuyện giáo dục của người khác? Chỉ vì ông và tôi có duyên, chẳng thể không trọn hết lòng lo tính một phen. Chỉ nên giảng nói với chúng về đạo hành hiếu, hành đễ. Chứ nếu muốn cho chúng diễn tuồng thì khoan hãy nói đến tệ đoan, chỉ riêng chuyện uổng phí thời gian công sức đã kể sao cho xiết? Sĩ tử chuyên tập luyện cử nghiệp mà còn chưa thể chuyển hóa được khí chất [thành người tốt đẹp] nữa là! Mượn dịp vui chơi bèn dạy cho con đóng tuồng với ý định [nhờ vào tuồng tích để] chuyển hóa khí chất [của con cái] thì sợ rằng sẽ chuyển thành xấu thì nhiều, chứ ít có đứa nào sẽ chuyển biến thành tốt đẹp! Đừng mượn lời thánh nhân giảng về sự giải trí để khơi ra đầu mối khinh bạc cho con em.

Mấy năm trước có mấy chục đứa học sinh theo học nghệ thuật diễn xuất ở tại chùa Pháp Vũ, đêm nào cũng diễn tuồng, giáo viên ngồi một bên xem. Bọn chúng liền hóa trang thành hòa thượng đón tiếp khách [thập phương] đến dâng hương, quả thật là khinh nhục Tăng sĩ! Quang nghe chuyện, khôn ngăn đau tiếc! Đường đường là một nhà trường lại để cho học sinh làm chuyện vô ích ấy! Chẳng ngờ ông quy y Phật pháp, phát tâm vun bồi nhân tài mà cũng cực lực tán đồng chuyện đó! Cố nhiên, Quang chẳng sợ bị người khác chê là cố chấp, không thông hiểu, mà quả thật là vì không chịu được nên mới phải nói! Đối với những trước tác của học sinh, nếu nhìn một cách thiển cận thì đâu có trở ngại gì, nhưng những kiểu ăn nói “vãi rắm ầm ĩ” v.v… rốt cuộc có ích gì đâu? Chỉ khiến cho kẻ sáng mắt đau lòng mà thôi! Dẫu giấy không mất tiền mua, cũng chớ nên in những lời lẽ bậy bạ ấy! Tri kiến của Quang như thế đấy, nếu chấp nhận là đúng thì hãy làm theo. Nếu không, cũng nên coi như Quang ăn nói nhảm nhí, bỏ mặc đó. Ông tự thực hiện chương trình, quy củ giáo dục của ông, Quang nào dám buộc ông đừng làm!

Một ngàn đồng để in Văn Sao của Hùng Đại Minh sẽ in được hai ngàn bộ. Nghe nói đã gởi chín trăm bộ sang hai nơi là Thiểm và Biện (tức thành phố Khai Phong). Xin hãy hỏi thăm xem Đại Minh đã trở về đất Tần (Thiểm Tây) hay chưa? Nếu ông ta trở về đất Tần, tôi sẽ gởi hơn một ngàn bộ sang đấy để chia ra tặng cho người có tín tâm ở đất Tần. Xin hãy hồi âm ngay để tiện báo với Thượng Hải Thư Quán gởi sách. Đối với thời cuộc hiện nay, sợ rằng sẽ còn biến động lớn lao! Hãy nên bảo gia quyến và hết thảy những kẻ hữu duyên kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay niệm Phật và niệm Quán Thế Âm ngõ hầu gặp dữ hóa lành, gặp nạn thành hên. Nếu không, hễ đao binh xảy tới thì nỗi thảm thương sẽ chẳng nỡ nào nói được đâu!

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ ba)

      Đã nhận được thư viết trong tháng Sáu, do hành tung bất định nên chẳng trả lời. Tôi chỉ nhận được thư này mà thôi, những thư khác đều chưa nhận được. Hiện nay, cuộc chiến tàn sát bùng nổ, dân không lẽ sống; đang trong thời buổi này, cố nhiên hãy nên nhất tâm niệm Phật để cầu xuất ly cũng như khuyên nhủ người hữu duyên.

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Khang Ký Dao (thư thứ tư)

      Nhận được thư, biết ông và người trong đất Tần đều nằm mộng. [Đang nhằm lúc] dân đất Tần không còn lẽ sống mà cứ muốn mở đạo tràng, hoằng dương pháp hóa, thỉnh pháp sư Đế Nhàn [sang đấy hoằng pháp], há Sư chịu được sự gian nan ấy hay chăng? Sao lại nói chẳng thể không khẩn khoản thỉnh cầu, dùng cách vòng vo ấy để làm gì? Vị sư X… (người này quyết chớ nên thỉnh) chỉ biết ăn nói lớn lối, trọn chẳng chân thật hành trì. Thỉnh loại pháp sư ấy đến hoằng pháp là muốn cho người khác học theo khuôn sáo ăn nói lớn lối, hay là muốn cho họ chân thật hành trì? Trước kia, Quang đã từng nói với ông, chắc là ông cho rằng tôi chèn ép bậc hiền triết chứ gì?

Nếu bảo Quang chỉ cho ông người nào [đáng thỉnh] thì Quang thường ở trên biển cả, trọn không một ai qua lại với Quang, biết ai là người phát Bồ Đề tâm muốn lợi khắp hết thảy mọi người đây? Chuyện này quả thật là chuyện khó nhất trong những chuyện khó! Nếu cầu những Tăng sĩ chỉ biết ăn cơm, mặc áo thì quả thật là có, nhưng bọn họ vẫn chẳng muốn lên phương Bắc là nơi rét buốt để ăn cơm, mặc áo, huống hồ hoằng pháp lợi sanh ư? Hãy làm thế nào để chỉnh đốn Tăng sĩ cũng như Nho sĩ ở đất Tần khiến cho ai nấy đều y theo đạo của thánh nhân Nho – Thích mà hành. Than thở sườn sượt khôn xiết vậy thay! Sổ quyên góp và thư ngỏ đã gởi trả lại trong ngày hôm qua rồi.

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Lưu Quán Thiện

      Nhận được thư, biết cư sĩ đạo niệm tinh thuần, thân yên, tâm vui, tôi an ủi lắm! Đối với chuyện [giới giáo dục đòi] biến chùa miếu ở Giang Tô [thành trường học], Quang đã sớm gởi thư cho hai ông Ngụy Mai Tôn và Vương Ấu Nông xin họ hãy xoay sở. Ông Ngụy cầm thư Quang đến gặp tỉnh trưởng họ Hàn và trưởng ty giáo dục họ Tưởng. May sao, ông Tưởng cũng thuộc giới Phật giáo [nên nói vun vào], ông Hàn liền chấp thuận bãi bỏ lệnh này. Ông Tưởng thương lượng với Ấu Nông, [gợi ý ] nếu kiến nghị này không do các tùng lâm liên danh thưa trình thì sẽ không xong. Ấu Nông bèn lôi kéo hòa thượng Diệu Liên ở Quán Âm Am tại ngõ Dương Bì (vị này rất có khí khái lão thành), cậy Sư liên lạc. Diệu Liên tới các nơi kêu gọi, các nơi đều co cụm chẳng dám ló đầu ra! Về sau, Sư nói chuyện với hòa thượng chùa Tỳ Lô, hòa thượng Tỳ Lô cực lực tán thành chuyện ấy. Sư Diệu Liên sang Vu Hồ thâu tô, đi ngang qua chỗ hòa thượng Tỳ Lô lại liên lạc, họ bèn ước định ngày Hai Mươi Bốn cùng nhau tới Kim Lăng (Nam Kinh) trình bẩm. Đơn thỉnh cầu ấy do Diệu Liên cậy bạn bè soạn thảo, được cụ Mai Tôn sửa chữa. Lại đưa cho ông Tưởng đọc qua trước.

Do thấy kỳ hạn còn sớm, Ấu Nông bèn đem văn bản ấy gởi cho Quang xem, nghĩ rằng chuyện này đã được bãi bỏ rồi, Ấu Nông (nhận được văn bản ấy trước ngày Mười Lăm) cho là chuyện này nhất định đã được giải quyết xong; nhưng [vẫn ngại] người trong hội Giáo Dục thế lực khá lớn, [nếu họ] ngấm ngầm âm mưu chắc sẽ gây ra chuyện đáng lo ngại, liền liên lạc với hai vị pháp sư Đế Nhàn và Đạo Nguyên, [xin họ] gởi thư cho bộ Nội Vụ để vĩnh viễn tránh được hậu họa. Quang nhận được thư [của Ấu Nông] liền gởi thư cho ngài Đế Nhàn. Tới bốn năm ngày sau mới nhận được thư báo rằng: “Bị bệnh chẳng thể gắng gượng được”. Trước đấy Quang đã gởi thư cho cư sĩ Trang Tư Giam, cậy ông ta đến Nam Kinh chạy vạy, trình báo rõ ràng cho bộ Nội Vụ. Chắc là chẳng đến nỗi vì sức Quang kém hèn mà sự việc bị vùi lấp vậy! (Cư sĩ La Sưởng Sinh tới núi cho biết Tư Giam sang đất Hàng sắp trở về kinh đô, cùng đi với ông ta. Tới Nam Kinh phải ở lại một ngày; vì thế Quang liền gởi thư cho ông Trang. Ngày Mười Chín, ông La xuống núi, ước chừng hôm Hai Mươi Bốn thì Tư Giam đã đến Nam Kinh rồi)

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Lưu Quán Thiện (thư thứ hai)

      Nhận được thư biết ông đã lành bệnh, an ủi lắm! Chuyện Giang Tô hoàn toàn do công sức của ba vị [Ngụy] Mai Tôn, [Tưởng] Trúc Trang, [Vương] Ấu Nông, nhưng cư sĩ Trang Tư Giam lại có mặt đúng lúc. [Thế là] Quang gởi thư cậy ông ta gặp tỉnh trưởng để trình bày rõ ràng, vì thế sự việc được hoàn toàn giải quyết xong. Nếu bảo là công của Quang thì chẳng qua chỉ là gởi thư cho các vị ấy cậy họ xoay sở mà thôi, nào đáng để nhắc đến? Nếu coi đó là công, tức là đã mạo nhận công của người khác làm công của chính mình vậy!

Lệnh thích[25] chôn con, chết cháu, ước theo mặt tình cảm con người thì cũng chẳng thể nào không cảm động, nhưng bi thương đến nỗi gần như điên cuồng tức là chỉ biết có con có cháu, chẳng màng tới cái thân! Sao lại mê chấp đến mức như thế ấy? Thử nghĩ: Con cháu chịu ơn tổ phụ, dẫu tan xương nát thân cũng chẳng thể báo đáp được; nhưng con cháu khi phải chôn tổ phụ có đau đớn như cuồng hay chăng? Nếu là hạng con cháu biết luân lý thì cũng buồn bã đôi chút, bày ra nghi lễ đại lược thì vẫn còn có thể khiến cho vong linh của tổ phụ được an ủi, vui sướng. Chứ nếu là hạng con cháu từ nhỏ đã quen thói kiêu căng, phóng túng, tà vạy, xa xỉ thì sáng chiều chỉ mong cho tổ phụ chóng chết hòng được tùy ý chơi bời, cờ bạc, tiêu dao, không ai quản thúc! Nếu tổ phụ chết thật, ắt trong tâm chúng nó sẽ hoan hỷ chẳng thể dùng ngôn ngữ nào để hình dung được! Từ đấy, chúng nó sẽ dùng hết gia nghiệp do tổ phụ tận lực duy trì để tạo những ác nghiệp địa ngục cực nặng; còn đối với chuyện vun bồi đức, tu phước thì bỏ ra một đồng sẽ giống hệt như phải cắt thịt trên thân của chính mình, thà chết cũng không chịu bỏ ra! Do vậy, hạng chôn vùi thanh danh của tổ phụ, gây nhục cho tổ phụ đến trăm ngàn đời đông lắm! Trong mắt ông, cha, loại con cháu ấy cố nhiên vẫn được nâng niu như châu báu! Xét tới nguyên nhân, nói chung là do quá coi trọng cái tâm của chính mình, chẳng biết tới lý rộng lớn sâu xa mà ra! Chẳng đáng buồn sao!

Xưa kia, Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) coi người khác như chính mình, coi kẻ sơ hệt như người thân, coi thiên hạ là một nhà, coi cả Trung Quốc như một người. Vì thế, từ đầu đời Tống cho đến cuối đời Thanh, trọn một ngàn năm, con cháu đỗ đạt chẳng dứt. Họ Bành ở Trường Châu tận lực làm lành, từ đầu đời Thanh đến nay, đỗ đạt đứng đầu thiên hạ; nhà ấy có bốn năm vị Trạng Nguyên, anh em ruột thịt cùng đỗ Tam Đỉnh Giáp[26]. Do họ đời đời thờ Phật, phụng hành Âm Chất Văn, Cảm Ứng Thiên, sẵn chí muốn tạo lợi lạc cho người khác lâu dài nên trời ban cho sự báo ứng sâu dầy lâu dài.

Nếu lệnh thích là người thông hiểu, sẽ tự thẹn đức bạc cho nên gặp phải quả báo ấy. Từ đấy, nỗ lực tích đức để mong trời thương xót ta thì con quế cháu lan sẽ tiếp nối nhau sanh ra. Hiện thời thế đạo nhân tâm chìm đắm tới tột cùng! Thiên tai nhân họa cũng lắm phen đến mức tột cùng. Nếu lưu truyền những thiện thư có ích cho thế đạo nhân tâm để mong [ai nấy] cùng lên bờ giác, hoặc cứu vớt những người dân cùng quẫn đang mắc nạn lũ lụt, bão tố, để mong họ được sống sót trong cảnh chết chóc; so với để lại tài sản cho con cháu ăn nhậu, chơi bời, cờ bạc, khiến cho kẻ khác thóa mạ, thì sao bằng chính mình làm chuyện cứu người, cứu đời để vun bồi phước cho chính mình trong đời sau ngõ hầu con cháu sẽ được thọ dụng tới trăm ngàn đời ư? Trong mùa Hạ này, tai ương bão tố thê thảm nhất! Trong hai mươi huyện thuộc quyền quản hạt của đạo Cối Kê[27] có đến mười tám huyện báo cáo gặp nạn bão. Trong ngày mồng Mười tháng Tám, Đài Châu lại bị lụt lớn. Có chỗ nhà dân bị ngập sâu dưới mấy thước nước. Những chỗ gần sông đều ngập nước, thuyền bơi được trên cầu, tình trạng thê thảm chắc cứ tưởng tượng sẽ hình dung được.

Đạo Doãn Hoàng Hàm Chi tên là Khánh Lan, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, ăn chay trường, niệm Phật. Năm trước, Đài Châu bị tai nạn, ông ta đã quyên mộ cứu chẩn rộng rãi. Năm nay tai nạn càng nghiêm trọng hơn, do quyên mộ khó khăn, dân chúng bị tai nạn thật đáng thương, [ông Hoàng] tính muốn đốt ngón tay để lo cứu trợ, chắc sẽ cảm động được lòng người. Cứu được một người, công đức vô lượng, huống là nhiều người ư? Nay ông ta bảo Quang đứng ra quyên mộ thay, Quang tự thẹn đức bạc, ai chịu nghe lời mình nói? Nhân nỗi lo buồn của lệnh thích khiến Quang động lòng trắc ẩn, [Quang cho rằng] nếu ông ta xót thương con cháu bị chết yểu giữa độ tuổi trung niên, hãy vì họ mà lo liệu chuyện cứu tế [dân chúng đang bị tai nạn] nhằm cầu siêu cho linh hồn họ, vun bồi phước đức cho chính mình, tạo duyên chiêu cảm con lan cháu quế, hoặc cầu siêu cho cha mẹ, tổ tông, họ hàng, hoặc cầu cửa nhà bình yên. Chỉ cần xuất phát từ lòng Thành thì trọn không một ai chẳng được phước báo.

Con người hiện thời phần nhiều mượn chuyện công để lo chuyện tư, vì thế người ta khó tin tưởng được! Nếu luận về tư cách làm người của ông Hoàng Hàm Chi thì có thể nói là trong số các trưởng quan [hiện thời] không có được đôi ba người như ông ta! Ở Ninh Ba, mỗi năm ông ta thí thuốc hơn hai vạn đồng, huống là thí tặng thiện thư và làm đủ thứ chuyện tốt lành ư? Ông ta làm quan chỉ đem tiền của trong nhà bù đắp [cho chuyện công ích], chứ không phải là phường bóc lột dân chúng, gây hại cho nước nhà nhằm vinh thân phì gia! Ông Trương Thụy Tằng là bạn thí tặng thiện thư của ông ta. Thụy Tằng lập một cơ sở cho kẻ bình dân vay tiền tại Dương Châu (không cần trả tiền lời, chỉ cần trả đủ vốn), gởi thư xin Hàm Chi thành lập [một cơ sở giống như vậy] tại Ninh Ba. Hàm Chi liền thành lập ngay. [Nhờ vậy], phàm những người buôn bán nhỏ không có tiền vốn đều không phải lo nghĩ nữa. Chỉ qua một chuyện này đã biết được đại khái. Trong số những người bản thân các hạ quen biết có rất nhiều nhà giàu có. Như các ông Trương, Hoàng v.v… sanh trưởng trong nhà phú quý, cố nhiên chẳng biết đến nỗi khổ vì bần cùng [mà vẫn làm những chuyện cứu tế rộng rãi].

Nếu chịu phát tâm vì khắp mọi đứa con của trời đất mà hành cứu tế, cố nhiên sẽ chẳng có những chuyện gia đình bất hạnh, chôn con, chết cháu, con cháu bại hoại thanh danh gia đình khiến tổ phụ phải ngậm hờn nơi chín suối! Nếu chịu phát tâm, hãy giao trực tiếp cho Đạo Doãn Hoàng Hàm Chi ở dinh thự quan Đạo Doãn Ninh Ba thâu nhận. Cố nhiên Quang trọn chẳng nhúng tay vào. Quang nghèo không tấc đất cắm dùi. Trong năm trước đã hai lần đem món tiền in Văn Sao là năm trăm đồng để cứu đói; năm ngoái cũng quyên tặng mấy chỗ một trăm đồng. Mùa Hạ năm nay lại đem khoản tiền một trăm đồng do bạn bè tặng để in Văn Sao gởi cho Hoàng Đạo Doãn nhằm cứu trợ tai nạn. Dùng tiền của người khác để giãi bày tấm lòng của tôi mà thôi!

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Lưu Quán Thiện (thư thứ ba)

      Nhằm tiết Trung Thu khí trời trong mát, nghĩ vầng trăng tròn vành vạnh trong tâm cư sĩ cũng giống như vầng trăng trên bầu trời, rạng ngời, trong trẻo, không cảnh nào chẳng chiếu, vui mừng an ủi lắm. Chuyện [hội giáo dục] mưu chiếm đoạt chùa miếu ở Giang Tô bị dẹp tan. Trong chuyện này Ngụy Mai Tôn dốc sức xoay xở rất nhiều, nhưng Vương Ấu Nông cũng khá phí tâm lực, nhưng chỗ hay nhất vẫn là nhờ ông Tưởng Trúc Trang chỉ vẽ.

 

  1. Lược truyện hòa thượng Pháp Tràng

      Sư húy Hành Xí, hiệu Pháp Tràng, biệt hiệu Nhị Tuyết. Nhà ở Chương An, họ Lâm, vốn có tên là Tăng Chí, tên tự là Khả Nhậm. Tổ tiên vốn là tiến sĩ Chánh Trọng Công đời Tống, suốt mười lăm đời đều nối dòng văn học. Chiêu Công – vị từng được ban tặng tước hiệu Đông Các Đại Học Sĩ – chính là cha của Sư. Sư chưa đầy tuổi khỏi địu, Chiêu Công đã khuất núi. Sư bẩm tánh hiếu hữu, ham học. Năm mười sáu tuổi vào trường học. Năm hai mươi ba tuổi, tức năm Ất Mão (1615), đỗ kỳ thi Hương, tới đọc sách tại chùa Hưng Thiện, làm bạn với các thiền tăng, tin pháp xuất thế. Năm hai mươi bảy tuổi, mẹ Sư được vua khen thưởng sự thủ tiết và hiếu thuận, phong tặng tước hiệu Phu Nhân. Giang Thị (mẹ Sư) mất, Sư đau buồn chẳng thiết sống, nghĩ nhờ vào Phật pháp để báo đáp ân cù lao, nhân đó thỉnh các pháp bảo để tụng. Như đã tập quen từ đời trước, từ đấy Sư làm những chuyện tốt lành như phóng sanh, chôn vùi hài cốt [bị bộc lộ] v.v…

Năm ba mươi ba tuổi, Sư chuyển sang sống ở chùa Mật Ấn núi Đầu Đà, đây chính là đạo tràng Nhất Túc Giác (một đêm giác ngộ) đời Đường. Hằng ngày, Sư qua lại học tập nghiên cứu với Thọ Nghiệp Sư là Tăng Ma Mã Sính Quân, càng biết rõ có chuyện hướng thượng. Tăng Ma từng gặp thiền sư Bác Sơn Vô Dị[28]. Ngôi điện cũ trong chùa nghiêng ngả, khéo sao có khu sơn trại trên mạch núi gần đó, Sư bèn đẵn sạch cây cỏ, [khiến nó] quang đãng như mới dựng. Ngay trong lúc ấy, Sư đã có ý sửa chữa, tạo dựng [chùa Mật Ấn]. Sư đỗ Tiến Sĩ năm Mậu Thìn (1628) lúc ba mươi lăm tuổi. Những người đậu cao được chọn nhiệm sở đầu tiên. Thoạt đầu Sư bói cỏ Thi, chọn làm huyện lệnh Bồ Kỳ thuộc đất Sở (Hồ Bắc). Ngự Sử Hoàng Tông Xương do thấy Tăng Ma khắc in cuốn Tông Môn Tam Quan Ngữ liền hỏi Sư:

– Trong nhà Nho cũng có tam quan ư?

Sư nói: – Có!

Hỏi: – Sơ quan (cửa đầu tiên) là gì?

Sư đáp: “Bất tri vi bất tri, thị tri dã”[29] (Không biết nói là không biết, đấy chính là biết vậy).

– Nhị quan?

Sư đáp: –“Ngô hữu tri hồ tai! Vô tri dã” (Ta có biết chi đâu, chẳng biết gì cả)[30].

– Tam quan?

Sư đáp: “Ngô vô hành nhi bất dữ nhị tam tử dã, thị Khâu dã”[31] (Ta không làm điều gì mà chẳng để cho hai ba người các anh được biết, Khâu làm người như vậy đấy).

Ông Hoàng vỡ lẽ, trở thành bạn rất thân với Sư. Sư từng ở nơi công quán, khi đụng đến cái bô đi tiểu liền có chỗ tỉnh ngộ, bèn viết kệ rằng:

Kỳ tai! Đằng nịch khí,

Thông thân hắc tất tất,

Đẩu nhiên khám phá thời,

Tuyết tiêu địa thượng thấp.

(Lạ thay! Cái bô tre,

Toàn thân sơn đen kịt,

Bỗng nhiên khi nhận biết,

Tuyết tan, đất ướt đầm)

Trong khi cai trị, Sư dùng đức để giáo hóa trước tiên, chí thành cảm động lòng trời, cảm được mưa ngọt mấy lần giáng xuống. Quan Tuần Án là Tống Hiền lấy làm lạ, nhân dịp sang chúc mừng tướng công Đại Tể Lý Trường Canh được vua gọi vào chầu, bèn cùng dâng sớ tâu lên. Vua liền truyền chỉ những người đảm nhận chức vụ Khoa Đạo[32] không nhất thiết phải tuyển từ người đỗ đạt, mà trước hết phải chọn từ những người được đề cử để sung vào chức vụ ấy. Khi đó, mọi người đều cùng bàn tán: “Mai sau, chắc Bồ Kỳ sẽ là nơi cử hành điển lễ [thăng chức] long trọng ấy”. Do vậy mới có tác phẩm Sở Bồ Ký Thụy (ghi chép về chuyện tốt lành ở Bồ Kỳ trong đất Sở) được khắc. Dân đất Bồ lập Cam Lộ Sanh Từ[33]. Hai lần Sư tổ chức thi Hội ở đất Sở, lập Trung Ẩn Viên trong dinh thự để giảng sách cho học trò vào mồng Một, ngày Rằm. Các sanh đồ[34] thuộc những ấp lân cận kéo đến nghe đông như họp chợ. Khi ấy, Sư có cho khắc cuốn Giảng Học Pháp Vũ. Khi mãn nhiệm kỳ [làm huyện lệnh tại đất Bồ], Sư được chọn giữ chức Hàn Lâm Biên Tu[35]. Gặp dịp Đông Cung (Thái Tử) được vua cho ra lập dinh thự riêng, vua bèn chọn Sư làm giảng độc (thầy dạy học) [cho Thái Tử], Sư bèn nhận chức. Sư luôn lo cho dân cho nước, lòng tha thiết mong làm lợi cho dân chúng[36]. Sư trông coi tấu chương của cả sáu bộ, chiếu, đối, ghi chú những bản cáo, sắc[37], soạn văn, biên tập tu chỉnh bộ Hội Điển Lục Tử Cách Ngôn, nhận chức Kinh Diên Giảng Quan[38], rồi chuyển thành Hữu Trung Doãn[39] của Hữu Xuân Phường thuộc Chiêm Sự Phủ Hữu kiêm Thị Độc Học Sĩ[40]. Rồi lại được thăng lên trông coi Thiếu Chiêm Sự Phân Hiệu. Năm Quý Mùi (1643), Sư làm Chủ Khảo kỳ thi Hội.

Năm Giáp Thân (1644), giặc Lý Tự Thành xâm phạm cung khuyết, Sư gặp phải quốc nạn, bị tra khảo tàn khốc gần chết, vẫn giữ tiết tháo chống giặc không khuất phục. Quân giặc bị [quân Thanh vượt quan ải vào Trung Nguyên đánh] bại, bèn xôn xao rút về phương Nam. Khi ấy hậu duệ của nhà Minh là Long Vũ[41] dấy lên ở đất Mân (Phước Kiến); kiên quyết giao cho Sư giữ chức Nội Các Đại Học Sĩ. Đến khi Long Vũ Đế [bị quân Thanh truy kích] phải chạy sang đất Việt (Quảng Đông), Sư biết “theo mạng trời khí số nhà Minh đã hết”, liền xin xuống tóc với vị kỳ túc[42] ở Lã Phong là Quá Tuân. Khi ấy, nhằm tháng mùa Đông năm Bính Tuất (1646), Sư tròn năm mươi bốn tuổi. Khi nhà Đại Thanh thống nhất sơn hà, trưng dụng những bậc di lão[43] trong thiên hạ, riêng mình Sư không tuân chiếu. Nhà chức trách ép Sư ra cộng tác, Sư toan tự sát. Ngài Quá Tuân nói: “Ông đọc sách nhưng không hiểu được đạo. Đang trong lúc nước nhà tan vỡ, quân Thanh noi theo điều nghĩa vào quan ải, đánh một trận dẹp tan giặc [Sấm Vương Lý Tự Thành], báo thù cho các vị hoàng đế [nhà Minh], quả thật có đức đối với nhà Đại Minh. Nếu ông chủ trương trung thần chẳng thờ hai họ, toan học theo chí của Sào Do[44], chưa chắc đã không được [triều đình] chấp thuận”. Sư nghe vậy bèn mặc tăng phục đến gặp; quả nhiên được toại nguyện. Từ đấy, thiết tha dùi mài, dốc lòng nghiên cứu đại sự sanh tử. Một đêm nghe tiếng chuông, chướng ngại liền tan ngay, có kệ rằng:

Thử dạ chung thanh kháp dị thường,

Nhất chùy đả phá xú bì nang,

Bách đơn bát hạ như lôi hống,

Tình dữ vô tình hà xứ tàng?

(Chuông gióng đêm nay thật lạ kỳ,

Một dùi đập nát đãy da hôi,

Trăm tám tiếng rền như sấm động,

Tình với vô tình ẩn chốn nao?)

Liền trở về chùa Mật Ấn để tròn nguyện xưa, tu bổ Tổ Đình, gặp nhiều chuyện cảm ứng huyền diệu đã được chép đầy đủ trong bi ký trung hưng. Sư vốn chuyên chú nơi đạo Thiền, thường có chỗ ngộ, nhưng chưa dám chắc bèn thiết tha, kính mộ tham bái khắp các vị thiện tri thức. Ngẫu nhiên Dư Khổng Khiêm ở Côn Dương tham bái với Tuyết Đậu Vân hòa thượng trở về, thuật lại lời của Tuyết Đậu như sau: “Pháp Tràng thiền giả nếu muốn tham phỏng các phương, chắc chỉ có Phí huynh[45] của ta là kham nổi!” Sư nghe xong, thưa: “Đúng là lời của bậc thiện tri thức, tôi đã có ý muốn đến gặp Tuyết Đậu”. Liền qua núi Tứ Minh yết kiến Tuyết Đậu. Lễ bái xong, Tuyết Đậu nói: “Nếu như lão tăng không còn thì lễ bái là đúng, hay không lễ bái là đúng?” Sư toan thưa bày, Tuyết Đậu hét lên một tiếng thị oai. Sư bất giác mướt mồ hôi, ngay lập tức thấy được chỗ dụng ý của Tuyết Đậu.

Đến tối, Tuyết Đậu đột ngột giơ nắm đấm, hỏi: “Cái gì sanh?” Sư thưa: “Lấy hai miếng da ghép lại!” Tuyết Đậu lại giơ nắm đấm, Sư nói: “Hễ tái phạm sẽ chẳng dung”. Tuyết Đậu úp bàn tay, Sư nói: “Chẳng để hòa thượng khinh mạn!” Ngày hôm sau, Tuyết Đậu khai thị trong giờ tọa hương, nói: “Ta có một bài thiền kệ dạy cho Sư”. Sư nói: “Ở chỗ này chẳng tiêu mối nghi được!” Tuyết Đậu nói: “Rốt cuộc để làm gì?” Sư bước ra lễ ba lạy, lui ra, liền trình kệ rằng:

Thuấn mục đương cơ hoán thoại đầu,

Hà như chỉ dụng lão quyền thù,

Tổ thiền hội đắc hưu khinh tín,

Nhất diệp sơ phi biến giới thu.

(Chớp mắt đương cơ, đổi thoại đầu,

Sao bằng nắm đấm dạy cho nhau?

Tổ thiền hiểu được, đừng tin vội,

Một lá vàng bay khắp cõi thu)

 

Một bữa uống trà xong, nói đến mọi chuyện phải đảm đương, Tuyết Đậu tặng cho Sư tấm biển “chân giác tái lai”, nói: “Thượng tọa còn gánh vác được hay chăng?” Sư nói: “Chẳng phải là tay giỏi gánh vác!” Tuyết Đậu nói: “Cổ nhân hễ biết là chuyện quẩn quanh liền ngừng sai bảo làm gì nữa!” Sư nói: “Tận lực nói không ra, Tuyết Đậu đừng ra!” Sư trở về Vũ Lâm, Tuyết Đậu có bài kệ tiễn đưa như sau:

Nhũ Phong cang lưỡng nguyệt,

Độc bộ khứ Tiền Đường

Nhất cú siêu phương ngoại,

Toàn cơ tuyệt phú tàng.

Lâm Tế chánh pháp nhãn,

Diệt khước hạt lư bàng,

Chỉ giả phá sa bồn,

Đãi tương vi cử dương,

(Nhũ Phong vừa hai tháng,

Một mình qua Tiền Đường,

Một câu vượt ngoài cõi,

Cơ phong hết giấu che,

Lâm Tế chánh pháp nhãn,

Diệt sạch lũ lừa mù,

Chỉ là phá chậu cát,

Hãy đợi người thốt lời)

 

Đến núi Thánh Quả, tảo mộ Mã cư sĩ (tức cư sĩ Tăng Ma Mã Sính Quân), ấy là vì Sư chẳng quên nguồn gốc. Tham yết khắp các phương, trở về chỗ Tuyết Đậu thọ Cụ Túc Giới, quản lý nhà kho. Một bữa, Tuyết Đậu xuống nơi ấy, bỗng dưng đánh cho Sư một gậy bảo: “Nói ngay!” Sư thưa: “Khoét thịt thành ghẻ”. Tuyết Đậu nói: “Mới chỉ nói được một nửa”, Sư nói: “Ngay cả một nửa cũng chẳng tiêu được” Từ đấy, đầu mũi tên ghim chắc[46], không còn sơ sót, rơi rớt chỗ nào; người ghi chép chẳng thể thuật hết. Mùa Xuân năm Quý Tỵ (1653), Sư từ biệt trở về Đông Âu. Tuyết Đậu viết thật to vào đầu cuốn sách: “Thân khiết lão quyền” (Đích thân ăn phải nắm đấm già), dặn dò bằng bài kệ:

      Biệt ngã xuân phong lý,

      Lâm hành nhất cú thân,

      Trượng đầu tuyên đại ý,

      Túc để bát phương trần.

      Vãng phục nãi vô sự,

      Tung hoành dĩ tuyệt luân,

      Đáo gia nghiêm diện mục,

      Sở dĩ tiếp gia tân.

      (Giã từ trong gió Xuân,

      Dặn một lời ân cần,

Đầu trượng tuyên đại ý

Gót chân dạo cõi trần,

Qua lại trọn vô sự,      

Tung hoành ai sánh bằng,

Tới nhà nghiêm sắc mặt,

Để tiếp đón gia tân[47])

Tuyết Đậu coi trọng Sư giống như Ứng Am Hoa thiền sư coi trọng Mật Am Kiệt thiền sư vậy. Năm Giáp Ngọ (1654), Tuyết Đậu nhận lời thỉnh của chùa Mật Ấn, tấn phong Sư vào ngôi vị Tây Đường[48]. Hết thời hạn an cư, Tuyết Đậu trở về Nhũ Phong. Sư lại đến thân cận, thăm hỏi. Khéo sao, thân sĩ vùng Tứ Minh thỉnh Sư trụ trì chùa Bảo Phước ở Đại Mai thuộc huyện Ngân, Sư thấy nơi đó là chỗ ẩn dật xưa kia của Hán Úy, lại còn hâm mộ phong cách cao cả của Thường thiền sư[49], bèn vui vẻ qua đó. Tuyết Đậu đề thơ trên bức đảnh tướng[50] có những câu như sau:

Thanh xuất ư lam, thùy tự nhĩ,

Đại Mai phong đảnh khán phong lôi

(Gió sấm Đại Mai đầu núi ngắm,

Xanh trỗi hơn chàm, ai giống ông? )

      Đình viện [Bảo Phước Tự] bỏ hoang hơn tám trăm năm, Sư cùng các thiền tăng chẳng ngại đội sương, dầm tuyết, vâng giữ bổn phận, gần – xa dần dần kéo về trở thành chốn tùng lâm. Do vậy, hòa thượng Phí Ẩn Dung có đề tặng: “Lãnh tụ trong pháp môn, bao người trông ngóng, tám vạn thông xanh nhớ mãi vẻ mặt tươi cười”, hòa thượng Mục Vân Môn đề tặng: “Truyền Tổ đăng vòi vọi trên ngọn Thái Bạch, thú có sừng tuy nhiều, nhưng chỉ một con lân là đủ [để vượt trội hết thảy]” v.v… Sư đến Thiên Đồng, hòa thượng Mộc Trần Mẫn thỉnh Sư thăng tòa, thấy những điều Ngài đề xướng liền nhiệt liệt ca ngợi. Viết lời tựa cho Đại Mai Lục, có những câu như: “Lòng Từ rỗng rang như hang gió, chiếu rạng ông cháu. Sự giác ngộ soi sáng non Đông, cha con cùng chứng. Quả thật tiếng vang rền mãi tới ngàn thu”. Ba vị tôn túc (tức Phí Ẩn Dung, Mục Vân Môn và Mộc Trần Mẫn) lại vui sướng tuyệt mức, hết sức khen ngợi Sư giống như khen ngợi ngài Ứng Am vậy!

Sư trụ tại Đại Mai sáu năm rồi đem chuyện trong chùa giao phó lại cho Thủ Tọa[51] Nhật Hưu Mị, nhận lời thỉnh của Đông Âu. Mùa Đông năm Canh Tý (1660) Sư mở giảng tòa tại Mật Ấn, so ra còn hưng thịnh hơn đạo tràng Đại Mai. Năm Bính Ngọ (1666), Sư nhận lời thỉnh của Quát Thương Tịnh Giác, lại đem Mật Ấn giao cho nhiều học trò trông coi, chứ không làm Tây Đường nữa. Cuối Hạ năm Đinh Mùi (1967), Sư thị hiện bệnh nhẹ, ngồi thuyền trở về Đà Phong. Ngày Rằm tháng Tám, Sư đối trước đại chúng nói kệ rằng:

      Thất thập ngũ niên nhàn đả hống,

      Tổng vô kỳ đặc xuất thường luân

      Nhi kim tán thủ huyền nhai khứ,

      Nhất nhậm chư phương thuyết huyễn chân.

      (Dỗ ngọt người đời bảy lăm năm,

      Trọn không chi lạ khác phàm nhân,

      Cheo leo vách đá, tay buông thõng,

      Mặc kệ nơi nơi luận huyễn – chân)

      Rồi lặng lẽ qua đời, Sư sanh vào năm Quý Tỵ nhằm niên hiệu Vạn Lịch 21 (1593), mất vào năm Đinh Mùi tức năm Khang Hy thứ sáu (1667), thọ bảy mươi lăm tuổi, Tăng lạp hai mươi ba năm.

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Phương Gia Phạm

      Muốn sanh về Tịnh Độ, trước hết phải hiểu rõ ràng tông chỉ. Tu trì theo đường lối thông thường thì không pháp nào chẳng lấy khai ngộ làm điều mong mỏi; nhưng chuyện khai ngộ cũng chẳng phải là dễ dàng! Nếu biết tông chỉ của Tịnh Độ, quyết chẳng mong đợi khai ngộ. Nếu chẳng chú trọng tín nguyện, dẫu khai ngộ cũng khó liễu thoát được! Nếu có thể nhất tâm niệm Phật thì chẳng ngộ vẫn được vãng sanh. Trong thư ông viết: “Tuy đã sẵn lòng chán nhàm cõi uế, nhưng chưa hiểu tự tánh như thế nào?” tức là ông dốc chí nơi khai ngộ. Khai ngộ mà có tín nguyện thì chính là Thiền Tịnh Song Tu, là cao thượng nhất; nhưng trong cõi đời rất ít ai thật sự khai ngộ!

Thế nào gọi là thật sự khai ngộ? Đấy chính nói về minh tâm kiến tánh, tức là thấu hiểu triệt để trong tự tâm, chứ không phải chỉ biết nói mà thôi! Nếu chỉ biết nói thì chẳng thể gọi là khai ngộ được! Chớ nên hiểu lầm! Thật sự đạt đến địa vị minh tâm kiến tánh, cũng vẫn phải tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương! Người đời cứ hễ cầu khai ngộ đều chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh, cứ muốn nương vào cái ngộ ít ỏi, loáng thoáng ấy để liễu sanh tử thì chính là tự lầm, lầm người. Cố nhiên, chẳng bằng kẻ chất phác niệm Phật sẽ ổn thỏa, thích đáng hơn!

Quang già rồi, chẳng thể nói tường tận với ông được. Nay lại gởi cho ông hai gói sách, ông hãy lắng lòng đọc sẽ có thể biết rõ tông chỉ Tịnh Độ. Nếu chẳng thể sanh lòng tin nơi các sách ấy, lại cầu minh tâm kiến tánh, cầu thành Phật trong thân hiện tại, Quang cũng chẳng trách ông. Chỉ sợ ông từ trần sa kiếp này sang trần sa kiếp khác vẫn luân hồi trong lục đạo. Nhưng muốn liễu sanh tử, ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành để làm người hiền, người thiện trong thế gian. Nếu luân thường khiếm khuyết, tam nghiệp lắm lầm lỗi, muốn khi lâm chung được Phật tiếp dẫn thì do khí phận trái nghịch với Phật, làm sao có cảm để ứng đây? Phàm gặp kẻ hữu duyên, hãy đều nên bảo với họ điều này!

Nay gởi cho ông Tịnh Độ Ngũ Kinh, Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Liễu Phàm Tứ Huấn, Ấn Quang Văn Sao, Gia Ngôn Lục, Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ, Quán Âm Tụng, Sức Chung Tân Lương, Niệm Phật Khẩn Từ, Sơ Cơ Tiên Đạo Hợp Biên, mỗi thứ một bộ. Đối với chuyện thọ giới thì hãy nên dựa theo lá thư gởi cho bà Từ Phước Hiền trong Văn Sao để tự thệ thọ giới trước đức Phật. Nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Phạm, nghĩa là dùng pháp môn Tịnh Độ được nói từ trí huệ của đức Phật để tự hành, dạy người, tạo khuôn phép cho cõi đời. Xin hãy nhìn vào cái tên, nghĩ đến ý nghĩa rồi thực hành thì may mắn lắm thay! (Ngày Mười Sáu tháng Bảy)

      Từ nay về sau, đừng gởi thư tới nữa, cũng đừng giới thiệu người khác quy y. Dẫu thỉnh kinh sách từ Hoằng Hóa Xã cũng đừng thừa dịp thuận tiện gởi thư cho Quang vì không có sức để thù tiếp vậy.

 

  1. Thư trả lời đại sư Viên Chuyết

      Nhận được thư khôn ngăn than thở. Người đời chỉ biết phỏng theo dấu tích, chẳng xét đến đúng – sai, lợi – hại. Thường là đối với chuyện làm phước lại ngạo ngược tạo thành nghiệp lớn. Đừng nói gì người thế tục, ngay cả tăng nhân đa số cũng giống như thế. Cuốn Tây Phương Công Cứ được lưu hành trong cõi đời, phía trước có khắc hình Pháp Hội[52], phía sau khắc A Di Đà Kinh, Vãng Sanh Chú. Cuối cùng khắc cửu phẩm liên đài, trên mỗi đài sen là một đức Phật ngồi, chung quanh khắc những chấm tròn để người ta chấm vào. Hễ chấm kín hết [các vòng tròn đó] sẽ đem kinh ấy thiêu đi. Một người bạn tôi (tức hòa thượng Chân Đạt) muốn sửa chữa lại để ấn hành rộng rãi. Quang nói: “[Người niệm Phật] chấm xong ắt sẽ thiêu sách, cả kinh lẫn hình Phật đều bị thiêu theo. Do sách đã bị chấm đen đúa lem luốc thì cũng chẳng thọ trì được nữa”. Do vậy bèn bàn định biện pháp, chẳng khắc kinh, tượng, chỉ vẽ hình chín phẩm đài sen và những chấm tròn xung quanh để [người niệm Phật chấm vào] hòng nhớ số.

Việc sửa chữa, sắp xếp ấn hành đều do Quang lo liệu, sao lại nói là có chuyện Đại Báo Ân Tháp? Do vậy, tôi liền qua nhà kho tìm kiếm phụ bản của sách ấy, quả thật có chuyện đó! Số trang của phụ bản được đánh số tới hai mươi thì ngừng, còn trang in hình tháp ấy được đánh số một và hai. Đủ biết là về sau này, do muốn khế hợp lòng ưa thích của người đời, người đứng in bèn thêm vào. Đủ thấy khó lay chuyển được lòng ưa thích của người đời! Vương Đại bán hương Ấn Độ, bốn mặt hộp đựng hương in tổng cộng hình của năm mươi mấy vị Phật. Quang chẳng bằng lòng người ta bán loại hương đó, đã nói rõ lẽ lợi – hại với người quản lý tiệm hương ấy, hai lượt gởi thư bảo đảm, mong họ ắt sẽ trả lời, nhưng rốt cuộc họ không trả lời! Chúng ta không có quyền, làm gì được họ?

Huyết Bồn Kinh, Thọ Sanh Kinh chính là do những tăng sĩ hèn kém ngụy tạo ra để cầu lợi khiến cho những kẻ chẳng biết Phật pháp tưởng kinh Phật đều toàn do lũ tăng sĩ kém hèn ngụy tạo! Đối với hàng thiện tín vô tri, nếu không phá huyết hồ, không trả nợ thọ sanh sẽ không được! Ngay trong những tùng lâm nổi danh nhất nước, cũng không một chùa nào chẳng tán thành làm chuyện ấy, bởi đấy là cái nguồn kiếm lợi nhuận, chẳng ai bận tâm chuyện ấy chính là cái gốc họa hủy diệt Phật pháp. Hiện thời chẳng thể gởi sách được! Một người bạn sao lại lời bàn luận của Quang với Lý Huệ Trừng về chuyện đốt kinh, nay tôi đem bản sao ấy gởi kèm theo thư. Ông Lý dựa theo lời người khác bảo “[đốt kinh] có công đức” nên mở đầu thư tôi liền bắt đầu bằng chuyện “có công đức” để nói đến tội lỗi, chớ nên hiểu lầm, tưởng Quang tán thành “đốt kinh có công đức”! Pháp môn bước vào buổi chiều tà, sai ngoa quá nhiều! Nếu thường tranh luận với người khác, sợ sẽ đến nỗi bị kẻ khác nhao nhao công kích, đâm ra chẳng có ích gì cho người ta, lại có hại cho pháp, cho mình vậy! Qua mấy chuyện này thì đã đủ biết rồi! Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ, xin đừng gởi thư tới nữa, gởi đến quyết không trả lời. Xin hãy sáng suốt soi xét thì may mắn lắm thay! (Ngày mồng Hai tháng Mười)

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Trần Tiếp Hòa

      Nghe nói Sĩ Mục sắp sang Vân Nam bởi cảm thấy thiếu sót vì cha già đã tám mươi hai tuổi mà chính mình chẳng thể thường hầu hạ dưới gối hòng bầu bạn niệm Phật với cha. Quang quyết diệt tung tích trong tháng Chín này; ông và tôi có tình thầy trò, chẳng thể không giãi bày cùng ông một phen. Con người sống đến bảy mươi tuổi xưa nay đã hiếm, huống chi ông đã tám mươi hai rồi! Nếu đã chứng được bất sanh bất diệt thì cố nhiên chẳng cần tới Quang phải dông dài một phen. Nếu chưa đạt được, cố nhiên phải như chôn cất cha mẹ, như cứu đầu cháy để sanh lòng tin chân thật, phát nguyện thiết tha, trì A Di Đà Phật vạn đức hồng danh để cầu sanh Tây Phương. Hiện nay, cõi đời đã loạn đến cùng cực, đúng là thời buổi đại loạn phá toang đất trời kể từ thuở có trời đất đến nay. Huống hồ đang lúc già suy, sáng chẳng bảo đảm được tối, há có nên giống như bọn thiếu niên vô tri, cứ chần chừ để ngày tháng trôi qua đến nỗi sống uổng chết phí, tuy gặp Phật pháp mà vẫn không có cách nào hưởng được lợi ích lớn lao ư?

May mắn là Trí Dục, Tịnh Anh v.v… vẫn sốt sắng niệm Phật, hãy nên trong lúc này lập ra một quy ước: Nếu đến lúc lâm chung, chớ nên thay áo, lau rửa sẵn (xin coi lời dạy về lúc lâm chung trong Gia Ngôn Lục! Ở đây không viết cặn kẽ) và khóc lóc đến nỗi nhiễu loạn cái tâm trong lặng của người [sắp mất] đến mức mất chánh niệm, chẳng khế hợp với Phật, không cách gì được Phật tiếp dẫn, vẫn phải luân hồi trong tam đồ lục đạo y như cũ! Đấy gọi là lòng hiếu kiểu “đã té giếng còn quăng thêm đá!” Nỗi hại ấy không sao nói xiết! Hãy nên đọc mấy chương dạy về đại sự sanh tử trong Gia Ngôn Lục sẽ tự biết rõ. Nếu trong lúc này chẳng nỗ lực, chỉ mong an nhàn thảnh thơi thì ngàn đời vạn kiếp trọn chẳng có ngày nào thoát khổ được đâu! Nếu như tâm lực suy nhược, hãy nên bảo con trai, con dâu, cháu gái v.v… luân phiên trợ niệm. Chuyện này có rất nhiều điều lợi ích:

1) Một là phụ trợ cho chánh niệm của chính mình.

2) Hai là khéo léo gieo thiện căn tối thắng cho bọn họ.

3) Ba là mở mang phong thái nhằm mong mọi người bắt chước làm theo.

4) Bốn là nếu đến lúc lâm chung [thân quyến] sẽ tự chẳng đến nỗi bày vẽ hay hoảng loạn quá mức, phá hoại chánh niệm [của người sắp mất].

Cửa ải lâm chung khẩn yếu cùng cực. Dẫu cho lúc thường ngày công phu đắc lực, nếu gặp phải cảnh con cháu phá hoại [chánh niệm] do chẳng biết pháp môn thì sẽ phải ở lại trong thế giới này, chẳng thể vãng sanh! Nếu biết nghĩa này, con cháu trợ niệm Phật hiệu nhằm thành tựu chánh niệm, tuy công phu thường ngày của người sắp mất ấy chẳng thích đáng cho lắm cũng vẫn được vãng sanh. Do vậy, đối với người già, Quang đặc biệt chú ý, đừng cho là viễn vông, hủ bại thì may mắn lắm thay!

 

  1. Thư gởi cho hai cư sĩ La Khanh Đoan và Trần Sĩ Mục

      Hôm trước nhận được thư biết Phật pháp ở quý địa có vẻ phục hưng. Lời duyên khởi do các ông đã soạn chưa thể làm cho người ta cảm ân đức của Phật, Quang soạn riêng một bài khác, lời văn khá rườm rà, sử dụng được hay không tùy các ông. Quang chẳng ép ai! Nếu sử dụng thì hãy nên làm một tấm bảng bằng gỗ, thỉnh người viết chữ đẹp, dùng lối chữ cung kính, mực thước viết trên hai tờ giấy Tuyên rộng tám thước, hoặc dán, hoặc khắc [bài duyên khởi ấy] trên tấm bảng gỗ, chắc sẽ tồn tại lâu dài. Hoặc [chia tấm bảng đã khắc hay dán bài duyên khởi ấy] làm bốn miếng hay sáu miếng (tính luôn cả bài viết “Trình bày những điều ẩn kín của Văn Trung Công” chắc sẽ chia thành tám miếng) để ngừa khi thời cuộc không tốt, sẽ đem cất.

Bài viết nêu bày ý nghĩa ẩn kín cuốn sách Hành Dư Nhật Khóa của Lâm Trung Công[53] có quan hệ rất lớn, cũng nên theo biện pháp ấy. Bài văn ấy nhằm giãi bày trọn hết những điều ẩn tàng của bậc cổ đại nhân thuở trước, chứ không phải chỉ riêng mình Văn Trung Công. Văn Trung Công là người đất Mân (Phước Kiến). Có được bài văn ấy thì những kẻ hẹp hòi, câu nệ sẽ chẳng dám buông lời báng bổ xằng bậy. Ông nói đến chuyện chùa Lâm Dương định chiếu theo chương trình của Linh Nham thì vàn muôn phần sẽ làm không được đâu! Đừng nói người khác đến đấy làm không được, ngay cả thầy Đương Gia Linh Nham là Diệu Chân đến đấy cũng làm không được. Các ông thiếu sự từng trải nên chẳng biết nỗi khó khăn! Quang do trải đời năm mươi mấy năm nên mới nói thẳng thừng với các ông.

Đôi câu đối ở Niệm Phật Đường của Liên Trì đại sư đã soạn vào thời Minh hay tuyệt, trọn chưa từng thấy ai dùng đến. Quang nhiều lượt sao lại bảo người khác treo, do đức của đại sư sẽ cảm được người rất sâu. Các ông bảo Quang viết [giùm đôi câu đối ấy] là vì chẳng biết Quang một mực không viết được chữ lớn; gần đây mục lực suy đến cùng cực, không dùng kính lão lẫn kính lúp sẽ chẳng thể xem và viết được chữ! Tôi vốn muốn gởi thư từ sớm, nhưng do ngày hôm qua mới có giấy đưa đến nên bây giờ mới trả lời. Từ nay về sau không có chuyện gì quan trọng thì đừng gởi thư tới nữa, bởi không có mục lực lẫn tinh thần để phúc đáp! Hoằng Hóa Xã trước kia có ba người, đều do thời cuộc biến động lớn lao đã đi hết rồi, nên cũng phải biến đổi sao cho rất hợp thời nghi, Quang chẳng hỏi tới nữa. Thầy Đức Sâm qua chùa Thái Bình ở Thượng Hải để lo giảo chánh sách, sợ rằng có lẽ chẳng thể xong được trong năm nay! Khi nào thầy ấy trở về, sẽ tùy thầy ấy lo liệu.

Những sách các ông cần sẽ gởi tới. Hiện thời chỉ theo biện pháp căn cứ vào giá vốn, không còn cho thỉnh nửa giá hay biếu không nữa! Lần này gởi biếu, lần sau đều chiếu theo giá vốn để lo liệu. Nay gởi cho các ông Đồng Mông Tu Tri, Quán Âm Từ Lâm Tập hai cuốn, đem tờ thông báo rộng rãi về chuyện sữa độc giết chết trẻ con [gởi cho các ông] là vì mong các ông hãy nói với hết thảy mọi người [về chuyện ấy]. Xin hãy sáng suốt soi xét thì may mắn lắm thay! (Ngày Mười Hai tháng Tám)

      Chủ Cực Lạc lục bát đại nguyện chi từ tôn, tuyệt hạn lượng thọ mạng quang minh bất ly đương xứ,

      Quá Sa Bà vạn triệu Phật bang chi Tịnh Độ, diệu trang nghiêm lâu đài trì chiểu nguyên thị ngô hương (Liên Trì đại sư đời Minh soạn).

(Đức Từ Tôn chủ cõi Cực Lạc, bốn mươi tám đại nguyện, thọ mạng, quang minh không hạn lượng, chẳng rời nơi đây;

      Cõi Tịnh Độ vượt khỏi Sa Bà vạn triệu cõi nước Phật, lầu, đài, ao chuôm tuyệt trang nghiêm, đích thị quê mình)

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Trí Mục

      Nhận được thư khôn ngăn vui mừng, an ủi. Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, nếu không có ai đề xướng thì thiện căn không cách gì phát hiện được! Như hạt giống gieo xuống đất, chẳng có mưa đúng thời sẽ không cách nào nẩy mầm, tăng trưởng được! Cha ông đã có thiện căn từ đời trước, cho nên vừa được thúc đẩy liền chuyển biến, những chấp trước lầm lạc trước kia bèn tiêu diệt ngay, ắt có hy vọng được vãng sanh trong tương lai! Nay đặt pháp danh cho cụ là Đức Hòa, bởi Tiếp (燮) chính là Hòa[54] vậy. Nếu chẳng biết tự tâm sẵn có Minh Đức thì chẳng thể trên hòa với hoằng thệ đại nguyện của chư Phật hòng quyết chí ức niệm cho đến khi tâm và Phật tương ứng, như nước hòa lẫn vào sữa; mà cũng chẳng thể dưới là phát khởi cho những người cùng hàng tin tưởng sâu xa, nguyện thiết tha rồi nhất tâm trì A Di Đà Phật vạn đức hồng danh để mong thoát khỏi cõi Sa Bà này lên được cõi sen kia ngay trong đời này, như mẹ với con hòa hợp, vĩnh viễn không chống trái.

Nếu có thể lắng lòng đọc Văn Sao, rồi lại xem Tịnh Độ Tam Kinh, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục v.v… thì sẽ tự biết được cương yếu của đạo “tự lợi, lợi người”. Lại còn khẩn thiết, chí thành, ra rả nói cùng với gia quyến, xóm giềng, thân thích, bè bạn. Dùng công đức ấy để hồi hướng vãng sanh ắt sẽ cao đăng Thượng Phẩm. Do đấy, cha ông sẽ được lợi ích thật sự bởi thiện căn nhiều đời. Đạo thờ cha mẹ của ông đã đạt được lớn lao. Vẫn mong ông khuyên dụ nhiều cách để cụ tăng trưởng tín tâm thì sẽ có lợi ích lớn lao. Xin hãy thấu hiểu rõ ràng thì may mắn lắm thay!

Cháu dâu là Tâm Chi sẵn đủ thiện căn, vừa nghe liền tin, lại muốn quy y, nay đặt pháp danh cho cô ta là Tâm Phức. Do cái tâm sẵn có cực kỳ thanh tịnh mà cũng cực kỳ thơm tho[55], chỉ vì đủ mọi vọng niệm nối tiếp nhau dấy lên nên biến thành cảnh tượng ô uế, mất đi bản thể thơm sạch. Cô ta đã phát tâm tu trì lại còn đem tâm hương ấy xông ướp chồng và con cái, khiến cho ai nấy đều trừ được tâm niệm ô uế, khôi phục bản thể thơm sạch. Công đức bậc nhất của nữ giới chính là hiếu thảo với bố mẹ chồng, giúp chồng dạy con. Đã là đệ tử Phật mà chẳng biết hiếu thảo với cha mẹ, giúp chồng dạy con thì chưa tròn hết bổn phận trách nhiệm của chính mình, chắc người khác sẽ do vậy liền chỉ trích những sai trái, chẳng thể nào khiến cho người ta nhìn theo bắt chước làm lành được! Nếu có thể dốc sức trọn hết bổn phận của chính mình, lại còn tu trì Tịnh nghiệp thì kẻ thấy người nghe khắp xa gần sẽ đều sanh lòng ngưỡng mộ. Đấy chính là “dùng lời lẽ để dạy sẽ bị tranh cãi, dùng thân để dạy, người khác thuận theo”. Thất phu thất phụ nếu tốt lành thì cũng có thể thay đổi phong tục; nếu chẳng lành cũng sẽ khiến cho phong tục thay đổi!

Giới giáo dục hiện thời chẳng biết tới nghĩa này, cứ hở ra là khuyên nữ nhân học tập những nghề nghiệp của nam giới, chẳng biết răn nhắc thiên chức giúp chồng dạy con. Cái học ấy là học để gây loạn, chứ không phải là cái học để đạt đến bình trị! Tôi thường nói: “Dạy con là căn bản để trị quốc bình thiên hạ, nhưng dạy con gái lại càng thiết yếu hơn”. Ấy là vì con người lúc bé hằng ngày ở cạnh mẹ được mẹ hiền un đúc thì chưa có ai chẳng trở thành hiền nhân. Vì thế tôi thường lải nhải về chuyện này, hãy nên làm cho hàng nữ nhân của thân hữu đều biết thì may mắn lắm thay!

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ nhất)

      Nhận được thư và bản thảo [Phật Học] Đại Từ Điển, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Các hạ soạn ra cuốn sách ấy khiến cho những người nghiên cứu Phật học nhập môn dễ dàng, thật giống như người chỉ cho kẻ lạc lối đi đúng đường, công đức ấy làm sao cân lường được? Nhưng cần phải khảo sát tỉ mỉ, xin đừng đem sai ngoa lan truyền sai ngoa!

Những chuyện xa xưa và [chuyện xảy ra] ở ngoại quốc được thuật dưới từ ngữ “nhất thiết kinh” (hết thảy kinh) Quang đều không biết, nhưng những chuyện được tường thuật [trong mục ấy mà Quang được biết thì] phần lớn đều sai lầm, như Minh Thành Tổ ghi là [Minh] Thế Tổ. Năm Vĩnh Lạc 18 (1420), Minh Thành Tổ cho khắc Đại Tạng Kinh suốt hai mươi mốt năm, tới năm Chánh Thống thứ năm (1440) mới hoàn tất. Đấy là Minh Bắc Tạng (Đại Tạng Kinh đời Minh, bản khắc in ở phương Bắc) vậy. Nam Tạng được khắc vào thời Minh Thái Tổ, nhưng do chưa có lời đề từ và lời bạt nên không thể khảo chứng được năm tháng, nhưng chắc chắn chẳng phải là được khắc dưới thời Minh Thành Tổ! Tuy có thuyết nói Minh Thành Tổ đã cho khắc Đại Tạng Kinh ở cả hai kinh đô (Nam Kinh và Bắc Kinh) và cho khắc trên đá, nhưng thật ra [Minh Thành Tổ] chỉ khắc bản Bắc Tạng. Vì sao biết? Do [xét theo] quy củ của Nam Tạng, số hòm[56] và số quyển đều chẳng theo thứ tự [như trong bản Bắc Tạng], há lẽ nào cùng do một người khắc kinh mà Nam Tạng lại lập riêng một quy củ ư? Hơn nữa, trong Bắc Tục Tạng có [những bản kinh] mà Nam [Tục Tạng] không có, hoặc trong Nam Tục Tạng có [những bản kinh] mà Bắc [Tục Tạng] không có. Đủ biết Bắc Minh Tạng được khắc trong niên hiệu Hồng Vũ thời Minh Thái Tổ không còn nghi ngờ gì nữa! Bản khắc trên đá hoàn toàn chưa được thực hiện.

Đối với chuyện ni sư Pháp Trân khắc Đại Tạng Kinh thì ni sư là người thuộc triều Nguyên, Tạng [được ni sư khắc] thuộc loại Phạn bản[57]. Trong mục từ ngữ nói về Tạng Tạng (Đại Tạng Kinh Tây Tạng) ở trước đó, từ điển cho biết [tạng kinh của Tây Tạng] được khắc từ năm Khang Hy hai mươi ba (1684) đến năm Ung Chánh thứ sáu (1728), nhưng Thanh Tạng (Hán truyền Đại Tạng Kinh khắc dưới đời Thanh) của nước ta được khởi công vào năm Ung Chánh thứ mười ba (1735), hoàn tất vào năm Càn Long thứ ba (1738) sao lại hoàn toàn chẳng nhắc tới?

Hơn nữa, Thạch Kinh Sơn[58] ở Tây Kinh là nơi pháp sư Uyển Công đời Tấn khắc kinh trên đá, chứa trong thạch động, vì lo rằng thời Mạt Pháp kinh Phật diệt hết, mong sẽ có bậc Đại Sĩ thừa nguyện mở động ấy in kinh lưu truyền rộng khắp. Từ đời Tấn đến cuối đời Minh, vẫn có người khắc kinh để cất giữ [trong động ấy], phía ngoài dùng những song sắt niêm phong cửa động, chỉ có thể đứng bên ngoài nhìn vô chứ không thể vào được. Những bản khắc đá ấy chất đầy kín trong động, có khá nhiều động. Trong Văn Tập của các vị Tử Bách và Hám Sơn đều chép về chuyện này.

Hơn nữa, hai chữ Từ Điển nếu nói tổng quát thì toàn bộ giáo pháp trong cả Đại Tạng đều có thể gọi là Từ Điển. Nếu nói hạn cuộc thì chỉ những sách chuyên giảng rõ về danh tướng mới đáng gọi [là Từ Điển], như Giáo Thừa Pháp Số, Đại Minh Tam Tạng Pháp Số[59] chẳng hạn. Còn như những ngữ lục trong nhà Thiền chính là những cơ phong chuyển ngữ chuyên xiển dương pháp hướng thượng, còn chưa thể gọi là Giáo, há nên gọi là Từ Điển? Các vị đại thiền sư kể từ sau thời ngài Mã Tổ trở đi đều có ngữ lục, ngài Vân Môn còn về sau nữa, sao đối với ngữ lục của những vị trước đấy chẳng gọi là “từ điển”, lại gọi riêng ngữ lục của Vân Môn là “từ điển”?

Hơn nữa, ngài Vân Môn thuyết pháp như mây trôi, mưa dội, trọn chẳng thích người khác ghi chép lại, vì thế Hương Lâm Viễn, Song Tuyền Khoan mỗi vị đều lấy giấy làm áo để lén ghi chép lại, [những ghi chép của hai vị ấy được tập hợp thành] ngữ lục của ngài Vân Môn được lưu truyền hiện thời vậy! Các hạ không trình bày thật rõ ràng thì chắc rằng kẻ không biết sẽ tưởng ngài Vân Môn tự mình lén ghi, hóa ra là chính Ngài tự ngăn cấm rồi lại làm!

Tổ Đình Sự Uyển[60] là sách ghi chép những ngôn hạnh trong nhà Thiền, cũng như những sách Lâm Gian Lục, Tông Môn Vũ Khố[61] cũng chẳng nên gọi là “từ điển” trong bản sửa chữa lần thứ hai. Bởi lẽ những sách ấy ghi chép những câu nói và những câu chuyện trực chỉ nhân tâm. Trong lời tựa cho thiên thứ hai, có lẽ nên đổi chữ Tông thành chữ Giáo! Như Lai thuyết kinh, chư Tổ hoằng truyền, lưu truyền khắp trong ngoài nước, những danh tướng, pháp số trong ấy nếu không đọc nhuyễn nhừ toàn bộ tạng kinh sẽ chẳng dễ gì biết được. Do vậy [cổ đức] bèn soạn ra các sách Giáo Thừa Pháp Số, Đại Minh Tam Tạng Pháp Số. Đấy chính là cội nguồn của những sách này vậy.

Quang mục lực quá suy, lại thêm tinh thần chẳng đủ. Thoạt đầu vừa mới về đến núi thì do bị trúng gió trong khi ngồi thuyền, cả mười mấy ngày chẳng được khỏe khoắn; sau đấy tuy đã khỏi bệnh nhưng hằng ngày lại phải trả lời thư hoặc giảo duyệt sách, gần như không rảnh rỗi chút nào. Đối với bộ Lục Tổ Đàn Kinh, chỉ xem ba tấm bia của Vương, Liễu, Lưu, những phần khác chưa xem. Các hạ chí mong lợi người, muốn dùng một bộ sách để chú thích trọn khắp các kinh thì hãy nên dốc sức khảo sát nghiên cứu hai ba năm ngõ hầu người đọc đoạn sạch mọi mối nghi thì công đức lớn lắm. Nếu chỉ muốn ra sách cho nhanh, chắc chắn khó thể không sai lầm! Đối với bậc thông gia thì không trở ngại gì, nhưng kẻ sơ cơ chắc sẽ không biết nguyên do. Quang túc nghiệp sâu nặng, chẳng thể dốc chút sức mọn cho các hạ được, nhưng trọn một niềm ngu thành. Chỉ vì sợ lỡ ra người trong cả cõi đời chẳng được hưởng lợi ích cho nên mới ăn nói phiền phức, lụn vụn như thế.

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ hai)

      Hôm qua nhận được thư và cuốn Phật Học Cơ Sở , khôn ngăn vui mừng, biết các hạ chỉ mong cho ai nấy đều xây lầu cao vạn trượng mau được thành công, vĩnh viễn không bị nghiêng đổ. “Sanh tạng” chính là bộ vị nơi thức ăn chưa được tiêu hóa[62]; còn “thục tạng” là bộ vị nơi thức ăn đã tiêu hóa. Do vậy, con nằm trong bụng mẹ sẽ ở phía dưới sanh tạng, phía trên thục tạng[63]. Các hạ thông hiểu y học sâu xa, những hình vẽ giải phẫu bụng v.v… đều thuộc nằm lòng, ắt sẽ biết rõ từng bộ vị, còn Quang chỉ biết danh nghĩa mà thôi. Tác phẩm Phật Học Cơ Sở [của các hạ] xếp đặt khá xác đáng, nhưng đem những lời lẽ hủ bại của Quang xếp vào thể loại Quỳnh Lâm[64] (rừng quỳnh) thì thể loại, khí phận chẳng xứng, cảm thấy xấu hổ khôn ngằn! Lời tựa của Thiền hòa thượng rất hay, đủ để khơi gợi lòng tin tưởng, kính ngưỡng của người khác rồi, cần tới lời bình hủ bại của Quang làm chi nữa?

 

  1. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ ba)

      Hôm qua nhận được một bộ Phật Học Tiểu Từ Điển do ông ban tặng. Đọc rồi khôn ngăn cảm kích (chẳng qua là lật xem qua mà thôi, chứ ngay cả một trang cũng không xem trọn). Cư sĩ Tôn Kế Chi phát đại tâm hướng dẫn làm lợi kẻ sơ cơ như thế ấy công đức vô lượng, nhưng cỡ chữ quá nhỏ, đọc lâu ắt sẽ hư mắt. Đối với người nghiên cứu Phật học đã lâu thì xem sách này hay không đều được! Tôi trộm sợ người chỉ có tín tâm, chưa từng nhập môn, trông thấy sách này sẽ dựa vào đấy như ngôi thành quan trọng, như hòn Thái Sơn, sẽ dẫn đến tình thế “nếu mắt chẳng bị tổn thương thì chẳng chịu tạm buông sách ra”. Các hạ và ông Tôn đều cùng sẵn lòng lợi người nhưng do đấy làm hỏng con mắt của người khác thì tuy kết pháp duyên mà cũng gây nên cái họa mắt bị tật trong đời vị lai.

Ấn Quang sanh ra liền bị bệnh mắt, nay tiếc cho con mắt của người khác còn hơn chính mình, thường thấy những thiếu niên thông minh, mẫn tiệp đa số đều cận thị, hỏi tới thì họ nói do đọc sách chữ nhỏ mà ra. Trộm nghĩ những kẻ buôn bán tại các tiệm sách chỉ thích những sách hiếm lạ, phô phang chuyện dị thường để được lời to, chẳng cần biết sẽ có lợi hay gây hại cho người khác! Tối lòng mờ lý, tận lực tìm cầu phương cách để thu lợi, hạng người ấy nào đáng để nói tới, chỉ đành mặc kệ họ làm gì thì làm! Quả thật Quang chẳng dám nghĩ các hạ và ông Tôn đã phát đại Bồ Tát tâm mà cũng bắt chước phương thức của bọn chúng! Hơn nữa, là bạn tâm giao với nhau đã lâu, vì thế chẳng thể không giãi bày tấm lòng ngu thành để mong sao nhục nhãn lẫn pháp nhãn của hết thảy những người cùng hàng đều cùng sáng ngời, các hạ và ông Tôn sẽ đạt được quả báo ngũ nhãn viên minh, vĩnh viễn dứt được nỗi lo âu mắt quáng! Nếu tái bản sách này, hãy nên sửa đổi phương thức trình bày!

Bộ [Phật Học] Đại Từ Điển muôn vàn đừng dùng kiểu chữ làm hỏng con mắt này thì Ấn Quang được đội ơn nhiều lắm. Trong phương thức trình bày sách Giản Ma Biện Dị Lục giữa Nam Kinh và Dương Châu thì những chữ được in lớn hay nhỏ đều giống như nhau, nhưng trong ấy có những đoạn in hàng đôi, người già đọc sẽ cảm thấy tốn sức, Ấn Quang đều sửa thành hàng đơn để mong người đọc được lợi ích, không bị tổn hại.

Trong mùa Xuân, các hạ đã ban tặng cuốn Phật Học Chỉ Nam, sai Quang châm chước, sửa chữa. Quang gắng vâng theo nhã ý, nhưng giữ đã lâu vẫn chưa duyệt cặn kẽ được. Ấy là vì cư sĩ Từ Úy Như có một người bạn sao được bản Thập Nhất Diện Thần Chú Kinh Sớ[65] từ Đại Tạng Kinh Nhật Bản, do bản này được lưu truyền đã lâu, có nhiều chỗ sai ngoa. Vì năm ngoái ông ta đã dựa theo Đại Tạng Kinh Nhật Bản để khắc cuốn Tùy Tự Ý Tam Muội, đem gởi cho Quang. Quang đọc cặn kẽ, tâm cảm thấy không yên, liền làm càn sửa chữa rồi gởi đi. Ông ta hết sức tán thành, tính khắc in lại ngay; lại bảo Quang viết lời tựa trình bày rõ nguyên do. Chắc các hạ đã để mắt xanh đọc lời tựa ấy trên tờ Thời Sự Tân Báo rồi. Do bởi lẽ ấy, lại phải sửa chữa bản Thập Nhất Diện Sớ [theo lời yêu cầu của ông Từ]. Chữ của bản sao ấy quá nhỏ, Quang chỉ đọc mười mấy tờ, chưa viết lách gì mà mắt đã bị tổn thương nặng nề! Suốt hai mươi mấy ngày chẳng dám dùng đến mắt chút nào. Đến nay, Phật Học Chỉ Nam lẫn Thập Nhất Diện Sớ đều chưa ngó tới, sợ các hạ phải đợi lâu chắc sẽ trách móc, nên trần thuật nguyên do. Gần đây, ngoài chuyện phải thù tiếp chuyện của người khác ra, còn có hơn bảy trăm trang sách chưa duyệt! Vì thế, chẳng thể nhanh chóng đáp ứng lòng mong đợi cao nhã. Thợ khắc chữ ở Dương Châu cứ kéo dài dây dưa, trong tháng Tư này tôi lại phải qua đó lo liệu. Nay tôi tính ra đi vào đầu tháng Bảy, chứ đi sớm sẽ vô ích!

 

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên

Quyển 4

(Phần 3 hết)

 

[1] Do nghiệp cảm, chúng sanh trong cõi Âm thường thấy cảnh sắc tối tăm, mờ mịt, tâm trí của những chúng sanh thọ tội trong ấy thường si ám nên cõi Âm thường gọi là U Minh, đức Địa Tạng Bồ Tát thường nguyện ở mãi trong ác đạo cứu độ chúng sanh thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, nên được xưng tụng là U Minh Giáo Chủ. Bọn đạo sĩ đã lập lờ đánh lận con đen lập ra hai ngụy thuyết:

1) U Minh Giáo Chủ là Phong Đô Đại Đế (còn gọi là Bắc Đế Quân, hoặc Phong Đô Bắc Âm Đại Đế), tức vua cõi Âm. Theo họ, Phong (豐) là tên một đất nước của quỷ thần ở phương Bắc, tại đó núi cao đến hai ngàn sáu trăm dặm, chu vi ba vạn dặm. Sáu cung điện trên đỉnh núi là nơi Phong Đô Đại Đế phán xử tội nhân. Tương truyền, ngọn núi ấy nay chính là núi La Phong, thuộc huyện Phong Đô, tỉnh Tứ Xuyên! Tuy thế, chịu ảnh hưởng của Phật giáo, họ còn thừa nhận có Diêm La Vương cũng là vua cõi địa ngục; như vậy là có đến hai vị chưởng quản cõi Âm. Để khỏa lấp sự mâu thuẫn này, các đạo sĩ bèn nói Địa Tạng Vương Bồ Tát chỉ là một danh xưng do nhà Phật gán cho Phong Đô Đại Đế.

2) U Minh Giáo Chủ là danh xưng khác của Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, một vị thần được tin là có công năng cứu độ sanh tử. Nhằm để cạnh tranh với cõi Cực Lạc của Phật giáo, bọn Đạo Sĩ cũng lập ra thuyết có một Tịnh Độ của Đạo Giáo gọi là thế giới Trường Lạc ở phương Đông do Thái Ất Thiên Tôn làm giáo chủ!

[2] Thần kỳ (神祇) là gọi tắt của thiên thần và địa kỳ, được dùng như một từ ngữ chỉ chung cho các vị thần thánh. Thần ở trên cõi trời hay trong hư không gọi là Thần, thần cai quản trên mặt đất gọi là Kỳ, tức các vị thần núi non, rừng rậm, thành hoàng, thổ địa v.v..

[3] Trong Đạo Giáo, Lão Tử thường được tôn xưng là Thái Thượng Lão Quân hay Đạo Đức Thiên Tôn, là một trong ba vị Tam Thanh (tức Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn). Người khởi đầu đề xướng tôn vinh Lão Tử là thủy tổ của Đạo Giáo chính là Trương Đạo Lăng (sáng tổ của Ngũ Đấu Mễ đạo – tiền thân của Đạo Giáo). Vào thời Hán Thuận Đế, Trương Đạo Lăng tôn xưng Lão Tử là Thái Thượng Lão Quân. Sau này, Khấu Khiêm Chi lại gọi Lão Tử là Đạo Đức Thiên Tôn vì Lão Tử là tác giả của Đạo Đức Kinh. Về sau, các đạo sĩ đặt thêm nhiều danh xưng cho Lão Tử như Hỗn Nguyên Lão Quân, Giáng Sanh Thiên Tôn, Thái Thanh Đại Đế, Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế, Đại Thánh Tổ Cao Thượng Đại Đạo Kim Khuyết Huyền Nguyên Thiên Hoàng Đại Đế v.v… nhưng Thái Thượng Lão Quân vẫn là danh xưng phổ biến nhất.

[4] Bão Phác Tử là một bộ sách do Cát Hồng (283-363) soạn vào đời Đông Tấn, được coi là một kinh điển trọng yếu của Đạo Giáo. Nội dung chia làm hai phần:

1) Nội Thiên chuyên nói về cách luyện những phương thuốc để uống vào sẽ trở thành thần tiên (tức cách luyện kim đan và tiên dược), những sự biến hóa quỷ quái, các pháp thuật nhương tai trừ họa, nguồn gốc của vũ trụ, phương pháp tu luyện của Đạo Gia.

2) Ngoại Thiên luận về tình hình xã hội, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những khái niệm của Nho gia. Phần này luận về lẽ được mất trong nhân gian, châm biếm thói tục, pháp bình trị xã hội, yêu dân, tiết dục…

[5] Ý nói: Chẳng vì một người có những điểm đáng chê trách mà vứt hết những câu nói hợp lý của người ấy. Nếu coi Cảm Ứng Thiên là của Cát Hồng thì tuy Cát Hồng đề xướng những toa thuốc tiên nhảm nhí (có rất nhiều chất độc như thủy ngân, chì), những cách tu luyện kỳ quái, bùa chú quàng xiên v.v.. thì cũng không vì vậy mà sổ toẹt những lời luận định chí lý về đạo lập thân, xử thế trong bộ Bão Phác Tử nói chung và Cảm Ứng Thiên nói riêng.

[6] Trùng Văn, Điểu Thư (còn gọi là Điểu Trùng Thư, Điểu Trùng Triện) là tên gọi chung cho những loại chữ tượng hình sơ khai của văn tự Trung Quốc trước thời Tần Thủy Hoàng. Đây là một trong những lối chữ của Kim Văn (tức những văn tự được khắc trên đồ kim loại, như đỉnh, lư đồng, kiếm, ấn v.v…) Do nét chữ nguệch ngoạc, ngoằn ngoèo như giun bò nên gọi là Trùng Văn; do có những nét vẽ giống như hình con chim vẽ cách điệu hoặc vết chân chim nên gọi là Điểu Thư.

[7] Ngũ Bộ Lục San là từ ngữ chỉ kinh thư của La Giáo (một thứ tà giáo do La Thanh sáng lập vào thời Gia Tĩnh – Vạn Lịch nhà Minh). Gọi là Ngũ Bộ Lục San vì tà giáo này có năm bộ kinh thư trọng yếu, tức 1) Khổ Công Ngộ Đạo Quyển 2) Thán Thế Vô Vi Quyển, 3) Phá Tà Hiển Chánh Thược Thi Quyển (chia thành hai quyển thượng và hạ) 4) Chánh Tín Trừ Nghi Tự Tại Quyển và 5) Nguy Nguy Bất Động Thái Sơn Thâm Căn Kết Quả Bảo Quyển.

[8] Đề Hình có hai cách hiểu:

1) Gọi tắt của Đề Điểm Hình Ngục Ty, là một chức quan được lập ra vào thời Tống, tương đương với Bộ Trưởng bộ Tư Pháp hiện thời.

2) Gọi tắt của Đề Hình Án Sát Sứ, viên quan chuyên coi về tố tụng trong một tỉnh.

Đến đầu thời Dân Quốc, chữ Đề Hình thường được dùng để chỉ cho Công Tố Viện nói riêng và bộ Tư Pháp nói chung.

[9] Truy Đảnh là một cách niệm Phật nhằm đối trị tâm tán loạn, câu nọ gối lên câu kia không xen hở chút nào. Cách này chỉ có thể áp dụng để đối trị loạn tâm chứ không nên áp dụng thường xuyên vì sẽ bị tổn khí, sanh bệnh.

[10] Long Hoa Giáo vốn là một chi phái của La Giáo do La Nhân (tức La Thanh, còn gọi là La Tổ) sáng lập, lấy Ngũ Bộ Lục San làm kinh điển chính, thờ đủ các vị thần thánh lẫn nhân vật trong cổ sử hoặc truyện thần thoại như Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Hứa Do, Đường Nghiêu, vua Thuấn, Quảng Thành Tử, cũng như các vị Phật như Nhiên Đăng, Thích Ca, Quán Âm, các vị tôn giả hoặc tổ sư như Ca Diếp, Huệ Năng… Cách tu tập của họ bao gồm bùa chú, luyện khí, bói toán, đồng cốt, phong thủy v.v… Họ tự xưng là tại gia hóa Phật giáo, thậm chí một số nhà “nghiên cứu Phật giáo” của Hoa Lục còn cố tình lập lờ coi Long Hoa Giáo như là một chi phái chấn hưng của tông Lâm Tế!

[11] Tiên Thiên Giáo (còn gọi là Tiên Thiên Đạo, Thanh Liên Giáo, Kim Đan Đạo v.v…) do Hoàng Đức Huy sáng lập, lấy Vô Cực Lão Mẫu làm đối tượng sùng bái chánh yếu, coi Đạt Ma là sơ tổ, lục tổ là Huệ Năng, thất tổ là hai vị Nam Nhạc Hoài Nhượng và Mã Tổ Đạo Nhất, bát tổ là La Úy Quần, Hoàng Đức Huy là cửu tổ. Giáo thuyết của họ cũng pha trộn lung tung những tín ngưỡng dân gian, giải thích cong vạy những danh từ Thiền học Phật giáo, diễn giải xuyên tạc kinh điển nhà Phật để dễ tuyên truyền đồng thời biện minh cho cách tu của bọn chúng. Từ giáo phái này lại nảy sanh ra nhiều chi phái mà nổi tiếng nhất là Nhất Quán Đạo đã được truyền sang tận Hoa Kỳ.

[12] Xét về lý, vô minh vốn không thật có nên gọi vô minh là “cái chẳng phải tự họ vốn có”.

[13] Kinh Địa Trì có tên đầy đủ là Bồ Tát Địa Trì Kinh (Bodhisattva-bhūmi), còn gọi là Bồ Tát Giới Kinh, Bồ Tát Địa Trì Luận, hoặc Địa Trì Luận do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào thời Bắc Lương. Tuy mang tên là Kinh, nhưng thật ra là Luận. Theo truyền thuyết, bản kinh này do ngài Vô Trước chép lại lời giảng của Di Lặc Bồ Tát. Bản kinh này chính là bản dịch khác của phẩm Bồ Tát Địa trong Du Già Sư Địa Luận. Kinh này giảng về phương tiện tu hành của Bồ Tát, bao gồm sơ phương tiện xứ, pháp phương tiện xứ, tất cánh phương tiện xứ. Do trong ấy lại có phần giảng nói về Bồ Tát Giới nên từ xưa đến nay rất được Phật môn Trung Hoa coi trọng.

[14] Tương tức: Xét về lý, Phật tánh của Phật và chúng sanh giống hệt nhau, nên nói “chúng sanh tức là Phật, Phật tức là chúng sanh”.

[15] Viết theo lối Đảnh Cách là viết cao hơn một chữ so với những dòng khác. Do tiếng Việt viết theo hàng ngang không thể dùng cách trình bày ấy, lời phê của Tổ được in nghiêng và ghi thêm chữ “Tổ Ấn Quang phê” trong ngoặc vuông cho rõ ràng.

[16] Có rất nhiều bài chú Cúng Dường tùy theo nghi quỹ, nhưng theo ngu ý, bài chú Cúng Dường được cư sĩ Niệm Phật dùng ở đây là chú Phổ Cúng Dường (thường được in trong các kinh Nhật Tụng): “Án, nga nga nẵng tam bà phạ, phiệt nhật la hộc” (Om, Gaganam Sambhava Vajra Hoh). Bài chú này có tên gọi đầy đủ là Đại Hư Không Tạng Bồ Tát Phổ Cúng Dường Chân Ngôn. Phật môn thường tụng chú này với hàm nghĩa dùng tâm lượng cúng dường rộng lớn như hư không, xuất sanh vô biên bảo tạng, cúng dường rộng khắp mười phương Tam Bảo cùng hết thảy chúng sanh không ngăn ngại như hư không.

[17] Quế Viên là tên gọi khác của quả long nhãn.

[18] Âu Dương Cánh Vô (1871-1943), tên thật là Âu Dương Tiệm, tự là Kính Hồ, năm bốn mươi tuổi đổi tên tự thành Cánh Vô, còn có tên tự khác là Cánh Ngộ, người huyện Nghi Hoàng, tỉnh Giang Tây, là hậu duệ của Âu Dương Tu. Ông được coi là một triết gia nổi tiếng thời cận đại, do theo học với Dương Nhân Sơn nên hâm mộ ý chỉ kinh Hoa Nghiêm bèn chuyên nghiên cứu Phật giáo, ẩn cư tại Kỳ Hoàn Tịnh Xá để chuyên nghiên cứu kinh luận. Ông từng sang Nhật du học. Năm 1912, cùng với Lý Chứng Cương thành lập hội Phật Giáo, chủ trương tách rời chánh quyền và tôn giáo, sa thải những tăng sĩ dốt nát. Ông rất thích nghiên cứu Duy Thức Học, đặc biệt tôn sùng Hoa Nghiêm và Du Già Sư Địa Luận, nhưng về sau lại đề xướng thuyết “Hoa Nghiêm, Đại Thừa Khởi Tín Luận, Lăng Nghiêm v.v… đều là do người Trung Hoa ngụy tạo!” Ông chủ trương các tờ báo Dung Truyền, Khổng Học Tạp Chí v.v… Năm 1922, sáng lập Chi Na Nội Học Viện với tông chỉ hoằng dương Phật giáo, bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp lợi sanh. Thái Hư đại sư từng viết bài phê phán đường lối cũng như cách diễn giải Phật pháp lệch lạc của Chi Na Nội Học Viện gây nên cuộc tranh luận sôi nổi giữa Cánh Vô và Thái Hư qua nhiều chủ đề trong nhiều năm.

[19] Nhị Vô Ngã là Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã, còn gọi là Nhân Không và Pháp Không, hoặc Ngã Pháp Nhị Không.

1) Nhân Vô Ngã: Hiểu rõ thân người do Ngũ Uẩn giả hợp, chứ thật không có bản thể của cái Ngã tự chủ tự tại. Đấy là phép Quán của Tiểu Thừa để đoạn Phiền Não Chướng, đắc Niết Bàn.

2) Pháp Vô Ngã: Hiểu rõ các pháp do nhân duyên sanh ra, không có thực thể, tự tánh. Đấy chính là pháp Quán của Đại Thừa để đoạn Sở Tri Chướng, trở thành Bồ Tát.

[20] Xin đừng hiểu lầm y Ngũ Điều của tăng sĩ trong đoạn này với Ngũ Điều mạn y trong đoạn trước. Mạn Y là y không chia thành từng điều (tổ Ấn Quang gọi một miếng lớn là điều, mỗi điều cắt ra thành miếng nhỏ hơn gọi là Khối). Vì thuở xưa khổ vải khá hẹp, để may Mạn Y phải ghép bằng năm miếng vải. Nay thì Mạn Y là cả một khổ vải không cắt thành miếng nhỏ. Còn Y Ngũ Điều của chư Tăng thì gồm năm miếng lớn may lại. Mỗi một miếng lớn cắt thành hai miếng: một dài, một ngắn (Tổ gọi mỗi miếng nhỏ ấy là “khối”). Y này là loại y chư Tăng thường mặc để làm lụng hoặc tụng kinh lễ Phật thường ngày, cư sĩ không được tiếm dụng. Do thời ấy Mạn Y cũng có năm miếng nên cư sĩ thường đắp y Ngũ Điều của chư Tăng mà không biết mình đã phạm cấm chế của đức Phật.

[21] Bắc Chiến còn gọi là Bắc Phạt hoặc Đại Cách Mạng lần thứ nhất, kéo dài từ năm 1926 đến năm 1928. Đây là cuộc chiến được phát động bởi Quốc Dân Đảng Cách Mạng Quân. Cánh quân này do Tưởng Trung Chánh chỉ huy từ phương Nam kéo lên phương Bắc với ý định đánh bại chính quyền Bắc Dương nhằm thống nhất sơn hà. Chính quyền Bắc Dương là chính quyền quân phiệt cai trị phía Bắc Trung Hoa từ năm 1912 tới năm 1928 sau khi lật đổ Thanh Triều, mưu toan tách Bắc Trung Hoa khỏi sự quản trị của chính quyền Dân Quốc tại Nam Kinh. Chính phủ này khởi đầu bằng Tổng Thống Viên Thế Khải và kết thúc bằng Chấp Chánh Đại Nguyên Soái Trương Tác Lâm.

“Hồ Hám chi chiến” (hay còn gọi là Lạc Dương Chiến Đấu) là cuộc giao tranh giữa Hồ Cảnh Dực và Hám Ngọc Côn kéo dài từ ngày Hai Mươi tháng Hai đến ngày Mười Ba tháng Ba năm 1925 tại Lạc Dương (tỉnh Hà Nam). Nguyên nhân là do Hồ Cảnh Dực được chánh quyền Dân Quốc cử làm Tổng Đốc tỉnh Hà Nam, tướng chỉ huy quân sự tỉnh Hà Nam là Hám Ngọc Côn bất mãn liền đem quân vây đánh họ Hồ. Đôi bên giao tranh dữ dội tại Lạc Dương, rốt cuộc Hám Ngọc Côn thua trận phải vượt Hoàng Hà chạy trốn rồi tự sát.

[22] Nguyên văn “sanh, đán, tịnh, sửu” là bốn loại diễn viên trong một vở tuồng của Trung Quốc, nhất là trong thể loại Kinh Kịch.

1) Sanh (gọi đủ là Sanh Hạnh): Tức vai diễn viên nam, hóa trang vừa phải, không bôi đen mặt. Chia ra làm các loại Tu Sanh (hoặc Lão Sanh, tức vai nam trung niên, thường đeo râu dài hay râu ba chòm, năm chòm), Hồng Sanh (những vai kép đẹp, hào hùng, thường tô mặt đỏ nhưng không có vằn như vai Quan Công, Triệu Tử Long v.v…), Tiểu Sanh (những vai nam nho nhã, trẻ trung. Tiểu Sanh lại chia ra thành Linh Tử Sanh tức vai võ tướng đội mão có đuôi trĩ; Sa Mạo Sanh tức vai quan văn thường đội mão Ô Sa; Phiến Tử Sanh tức văn nhân (do thường cầm quạt nên gọi như vậy); Cùng Sanh tức vai học trò nghèo….); Vũ Sanh (vai võ tướng, mặt đẹp, hào hoa, không có vẻ dữ dằn) như La Thông, Tiết Đinh San v.v…

2) Đán (gọi đủ là Hoa Đán): Tức các vai diễn của nữ, chia thành Thanh Y (vai tỳ nữ, đầy tớ, phụ nữ bình dân), Hoa Đán (đào đẹp, hay đào thương, tức nữ diễn viên đóng vai tiểu thư, công chúa, vương phi, hoàng hậu, bà chủ, thôn nữ xinh đẹp…), Vũ Đán (nữ tướng), Lão Đán (đào mụ, tức vai bà già) v.v…

3) Tịnh (gọi đủ là Tịnh Hạnh, hoặc Hoa Kiểm): Tức các vai nam bôi mặt đen hay đỏ với nhiều họa tiết kỳ quái nhằm diễn tả tánh cách anh hùng, chánh trực, mạnh mẽ, hào sảng, nhưng thô lỗ, hoặc những vai tướng cướp hay anh hùng hảo hán v.v… tức các vai diễn những nhân vật như Hạng Vũ, Trương Phi, Lý Quỳ, Đơn Hùng Tín, Uất Trì Cung v.v…

4) Sửu (gọi đủ là Sửu Hạnh) tức những vai hề, thường vẽ mặt với những nét hoạt kê, lại chia làm Văn Sửu (hề văn) và Vũ Sửu (hề võ).

Đến cuối đời Thanh, nghệ thuật tuồng còn tăng thêm một loại diễn viên nữa là Mạt, chuyên đảm nhiệm vai dẫn truyện (gần giống như người giữ vai Giáo Đầu trong tuồng chèo của ta).

Do không có chữ tương ứng để diễn tả ý nghĩa chữ Tịnh, chúng tôi phải tạm dịch Tịnh thành “kép nhọ” vì vai này thường bôi mặt đen thui, vằn vện.

[23] Tạp Hý là một loại nghệ thuật tuồng dân gian, gọi đủ là La Cổ Tạp Hý hoặc Não Cổ Tạp Hý, do nhạc đệm chủ yếu dùng bộ gõ (như thanh la, não bạt, trống, phách, mõ…) chứ không dùng đàn sáo nên gọi là La Cổ. Tạp Hý thường diễn tấu từ ngày Trùng Dương (mùng Chín tháng Chín Âm Lịch) trở đi. Kịch bản của tuồng thường là các mẫu chuyện lịch sử như Tam Quốc Chí, Thuyết Đường v.v… nhưng thường diễn để cúng thần, cúng hội đình chùa, hoặc khánh thành nhà mới. Trước khi diễn, ban hát thường đốt một đống lửa to, toàn thể diễn viên ra chào khán giả rồi mới diễn. Mỗi một vai diễn trước khi ra sân khấu thường có người hát giới thiệu trước.

[24] Vũ Hý còn gọi là Vũ Đả là một hình thức diễn xướng chú trọng biểu diễn những động tác của võ thuật theo tiếng nhạc, tuy có nội dung cốt chuyện hẳn hoi, nhưng phần diễn xướng và ca từ thì ít mà chú trọng nhiều vào kỹ thuật biển diễn các thế võ sao cho thật đẹp mắt, linh hoạt, hoa mỹ. Thể loại này bắt đầu từ màn biểu diễn “đơn tiên đoạt sóc” (một chiếc roi cướp giáo) từ đời Nguyên, rồi phát triển thành những vở đặc biệt mô tả những màn giao đấu như Tam Anh Chiến Lã Bố (ba anh em Lưu Bị – Quan Vũ – Trương Phi đấu với Lã Bố), Quan Công Quá Lục Quan (Quan Công Vượt Sáu Ải) v.v…

[25] Tiếng gọi tỏ vẻ tôn trọng người bề trên về bên ngoại của kẻ khác.

[26] Tam Đỉnh Giáp là ba vị Tiến Sĩ đỗ đầu khoa thi Đình, tức Trạng Nguyên, Bảng Nhãn và Thám Hoa.

[27] Theo quy chế đời Thanh, một Tỉnh được chia thành nhiều Đạo. Mỗi Đạo sẽ gồm nhiều Phủ. Chức quan đứng đầu một Đạo gọi là Đạo Đài hay Đạo Doãn. Thời Dân Quốc, Ninh Thiệu (Ninh Ba – Thiệu Hưng) Đạo đặt trụ sở của quan Đạo Doãn tại Cối Kê, nên Ninh Thiệu Đạo còn gọi là Cối Kê Đạo.

[28] Vô Dị Nguyên Lai thiền sư (1575-1630) là cao tăng thuộc tông Tào Động sống vào đời Minh. Sư còn có hiệu là Đại Nghĩ, pháp tự Vô Dị, thường được gọi là Bác Sơn Thiền Sư. Năm mười lăm tuổi, Sư triều lễ núi Ngũ Đài, tham phỏng ngài Vô Minh Huệ Kinh chùa Bảo Phương, đọc Cảnh Đức Truyền Đăng Lục liền tỉnh ngộ. Vì thế bèn theo ngài Huệ Kinh đến Ngọc Sơn, được ấn khả. Năm Vạn Lịch 30 (1602), Sư ẩn cư tại Bách Sơn ở Tín Châu (nay thuộc huyện Quảng Phong, Giang Tây). Năm Thiên Khải thứ bảy (1627) chuyển sang Cổ Sơn, đồ chúng theo học cả ngàn người. Sư mất năm Sùng Trinh thứ ba (1621) tại chùa Thiên Giới ở Kim Lăng. Môn nhân dựng tháp ở Bác Sơn và chôn y bát ở ngọn Hương Lô. Sư chuyên đề xướng tông chỉ Thiền Tịnh Bất Nhị. Những lời dạy của Sư được chép thành Vô Dị Thiền Sư Quảng Lục (35 quyển).

[29] Đây là một câu Khổng Tử dạy Tử Lộ được chép trong thiên Vi Chánh sách Luận Ngữ. Khổng Tử dạy Trọng Do (Tử Lộ): “Do, hối nhữ, tri chi hồ? Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã” (Này Trọng Do! Ta dạy ông, “biết” là như thế nào? Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, đấy chính là biết vậy). Theo Châu Hy, Trọng Do tính tình bộp chộp, dễ có hành động quá khích trong khi làm quan nên Khổng Tử mới dạy như thế

[30] Đây là một câu nói trích từ thiên Tử Hãn sách Luận Ngữ.

[31] Đây là một câu nói trích từ thiên Thuật Nhi sách Luận Ngữ: “Nhị tam tử dĩ ngã vi ẩn hồ? Ngô vô ẩn hồ nhĩ. Ngô vô hành nhi bất dữ nhị tam tử giả, thị Khâu dã” (Hai ba người các anh cho ta có điều gì giấu diếm chăng? Ta không có gì dấu giếm các anh cả. Ta không làm gì mà chẳng để cho hai ba người các anh được biết, Khâu là như vậy đó). Chúng tôi dịch những câu nói này theo cách giải thích của sách Tứ Thư Bạch Thoại Giải.

[32] Khoa Đạo: Theo quy chế thời Minh – Thanh, Đô Sát Viện, Giám Sát Ngự Sử, hoặc các quan Đạo Doãn thuộc các Đạo đều được gọi chung là Khoa Đạo.

[33] Sanh Từ là lập đền thờ khi còn sống với ý nghĩa tỏ lòng biết ơn sâu đậm. Dân Bồ Kỳ cảm tạ sư Pháp Tràng đã cầu được mưa ngọt nhiều lần trong khi hạn hán nên lập đền thờ sống, đặt tên là Cam Lộ.

[34] Sanh Đồ là những người sẽ được đi dự thi Hội. Theo quy chế vào thời Minh Thanh, những người dự thi Thường Khảo (những khoa thi mở theo thông lệ) được chia thành hai loại Sanh Đồ và Hương Cống. Sanh Đồ là những người học từ trong các trường học do triều đình thiết lập ở kinh đô hoặc các châu, huyện, đã đậu kỳ sơ khảo tại trường, được ghi danh đưa lên Thượng Thư Tỉnh để dự thi Hội. Còn những người không học ở các trường do triều đình thiết lập, nhưng đã đỗ kỳ thi Hương, cũng được địa phương trình tấu lên Thượng Thư Tỉnh để thi Hội thì gọi là Hương Cống.

[35] Hàm Lâm Biên Tu là một chức quan vào thời Thanh Minh trên danh nghĩa có nhiệm vụ soạn thảo văn từ, chiếu chỉ cho hoàng đế, đồng thời biên soạn, chỉnh lý kinh sách v.v… Nhưng thực ra, chức quan Hàn Lâm Biên Tu được lập ra với mục đích tạo cơ hội cho người giữ chức vụ này được bồi dưỡng, huấn luyện bởi các vị hiền thần lão thành trong quá trình làm việc nhằm trở thành nhân tài chủ yếu cho đất nước, cũng như có đủ học vấn tư cách để làm thầy dạy cho các hoàng tử hoặc con các vị đại thần, vương công về sau.

[36] Nguyên văn “tiến Dịch Sư Quái giảng chương, quyền thiết thượng hào” (noi theo những điều được giảng dạy trong quẻ Sư Quái của kinh Dịch, lòng luôn tha thiết nơi hào Thượng trong quẻ ấy). Sư Quái là một quẻ kép trong kinh Dịch, dưới là quẻ Khôn (đất), trên là quẻ Khảm (tượng trưng cho nước). Phần Tượng Truyện của quẻ Sư Quái giảng: “Địa trung hữu thủy, Sư; quân tử dĩ dung dân, súc chúng” (Trong đất có nước là ý nghĩa của quẻ Sư. Quân tử bao dung dân chúng, làm cho mọi người được yên ổn, giàu vui). Phần chú giải của Khang Thiệu Tiết cho biết ý nghĩa của quẻ Sư Quái là bậc quân tử phỏng theo tánh chất của đất và nước, vững chắc, bao dung trăm họ, chăm lo cho cuộc sống của mọi người. Do hào Thượng của Sư Quái thuộc về quẻ Khảm là nước, nước có tính thấm nhuần và gột sạch chất bẩn, nên nói “lòng tha thiết nơi hào Thượng”, ngụ ý luôn chăm lo cho người dân được sống yên vui, giàu mạnh, cai trị dân bằng sự bao dung, khiến cho lòng người hiền thiện, an vui. Do vậy chúng tôi tạm dịch câu “tiến Dịch Sư Quái giảng chương, quyền thiết thượng hào” thành “luôn lo cho dân cho nước, lòng tha thiết mong làm lợi cho dân chúng”.

[37] Chiếu: Văn thư truyền lệnh do vua ban xuống cho các quan hay dân chúng. Nếu có tính cách hạn hẹp hơn, chỉ phổ biến cho các quan thuộc Nội Các hoặc Quân Cơ đại thần thì thường gọi là Thượng Dụ.

Đối (gọi đủ là Chiếu Đối): Sớ tâu trình ý kiến của các quan sau khi vua ban chiếu hỏi ý kiến hoặc ban bố mệnh lệnh.

Cáo và Sắc là những văn thư của vua nhằm tuyên bố những quyết định khen thưởng, chỉ thị hoặc răn bảo, nhưng Sắc thường được dùng để chỉ những văn bản quyết định khen thưởng, phong tặng do vua ban xuống.

[38] Nhiệm vụ chủ yếu của Kinh Diên Giảng Quan là dạy Thái Tử học hoặc giảng giải những điển tích khó trong khi Thái Tử đọc văn kiện, tấu chương. Đôi khi vị này còn kiêm nhiệm vai trò cố vấn cho Thái Tử.

[39] Trung Doãn là một chức quan giữ nhiệm vụ xử lý những công việc quản trị hành chánh (giống như chức Chánh Văn Phòng hoặc Đổng Lý Văn Phòng hiện thời) trong phủ Thái Tử (Chiêm Sự Phủ). Trong Chiêm Sự Phủ có lập ra các phân viện Hữu Xuân Phường và Tả Xuân Phường (dưới thời Minh, Xuân Phường là một cơ cấu giống như viện Hàn Lâm của Thái Tử, bao gồm các cố vấn, nhân tài để giúp cho Thái Tử tập sự cai trị, điều hành đất nước sau này, đứng đầu là chức Thứ Tử). Dưới chức Tả Xuân Phường Tả Thứ Tử lập ra chức Trung Doãn, dưới chức Hữu Xuân Phường Hữu Thứ Tử lập ra chức Trung Xá Nhân, nhưng từ cuối từ đời Minh trở đi đều gọi là Trung Doãn hết, không còn danh xưng Trung Xá Nhân nữa!

[40] Thị Độc Học Sĩ là chức được thiết lập vào thời Minh – Thanh, ngạch trật từ Nhất Phẩm đến Tứ Phẩm, đứng đầu viện Hàn Lâm, thường giữ nhiệm vụ tổng toản tu (Chief Editor) các công trình biên soạn sử liệu hoặc học thuật.

[41] Long Vũ là niên hiệu của Minh Thiệu Tông (1602-1646). Minh Thiệu Tông tên thật là Châu Duật Kiên, là cháu nội của Đường Vương Châu Thạc Hoảng (hậu duệ của người con thứ 23 của Minh Thái Tổ Châu Nguyên Chương) được các di thần nhà Minh đưa lên ngôi vua năm 1645 với hy vọng khôi phục giang sơn nhà Minh. Vua lên ngôi chỉ được một năm, quân Thanh đã đánh tới Phước Kiến, phải chạy sang Quảng Đông. Bị quân Thanh truy kích tới cùng, thế cùng lực kiệt, vua bị bắt, bèn tuyệt thực chết, thọ 44 tuổi. Do Châu Duật Kiên không phải là con cháu trực hệ của vua Sùng Trinh nên Tổ dùng chữ “Minh phiên” (phên giậu nhà Minh) để chỉ vua Long Vũ. Chúng tôi chỉ dịch gọn là “hậu duệ”.

[42] Bậc tôn túc tuổi cao đức trọng.

[43] Di lão: Quan lại của triều đại trước.

[44] Sào Do: Chính là Sào Phụ (thường bị đọc trại thành Sào Phủ) và Hứa Do, hai vị ẩn sĩ thời vua Nghiêu. Theo bài Bá Di Liệt Truyện trong bộ Sử Ký thì vua Nghiêu mời Sào Do đến để bàn chuyện nhường thiên hạ cho Hứa Do, Hứa Do không nhận bèn lẩn trốn, ra sông rửa tai, ngụ ý không để tai mình bị nhiễm bẩn bởi danh lợi. Khi ấy có Sào Phụ dẫn trâu ra sông uống nước, thấy vậy, hỏi nguyên do, nghe xong liền chê: “Nếu ông ở trong núi cao, hang sâu, ai biết đến ông? Ai thấy được ông. Ông hời hợt, vẫn muốn được người người khác nghe tiếng, cầu cạnh đấy chứ! Uống nước này chỉ bẩn miệng trâu ta” rồi dắt trâu lên thượng nguồn cho uống.

[45] Tức ngài Phí Ẩn Dung, một vị thiền đức nổi tiếng thời ấy.

[46] Ý nói đối đáp những câu hỏi về thiền cơ nhanh nhạy, đúng ý với người hỏi, không sai sót chút nào!

[47] Gia tân: Khách quý.

[48] Tây Đường (còn gọi là Tây Am) là từ ngữ trong tùng lâm do tăng chúng gọi vị Tăng trụ trì một ngôi chùa khác, nhưng sống như khách trong chùa mình. Do thời cổ coi phương Tây là khách vị nên mới gọi như thế. Do ngài Pháp Tràng không ở chùa Mật Ấn mà chùa Mật Ấn vẫn thỉnh ngài làm Trụ Trì nên Pháp Tràng được coi là Tây Đường của Mật Ấn. Ngài Tuyết Đậu dùng tư cách là vị thầy truyền pháp của Pháp Tràng để chứng minh lễ tấn phong ấy.

[49] Thường thiền sư chính là ngài Pháp Thường (752-839), cao tăng đời Đường, quê ở Tương Dương (tỉnh Hồ Bắc), xuất gia từ nhỏ, trụ tại chùa Ngọc Tuyền. Bao nhiêu kinh sách hễ đọc qua liền nhớ mãi không quên. Hai mươi tuổi thọ Cụ Túc ở chùa Long Hưng. Sư hâm mộ Thiền học, thoạt đầu tham học với Mã Tổ Đạo Nhất, đắc ngộ, ẩn tu tại núi Đại Mai (thuộc huyện Ngân, tỉnh Chiết Giang), đồ chúng xin đến học rất đông.

[50] Đảnh tướng: Theo nguyên nghĩa là tướng búi tóc trên đỉnh đầu của Như Lai, hết thảy trời người không thấy được nên gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng. Không rõ từ thời nào, Thiền Tông Trung Hoa thường dùng thuật ngữ này để chỉ những bức hình vẽ các vị cổ đức của Thiền Tông, phần lớn là vẽ hình bán thân hoặc ngồi trên tòa, phía trên bức vẽ thường đề một bài thơ tán dương.

[51] Thủ Tọa: Có hai cách hiểu:

1) Theo Thích Thị Kê Cổ Lược quyển 3, Thủ Tọa là một chức quan được thiết lập vào năm Đại Trung thứ mười (856) đời Đường Tuyên Tông để cai quản tất cả các tăng sĩ. Về sau, những vị tinh thông kinh luật luận cũng được phong tặng tước vị này. Cuối cùng, danh hiệu này chỉ để phong tặng những vị thiền đức nổi tiếng.

2) Thủ Tọa là một trong sáu chức vị trong Tăng Đường theo Thanh Quy. Thủ Tọa còn gọi là Thượng Tọa, Thủ Chúng, Đệ Nhất Tọa, Tọa Nguyên, Lập Tăng, Thiền Đầu… tức vị làm gương mẫu cho toàn thể tăng chúng, phẩm hạnh cao trỗi, không còn vọng niệm yêu ghét, thị phi v.v… Về sau, chức vụ này chỉ có nghĩa là vị đứng đầu Tăng chúng, hoặc đứng đầu một đường nếu tùng lâm chia thành nhiều đường, chẳng hạn Tiền Đường Thủ Tọa, Hậu Đường Thủ Tọa, Danh Đức Thủ Tọa….

Chữ Thủ Tọa ở đây chỉ có thể hiểu theo cách thứ hai.

[52] Tức cảnh Tây Phương Cực Lạc, có hình A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát ngự trên tòa sen ở chính giữa, xung quanh có các vị thượng thiện nhân nghe pháp, cúng dường, tu tập, trong ao báu có ngọc Ma Ni tuôn nước báu, những người vãng sanh từ hoa sen báu bước ra, chiêm ngưỡng, lễ kính Phật, chư thiên rải hoa trời cúng dường trên hư không v.v…. Bức vẽ này còn được gọi bằng những danh từ như Cực Lạc Thế Giới Biến Tướng Đồ, Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Y Chánh Trang Nghiêm Đồ, Tây Phương Pháp Hội Đồ v.v…

[53] Xin đọc bài này trong phần Những Bài Viết Khác của Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển 2. Lâm Văn Trung Công chính là Lâm Tắc Từ.

[54] Cha của ông Trần Sĩ Mục là cư sĩ Trần Tiếp Hòa.

[55] Phức (馥) có nghĩa là thơm ngào ngạt, thơm ngát.

[56] “Hòm” (có nghĩa là cái tráp, cái rương nhỏ, xin đừng lầm là quan tài!) thường được dùng để dịch chữ Hàm (hay còn gọi là Lang Hàm). Lang Hàm vốn là một cái hộp nhỏ để đựng cả một bộ sách, vừa giữ cho sách khỏi hư bìa, vừa để những quyển trong một bộ sách bị thất lạc. Khi xưa, sách thường được in thành từng quyển, mỗi quyển độ 40 trang. Đối với những tác phẩm lớn, cứ mỗi 10 quyển lại gộp thành một Hàm, cho dễ kiểm nhận, tra cứu, giống như hình thức chia thành tập (volume) hiện thời.

[57] “Phạn bản” theo nghĩa thông thường có nghĩa là nguyên văn chép bằng tiếng Sankrit (tiếng Bắc Phạn), nhưng từ ngữ này được dùng ở đây để chỉ một lối in kinh. Trong cách in kinh này, mỗi trang gồm mười hai dòng, mỗi dòng độ 17 chữ, được chia thành hai nửa trang, có vạch phân cách chính giữa, nhưng vẫn chỉ đánh số như một trang (chỉ in một mặt giấy). Do vậy khi xếp lại thành quyển để đóng gáy, hai mặt giấy trắng đâu lưng vào nhau, mỗi một trang giấy của quyển sách đã đóng chỉ là nửa trang giấy ban đầu (tức mỗi trang chỉ gồm sáu dòng; đúng ra phải gọi là cột), cứ mỗi hai mặt của một trang giấy mới gọi là một trang (vì thế lối in này còn gọi là Chiết Tử). Đây là cách in mô phỏng cách chép kinh theo hàng ngang trên lá bối của Ấn Độ nên gọi là Phạn Bản. Đôi khi có những bản in như Thục Bản được in theo lối Quyển Tử, tức mỗi trang được in trên một tờ giấy dài, mỗi một tờ như vậy gồm hai mươi ba hàng, mỗi hàng mười sáu hay mười bảy chữ, bộ kinh in xong được cuốn thành cuộn chứ không xếp giấy đóng thành sách. Về sau này, khi kỹ thuật ấn loát tiến bộ hơn, đã in được cả hai mặt giấy, nếu mỗi trang bị cắt ra như vậy thì bản in ấy vẫn gọi là Phạn Bản.

[58] Thạch Kinh Sơn có tên cũ là Bạch Đới Sơn, hay Vân Cư Sơn, thuộc huyện Phòng Sơn, tỉnh Hà Bắc. Do sư Tịnh Uyển (Minh Báo Ký ghi là Trí Uyển) khởi xướng khắc kinh trên đá cất giữ trong động mà núi được gọi là Thạch Kinh Sơn. Do thế núi ngoằn ngoèo kỳ vĩ nên núi còn có tên nữa là Tiểu Tây Thiên. Trong lá thư trên đây, tổ Ấn Quang ghi sư Trí Uyển sống vào đời Tấn có lẽ là do người sao lục chép nhầm. Theo từ điển Phật Quang Sơn, trong niên hiệu Đại Nghiệp (605-616) nhà Tùy, do các vua thuộc triều đại Bắc Châu, Bắc Tề nối tiếp nhau phế Phật, trục xuất sa-môn, đốt phá nhà chùa, sư Tịnh Uyển chùa Trí Tuyền ở U Châu liền phát nguyện tạo khắc Đại Tạng Kinh trên đá để kinh điển khỏi bị diệt mất. Được sự hỗ trợ của vợ vua Tùy Dạng Đế, Sư đã liên tục khắc kinh cho đến khi viên tịch vào năm Trinh Quán 13 (639) đời Đường. Tiếp nối chí nguyện của Sư có các vị Huyền Đạo, Nghi Công, Huệ Tiêm, Huyền Pháp, Khả Nguyên, Hưng Tông, Triệu Tuân Nhân, Đạo Tông, Tông Lý v.v… Toàn bộ Đại Tạng Kinh được khắc xong vào năm Đại An thứ mười (1094) nhà Liêu. Hậu nhân vẫn tiếp tục khắc thêm những bản kinh hoặc trước tác, ngữ lục, chú giải cho mãi đến năm Khang Hy 30 (1691) mới thật sự ngưng khắc.

[59] Giáo Thừa Pháp Số do Viên Tịnh biên tập vào đời Minh. Do thấy các sách Đại Thừa Pháp Số, Hiền Thủ Pháp Số còn thiếu sót nhiều nên Sư đã dựa trên quan điểm của tông Thiên Thai thâu thập tất cả những pháp số (những thuật ngữ trong Phật giáo như Tam Quy, Nhất Thừa, Ngũ Giáo, Lục Độ v.v…) trong các kinh điển Phật giáo và trước tác của bách gia chư tử biên soạn thành sách này. Sách bắt đầu bằng từ ngữ “nhất tâm” và kết thúc bằng “bát vạn tứ thiên pháp môn”. Trong ấy, cũng giải thích những danh số của các ngoại điển (những kinh sách không thuộc Phật giáo).

Đại Minh Tam Tạng Pháp Số do sư Nhất Như biên soạn, thường được gọi tắt là Đại Minh Pháp Số, hoặc Tam Tạng Pháp Số, nội dung gồm những pháp số xuất phát từ Tam Tạng kinh điển, cũng khởi đầu bằng từ ngữ “nhất tâm” và kết thúc bằng “bát vạn tứ thiên pháp môn”, tổng cộng 1.555 từ ngữ, ghi rõ xuất xứ từ kinh luận trước thuật nào, đồng thời cũng dẫn giải những cách giải thích khác nhau của các tông.

[60] Tổ Đình Sự Uyển gồm 8 quyển, do Mục Am Thiện Khanh soạn vào đời Tống, ghi lại ngữ lục, hành trạng tóm tắt của các vị thiền sư nổi tiếng thời ấy như Vân Môn Văn Yển, Tuyết Đậu Trọng Hiển… Đồng thời sách còn giảng giải những từ ngữ khó nên trong thuở trước sách này thường được coi như một cuốn tự điển trong nhà Thiền.

[61] Lâm Gian Lục do ngài Giác Phạm Huệ Hồng (1071-1128) soạn vào đời Tống. Sách có tên gọi đầy đủ là Thạch Môn Hồng Giác Phạm Lâm Gian Lục. Đây chính là ngữ lục của ngài Giác Phạm, ghi chép những lời bàn luận, tán dương hạnh đẹp của các vị tôn túc, cũng như những di huấn trong thiền lâm, những ý chỉ của chư Phật, Bồ Tát v.v…

Tông Môn Vũ Khố do Đạo Khiêm soạn vào đời Tống, có tên gọi đầy đủ là Đại Huệ Phổ Giác Thiền Sư Tông Môn Vũ Khố. Sách này là phụ lục của cuốn Đại Huệ Phổ Giác Thiền Sư Ngữ Lục, tập hợp lời ngài Đại Huệ Tông Cảo luận về nhân duyên, hành trạng, giáo huấn, cơ phong chuyển ngữ nhằm tùy cơ tiếp độ người học của các cổ đức trong nhà Thiền, kèm thêm những lời bình chú của Đạo Khiêm.

[62] Tức nơi thức ăn mới được nghiền nát, chưa được tách ra thành các dưỡng chất dưới tác dụng của các diếu tố (enzymes) tiêu hóa. Như vậy Sanh Tạng bao gồm thực quản, dạ dày. Thục tạng gồm ruột non, ruột già.

[63] Đây là lời thắc mắc của ông Đinh Phước Bảo về một câu trong Phật Thuyết Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh, “con nằm trong bụng mẹ, ở phía dưới sanh tạng, phía trên thục tạng”.

[64] Quỳnh lâm: Vốn gọi đủ là “quỳnh lâm ngọc thụ” (rừng quỳnh cây ngọc). Quỳnh (瓊) là một loại ngọc quý và đẹp. Do vậy, “quỳnh lâm ngọc thụ” thường dùng để chỉ chung những gì thanh cao, đẹp đẽ, nhất là những lời nói tuyệt diệu. Từ ngữ này vốn trích từ một câu nói trong tác phẩm Hoắc Tiểu Ngọc Truyện của Tưởng Phòng đời Đường: “Đản giác nhất thất chi trung, nhược quỳnh lâm ngọc thụ, hỗ tương chiếu diệu, chuyển phán tinh thái xạ nhân” (Chỉ nhận thấy trong căn phòng khác nào rừng quỳnh cây ngọc, chiếu ngời lẫn nhau, đưa mắt nhìn thấy màu sắc tinh xảo lóa mắt).

[65] Tức bản Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh Nghĩa Sớ, không rõ ai là tác giả, được đánh số 1802 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Đây là bản sớ giải bộ Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Thần Chú Tâm Kinh (Mukhadaśaikavidyā-mantra-hrdaya) do ngài Da Xá Quật Đa dịch dưới thời Bắc Châu.

Tin liên quan