Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên | Quyển 3 | Phần 6

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao

Tam Biên

Quyển 3

(Phần 6)

Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ

 

  1. Duyên khởi niệm Phật bốn mươi chín ngày của Thường Tịch Quang Lan Nhã núi Vân Cư, Hàng Châu

      Pháp Niệm Phật chính là pháp môn đặc biệt để phổ độ chúng sanh của đức Như Lai. Thích hợp khắp ba căn, thâu tóm trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn, trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được, dưới là tội nhân nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà được dự vào hải hội; hễ được vãng sanh nhất định chứng Bồ Đề. Huống chi chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, chẳng nương theo pháp này thì làm sao yên được?

Vi Quân lão hòa thượng đã xét nghĩ điều này, bèn lập một Lan Nhã ở núi Vân Cư thuộc châu thành đất Hàng, đặt tên là Thường Tịch Quang, ý muốn để cho mình cùng người đều niệm danh hiệu Phật, cùng sanh về cõi Phật, dần dần tấn tu hòng cùng được viên mãn Phật quả. Kể từ khi ngài Vi Quân qua đời, học trò Ngài đều nghiêm túc tuân theo lệnh thầy, vĩnh viễn giữ gìn quy củ đã thành nề nếp. Nay đại sư Diệu Đăng thấy một pháp Niệm Phật nhiếp khắp kẻ định tâm lẫn tán tâm, nhưng cần phải chuyên ròng dụng công để mong đắc nhất tâm ngõ hầu lên thẳng Thượng Phẩm, mau chứng Tịch Quang, liền tính mỗi năm vào cuối mùa Đông sẽ lập một kỳ hạn nhất định chuyên niệm Phật trong bốn mươi chín ngày để mong tâm khế hợp với Phật, hòng chứng được nghĩa “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, cảm ứng đạo giao, chẳng phụ lòng Thành như mẹ mong con, như con nhớ mẹ.

Pháp hội đã mở ra, chỉ mong lợi lạc trọn khắp. Phàm kẻ tại gia thiện sĩ muốn tùy hỷ tu trì đều chấp thuận hết. Chỉ có những vị anh hiền chốn khuê các cố nhiên nên ở yên trong nhà, nhất tâm niệm Phật, chẳng cần phải đến dự hội để mong đích thân được hưởng lợi ích chân thật, không vướng phải các hiềm nghi, khiến cho người khác sanh lòng ngưỡng mộ, vĩnh viễn dứt hết các nghi báng, ai nấy tùy theo phận mình gắng sức tu trì, quả thật là nhiệm vụ trọng yếu. Nguyện khắp những ai thấy nghe đều cùng sanh lòng tin, cùng tu Tịnh nghiệp ngõ hầu cùng sanh về Tịnh Độ, cùng chứng Bồ Đề, hưởng các pháp lạc đến tột cùng đời vị lai (Giữa Hạ năm Giáp Tý, tức năm Dân Quốc 13 – 1924).

 

  1. Duyên khởi của Hải Môn Liên Xã tại Phước Châu

      Chân Như tánh hải tịch – chiếu viên dung, vô Năng, vô Sở, chẳng dời, chẳng biến, ngay cả cái tên Niết Bàn còn chẳng có thì làm sao có chuyện sanh tử? Nhưng vì chúng sanh mê muội, chôn vùi toàn thể, chẳng hiểu tự tâm, lầm lạc đuổi theo huyễn cảnh. Do vậy, đối với những cảnh thuận, nghịch, khởi tham – sân – si, tạo giết – trộm – dâm, từ kiếp này sang kiếp khác luân hồi trong lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra, ngược ngạo nương vào sức tịch – chiếu viên dung của Chân Như Phật tánh ấy để làm cái gốc khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi sanh tử; há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Đức Đại Giác Thế Tôn thương xót, tùy cơ chỉ dạy, nói đủ mọi pháp, khiến cho ai nấy đều theo đường về nhà, đích thân thấy được Phật tánh. Hiềm rằng chúng sanh căn khí bất nhất, liễu thoát ngay trong đời này chẳng được mấy kẻ! Do vậy, đức Phật liền đặc biệt mở ra một môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ để mong sao bọn họ dù thánh hay phàm đều cùng được giải thoát ngay trong đời này. Ấy là vì “tâm này làm Phật, tâm này là Phật” chứ chẳng phải có [một Phật quả] ở riêng ngoài tâm để đạt được! Do Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh tâm lực cũng chẳng thể nghĩ bàn; chúng sanh và Phật dung nhiếp nhau, cảm ứng đạo giao, nên dễ được thành tựu.

Cư sĩ La Vũ Tằng ở Hải Môn xưa đã trồng cội đức, bẩm tánh nhân từ, tốt lành, đề xướng Tịnh Độ chẳng tiếc sức thừa, muốn cho hết thảy những người cùng hàng đều chứng Phật tánh sẵn có. Vì thế, khi lâm chung cụ được toại nguyện. Con cụ là Khanh Đoan, Ngạn Tuấn gắng sức tiếp nối chí cha, lập ra chỗ lưu thông kinh Phật trong nhà, muốn cho những tịnh lữ trong vùng phụ cận tùy thời niệm Phật; cho nên tại chỗ lưu thông, lập một liên xã, đặt biển ghi tên là Hải Môn. Do biển pháp của chư Phật chỉ có Niệm Phật là dễ vào nhất; Chân Như tánh hải chỉ có Niệm Phật là dễ đích thân chứng được nhất. Do vậy, pháp môn Niệm Phật này chính là cửa ngõ để vào biển pháp của chư Phật, để chứng Chân Như tánh hải! Vì thế đặt tên là Hải Môn.

Đây là ước theo Lý mà luận, chứ nếu ước theo Sự để nói thì do cha họ là cư sĩ Hải Môn đề xướng niệm Phật, hết thảy đại chúng mới biết: Trong cõi đời có pháp môn Tịnh Độ tột bậc rộng lớn, tột bậc viên đốn, tột bậc sâu mầu, tột bậc giản tiện! Phàm những ai đến đấy niệm Phật, ắt phải giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, cứu giúp người đang gặp nạn ngặt nghèo, dùng những điều ấy để tự hành, lại còn dùng những điều ấy để dạy người. Người làm được như thế thì tâm sẽ hợp với Phật, tâm sẽ hợp với đạo. Lúc còn sống liền dự vào địa vị thánh hiền, khi lâm chung lên thẳng cõi Cực Lạc, ngõ hầu thỏa mãn bổn nguyện đề xướng của cư sĩ Hải Môn. Nơi nơi đều lập liên xã, mỗi mỗi đều phỏng theo Hải Môn, sẽ thấy Phật pháp hưng thịnh, tai chướng tiêu diệt, mưa hòa, gió thuận, cùng nhau đạt đến cõi đời Đại Đồng[1], dân khỏe mạnh, vật sanh sôi, cùng vui hưởng cuộc sống tươi vui, tốt đẹp vậy.

 

  1. Duyên khởi của Lạc Thanh Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã

      Đức Đại Giác Thế Tôn thương các chúng sanh mê mất cái tâm mầu nhiệm vốn có nên luân hồi trong sanh tử, bèn thị hiện giáng sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận căn cơ của chúng sanh nói đủ mọi pháp. Tuy Đại, Tiểu, Quyền, Thật bất đồng, dẫu Thiên, Viên, Đốn, Tiệm mỗi pháp mỗi khác, nhưng đều là nhằm khai – thị – ngộ – nhập tri kiến của đức Phật cho chúng sanh [khiến họ] rốt ráo thành Phật mới thôi. Nhưng căn cơ chúng sanh có lớn – nhỏ, mê có cạn – sâu, chẳng thể thỏa thích bổn hoài của Phật ngay được; lại vì chúng sanh đời Mạt nghiệp chướng sâu nặng, trí huệ cạn mỏng, thọ mạng ngắn ngủi, tri thức hiếm hoi, nếu chẳng cậy vào Phật lực quyết khó thể liễu thoát. Do vậy, đặc biệt lập ra một pháp môn Tịnh Độ nhiếp trọn các pháp Sơ – Trung – Hậu, thích hợp khắp cả ba căn Thượng – Trung – Hạ, ngõ hầu những vị đã chứng Pháp Thân sẽ mau thành Phật đạo, kẻ chưa đoạn Phiền Hoặc cũng thoát khỏi luân hồi. Lợi ích ấy vượt trỗi những giáo pháp trong suốt một đời giáo hóa của đức Phật vì một đằng chuyên cậy vào tự lực, một đằng kiêm nhờ vào Phật lực.

Ví như gã chân teo suốt ngày chỉ đi được mấy dặm, nếu ngồi luân bảo[2] của Chuyển Luân Thánh Vương thì trong một ngày liền đến khắp bốn châu. Vì thế, pháp này được chín giới cùng hướng về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương, muôn luận đều tuyên nói, là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương tam thế hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Xét từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, Viễn Công là vị mở liên xã đầu tiên. Đương thời bậc cao tăng đại nho dự vào hội có tới một trăm hai mươi ba người. Từ đấy trở đi, đời nào cũng có cao nhân tục diệm truyền đăng trọn khắp trong ngoài nước.

Đại pháp của Như Lai có năm thứ là Luật, Giáo, Tông, Mật, Tịnh, nhưng chỉ có một pháp Tịnh Độ là dễ tu trì nhất, dễ thành tựu nhất, là chỗ quy túc của Luật, Giáo, Tông, Mật. Vì thế các vị tri thức Luật, Giáo, Tông, Mật xưa nay đều chú trọng ngầm tu, rất nhiều vị cực lực công khai giáo hóa đại chúng bằng pháp môn này. Pháp này Chân lẫn Tục cùng viên dung, cơ và lý cùng khế hợp, chẳng những là pháp để người học đạo lập tức thoát khỏi luân hồi mà còn là nền tảng để bậc cai trị đất nước ngồi hưởng thái bình. Vì thế, vãng thánh tiền hiền, người thông đạt, bậc trí huệ đều cùng tu trì giống như mọi ngôi sao chầu về Bắc Đẩu, như các dòng nước chảy xuôi vào biển Đông.

Gần đây, lòng người kém hơn xưa, bỏ gốc chạy theo ngọn, gió Âu dần dần thổi sang Đông, đua nhau đề cao duy tân, phế kinh điển, phế luân thường, bỏ hiếu, vứt thẹn, đến nỗi hùa theo nhau ầm ĩ đề xướng giết cha giết mẹ. Người có lòng lo cho thế đạo nhân tâm trông thấy hiện tượng ấy sợ đạo làm người gần như bị diệt mất, đua nhau lập cách cứu vãn. Do vậy, các xứ đều lập Tịnh Nghiệp Xã, Cư Sĩ Lâm, đề xướng Phật học, nêu tỏ nhân quả ba đời, chỉ rõ luân hồi trong lục đạo, khiến cho hết thảy mọi người đều giữ tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, hành tám sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, ắt sẽ ngăn giận, chặn dục, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành để thành người hiền, người thiện trong thế gian, phát Bồ Đề tâm, tự hành, dạy người, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Để đến khi lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây Phương, trở thành thượng thiện nhân xuất thế gian. Đấy là đại ý vì sao các xứ lập Tịnh Nghiệp Xã.

Từ xa xưa, Ôn Châu là cuộc đất Phật giáo hưng thịnh. Trước kia đã có Ngô Bích Hoa cực lực đề xướng; do vậy, Lạc Thanh, Hồng Kiều đã thiết lập Cư Sĩ Lâm. Nay Ngô Trí Hinh, Lâm Trí Minh tập hợp các tín sĩ, lập ra một Tịnh Nghiệp Xã ở huyện thành để mong chuyển đổi lòng người, giúp đỡ cho nền chánh trị của nước nhà, họ rất sợ kẻ chưa am hiểu Phật lý sẽ không thể nào hiểu rõ được lợi ích rộng lớn sâu xa ấy nên đặc biệt xin Quang soạn bài ký nêu tỏ ý nghĩa ấy ngõ hầu ai nấy đều có thể thật sự đích thân chứng được diệu đạo sẵn có ở ngay nơi cái tâm. Đối với sự kiến lập [Tịnh Nghiệp Xã] và sự tu trì [trong liên xã ấy] thì đã có người ghi chép riêng nên ở đây tôi không viết cặn kẽ! (Đầu Thu năm Quý Dậu, tức năm Dân Quốc 22 – 1933)

 

  1. Duyên khởi của phân xã Đường Áp thuộc Nam Thông Phật Giáo Cư Sĩ Lâm

      Đức Đại Giác Thế Tôn… (cho đến) Đấy là đại ý vì sao các xứ lập Tịnh Nghiệp Xã (Hoàn toàn giống với bài duyên khởi của Lạc Thanh Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã). Giang Tô là nơi Phật pháp được khởi xướng đầu tiên ở phương Nam. Nam Thông rất gần Tô Châu vốn xưa kia là chỗ “nhà nhà Quán Thế Âm, chốn chốn Di Đà Phật”. Cuối đời Thanh, vận nước ngày một suy, pháp vận cũng suy theo đến nỗi tiếng tụng kinh, giọng niệm Phật hiệu gần như im bặt. Gần đây cõi đời loạn lạc đến cùng cực, dân không lẽ sống. Những ai có lòng đều đề xướng Phật học. Nơi nơi đều lập ra Cư Sĩ Lâm, Tịnh Nghiệp Xã v.v…. được lập ra đông đảo như rừng.

Cư sĩ Trần Huệ Cung nhóm họp mấy chục người cùng chí hướng thành lập Cư Sĩ Lâm tại Đường Áp, mỗi Chủ Nhật hằng tháng phàm những lâm hữu đã gia nhập hội và những thiện tín tùy hỷ đều cùng đến niệm Phật một lượt. Hễ rảnh rang thì bèn thừa dịp thuận tiện diễn nói phương pháp tu trì và lợi ích của pháp môn Tịnh Độ, cũng như nhân quả ba đời, lục đạo, luân hồi, Tam Cương, Ngũ Thường, Thập Thiện, Bát Đức, để hết thảy chúng sanh đều cùng biết đạo dẹp loạn nhằm đạt bình trị và pháp siêu phàm nhập thánh, ngõ hầu chẳng đến nỗi uổng sẵn đủ Phật tánh có thể làm Phật mà vĩnh viễn luân hồi trong tam đồ lục đạo suốt kiếp, chẳng thể hưởng dùng được. Các lâm hữu xin chỉ dạy cương yếu; do vậy, tôi lược thuật những nét chánh yếu trong pháp môn Tịnh Độ và duyên khởi thành lập Cư Sĩ Lâm. Nguyện người thấy nghe đều cùng chú ý, được như vậy thì sẽ chẳng uổng cuộc sống này, chẳng phí dịp gặp gỡ này, sẽ noi dấu các bậc thánh đời trước trọn chẳng áy náy gì (Đầu Hạ năm Giáp Tuất – 1934)

 

  1. Duyên khởi của Nam Kinh Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã

      Đức Đại Giác Thế Tôn… (cho đến) Đấy là đại ý vì sao các xứ lập Tịnh Nghiệp Xã (Hoàn toàn giống với bài duyên khởi của Lạc Thanh Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã). Nam Kinh là cuộc đất Phật giáo hưng thịnh từ thời cổ, nay lại được lập làm Thủ Đô. Phàm những bậc vĩ nhân, kiệt sĩ, học rộng, trí sâu đều tụ họp về đây. Không có tịnh xã sẽ chẳng dễ tu thật hạnh hòng chứng tịnh quả. Hơn nữa, năm phương cùng tụ lại một chỗ, rắn – rồng hỗn tạp, nếu không có tịnh xã thì làm sao thoát khỏi hang tối để vượt lên cây cao chót vót.

Do vậy, các vị cư sĩ Dương Tiên Phân, Ngụy Ngưỡng Sơn v.v… vào những lúc công việc rảnh rỗi đã suất lãnh những người cùng chí hướng tu trì Tịnh nghiệp. Do những người nghe tiếng liền tùy hỷ đông đảo, nên tạm thời thuê Diệu Phong Am để làm cơ sở. Lại sợ những người thấy nghe và xã hữu chẳng biết lợi ích của pháp môn bèn cậy Quang viết duyên khởi nhằm nêu rõ cái đạo sẵn có ngay trong cái tâm này, pháp tu chân ngay trong cõi tục, cũng như lợi ích do dùng chính niệm Phật để bảo vệ đất nước, do ngầm tu mà giúp đỡ cõi đời [khiến cho những ai thấy nghe] đều được biết rõ! (Cuối Hạ năm Ất Hợi, tức năm Dân Quốc 24 – 1935)

 

  1. Duyên khởi của Hỗ Tây Niệm Phật Xã

      Đức Đại Giác Thế Tôn điều ngự chúng sanh tùy cơ thuyết pháp, tuy Đại, Tiểu, Thiên, Viên bất đồng, dẫu Quyền, Thật, Đốn, Tiệm mỗi pháp mỗi khác, nhưng đều là muốn làm cho chúng sanh đích thân chứng được Chân Như Phật Tánh sẵn có ngay trong tự tâm mà thôi. Nhưng Phật tánh ấy sẵn có trong cái tâm, chứ chẳng phải là vật từ bên ngoài đến, như lấy của báu trong nhà sẽ được thụ dụng ngay trong hiện tại. Do vậy, chứng Phật Tánh ấy là chuyện cực dễ dàng! Hiềm rằng chúng sanh ở trong sanh tử đã lâu, mê hoặc rất sâu. Ví như gương báu bị bụi phủ cả kiếp, muốn khôi phục bản thể quang minh chiếu trời soi đất của nó cố nhiên chẳng thể đổ công lau chùi một hai ngày sẽ liền đạt ngay được! Đức Như Lai bi tâm chân thật, thiết tha, biết chúng sanh đích thân chứng đắc bằng tự lực sẽ khó khăn; dẫu có tu trì nhưng vì chưa đoạn Phiền Hoặc, hễ thọ sanh lần nữa sẽ chẳng khỏi lại mê! Từ đấy kẻ đọa lạc thì đông, người siêu thăng ít ỏi. Do vậy, đặc biệt mở ra pháp môn Tín Nguyện Niệm Phật để những vị đã chứng Pháp Thân sẽ mau thành Phật đạo, kẻ chưa đoạn Phiền Hoặc cũng thoát khỏi luân hồi.

So với những kẻ chỉ cậy vào tự lực tu Giới – Định – Huệ hòng liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh thì sự khó – dễ khác biệt vời vợi một trời một vực! Bởi lẽ, một đằng chuyên cậy vào tự lực, một đằng kiêm nhờ vào Phật lực. Ví như gã teo chân suốt ngày chỉ đi được mấy dặm, nhưng nếu cưỡi luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương trong một ngày sẽ đến khắp bốn châu. Vì thế, pháp này được chín giới cùng hướng về, mười phương chung xưng tán, ngàn kinh cùng xiển dương, muôn luận đều tuyên nói. Do vậy, pháp này là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Xét từ khi đại giáo truyền sang phương Đông, Viễn công sáng lập Liên Xã đầu tiên, đương thời có đến một trăm hai mươi ba vị cao tăng, đại nho tham dự. Từ đấy trở đi, tất cả Luật, Giáo, Thiền, Mật, không ai chẳng lấy cầu sanh Tịnh Độ để làm bước cuối cùng nhằm trở về cội, quay lại nguồn. Bởi thế, gió sen thổi khắp trong ngoài nước, pháp lợi trọn khắp xưa – nay!

Gần đây lòng người kém xưa, vứt bỏ gốc, đuổi theo ngọn, gió Âu dần dần thổi sang phương Đông, đua nhau đề cao duy tân, phế kinh điển, phế luân thường, phế bỏ lòng hiếu, vứt bỏ lòng thẹn, hùa nhau đề xướng những ác hạnh giết cha, giết mẹ v.v… Người có lòng lo cho thế đạo nhân tâm trông thấy hiện tượng ấy, sợ đạo làm người gần như bị diệt mất, đua nhau lập cách cứu vãn. Do vậy, các xứ lập Tịnh Nghiệp Xã, Cư Sĩ Lâm, Niệm Phật Xã hòng đề xướng Phật pháp, tỏ rõ nhân quả ba đời, chỉ ra luân hồi trong lục đạo, nêu bày Phật tánh chân thường, khen ngợi Tịnh Độ cao siêu, thù thắng, khiến cho hết thảy mọi người giữ gìn tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, hành tám sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, ắt sẽ ngăn giận, chặn dục, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành để thành hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, phát Bồ Đề tâm, tự hành, dạy người, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, để đến khi lâm chung, Phật và thánh chúng đích thân rủ lòng tiếp dẫn hòng được vãng sanh, trở thành bậc thượng thiện nhân xuất thế gian. Đấy chính là ý nghĩa lớn lao của việc các nơi lập xã, dựng lâm vậy.

Vùng Hỗ Độc (Thượng Hải) là vùng đất Phật giáo hưng thịnh từ thời cổ, nay trở thành bến cảng thông thương lớn nhất. Trong năm Dân Quốc thứ mười (1921), đã do các vị cư sĩ như Vương Nhất Đình v.v… sáng lập Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã, Phật Giáo Cư Sĩ Lâm, ước định chương trình quy củ, chú trọng tu trì thực tiễn, nhưng một giải phía tây đất Hỗ vẫn còn thiếu khuyết. Nhờ các vị cư sĩ như Kiều Tuân Như, Kim Thiện Sanh v.v… sáng lập Niệm Phật Xã tại miếu Điện Tử thuộc trấn Tào Hành. Ngày Mồng Một mỗi tháng, suất lãnh những người cùng chí hướng kiền thành trì niệm thánh hiệu, hồi hướng Tây Phương, còn kèm thêm diễn thuyết lợi ích tu trì. Họ sợ người thấy nghe và những người tham dự liên xã chưa biết nguyên do, bèn cậy Quang soạn lời duyên khởi, do vậy tôi bèn thuật đại ý.

Cần biết rằng: Những hạnh như vừa nói trên đây chính là do niệm Phật mà hộ quốc, tuy ngầm tu mà phù tá cõi đời. Những kẻ câu nệ hẹp hòi do không có trí nhãn, cho là Phật giáo diệt luân lý, vô ích cho con người, cho đất nước! Như vậy thì có khác gì kẻ mù từ lúc mới lọt lòng, tuy được hưởng ân che chở, chiếu soi của mặt trời, được làm người, nhưng vì chẳng thấy bèn bảo là không có! Há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? (Đầu Đông năm Bính Tý, tức năm Dân Quốc 25 – 1936)

 

  1. Duyên khởi của Phổ Tế Liên Xã thuộc Quán Âm Am, Hoài An

      Đức Đại Giác Thế Tôn… (cho đến) Đấy là đại ý vì sao các xứ lập Tịnh Nghiệp Xã (Hoàn toàn giống với bài duyên khởi của Lạc Thanh Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã). Xưa kia, Hoài An cũng là vùng đất Phật giáo hưng thịnh. Sau này bèn lặng ngắt không nghe nói tới nữa. Gần đây, phong tục trong cõi đời ngày một đi xuống, những vị có lòng lo cho con người bèn cùng nhau đứng lên cứu vãn. Do vậy, tại Quán Âm Am trong thành đã lập ra Phổ Tế Liên Xã để mong sao ai nấy đều sốt sắng giữ luân thường, chánh lý, tu trì pháp môn Tịnh Độ. Trụ Trì là ngài Vô Vi cũng sẵn tâm cứu vớt rộng khắp sâu xa. Tăng – tục cũng một lòng cùng hoằng dương sự giáo hóa của đức Phật.

Có ông Dương Bội Văn bình sinh theo đuổi Nho học, nhưng chẳng biết đức Phật là người như thế nào. Do đứa cháu nội chưa đầy năm đã chết, hết sức đau buồn, tiếc nuối. Cư sĩ X… khuyên tham dự liên xã niệm Phật, và đọc các kinh sách Tịnh Độ, ông ta liền tinh tấn thường niệm. Chưa đầy ba tháng, từ hoa đèn[3] trước bàn thờ Phật kết thành một đóa sen, trong ấy có xá-lợi to bằng hạt kê, có màu như màu ngọc Phỉ Thúy. Đấy là do lòng tinh thành của ông ta cảm vời cho nên Phật hiện ra tướng lành ấy để lòng tin của mọi người được vững chắc. Nguyện những ai đọc bài văn này sẽ cùng sanh lòng chánh tín, đều cùng chăm chú tu tập thật sự thì trong hiện tại sẽ tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ, cao dự vào bậc thánh hiền, lâm chung được Phật từ bi đích thân rủ lòng tiếp dẫn, cao đăng cõi Cực Lạc. Chỉ nguyện những người cùng hàng ai nấy đều cố gắng (Ngày Đông Chí năm Quý Dậu, tức năm Dân Quốc 22 – 1933)

 

  1. Duyên khởi của Tĩnh Giang Phật Giáo Cư Sĩ Lâm

      Trong thánh giáo của Như Lai có vô lượng pháp môn. Y theo bất cứ một pháp nào, dùng tâm Bồ Đề để tu thì sẽ đều có thể liễu sanh thoát tử, thành Phật đạo; nhưng khi đang tu còn chưa chứng thì không gì là chẳng khó – dễ, nhanh – chậm khác biệt! Cầu lấy một pháp chí viên, chí đốn, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, vừa khế lý lẫn khế cơ, vừa là tu, vừa là tánh, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp lợi căn lẫn độn căn, là chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường tắt cho trời – người, phàm – thánh chứng chân thì không gì bằng một pháp “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương”! Ấy là vì hết thảy pháp môn đều phải cậy vào tự lực, còn pháp môn Niệm Phật kiêm cậy vào Phật lực. Cậy vào tự lực mà chưa đoạn sạch Phiền Hoặc sẽ chẳng thể vượt khỏi tam giới. Cậy vào Phật lực thì nếu tín nguyện chân thật, thiết tha sẽ liền có thể cao đăng chín phẩm sen. Con người hiện thời muốn giải quyết xong đại sự sanh tử ngay trong đời này mà bỏ pháp này thì sẽ trọn chẳng có hy vọng gì hết!

Cần biết rằng: Pháp môn Tịnh Độ pháp nào cũng viên thông, như mặt trăng sáng vằng vặc giữa trời, dòng sông nào cũng hiện bóng; thủy ngân rớt xuống đất, hạt nào cũng đều tròn xoe. Chẳng những có lợi ích lớn lao cho cách vật, trí tri, cùng lý, tận tánh, giác thế, yên dân, trị quốc, an bang, mà ngay cả sĩ, nông, công, thương muốn phát triển sự nghiệp, già, trẻ, trai, gái muốn tiêu diệt bệnh tật khổ sở, không ai chẳng vừa cảm liền ứng, thỏa lòng, mãn nguyện.

Hiện thời, lòng người yếu hèn, chìm đắm, đời đã loạn đến tột cùng, phế kinh điển, phế luân thường, phế hiếu, vứt thẹn, đủ mọi thứ tà thuyết bạo hành nhằm thực hành cầm thú hóa [con người] được cực lực đề xướng. Nếu chẳng cứu vãn thì đạo làm người sẽ gần như bị dứt mất. Do vậy, những vị hữu tâm các xứ cùng nhau đứng dậy đề xướng Phật pháp, giảng rõ nhân quả ba đời, nêu rõ lục đạo luân hồi, chỉ ra Sa Bà trược ác, nêu bày Cực Lạc nghiêm tịnh nhằm mong người trong cõi đời này sẽ đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính mình, khôi phục lễ nghĩa, sống thì dự vào bậc thánh hiền, liễu sanh thoát tử, chết sẽ về cõi Cực Lạc.

      Các vị cư sĩ Ân Đức Tăng, Châu Huệ Siêu, Hoàng Huệ Chân v.v… ở Tĩnh Giang là những bậc thân sĩ trong ấp đã lập ra Phật Giáo Cư Sĩ Lâm ở huyện thành. Mồng Một, ngày Rằm mỗi tháng và những ngày vía Phật Bồ Tát, nhóm họp mọi người niệm Phật. Buổi chiều sau khi niệm Phật xong, thỉnh những vị Tăng hay tục thông văn lý, diễn thuyết đường lối “học đạo ngay trong cõi trần, sống ở rẫy bái mà bảo vệ đất nước, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành” và pháp “thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương ngõ hầu khắp mọi người cùng hàng đều vượt thoát biển khổ” khiến cho hết thảy mọi người đều biết nguyên do “ai cũng có thể là Nghiêu – Thuấn, ai nấy đều có thể thành Phật”, thực hành tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, tận lực thực hiện rốt ráo tám sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” thì trong hết thảy thời, hết thảy chỗ sẽ đều chú trọng mong thành thánh học Phật. Đấy thật sự là pháp môn đại phương tiện “chẳng giữ địa vị gì mà lại bảo vệ đất nước, cứu dân, thay đổi phong tục nhưng chẳng để lộ dấu vết” vậy.

Lâm hữu đều cho rằng Cư Sĩ Lâm đã thành lập, hãy nên đem ý nghĩa lớn lao này bảo khắp những người thông sáng tìm đến [Cư Sĩ Lâm] ngõ hầu dù thấy hay nghe đều phát tín tâm, cùng hoằng dương đạo này thì thiên hạ sẽ có thể tự thái bình, nhân dân yên vui. Họ gởi thư cho Bất Huệ xin viết lời tựa [nêu duyên khởi], tôi bèn viết bài này cho xong trách nhiệm! (Cuối Thu năm Ất Mão, tức năm Dân Quốc 28 – 1939)

 

  1. Duyên khởi của Cao Đông Phật Học Liên Xã

      Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài, là chỗ quy túc của Phật pháp mà cũng là nguồn cội của pháp thế gian. Ước theo Tục Đế để luận thì chẳng hạn như tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, tám sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” hễ lìa khỏi pháp này thì chẳng thể nào rốt ráo viên mãn được! Ước theo Chân Đế để luận thì chẳng hạn như diệu đạo “đoạn Hoặc, chứng Chân, siêu phàm nhập thánh”, chân tâm “mảy trần chẳng lập, vạn đức trọn đủ” mà lìa pháp này thì không thể nào đích thân chứng ngay được! Huống hồ đang nhằm thời Mạt Pháp, căn tánh con người kém cỏi, hèn tệ, thế đạo chìm đắm, phá tan hoang kỷ cương, phế kinh điển, phế luân thường, [thế giới] sắp biến thành nơi chốn của loài cầm thú, cùng nhau phô diễn những hành vi tham tàn, bạc ác, bất hiếu[4] giết cha, giết mẹ. Nếu chẳng lấy nhân quả ba đời, sự lý lục đạo luân hồi và pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương để cứu vãn thì đạo làm người gần như bị diệt mất! Do vậy những người có tâm lo cho thế đạo, đua nhau đứng ra duy trì.

Các vị thiện sĩ ở bến Đông Song huyện Như Cao lập ra Phật Học Liên Xã trong điện thờ Hỏa Tinh (thần lửa) đã bỏ hoang, đề xướng các pháp thế gian như giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành để lập cơ sở sâu xa cho lòng mong mỏi thành thánh thành hiền và pháp xuất thế gian “thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” nhằm mong thật sự chứng được liễu sanh thoát tử, khiến cho người đời đều cùng biết ai nấy sẵn có Phật tánh, đều cùng đau đáu vì đã “mất niệm mà thành cuồng” liền cùng bảo ban nhau đạo trọng yếu để thoát khổ, cùng nghĩ “khắc chế ý niệm để thành thánh”. Đạo hiếu – đễ tu trong gia đình, đạo niệm Phật đầy khắp các nẻo đường.

Sĩ, nông, công, thương đều chẳng bỏ nghề nghiệp của chính mình, nhưng tâm con người dần dần biến thành tâm Phật. Già, trẻ, trai, gái ai nấy cũng đều tận hết thiên chức thì đời loạn sẽ biến thành đời bình trị nào có khó khăn chi? Cội gốc bồi đắp đã sâu, cành nhánh sẽ tự vươn dài, rậm rạp. Quân tử  chú trọng nơi cái gốc, gốc đã lập, đạo bèn sanh. Muốn cho tiếng tăm gia đình được rạng rỡ, con cháu hiền thiện, vận nước tốt đẹp, hưng thịnh, nhân tài dấy lên đông đảo thì ai nấy hãy nên dốc lòng nơi những điều này. Các phương pháp nghiên cứu, tu trì thì đã có những trước thuật xưa – nay; ở đây tôi chỉ đặc biệt nêu bày đại lược nguyên do mà thôi!

 

  1. Duyên khởi của Phật Giáo Tịnh Nghiệp Liên Xã tại Viên Gia Miếu thuộc Dư Đông, Nam Thông

      Phật pháp là mặt trời trí huệ trong đêm dài, là gạo thóc trong đời đói kém, là người dẫn đường nơi đường hiểm, là thuyền Từ trong biển khổ. Gần đây lòng người suy hãm, chìm đắm, đua nhau toan tính những chuyện kỳ quái. Phàm những cương thường luân lý do bậc thánh nhân đã lập vào thời cổ đều muốn xô đổ, rốt cuộc trở thành tình thế vô pháp vô thiên, phất cao ngọn cờ biến con người thành cầm thú, đem những tà thuyết ấy dụ dỗ những kẻ vô tri vô thức phóng túng làm càn, trọn chẳng kiêng nể, ràng buộc gì! Chẳng biết đã tự diệt tuyệt nhân loại, vĩnh viễn thường đọa trong ác đạo. Tánh tình con người như thế, nếu chẳng lập cách cứu vãn thì tình cảnh mai sau sẽ chẳng thể nào tưởng tượng được! Vì vậy, những vị có trí bèn hùa nhau đề xướng Phật học để mong ai nấy do biết sự lý nhân quả ba đời và luân hồi trong lục đạo sẽ gắng sức làm lành, chẳng dám làm ác, khi còn sống sẽ là học trò của bậc thánh bậc hiền. Lại còn dạy họ tu pháp môn “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” để họ cậy vào Phật từ lực, vượt khỏi đời ác trược này, được dự vào Liên Trì hải hội.

Vì thế, các vị thiện sĩ Thịnh Trung Phủ, Giang Cảnh Xuân v.v… ở Dư Đông và Trụ Trì của ngôi miếu nơi ấy là đại sư Từ Huy tổ chức Dư Đông Tịnh Nghiệp Xã để đề xướng ngõ hầu hết thảy mọi người đều biết Phật pháp, chẳng chỉ xiển minh diệu lý “duy tâm tự tánh” mà còn [xiển minh] nghĩa sâu nhân quả luân hồi. Ngay cả đối với cương thường luân lý, [Phật giáo xiển dương] còn thân thiết hơn Nho Giáo. Vì thế, gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh kính, em nhường, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, ai nấy đều trọn hết thiên chức của chính mình; lại còn phụ trợ bằng thuyết nhân quả, báo ứng, sanh tử luân hồi. Dẫu là kẻ ương bướng, kém hèn cùng cực thì cuồng tâm cũng sẽ bớt đi đôi chút, tuân hành chánh đạo để mong chẳng chuốc lấy ác quả, sẽ hưởng thiện quả; huống hồ những pháp đoạn Hoặc chứng Chân ư?

Cần biết rằng: Trong Phật pháp, pháp môn vô lượng, hễ tu [bất cứ một pháp môn nào] đến cùng cực cũng đều có thể liễu sanh thoát tử; nhưng để có thể quyết định liễu sanh thoát tử ngay trong đời này thì chỉ có một môn Tịnh Độ! Những pháp môn khác dẫu [tu tập suốt] nhiều đời nhiều kiếp vẫn chưa chắc chắn đã liễu sanh thoát tử được! Bởi lẽ, hết thảy các pháp môn đều cậy vào tự lực, còn pháp môn Niệm Phật hoàn toàn cậy vào Phật lực và kiêm thêm tự lực. Do cậy vào Phật lực nên dễ hơn cậy vào tự lực trăm ngàn Hằng hà sa lần. Lại còn phải nên biết rằng: Pháp môn Niệm Phật thật sự là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Do vậy chúng sanh trong chín giới hễ lìa pháp này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo, mười phương chư Phật bỏ pháp này thì dưới chẳng thể phổ độ quần sanh. Nếu chẳng đã gieo thiện căn từ đời trước, làm sao được nghe tới pháp này?

Nghe mà chẳng tu, hoặc tu mà không đắc lực thì đáng đau tiếc lắm thay! Đã tu trì lại còn tận lực giữ vẹn luân thường, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, giúp đỡ người nghèo, cứu vớt kẻ khốn khó, tận tụy thực hành, lấy thân làm gương, giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt lành, làm việc tốt lành thì sống sẽ có tiếng tăm, mất lên cõi Phật, tấn tu dần dần theo thứ tự cho đến khi thành Phật mới hòng chẳng phụ chính mình vốn sẵn có Phật tánh trong cái tâm này và tấm lòng đau đáu thuyết pháp độ sanh của đức Như Lai.

Nếu ai nấy đều được như thế thì lẽ nào còn có thói xấu xa “ngươi dối gạt, ta mắc lừa, cạnh tranh tàn hại lẫn nhau”, lễ nghĩa, nhân nhượng sẽ được hưng khởi, can qua chấm dứt, nhân họa đã không còn, quyến thuộc cõi trời sẽ thường giáng xuống, cõi đời trở lại thuở Đường Ngu, con người vui hưởng thái bình [sẽ chẳng trở thành hiện thực] ư? Dẫu cho khắp cõi đời đều chẳng thể làm được như thế thì một người làm được, chính người ấy sẽ được hưởng lợi ích. Như từ một truyền thành trăm, cho đến ngàn, đến vạn, đến vô lượng vô biên, cũng chỉ do người đề xướng, khuyên lơn, khích lệ siêng năng hay lười biếng mà thôi!

Thế đạo đang buổi suy hoại là do một hai kẻ phát khởi đến nỗi bại hoại hết thuốc chữa. Nay muốn cho thế đạo được tốt đẹp, há có thể nào đã biết đến ý này mà lại gác bỏ ra ngoài ư? Vì thế, “do đất mà ngã thì cũng do đất mà đứng dậy; rời khỏi đất mà mong đứng dậy, quyết chẳng có lẽ ấy!” Nguyện những ai nhập hội và những ai thấy nghe đều cùng biết nghĩa này thì may mắn chi hơn! Đối với pháp tắc tu trì Tịnh Độ thì đã có các kinh luận trước thuật của Tịnh tông, do vậy, tôi không nêu tường tận ở đây, chỉ đặc biệt nêu ra những nét chánh yếu mà thôi!

 

  1. Duyên khởi của Nghi Hưng Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã

      Phật pháp là tâm pháp. Tâm pháp ấy ai nấy đều sẵn đủ, không ai chẳng có; là gốc của hết thảy các pháp thế gian hay xuất thế gian, chỉ mình đức Thích Ca Thế Tôn ta triệt ngộ, triệt chứng. Do thương xót sâu xa chúng sanh mê muội nên [đức Phật] tùy thuận căn cơ của chúng sanh, giảng những pháp nói về tự tánh của chính cái tâm này và Ngũ Giới, Thập Thiện, Lục Độ, vạn hạnh, cũng như nhân quả ba đời, luân hồi trong lục đạo, cùng với tín nguyện niệm Phật vượt thoát tam giới theo chiều ngang v.v…

[Phật pháp] được truyền vào Trung Quốc từ thời Đông Hán hai ngàn năm qua, vua, quan, vĩ nhân, bậc trí huệ các đời phần nhiều đều sùng phụng, tu trì, lưu thông rộng rãi. Thử đọc các sách vở, chỉ qua một chuyện tạo dựng chùa tháp trong các đời, ta đã có thể hình dung được Phật pháp trong thuở trước hưng thịnh [như thế nào]! Từ cuối đời Thanh đến nay, vận nước ngày một suy, chiến tranh liên tiếp nổ ra, bậc triết nhân mất đi, bọn tầm thường ngày một đông đảo, tất cả tăng chúng đại đa số đều chẳng tự chấn chỉnh, hưng khởi, tự ruồng rẫy, tự vứt bỏ, đến nỗi Phật pháp bại hoại sát đất. Tăng chúng đã thiếu người đề xướng; Nho sĩ trọn chưa hề đọc kinh Phật, chẳng hề một lần thân cận bậc cao tăng, chỉ vâng giữ những lời lẽ cong vạy của gã Xương Lê (Hàn Dũ), coi Phật pháp là dị đoan, hại đời, hại đạo, đến nỗi những kẻ tầm thường trong xã hội đồng thanh phụ họa, trở thành hiện tượng xấu ác “đuổi Tăng, chiếm đoạt tài sản, hủy Phật, diệt pháp”, đạo đức đắm chìm, chôn vùi, cũng như có lắm hành động trái nghịch, vượt phạm vi [đạo đức] của Nho Giáo hết sức bắng nhắng trong cõi trần.

Nếu hết thảy mọi người ai nấy đều tuân thủ Ngũ Giới, Thập Thiện, biết rõ sự lý nhân quả ba đời và lục đạo luân hồi thì lẽ đâu có những hiện tượng còn thua cầm thú ấy! Truy cứu đến cái gốc họa, chẳng thể không quy tội cho những lời lẽ cong vẹo của gã Xương Lê! Lại có những kẻ ngu phu ngu phụ tuy có tâm chuộng điều lành, nhưng chẳng được biết tới Phật pháp chân thật, thường tưởng luyện đan vận khí là Phật pháp. Tuy có lòng tốt nhưng chỉ bồi đắp được chút phước thế gian hoặc lọt vào ma đạo, đáng cảm khái, than thở sâu xa lắm thay! Do mỗi nơi có nhân duyên riêng biệt mà có chỗ trước kia Phật pháp được hưng khởi lớn lao rồi rốt cuộc trọn chẳng còn tiếng tăm, dấu vết, hoặc chỉ còn đôi chút hình tướng đến nỗi đại đa số mọi người như đang ở trong đêm dài chẳng thấy được mặt trời; há có phải là Phật pháp bất hạnh hay là lũ chúng ta đại bất hạnh vậy?

Cần biết rằng: Phật pháp chính là pháp tận lực giữ vẹn luân thường, là pháp ngầm giúp đạt đến bình trị tột bậc, là tin tưởng một cách trí huệ, chẳng phải là mê tín, là tích cực, chứ không phải tiêu cực, là cứu thế chứ không phải yếm thế, là làm cho người khác cùng được tốt lành chứ không chỉ nhằm tốt lành cho riêng mình, là hợp với nhân sanh chứ không phải trái nghịch nhân sanh. Do người đời chẳng biết chân tướng của Phật pháp nên đến nỗi đối với pháp có ích lớn lao cho quốc gia, xã hội cũng như hữu ích cho thân tâm, tánh mạng của mỗi người này, lại gán cho đủ mọi cái tên xấu xa để chê bai, bài xích, khiến tự lầm, lầm người, chẳng đáng buồn ư? Tri kiến của những kẻ cùng hàng thật nông cạn. Lúc thoạt đầu do chưa từng nghiên cứu nên cũng ôm giữ những thứ tri kiến như trên. Nếu hơi nghiên cứu một chút thì mới biết vua, quan, vĩ nhân, bậc trí trong các đời đều phụng hành, tu trì, lưu truyền rộng rãi ngõ hầu có thể thấu hiểu tận cùng chân lý trong vũ trụ, giải quyết được nguyên do của nhân sanh, cải cách được lề thói xã hội, củng cố nền tảng nước nhà, thúc đẩy nền văn minh trên thế giới, hiểu rõ trọn khắp cội nguồn của các pháp.

Than ôi! Thế giới ngày nay chẳng phải là một thế giới đáng sợ hãi lớn lao ư? Trung Quốc ngày nay chẳng phải là Trung Quốc đang theo kiểu mẫu địa ngục ư? Lòng người ngày nay chẳng phải là lòng người theo lề thói ma thuật ư? Chúng ta ở trong hoàn cảnh hiểm ác này, nếu chẳng cực lực đề xướng Ngũ Giới, Thập Thiện, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, tỏ rõ sự lý luân hồi lục đạo do đức Phật đã nói thì con người sẽ chẳng khác gì cầm thú! Dùng những điều này để tụ tập những người cùng chí hướng, tùy phần, tùy sức đề xướng tu trì. Nhưng trong Phật pháp, pháp môn vô lượng, chỉ có một pháp “dốc lòng tu điều lành thế gian, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” là thiết yếu nhất, là phổ thông nhất, thực hiện dễ nhất mà lại đạt thành tựu dễ nhất. Ấy là vì nếu chẳng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận thì còn là tội nhân trong thế gian, làm sao mong được Phật gia hộ? Nếu chẳng niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ai có thể đoạn sạch Phiền Hoặc, liễu sanh thoát tử ngay trong đời này?

Do vậy, đức Phật ta nghĩ thương những kẻ chẳng thể nhanh chóng đoạn Phiền Hoặc, đặc biệt nói ra pháp “cậy vào Phật từ lực để liễu sanh tử” này ngõ hầu hết thảy dù phàm hay thánh đều cùng có thể hoàn tất [đạo nghiệp] ngay trong đời này. Viễn công đại sư đời Tấn tận lực hoằng dương pháp này. Từ đời Tấn tới nay, hơn một ngàn năm trăm năm, những bậc cao nhân Tăng – tục kế tiếp nhau hoằng dương. Cho đến ngày nay chúng ta đều cùng được Văn Huân tu trì, may mắn chi hơn?

 

  1. Duyên khởi của Huệ Tế Cư Duyệt Kinh Thất

       Phật pháp chính là pháp chung của hết thảy tứ thánh lục phàm trong mười pháp giới, không ai chẳng nên học, mà cũng không một ai chẳng thể học được vì Phật pháp chính là tâm pháp. Con người ai không có tâm? Nhưng ai là kẻ nhận biết cái tâm? Trong cõi đời cố nhiên chẳng thiếu kẻ thông minh, thấu hiểu rộng rãi, nhưng do họ chuyên chú trọng rong ruổi tìm cầu bên ngoài, chẳng biết xoay lại chiếu soi bên trong, dẫu suốt ngày sử dụng cái tâm, suốt ngày nói tới cái tâm, nhưng rốt cuộc chẳng biết tâm là vật gì! Vì sao vậy? Do chỉ có tri thức biện định sự vật, chứ trọn chẳng có trí huệ thấu hiểu tận cùng tâm tánh. Thiên hạ ngày nay đã loạn lạc đến tận cùng, phế kinh điển, phế luân thường, bỏ lòng hiếu, vứt lòng thẹn, đúng là muốn cho con người trong khắp cả cõi đời trọn chẳng khác gì các loài cầm thú mới thôi! Ôi, đáng than thay!

Xét kỹ nguyên do bình trị hay loạn lạc từ xưa đến nay, không lúc nào chẳng lấy gia đình làm căn cứ. Nếu mọi người dân đều dốc lòng hành hiếu – hữu, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình, biết nhân, rõ quả, sửa ác, hướng lành, như vậy thì cõi đời nào chẳng bình trị, gia đình nào chẳng được hưng thịnh, có khi nào nhân tài chẳng dấy lên đông đảo, có lẽ đâu thiên hạ chẳng hưởng thái bình ư? Hiện thời, thiên tai nhân họa liên tiếp xảy ra đều là vì những gã theo Lý Học đả phá, bài xích nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi, khiến cho bậc thượng chẳng gắng sức, biếng làm lành, bậc hạ không có gì để kiêng sợ, dám làm chuyện ác! Kéo dài đã lâu gần như đã tan nát, đến khi gió Âu vừa thổi đến thì cái đạo làm người hầu như chấm dứt. Xét đến cội nguồn chính là vì bọn Lý Học bàn xuông lý tánh, vứt bỏ nhân quả mà ra! Học thuyết gây lầm lạc đến mức như thế, chẳng đáng sợ hay sao?

Nay muốn vãn hồi thế đạo nhân tâm để thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui mà bỏ đạo “tu chân ngay trong cõi tục, hiểu nhân rõ quả” của đức Như Lai thì làm sao yên được? Ấy là vì đức Như Lai gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, đối với mỗi người đều dạy trọn hết chức phận của chính mình thì gia đình hết sức hòa thuận, con người quen thói lễ nghĩa, nhân nhượng. Tiến hơn bước nữa là tu pháp môn Tịnh Độ thì chính là dùng pháp thế gian để tu pháp xuất thế gian, chẳng lìa những xử sự luân thường trong hằng ngày mà vào thẳng biển pháp của Như Lai. Dẫu cho căn cơ kém hèn cũng có thể cậy vào Phật từ lực để được liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này.

Cư sĩ Ngô Huệ Tế sau khi được nghe Phật pháp, buồn thương sâu đậm vì hết thảy những người cùng hàng chưa được thấm gội ân Phật giáo hóa. Do vậy, đặc biệt thỉnh các loại sách Phật đơn giản, gần gũi để tặng cho hàng sơ cơ nhằm mong họ sẽ từ cạn mà tiến vào sâu, do học phép bậc Hạ mà sẽ thấu đạt những pháp bậc Thượng. Lại tính cất riêng một gian nhà ở trong nhà của chính mình, đề biển là Huệ Tế Cư, tích tập các thiện thư chánh tri kiến và những sách Phật khế lý khế cơ nhằm mong những người cùng họ, cùng thôn đều cùng được xem đọc, sẽ cùng sốt sắng giữ vẹn hạnh hiếu hữu, cùng tu Tịnh nghiệp, ngõ hầu khi sống sẽ dự vào bậc thánh, bậc hiền, khi mất sẽ về cõi Cực Lạc. Dụng tâm đáng gọi là khẩn thiết, châu đáo, thiết tha!

Mong sao các thiện sĩ đến đây xem kinh ai nấy đều sanh lòng cung kính, sanh ý tưởng khó gặp gỡ, đối với những pháp nên vâng giữ ắt sẽ tận tụy thực hành, đối với những điều nên kiêng dè ắt sẽ đoạn trừ hết sạch. Do vậy [những chuyện như] mong thành thánh thành hiền, liễu sanh thoát tử, trong thân hiện tại sẽ vĩnh viễn hưởng lắm phước, con cháu được hưởng tốt lành lâu dài sẽ đều đạt được. Ấy là vì dùng chánh trí huệ để tu hành đại đạo luân thường của thế gian và diệu pháp Tịnh Độ xuất thế gian viên đốn nhất, giản tiện nhất. Do vậy, đối với thân, đối với nhà, đối với mọi người, đối với sanh tử đều giúp đỡ trọn khắp. Ý nghĩa của [tên gọi] Huệ Tế Cư là như vậy đấy, chứ không phải ông ta xằng bậy dùng pháp danh của mình để đặt tên cho [duyệt kinh thất], muốn cho người khác nhớ mãi chẳng quên đâu nhé! Vì vậy, tôi nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín này để thưa cùng những bậc thông sáng mai sau! (Tháng Sáu mùa Hạ năm Kỷ Tỵ, tức năm Dân Quốc 18 – 1929)

 

  1. Lời tựa nhỏ cho một trăm bài kệ ca ngợi A Di Đà Phật

      Xưa kia, ngài Triệt Ngộ thiền sư dùng các giáo nghĩa, tông thừa viết ra một trăm bài kệ niệm Phật, văn từ và nghĩa lý đều viên diệu khiến người cho tâm mục của mọi người được mở rộng. Bạn tôi là Hòa Thượng Dật Nhân (tức Hòa Thượng Chân Đạt) khi sưu tập các pháp ngữ Tịnh Ðộ xưa nay để biên tập quyển Tây Phương Công Cứ, lại căn cứ vào các nghĩa trọng yếu trong nhân địa, quả vị của đức Phật A Di Ðà để soạn thành tất cả một trăm bài tụng, [mỗi bài] bắt đầu bằng câu A Di Ðà Phật, ngõ hầu tạo lợi lạc cho kẻ sơ cơ. Những bài tụng này khen ngợi đức A Di Ðà trong lúc tu nhân đã bỏ nước xuất gia, phát ra bốn mươi tám nguyện ([trong mỗi bài kệ] đối với hai câu kệ tiếp theo [câu kệ] thuật bày mỗi nguyện đều dựa theo cách đặt tên để phân chia khoa mục các nguyện trong bộ Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ của pháp sư Huệ Viễn, lấy mỗi nguyện làm câu chủ yếu), tu trọn Lục Độ, vạn hạnh cho đến khi viên mãn ba Giác, chứng được mười ba danh hiệu[5]. Sau đấy, còn khen ngợi sơ lược về sự trang nghiêm của cõi nước, lòng Từ độ khắp của đức Phật, lợi ích của pháp môn Tịnh Ðộ. Dẫu văn từ nghĩa lý kém xa [một trăm bài kệ niệm Phật của] ngài Triệt Ngộ, nhưng những lời nguyện và danh hiệu trong những bài tụng này rất có ích cho kẻ sơ cơ dễ bề ghi nhớ. Nay tôi đem một trăm bài kệ này in vào phía trong bìa sách và viết lời tựa nhỏ để in trong lòng sách ngõ hầu người đọc biết được nguyên do vậy.

 

  1. Lời tựa nhỏ cho một trăm bài kệ luận về Niệm Phật Già Đà Giáo Nghĩa của thiền sư Triệt Ngộ

      Triệt Ngộ thiền sư thấu hiểu giáo nghĩa sâu xa, triệt ngộ tông thừa. Tuổi già hướng lòng nơi Tịnh Độ, tự hành, dạy người, một mực lấy tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương làm chủ yếu. Những điều được Ngài nêu tỏ quả thật hiếm thấy trong đời gần đây. Nay sao lục một trăm bài kệ giáo nghĩa để tạo một hướng dẫn tốt lành cho người tu Tịnh nghiệp vậy!

 

  1. Tiểu dẫn (lời dẫn giải ngắn) về hai điều lợi ích do vẽ tượng Phật

      Quán Kinh dạy: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Phàm nhớ Phật, niệm Phật, quán Phật, lễ Phật, vẽ hình Phật đều gọi là “làm Phật”. Do tâm nghĩ đến đức Phật nên trong tâm liền hiện tướng hảo trang nghiêm, công đức, oai thần của Phật. Cho nên nói: “Tâm này là Phật”. Kẻ làm đệ tử Phật sao chẳng dốc sức nơi đây? Trong những việc ấy, chỉ có vẽ hình Phật lại càng thân thiết, bởi lẽ chẳng dốc trọn hết tinh thần sẽ chẳng thể diễn tả được tướng hảo, thái độ trang nghiêm, từ bi được! Học trò tôi là Lý Trọng Hòa khá thích vẽ vời, vẽ khá đẹp. Gần đây, ông ta quy y Tam Bảo, muốn chuyên vẽ hình Phật để lợi mình lẫn người. Hơn nữa, do nhà nghèo chẳng thể tùy ý thực hiện các công đức, vì vậy bèn phát tâm vẽ hình Phật, định giá cho người khác thỉnh. Đối với món tiền trả công vẽ tranh ấy, ngoài khoản chi phí dành cho giấy, bút, màu vẽ, hương, đuốc ra, đều dùng để cúng dường hết cho Tam Bảo và làm chuyện công ích, quyết chẳng để dùng riêng cho chính mình. Nếu dùng, sẽ mắc tội ăn trộm đồ vật của Tam Bảo cũng như tội khinh Phật, dối người! Ông ta thực hiện như thế để mong mình lẫn người đều cùng gieo thiện căn, cùng tiêu ác nghiệp, trong đời này phước tăng, huệ rạng, khi báo thân đã hết bèn về thẳng Tây Phương làm đệ tử Phật Di Đà, làm bạn lành trong hải hội. Do vậy tôi bèn viết Hai Điều Lợi Ích Do Vẽ Hình Phật và lược thuật đại ý vậy.

 

  1. Tiểu dẫn về việc quyên mộ để kiến lập đạo tràng Siêu Độ Cô Hồn Tiêu Tai Phật Thất ở Như Cao

      Tam giới không yên giống như nhà lửa, các nỗi khổ đầy dẫy, thật đáng kinh sợ! Trong hội Pháp Hoa, đức Như Lai đã sớm nói đến điều này. Nỗi thảm đao binh trong cõi đời gần đây quả thật từ ngàn xưa chưa hề nghe tới. Phương cách giết người không kiểu kỳ lạ nào chẳng có đến nỗi vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống! Xét đến nguyên do đều là vì chúng sanh đang mê, chẳng hiểu Ngã Không, cho nên đối với những cảnh nghịch hay thuận đều khởi tham – sân – si, tạo giết – trộm – dâm mà ra. Nhưng với hai chuyện dâm và trộm thì người hiền dùng lễ để tự ngăn ngừa, kẻ ngu do bị luật pháp khống chế [nên hai nghiệp này] vẫn chẳng đến nỗi quá mức. Chỉ có chuyện sát sanh ăn thịt là do quen thói nên thế tục coi như chuyện đương nhiên, điềm nhiên chẳng để ý tới, đến nỗi đây – kia đời đời kiếp kiếp báo thù lẫn nhau, ươm thành tai kiếp cực thảm như thế này, chẳng đáng buồn sao?

Những người cùng hàng sẵn tâm cứu thế, nhưng không có sức để dứt tai kiếp, trộm thấy hết thảy cô hồn bị sát thương bởi đao binh ôm hờn nơi chín suối, lâu ngày ắt sẽ thành tai ương dữ dội. Do vậy, sau những trận chiến lớn, ắt sẽ có bệnh dịch và hung niên[6]. Nếu chẳng nương theo Phật pháp để cầu siêu thì chẳng những linh hồn thần thức của người chết không chỗ nương về, mà còn khiến cho kẻ sống đau lòng, buốt gan! Chắc là tật dịch, hung niên sẽ như nước càng sâu, như lửa càng nóng! Nhưng trong Phật pháp, pháp môn rộng lớn, vô lượng vô biên, chỉ có pháp môn Niệm Phật thật là bậc nhất. Bởi lẽ, đức Di Đà trong khi tu nhân đã phát thệ nguyện to lớn: “Nếu có chúng sanh nào tín nguyện niệm Phật, ta nhất định sẽ rủ lòng Từ tiếp dẫn khiến cho kẻ ấy vãng sanh Tây Phương”. Nay ước định vào ngày… trong tháng… ở chỗ… sẽ mở đạo tràng niệm Phật bảy ngày. Phàm những vị thiện tín ai nấy đều nên phát Bồ Đề tâm, đến niệm Phật trong hội để cầu cho các cô hồn đều được siêu thăng, tai chướng đều được tiêu diệt. Nếu chẳng tiện đến thì cũng nên kiền thành niệm Phật tại nhà.

Nhưng phí tổn trong bảy ngày để lo liệu tất cả những thứ hương đèn, trái cây, thực phẩm cúng Phật, trà, cơm, điểm tâm cho đại chúng, hương, đèn, giấy vàng bạc cúng cô hồn sẽ rất lớn, khẩn thiết mong hết thảy những vị thiện tín ai nấy hãy tùy theo tâm lực mà tán trợ để những vị đến tham dự niệm Phật trong suốt bảy ngày được nhờ vào tài lực do mọi người dốc hết lòng thành cúng dường sẽ chẳng phải nhọc nhằn đến đi, rong ruổi tìm cầu [những thứ cần dùng], sẽ nhất tâm bất loạn niệm Phật, ngõ hầu những cô hồn được cầu siêu ấy sẽ cậy vào Phật lực về thẳng Tây Phương, cả ấp nơi đất Như (Như Cao) sẽ được tiêu tai chướng, hưởng mãi những điều tốt lành, tổ tông của mọi dòng họ ở nơi tổ chức [đạo tràng ấy] sẽ đều được gởi thân nơi Liên Trì, tất cả chúng sanh pháp giới sẽ đều được gá thần thức nơi An Dưỡng. Trong thế giới sẽ thấy Phật, trời che chở như mây nhóm, điều phước ùa tới, thời thế an hòa, mùa màng sung túc, dân khỏe mạnh, vật sanh sôi nẩy nở, chắc cảnh tượng Đại Đồng trong thuở Đường Ngu sẽ được thấy trong ngày nay. Chỉ mong ai nấy chẳng tiếc tâm lực nghĩ nhớ, chẳng tiếc tài lực giúp đỡ thì lợi ích ấy sẽ chẳng thể nào diễn tả được.

 

  1. Lời tiểu dẫn cho Như Cao Phật Học Hội

      Chuyện thế gian hay xuất thế gian hễ nếu sẵn đủ nhiệt tâm và nghị lực thì nhất định không chuyện gì chẳng thành. Ông Đặng Tử Phác trước kia từng quyên mộ xây dựng đại điện chùa Pháp Vân ở Kim Lăng, lập ra sổ quyên mộ bốn mươi tám nguyện, đề tựa là “hữu nguyện tất thành” (có nguyện ắt thành), lại còn trần thuật đại ý. Không lâu sau, quả nhiên những nguyện ấy được thỏa mãn. Cụ Lục Tây Lâm ở Tô Châu, tuổi ngoài tám mươi, tuy nhà cửa chẳng giàu có lắm, vẫn khẳng khái đảm nhiệm [quyên tặng] một nguyện, liền giao trọn số tiền ngay lập tức, quả thật đáng nêu gương để thành tựu thiện cử (hành vi tốt lành) vậy. Nay đọc chương trình của Mã Đường Phật Học Hội ở Như Cao và nghe nói những người lo toan như cư sĩ Châu Quý v.v… đều là những vị sốt sắng tu hành trong sạch, lại còn tận lực mong giữ đúng lễ tiết. Kinh phí cho mỗi năm chỉ cần năm trăm đồng.

Hiện thời tuy người nhập hội mới chỉ được mấy chục người, nhưng nếu kêu gọi rộng rãi hội viên thì mỗi người bỏ ra hai đồng thì sẽ không còn phải lo âu gì! Huống chi nghe nói còn có những người đóng góp tám đồng, sáu đồng, bốn đồng ư? Mỗi một nguyện xây dựng đại điện chùa Pháp Vân là hai ngàn đồng mà còn được mãn nguyện ngay, huống chi là mấy đồng nhỏ nhoi này! Lại còn có sổ sách tổng kết, báo cáo cuối năm để tạo sự tin tưởng, ai chẳng thích nhập hội để mong đích thân được nhuần gội sự giáo hóa của đức Phật, trong đời hiện tại làm người lành ba nghiệp thanh tịnh, khi lâm chung sẽ là thánh chúng cao đăng chín phẩm. Có nguyện ắt thành, tôi dám bảo đảm với người sáng lập và tu trì vậy!

 

III. Bi ký

 

  1. Bi ký về việc tậu ruộng cho Niệm Phật Đường chùa Bảo Khánh ở Ninh Ba

     (viết thay cho thầy Ích Châu)

     Trộm nghe đức Như Lai thuyết pháp chúng sanh đắc độ, khó – dễ, chậm – nhanh khác biệt lớn lao! Do vậy, viên âm vừa giảng, kẻ căn cơ chín muồi liền chứng Bồ Đề. Một trận mưa thấm khắp, kẻ tiểu căn chỉ được tăng trưởng đôi chút. Do vậy, rộng lập giáo pháp Đốn, Tiệm, Thiên, Viên nhằm phù hợp căn cơ, mở toang môn Luật, Giáo, Thiền, Mật hòng lợi vật. Cầu lấy một pháp “tâm này làm Phật, tâm này là Phật, ngay từ trong cái niệm niệm Phật sẽ thành Phật ngay trong cái niệm ấy, gom tam thừa ngũ tánh cùng về cõi tịnh, hướng dẫn thượng thánh hạ phàm cùng chứng chân thường, chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà được dự vào địa vị Bổ Xứ ngay trong một đời này, lên thẳng Diệu Giác” thì không chi thù thắng, siêu tuyệt bằng pháp môn Tịnh Độ! Thật có thể nói [pháp môn Tịnh Độ] là giềng mối lớn lao trong Phật giáo, là đường tắt để xuất trần. Do vậy, tiền hiền vãng thánh ai nấy đều hướng theo, ngàn kinh muôn luận đâu đâu cũng chỉ quy. Trong thời Chánh Pháp, Tượng Pháp xưa kia, đời nào cũng có cao nhân tục diệm truyền đăng khiến cho [Phật pháp] rạng ngời tại Thiên Trúc lẫn Trung Hoa. Đời Mạt căn cơ kém hèn muốn liễu sanh tử mà bỏ pháp môn này thì làm sao yên được?

Lúc Châu mới dự vào hàng Tăng sĩ liền được nghe pháp này, muốn kết Lô Sơn xã, hòng noi theo phong thái Vân Ô[7], nhưng trước kia vì chẳng có đất để trải vàng[8], suốt nhiều năm chỉ ôm xuông tâm ấy! Nay có người trợ đạo, chắc sẽ có ngày mãn nguyện. Nay có vị đại hộ pháp X… túc căn sâu dầy, dốc lòng tin tưởng Phật thừa, muốn chuyển uế độ thành Tịnh Độ, bỏ ra tài sản thế gian để làm pháp tài nên bèn quyên tặng món tiền chừng bao nhiêu đó dùng để mua chừng đó mẫu ruộng cấy lúa tẻ. Hoa lợi thâu được sẽ dùng làm chi phí niệm Phật, cầu thỉnh bảy vị sư tăng chấp trì lục tự Phật hiệu, suốt đời quy mạng, gieo lòng thành cho tới hết báo thân. Từ đấy trở đi, vĩnh viễn giữ [quy củ ấy] không buông bỏ hòng báo ân nước và đáp tạ ân đàn-na tín thí.

Nguyện cho những vị ngoại hộ có cùng một hạnh và những hàng thiện tín thấy nghe tùy hỷ trong hiện tại vị lai, hễ Phật niệm vừa khởi lên sẽ nhanh chóng đoạn ngay phàm tình, núi phước chót vót, biển nghiệp cạn khô, sương mù tội chướng tiêu tan, mặt trời trí huệ rạng bày, biết được những điều đức Phật biết, do trì danh mà thấu đạt sâu xa Thật Tướng, trụ nơi đức Phật trụ thì tuy sống trong cõi Đồng Cư mà đã khế hợp thẳng vào cõi Tịch Quang. Lại nguyện theo chiều dọc trọn khắp ba đời, theo chiều ngang tột cùng mười phương, hết thảy hữu tình cùng nhiễm mùi hương này, dùng công đức này để cung chúc: “Nền tảng nước nhà củng cố, Phật nhật thêm sáng, tám phương có đạo để vâng lãnh lâu dài, bốn biển vui thích sự giáo hóa vô vi”.

 

  1. Bi ký về công đức cung thỉnh Đại Tạng Kinh của chùa Tịnh Cư ở Tế Nam

     (viết thay)

      Đại pháp của đức Như Lai lợi ích sâu rộng, về mặt ngầm kín là giúp đạt đến bình trị tột cùng, về mặt hiển nhiên là giữ yên lòng dân, khiến cho dân ngày càng hướng đến điều lành mà chẳng biết nguyên do, chứ không chỉ khiến cho con người đoạn Hoặc chứng Chân nhằm tự hoàn tất chuyện xuất thế mà thôi! Ấy là vì [xét trên] Chân Như Phật tánh thì chúng sanh và Phật đồng thể; ai cũng đều có thể là Nghiêu – Thuấn, ai nấy đều có thể thành Phật, nhưng do còn mê chưa ngộ nên lầm lạc sanh nhiễm trước nơi cảnh duyên sáu trần, khởi tham – sân – si, tạo giết – trộm – dâm, đến nỗi luân chuyển cả kiếp dài lâu, vĩnh viễn không có lúc thoát ra! Đức Như Lai thương xót giảng cho họ lý “Phật tánh sẵn có nơi tâm” và sự “nhân quả ba đời”, dạy họ tu Ngũ Giới, Thập Thiện, Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ, vạn hạnh và “tâm chính là Phật” cũng như đạo “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, ngõ hầu bậc thượng căn hễ vượt thoát liền vào thẳng địa vị Như Lai, bậc trung căn liền tu tập dần dần theo thứ tự để chứng được Bồ Đề, kẻ hạ căn liền gột lòng tẩy ý trở thành hiền thiện. Chúng sanh đông đảo không một ai chẳng được hưởng ân trạch ấy.

Lại vì chúng sanh đời Mạt rất ít kẻ thượng căn, nên [đức Phật] bèn đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ để mong dù thánh hay phàm đều cùng được thành tựu đạo nghiệp ngay trong đời này. Pháp môn ấy giản tiện, dễ tu, nhưng lợi ích thù thắng, siêu tuyệt, độc nhất vô nhị trong giáo pháp của suốt một đời đức Phật. Vì thế, tuy là ngu phu ngu phụ mà nếu nương theo lời dạy tu trì thì cũng có thể được siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử ngay trong đời này. Do vậy, từ xưa, những vị vĩ nhân có lòng lo cho thế đạo nhân tâm không một ai chẳng đề xướng tu tập, hộ trì, lưu thông.

Cư sĩ Đối Phù trong kiếp xưa đã vâng lãnh lời Phật dặn dò, nương theo bổn nguyện tái sanh trong cõi này, xót cho đạo tràng tại Tế Nam bị chìm lấp, chẳng ngại nhọc nhằn, đặc biệt hưng khởi chùa Tịnh Cư, tất cả nhân duyên đã được ghi chép cặn kẽ trong tấm bia trước (xem trong Tăng Quảng Văn Sao). Lại nghĩ: Tuy đã lập được ngôi chùa, an bài tăng chúng tu tập, nhưng nếu không có Đại Tạng Kinh thì làm sao có thể hiểu trọn vẹn ý cao tột lập ra các pháp của đức Như Lai cũng như biết những điều mình nên tự hành dạy người cho được?

Sự hiểu biết của Diệu Liên giống như kẻ sờ voi, tài chỉ đáng đuổi quạ[9], trước kia được ủy thác trông nom việc chùa đã là người không xứng với chức, nay lại được cử làm Trụ Trì, chẳng thể nào không thấy là quá phận! Nhưng đã không thể nào từ tạ, chỉ đành gắng sức chống chọi, bèn cùng cụ Đối Phù lên kinh đô thỉnh kinh. Tuy đã được chánh phủ cho phép, nhưng tiền giấy lẫn công thợ đều phải tự lo liệu. Nếu không có ba ngàn đồng sẽ chẳng xong việc được! May được huyện trưởng huyện Tân Hà là ông Phan Hoa Trai phát Bồ Đề tâm quyên tặng vừa đúng số tiền ấy. Công đức ấy làm sao diễn tả được? Thỉnh kinh về chùa cũng như các việc xây dựng đều do thiện tín bỏ tiền tán trợ.

Hơn nữa, trước đấy cụ Đối Phù đã quyên mộ lập quỹ Dưỡng Thiệm (quỹ bảo trợ) trong chùa được một vạn ba ngàn đồng. Gần đây, do mọi việc đều tốn kém hơn, cảm thấy rất thiếu hụt. Do vậy lại quyên mộ bảy ngàn đồng để bù đắp. Lo liệu nhiều năm, nay mới được viên mãn. Công đức của cụ Phù và các đàn tín sẽ tự được Phật, trời chứng giám khiến cho đều được tiêu tai tăng phước, khi sống sẽ vừa nhân từ vừa cao tuổi thọ, khi mất sẽ sanh vào cõi Cực Lạc. Chỉ mong những người sống trong chùa này, buông xuống thân tâm, chuyên tu Tịnh nghiệp. Hễ rảnh rang bèn lắng lòng nghiên cứu kinh điển trong Đại Tạng, ngõ hầu hiểu rõ giáo lý, biết được tông chỉ tu trì, có căn cứ để tự hành lẫn dạy người.

Làm được như thế thì những hạng tà kiến chẳng tin tưởng sẽ đều sanh lòng chánh tín sâu xa, sẽ kéo nhau tu tập, hộ trì để mong được lưu truyền vĩnh cửu. Pháp không có hưng – suy, hưng – suy do nơi con người. Chỉ mong đại chúng trong hiện tại, vị lai, ai nấy đều gắng sức. Đem công đức này cung chúc “nền tảng nước nhà củng cố, thế đạo thái bình, hưng thịnh, Phật nhật thêm sáng, pháp luân thường chuyển, thuần phong mỹ tục, lễ nghĩa nhân nhượng hưng khởi, can qua vĩnh viễn chấm dứt, dân khỏe mạnh, vật sanh trưởng”, do lòng người chuyển biến nên quyến thuộc cõi trời thường giáng lâm.

 

  1. Bài ký về chuyện chùa Thạch Thành ở Tân Xương trùng tu tháp thờ y bát của Trí Giả đại sư

      Trí Giả đại sư chứng Pháp Thân đã lâu, [Ngài đã đạt đến địa vị] Thập Địa, Đẳng Giác, hay Diệu Giác đều chẳng thể suy lường được! Nương sức túc nguyện, thị hiện giáng sanh trong cõi đời này. Đêm Ngài giáng sanh, thần quang sáng rực bầu trời. Lông mày chia thành tám sắc, mắt sáng rực, có con ngươi kép. Do chất chứa đức phi thường nên hiện tướng phi thường. Ngài sanh vào năm Mậu Ngọ tức năm Đại Đồng thứ tư (538) đời Lương Vũ Đế. Vừa mới thôi địu[10], hễ nằm liền chắp tay, hễ ngồi liền hướng về Tây, gặp tượng ắt lễ, gặp Tăng ắt kính. Ấy là vì Ngài muốn nêu gương mẫu cho cõi đời nên cẩn trọng từ lúc đầu vậy!

Tuổi nhược quan (20 tuổi) xuất gia, nghiên cứu trọn khắp kinh luận. Ba năm sau, tức năm Canh Thìn nhằm Thiên Gia nguyên niên (560) đời Trần Văn Đế, Ngài nghe nói Huệ Tư đại sư đang ở núi Đại Tô thuộc Quang Châu liền đến đấy lễ yết. Ngài Huệ Tư vừa trông thấy Sư liền than rằng: “Xưa kia ở Linh Sơn cùng nghe kinh Pháp Hoa, túc duyên theo đuổi, nay lại đến đây”. Liền trao truyền đạo tràng Phổ Hiền, bảo Sư tu Pháp Hoa tam-muội. Ngài tụng kinh Pháp Hoa đến câu “Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai” (Đấy là chân tinh tấn, đấy gọi là pháp cúng dường Như Lai thật sự) trong phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự bèn hoát nhiên đại ngộ, lặng lẽ nhập định, đích thân thấy hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan, chứng được Tuyền (Triền) Đà La Ni[11].

Từ đấy về sau, soi thấu suốt kinh Pháp Hoa như mặt trời rạng rỡ chiếu soi muôn hình tượng, thấu đạt tướng của các pháp, khác nào gió mát lùa trên hư không; bèn dùng Ngũ Thời Bát Giáo để phán thích[12] những kinh pháp đã được giảng trong cả một đời Như Lai khiến cho kẻ nghe kinh biết được chỗ chỉ quy, chẳng đến nỗi dõi nhìn biển cả than dài, chẳng biết được bến bờ! Dùng Tam Chỉ, Tam Quán để truyền Phật tâm ấn khiến cho kẻ tu hành đích thân thấy được chân tâm tịch diệt thường trụ bất biến. Pháp tu của Ngài tuy hơi khác với Thiền Tông nhưng sở chứng quả thật đã rất giống với Thiền Tông trong thời hưng thịnh. Vì thế, các sách như Truyền Đăng Lục của nhà Thiền đều xếp ngài Trí Giả vào tiểu loại Ứng Hóa Thánh Hiền.

Hai chuyện Giáo và Hạnh như trên đây đã bao quát trọn hết Phật pháp, nhưng đều thuộc về đạo tự lực tấn tu, nếu là bậc thượng căn lợi trí thì cũng có thể hoàn tất ngay trong đời này, chứ nếu là hạng căn khí kém hơn một chút sẽ lại chẳng biết phải trải qua bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp mới hòng liễu sanh thoát tử được! Do vậy, Sư tùy thuận lòng Từ của đức Phật mà hoằng dương Tịnh Độ, sớ giải Thập Lục Quán (Quán Kinh), đoạn trừ mười món nghi, dùng khái niệm Lục Tức[13] để giải thích chữ Phật khiến cho hết thảy hành nhân đều biết một niệm tâm tánh của chính mình và Phật không hai, nhưng Phật thì công Tu Đức đến cùng cực nên Tánh Đức phô bày trọn vẹn, chứ chính mình chỉ sẵn có Tánh Đức, chứ chẳng có mảy may Tu Đức nào. Do Tánh Thể bất nhị nên “tuy chia thành sáu mà thường tức”. Do Sự tu (tu hành về mặt Sự) khác biệt nên “tuy tức mà thường sáu”. Biết “sáu mà thường tức” sẽ chẳng sanh lòng lui sụt, trên ngưỡng mộ chư thánh. Biết “tức mà thường sáu” sẽ chẳng sanh lòng Tăng Thượng Mạn, dưới trọng tánh linh của chính mình.

Chúng sanh đời Mạt sức Định – Huệ yếu ớt, chẳng cậy vào Phật lực thì làm sao yên được? Hơn nữa, có được lời giải thích hay tuyệt như thế, ai lại chịu bỏ hạt châu sẵn có trong chéo áo để qua xóm nghèo lê la xin ăn ư? Do vậy, tông phong lẫy lừng, cả nước khâm phục, tôn sùng. Trên từ hoàng đế, hoàng hậu, đại thần, cho đến dưới là thiện nam thiện nữ có lòng tin trong sạch không ai chẳng nghe tiếng bèn nương theo giống như cỏ rạp theo gió lùa. Từ khi pháp được truyền sang Chấn Đán (Trung Hoa), đức nghiệp hưng thịnh không ai hơn được Ngài.

Đến năm Ngài ba mươi tám tuổi mới vào núi Thiên Thai, đấy chính là năm Ất Mùi nhằm niên hiệu Đại Kiến thứ bảy (575) đời Trần Tuyên Đế. Đến nơi, Ngài thấy cảnh núi và gặp vị tăng tên Định Quang giống hệt như cảnh đã được đến và người đã được gặp khi thần thức ngao du trong lúc lễ Phật phát nguyện thuở mới được mười bảy tuổi. Do vậy, biết là trước kia đã từng có nhân duyên lớn với núi này; từ đấy về sau, hoặc hoằng pháp trong núi, hoặc tùy cơ ứng duyên, suốt hơn hai mươi năm hoằng dương pháp hóa lớn lao. Trong truyện ký của Ngài đã chép đầy đủ nên ở đây chẳng cần phải trình bày rườm rà.

Năm Khai Hoàng 17 đời Tùy Văn Đế, tức năm Đinh Tỵ (597), Tổng Quản Dương Châu là Tấn Vương Dương Quảng sai sứ đón Sư sang Dương Châu. Sư cùng đi với sứ giả, đến chùa Thạch Thành ở Tân Xương (huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang) biết duyên trụ thế đã tận, bèn lược nêu pháp yếu để dạy bảo đại chúng. Nói xong, xướng danh hiệu Tam Bảo [rồi viên tịch] như nhập tam-muội. Lúc ấy nhằm giờ Mùi ngày Hai Mươi Bốn tháng Mười Một, thọ sáu mươi tuổi, Tăng hạ (Tăng lạp) bốn mươi năm. Ngài có để lại di mạng bảo đưa linh cữu về Phật Lũng[14]. Các đệ tử do thấy thầy nhập diệt nơi đây (tức chùa Thạch Thành) bèn lập một tòa tháp thờ y bát để làm kỷ niệm khiến cho tứ chúng đời sau người thấy kẻ nghe đều cùng gieo thiện căn.

Từ xưa đến nay, một ngàn bốn trăm năm, theo thời gian, cuộc đất thay đổi, chẳng còn thích nghi [để đặt tháp] cho lắm. Vị tăng trong chùa là Nhữ Ngu bàn bạc với hàng Tăng – tục, dời tháp sang phía Bắc của Đại Phật Nham, nơi đấy quả thật là chỗ mạch chính của cả rặng núi dồn tới, là chỗ mấu chốt của dãy núi, địa thế cao, tầm nhìn được xa, [lập tháp nơi ấy] ngõ hầu phát khởi được thiện tâm nơi kẻ thấy người nghe. Do vậy, tôi bèn trần thuật những nét đại lược.

 

  1. Bài ký về chuyện sanh Tây của cư sĩ La Tử Sanh ở Mân Hầu

      Thế gian lẫn xuất thế gian đều lấy lòng Thành làm gốc. Lòng Thành đến cùng cực, đá vàng phải nứt. Huống hồ những người cùng hàng đều cùng được phú bẩm cái tâm này, mà chư Phật, Bồ Tát lại là những vị trọn không có tâm, lấy tâm của chúng sanh làm tâm của chính mình ư? Trong cõi đời, chưa hề có ai lòng Thành tuy chưa đến mức cùng cực mà [lại có thể khiến cho] người khác nhìn vào sanh lòng cảm kích, được đức Phật rủ lòng gia bị! Cũng chưa có ai lòng Thành đã đến mức cùng cực mà người khác nhìn vào chẳng cảm kích, Phật không gia bị. Vì thế, kẻ mong thành thánh, thành hiền, học Phật, học Tổ, chỉ nên cạn hết tấm lòng Thành mà thôi! Đối với chuyện sanh Tây của cư sĩ La Tử Sanh, tôi có được một chứng cứ.

Cư sĩ tên là Vũ Tằng, tự là Tử Sanh, người xứ Mân Hầu, tỉnh Phước Kiến, anh em gồm ba người, ông ta đứng vào hàng thứ hai. Thuở nhỏ theo học Nho, trưởng thành đăng lính, mồ côi cha từ năm tám tuổi. Thờ bà mẹ thủ tiết, đối đãi anh em nổi tiếng hiếu hữu. Bẩm tánh chân thật, trung hậu, tiết kiệm, chất phác, liêm khiết, trong chẳng dám dối mình, ngoài chẳng dám gạt người. Vì thế, sĩ quan, binh lính tín nhiệm, giao cho ông ta trông coi quân nhu. Suốt mười mấy năm, ngoài tiền lương ra, trọn chưa hề táy máy gì!

Ông ta còn dốc lòng tin tưởng Phật pháp, khá chán ngán trần cảnh. Tuổi trung niên sau khi vợ mất, tâm niệm đã hệt như cây khô, tro lạnh. Năm Nhâm Tuất (1922) thời Dân Quốc do cư tang mẹ liền bỏ sạch đồ mặn, chuyên tu Tịnh nghiệp. Con trai ông ta là Khanh Đoan, Ngạn Tuấn và những người cùng chí hướng tổ chức Phước Châu Phật Hóa Xã. Cư sĩ cổ vũ, tán thành, giúp đỡ, hết sức đề xướng. Mùa Hạ năm Giáp Tý (1924), Phật Hóa Xã được dời sang chùa Khai Hóa ở Tây Hồ, con người lẫn địa thế đều thích hợp, nhưng do chùa xây dựng đã lâu, cột kèo, phòng ốc xô lệch, tượng Phật long lở, cư sĩ muốn cho những người niệm Phật đều nhìn vào sẽ dấy lòng cảm mộ bèn một mình đứng ra lo liệu tu bổ cho [cảnh chùa] được trang nghiêm. Công việc mới hoàn thành được một nửa, ông ta liền tạ thế. Lúc ấy nhằm ngày mồng Chín tháng Sáu năm Bính Dần (1926), thọ sáu mươi tuổi. Khanh Đoan kế thừa chí cha hoàn thành công cuộc [trùng tu], đáng gọi là “khéo thờ cha” vậy.

Thoạt đầu, mười mấy hôm trước khi cư sĩ mất, cổ chợt sanh ung loét, đấy chính là do túc nghiệp. Loét rữa bên trong, nóng – lạnh xen lẫn, nhưng cư sĩ muốn nhờ vào nỗi khổ ấy để mau được vãng sanh, bảo quyến thuộc tụ tập niệm Phật trong phòng để giúp chánh niệm. Cũng có bạn bè đến trợ niệm, mỗi lần đến mấy chục người. Ông ta đã dặn sẵn quyến thuộc: “[Khi ta] lâm chung chẳng được tắm rửa, thay quần áo sẵn, khóc lóc v.v… Trong đám tang, bất luận tế thần, đãi khách đều chẳng dùng đồ mặn. Đồ tẩm liệm chỉ dùng vải trơn, chẳng được dùng lụa là”. Con và dâu đều vâng lời, phương trượng Tuyết Phong Đạt Bổn đặc biệt đến khai thị. Vì thế trong mười mấy ngày tuy bị đau khổ, nhưng tâm cư sĩ thường trấn định, trọn chẳng có một niệm nào khác. Đến lúc lâm chung, chánh niệm phân minh, an tường qua đời, hàng quyến thuộc ai nấy đều nén đau buồn niệm Phật suốt năm tiếng đồng hồ rồi mới tắm rửa, thay áo, khóc lóc v.v… đáng gọi là “biết pháp”. Đến lúc nhập liệm, đảnh môn (đỉnh đầu) vẫn còn ấm, tứ chi mềm mại, đủ chứng tỏ cụ đã sanh Tây.

Điều lạ nhất là con trai lẫn con dâu đều phát nguyện suốt đời ăn chay trường niệm Phật. Những xã hữu trong Phật Hóa Xã niệm Phật, niệm chú Vãng Sanh cho ông ta có tới ba mươi mấy gia đình. Số câu niệm Phật đến hơn một ngàn năm trăm vạn câu, chú Vãng Sanh được niệm tới hơn mười một vạn chín ngàn biến. Đều dùng những công đức ấy để cầu cho phẩm sen của ông ta được cao hơn, mau chứng Vô Sanh. Nếu ông ta chẳng phải là người bình sinh chí thành cảm người, làm sao được như vậy?

Ôi! Như cư sĩ đáng gọi là bậc thiện sĩ trong một làng, là đứa con thật sự của đức Như Lai. Nếu ngờ vực cư sĩ là người sốt sắng giữ vẹn luân thường, tận lực tu các điều thiện, lại còn niệm Phật nhiều năm, sao lúc lâm chung lại nẩy sanh khối loét ác hiểm ấy thì [kẻ nghi như vậy] chẳng biết chúng ta từ vô thủy đến nay đã kết oán nghiệp không thể kể nổi số lượng. Nếu chẳng niệm Phật, ắt sẽ phải báo đền dài lâu suốt kiếp, chẳng có lúc nào xong! Do sức niệm Phật, cư sĩ mới chuyển được báo nặng trong đời sau thành báo nhẹ trong đời này để giải thoát các nỗi khổ sanh tử, về thẳng Tây Phương, cao dự hải hội, thân cận Di Đà, cùng với các thiện nhân hội họp ở một chỗ. Xưa kia, pháp sư Giới Hiền[15] còn mắc phải bệnh ngặt, pháp sư Huyền Trang lâm chung cũng bị đau khổ, mỗi vị đều được Bồ Tát chỉ dạy an ủi, cho biết đấy là quả báo do trong đời trước đã não hại chúng sanh, huống hồ hạng phàm phu sát đất ư? Vì thế, tôi viết đại lược nguyên do. Tán rằng:

      Cao cả thay cư sĩ, đáng gọi bậc thông sáng, dẫu sống trong trần thế, chẳng bị nhiễm bụi trần, bẩm tánh sẵn hiếu hữu, cần kiệm, nhân, khoan dung, gia đình hưởng vui sướng, hài hòa thật tràn trề, thân nêu gương nghiêm cẩn, hòa vui tiếp độ người, dốc lòng nơi Tịnh Độ, mong chứng được lẽ chân, đã khơi mở Phật hóa, lại trùng tu nhà chùa, vàng, ngọc thật trang nghiêm, nhằm tỏ lòng cảm mộ. Tuổi nhằm thời nhĩ thuận[16], liền thị hiện về Tây, quyến thuộc, bạn trợ niệm, công đức vòi vọi thay! Do vậy, lúc lâm chung, nhất tâm chuyên ức niệm, theo chân Phật vãng sanh, đảnh ấm kiểm nghiệm được, con trai lẫn con dâu, đều phát nguyện chí thành, ăn chay cùng niệm Phật, suốt đời chẳng đổi thay, để đem công đức ấy, mong tăng cao phẩm sen, chóng chứng Vô Sanh Nhẫn, trở về độ Sa Bà. Xã hữu nhờ cậy tôi, ghi chép câu chuyện này, muốn cho kẻ thấy nghe, đồng gội nhuần pháp lợi, liền tóm lược công hạnh, nhằm nêu nghĩa ẩn tàng, hòng thỏa hoằng thệ nguyện, độ sanh của Như Lai.

 

  1. Bài ký về sự vãng sanh của Uông thái phu nhân mẹ ông Giang [Dịch Viên]

      Pháp môn Tịnh Độ lợi ích rộng sâu. Từ khi đại pháp truyền sang phương Đông, hàng phàm phu sát đất tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương nhờ đó mà thoát khỏi Ngũ Trược, chứng lên cửu phẩm kể sao cho xiết? Ấy là vì Phật lực, pháp lực, chúng sanh tâm lực chẳng thể nghĩ bàn cho nên được cái quả thù thắng, lạ lùng, đặc biệt như thế, quả thật là trong những giáo pháp được giảng trong một đời đức Phật, chẳng có một pháp nào được như thế, chỉ có pháp môn Tịnh Độ là như vậy mà thôi! Pháp môn này chỉ trọng thực hành, do cảm Phật nên có thể cậy vào Phật từ lực để đới nghiệp vãng sanh; so với những pháp chuyên cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân hòng siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử thì sự khó – dễ dẫu có nói trọn năm cũng chẳng thể hết được!

Cư sĩ Giang Dịch Viên ở Vụ Nguyên thoạt đầu làm giáo chức, thường giảng dạy học sinh phải chú trọng dốc hết sức hành hiếu – hữu, nghiêm túc trọn hết bổn phận của chính mình. Đối với việc giảng nói nghĩa lý, ắt mong sao nêu tỏ đến tột cùng, chẳng còn chút nào ẩn kín mới thôi! Do vì quá sức nhọc nhằn bèn bị bệnh nặng, bao nhiêu thầy thuốc chữa trị đều chẳng có công hiệu gì! Về sau có người bạn khuyên hãy lắng lòng niệm Phật bèn được lành bệnh. Do vậy, nhiều lượt thân cận tri thức, chuyên nghiên cứu Tịnh tông, mới biết pháp này quả thật là pháp môn thù thắng thành thủy thành chung để mười phương tam thế hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Vì thế, đối với người thân kẻ sơ đều đem pháp này để kính khuyên.

Mẹ ông ta là Uông thái phu nhân bẩm tánh hiền thục, vừa nghe nói như vậy liền phát tâm ăn chay niệm Phật, công khóa hằng ngày ắt niệm Phật hơn một vạn câu, kiêm trì tụng Quán Âm Phổ Môn Phẩm, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, các chú Vãng Sanh, Đại Bi v.v… để làm trợ hạnh. Mùa Xuân năm nay, do lánh nạn thổ phỉ, gặp phải đường hẹp, chiếc kiệu [cụ đang ngồi] va nhằm đàn bò, phu khiêng kiệu lẫn kiệu đều bị hất lăn xuống ruộng. Kiệu đã bị vỡ nát, nhưng mẹ ông Giang vẫn chẳng kinh, chẳng hãi, trọn chẳng bị thương tổn gì, do khi cụ ngồi trong kiệu đã thầm niệm phẩm Phổ Môn. Do vậy biết rằng: Vì mẹ ông Giang công phu miên mật nên mới được cảm ứng như vậy. Tuổi đã bảy mươi tám, tai thính, mắt sáng, trọn chẳng có vẻ già nua!

Đến cuối tháng Năm, cụ thị hiện bị bệnh nhẹ. Hôm Ba Mươi nghe cháu nội là Hữu Bằng giảng bốn mươi tám đại nguyện cho người khác còn sai người hầu lắng nghe. Nhân đấy hỏi ngày mai có phải là Mồng Một hay không? Ấy là cụ đã tính sẵn kỳ hạn về Tây vậy! Đến nửa đêm đi ngủ, cụ bị nghẹn đàm không có sức để khạc ra. Do vậy, cả nhà đều niệm Phật để cầu cho cụ mau được vãng sanh. Dịch Viên lại khai thị Phật nguyện rộng sâu, hãy nên sâu xa hướng về Tịnh Độ. Nếu có thể toàn thân buông xuống, nhất tâm niệm Phật, nhất định sẽ cảm ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Khoảng một giờ sau đến giờ Thìn, cụ bèn ngồi an nhiên qua đời. Lúc cụ mất vẫn thấy quai hàm động đậy, ấy là trong tâm thầm niệm nhưng không nghe được tiếng cụ niệm. Từ giờ Thìn đến giờ Thân, suốt cả năm tiếng đồng hồ, niệm Phật không ngớt. Qua khỏi giờ Thân mới tắm gội, thay quần áo, khóc lóc v.v… Bởi lẽ người sắp mất, sức không thể chống đỡ được; nếu tắm rửa thay quần áo sẵn và khóc lóc v.v… chắc chắn sẽ bị phá hoại chánh niệm, chẳng thể vãng sanh được. Nay đã chẳng dời động, lại chẳng khóc lóc, mọi người đồng thanh niệm Phật, khiến cho trong tâm cụ chỉ có Phật niệm, trọn chẳng có niệm nào khác. Vì thế, cụ được chánh niệm rỡ ràng, theo Phật vãng sanh, thật đáng để bắt chước. Nguyện những kẻ con hiếu cháu hiền đều y theo đây thì lòng hiếu từ sẽ lớn lao thay!

Hơn nữa, mẹ ông Giang còn dặn dò sẵn con trai và con dâu: Sau khi cụ mất, đừng đặt hình tượng Phật lên đầu cụ, đừng bỏ tiền vào miệng, đừng đội mũ hoa, mặc áo thêu, quần áo liệm chỉ may bằng vải, cổ đeo tràng hạt mà thôi! Tất cả những thứ quần áo giấy, minh khí[17] đều chớ nên dùng. Trong đám tang nhất loạt dùng cỗ chay, chớ nên bắt chước thế tục dùng cỗ mặn để tế thần v.v… Ôi! Ngôn hạnh của mẹ ông Giang đều đáng làm khuôn mẫu cho đời Mạt, là bậc mẫu nghi trong chốn khuê các, là bậc thầy khuôn mẫu cho nữ giới. Người tuy đã mất, đức vẫn thường còn. Nguyện những bậc anh hiền chốn khuê các trong cõi đời nghe phong thái ấy đều nức lòng, bắt chước theo ngôn hạnh của mẹ ông Giang, giúp chồng dạy con đều thành hiền thiện khiến cho hạnh của hai bà Phi và ba bà Thái lại được thấy trong hiện thời. Lại do hiểu thấu sâu xa trong tâm vốn sẵn có Phật tánh nên dốc lòng tu tập tịnh nghiệp “tu chân ngay trong cõi tục”, ngõ hầu bao người đều giữ vẹn lễ nghĩa, nhân nhượng, cõi đời trở lại thuở Đường Ngu. Đấy vốn là dùng đạo “đạt đến bình trị tột bậc mà trọn chẳng có hình tích” để làm phương cách vãn hồi thế đạo nhân tâm vậy. Nguyện ai nấy đều gắng sức thì may mắn lắm thay!

 

  1. Bài ký về chuyện sanh Tây của thiện nữ nhân Vương Thánh Duyên nhà họ Hà

      Đức Phật dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể làm Phật”. Phật tánh tuy đồng, nhưng tâm tướng của chúng sanh lại vàn muôn sai khác: Hoặc có kẻ tin nhận, hoặc có kẻ trái nghịch. Vì sao vậy? Hãy nên biết rằng: Chúng sanh tuy đều đang mê nhưng do nhân trong quá khứ và duyên trong hiện tại không giống nhau đến nỗi phát sanh hai thứ hiện tượng nghịch hay thuận. Phật tánh như hạt giống, nhân trong quá khứ như gieo trồng, duyên trong hiện tại như mưa đúng thời. Hạt giống đã gieo xuống đất hễ gặp được mưa đúng thời sẽ chẳng nẩy mầm được ư? Nhưng hết thảy chúng sanh ai mà chẳng có Phật tánh? Luân hồi trong kiếp số dài lâu, quyết chẳng thể trọn không có túc nhân. Điều quan yếu nhất là được thiện tri thức chỉ dạy, hướng dẫn, và chính mình có phát tâm quyết liệt hay không. Vì thế, kinh Pháp Hoa dạy: “Thiện tri thức giả, thị đại nhân duyên, sở dĩ hóa đạo linh đắc kiến Phật” (Thiện tri thức là nhân duyên lớn vì có thể chỉ dạy khiến cho được thấy Phật). Kinh Lăng Nghiêm chép: “Nhược chúng sanh tâm, ức Phật, niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật, khứ Phật bất viễn, như nhiễm hương nhân, thân hữu hương khí. Thử tắc danh vi Hương Quang Trang Nghiêm” (Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại, tương lai, chắc chắn thấy Phật, cách Phật chẳng xa, như người nhiễm hương, thân có mùi thơm. Đấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm).

Như bà Vương nhà họ Hà[18] ở Thượng Hải vốn là một phụ nữ vô tri vô thức, từ năm hai mươi chín tuổi được nghe pháp môn Tịnh Độ bèn quy y Tam Bảo, ăn chay, niệm Phật, nhàm chán sâu xa sự trược ác cõi Sa Bà, quyết chí cầu sanh Tây Phương. Ba mươi năm qua tinh tấn không lười biếng, đến năm Dân Quốc 17 (1928), bà được năm mươi chín tuổi. Đến ngày Mười Chín tháng Sáu biết trước lúc mất, dặn dò gia quyến: “Mười hai giờ đêm hôm nay ta sẽ về Tây, tới lúc ấy các ngươi hãy đồng thanh niệm Phật để giúp sức. Đừng nên bi ai khóc lóc đến nỗi phá hoại chánh niệm của ta”. Do vậy, bà liền tự tắm gội, mặc áo thọ[19] mới may, trước hết niệm chú Đại Bi bao nhiêu đó biến, tiếp đấy chuyên niệm thánh hiệu A Di Đà Phật. Đến mười một giờ, cả nhà lớn – bé đồng thanh trợ niệm “Nam-mô A Di Đà Phật”. Tới mười hai giờ, bà bèn ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đời. Ôi! Bản lãnh như thế, dẫu kẻ có học vấn, công nghiệp trùm lấp cõi đời xưa nay cũng chẳng thấy mấy, huống là hạng kém cỏi hơn ư?

Bà Vương nhà họ Hà là một phụ nữ chẳng hiểu biết gì, chỉ do ba mươi năm tinh tấn tu trì nên đến lúc lâm chung hiện được tướng trạng như thế, đủ thấy hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều kham làm Phật và pháp môn Tịnh Độ quả thật là pháp môn bậc nhất để chuyển phàm thành thánh. Nguyện kẻ thấy nghe đều cùng dốc sức tu trì, ngõ hầu chẳng phụ sự giáo hóa của đức Phật, chẳng phụ bạc tánh linh của chính mình.

 

  1. Bài ký về sự sanh Tây của ưu-bà-di Lạc Huệ Tĩnh

      Từ khi đại pháp truyền sang phương Đông, Lô Sơn kết liên xã, hết thảy thiện tri thức phần nhiều chủ trương pháp môn Tịnh Độ bởi pháp này cậy vào Phật từ lực, so với những pháp chuyên cậy vào tự lực thì sự khó – dễ khác biệt vời vợt hệt như một trời một vực. Nhưng hết thảy tứ chúng do niệm Phật mà đích thân chứng được tam-muội, đoạn Hoặc chứng Chân, lên thẳng Thượng Phẩm cũng không ít. Những người khác thì do lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật, cảm được Phật tiếp dẫn vãng sanh thì chẳng thể dùng toán số thí dụ để biết được số!

Ông Lạc Bân Chương ở huyện Định Hải tuy theo nghề buôn nhưng khá tin Phật. Mùa Xuân năm nay tới đất Hỗ, gặp đúng lúc Quang đang ở đậu chùa Thái Bình, bèn dẫn vợ cùng tới xin thọ Tam Quy Ngũ Giới. Bân Chương pháp danh là Huệ Bân, vợ ông ta pháp danh là Huệ Tĩnh. Do vậy, tôi bèn cho họ các sách như Văn Sao, Gia Ngôn Lục v.v… bảo họ hãy y theo đó để tu trì. Huệ Tĩnh từ đấy chuyên dốc lòng niệm Phật, đến giữa tháng Năm bị bệnh, cho đến đầu tháng Bảy vẫn còn gắng gượng lễ Phật, niệm Phật. Sau đấy, nằm bẹp trên giường không dậy được, nhưng trong tâm thường tự thầm niệm Phật hiệu. Đến đêm mồng Bảy tháng Tám, ho hắng suốt một tiếng đồng hồ rồi ngủ thiếp đi, mộng thấy rất nhiều tăng nhân và các đồng tử cùng với các thứ như tràng, phan v.v… Đến khi tỉnh giấc bệnh khổ hoàn toàn hết hẳn. Tới đêm mồng Chín lại mộng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát và các tăng chúng cùng các đồng tử.

Đêm mồng Mười, người trông bệnh và các quyến thuộc thấy bà ta miệng niệm Phật hiệu, chắp tay như đang làm lễ mười mấy lượt rồi ngủ thiếp đi, tỉnh giấc nói: “Phật đã đến rồi, ta sắp vãng sanh”. Hỏi: “Giờ nào sẽ đi?” thì bà ta bảo không biết. Ngày hôm sau đem tất cả quần áo, đồ trang sức trên đầu đem bán sạch để làm việc thiện, khuyên người nhà làm lành, tu đức, hiểu nhân biết quả. Đến giờ Ngọ, mắt chợt tỏa quang minh. Quang minh dường như màu vàng, nhưng chẳng phải vàng, dường như đỏ nhưng chẳng phải đỏ, liền nói: “Đức Phật đến rồi!” Mặt hiện nét mỉm cười, tuy thân mình đã tắm rửa từ hôm trước, vẫn sai đứa tớ gái rửa chân, tự mình rửa mặt. Ánh mắt liền sáng rỡ, bảo Huệ Bân rằng: “Phật cùng Đại Thế Chí Bồ Tát và các đồng tử tiếp tôi về Tây Phương”. Huệ Bân muốn hỏi thêm, bà nói: “Đừng nhiễu loạn tôi”, chỉ niệm thầm Phật hiệu theo tiếng những người trợ niệm, chưa đầy mấy phút đã qua đời.

Ôi! Huệ Tĩnh là một nữ nhân yếu đuối, nghe pháp môn Tịnh Độ chưa được một năm, mà lúc lâm chung liền được tướng lành như thế, đủ thấy chúng sanh đều sẵn có Phật tánh, Phật nguyện chẳng dối. Ngài Vĩnh Minh nói: “Vạn người tu vạn người về” quả là có căn cứ đích xác! Huệ Bân đem hành trạng của bà ta đến [thuật với Quang], lại còn đem những tiền bạc do vợ lưu lại để giúp in bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ. Do vậy, tôi bèn tóm tắt chuyện này và nêu bày đại ý của pháp môn để soạn thành bài ký. (Cuối Thu năm Kỷ Tỵ, tức năm Dân Quốc 18 – 1929)

 

  1. Bài ký về chuyện cư sĩ Dương Bội Văn được xá-lợi

      Dương Bội Văn là người ở huyện thành Hoài An, tỉnh Giang Tô, đã bốn mươi bốn tuổi, chuyên đọc sách, dạy trẻ, gần đây cũng đã thôi dạy học. Hạ tuần tháng Sáu năm nay, do đứa cháu nội chưa tròn một tuổi đã chết, khá đau tiếc. Một vị cư sĩ khuyên ông tham dự niệm Phật tại Phổ Tế Liên Xã, cũng như đọc các sách Văn Sao, Gia Ngôn Lục v.v… Ông ta liền nhanh chóng sanh lòng tin, tâm niệm Phật khá tinh thuần, thiết tha. Đến buổi tụng kinh khóa tối vào hạ tuần tháng Chín, thấy trong ngọn đèn dầu thắp trước bàn Phật, [bấc đèn] kết thành một đóa sen, giữa nhụy hoa có một hạt châu đen. Sau đấy, hoa rụng, hạt châu rơi xuống bàn, to bằng hạt kê, màu như ngọc Phỉ Thúy. Ông ta ngạc nhiên lắm, chẳng biết là vật gì, bèn cầm đến Liên Xã hỏi, cũng không ai biết.

Trung tuần tháng Mười, ông ta gởi thư và viên xá-lợi ấy cho Quang cầu chứng minh. Quang liền đựng trong cái hộp nhỏ có từ tính, đưa cho vị sư hộ quan và ba bốn người đệ tử tục gia xem. Khi ấy, viên xá-lợi ấy to gấp hai ba lần lúc mới mở thư, tôi cũng không để ý lắm, liền để thờ trước bàn Phật. Sáng hôm sau, tụng kinh khóa sáng xong, xem lại đã không còn nữa, liền gởi thư sang báo cho liên xã ấy biết, bảo: “Đấy là xá-lợi do lòng tinh thành cảm nên; chiều hôm qua xem xong thờ trước tượng Phật. Sáng nay xem thì đã không còn nữa, chắc là đã trở về chỗ cũ, xin họ hãy tìm kỹ”. Về sau được họ viết thư cho biết đã tìm khắp cho tòa nhà của liên xã nhưng vẫn không thấy gì, nhưng Dương Bội Văn càng sanh lòng chánh tín, biết Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, xin quy y. Do đấy bèn đặt pháp danh cho ông ta là Huệ Tiềm với ngụ ý: Do cắm cúi niệm Phật liền được ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu.

Ngoại đạo tưởng Tinh – Khí – Thần luyện lâu ngày sẽ thành xá-lợi. Đời Tống, có người khắc ván cuốn Long Thư Tịnh Độ Văn và thêu kinh tìm được xá-lợi ngay dưới mũi dao và chỗ kim đâm xuống, cũng như xá-lợi [hiện] nơi hoa đèn này là do Tinh – Khí – Thần của ai luyện thành? [Ấy là do Phật, Bồ Tát thấy] nên dùng thân xá-lợi để độ được bèn hiện thân xá-lợi để thuyết pháp vậy! (Ngày Đông Chí năm Dân Quốc 22 – 1933)

 

  1. Ghi chép sự thật về tháp thờ xá-lợi đức Phật tại chùa A Dục Vương

      Tại Mậu Sơn cách ấp Đông Hương thuộc huyện Ngân, thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang bốn mươi dặm có chùa Quảng Lợi, vốn có tên là A Dục Vương Tự. Vì thế, người ta vẫn gọi chùa bằng tên ấy. Xưa kia sau khi đức Phật diệt độ, vua A Dục ở xứ Trung Thiên Trúc làm vua khắp cõi Diêm Phù, oai đức rộng lớn, tất cả quỷ thần đều là bầy tôi. Ý vua muốn tạo lợi ích rộng khắp cho người đời bèn lấy ra tám vạn bốn ngàn viên xá-lợi đức Phật do ông nội mình là vua A Xà Thế đã cất giữ, rồi sai khiến quỷ thần nghiền nát bảy báu trộn với các loại hương làm thành chất bùn dẻo, trong một đêm tạo thành tám vạn bốn ngàn cái tháp báu đựng xá-lợi, đem chia ra khắp Nam Thiệm Bộ Châu[20]. Tôn giả Da Xá Lợi duỗi tay phóng ra tám vạn bốn ngàn luồng ánh sáng, cứ mỗi một quỷ bèn bưng một tháp đi theo luồng ánh sáng, đến chỗ nào ánh sáng thôi chiếu tới bèn vùi tháp trong lòng đất. Trong nước Đông Chấn Đán (Trung Hoa) có mười chín chỗ.

Khi đại giáo được truyền sang phương Đông, [các tháp xá-lợi] ấy lần lượt xuất hiện, như chùa Dục Vương ở Ngũ Đài v.v… Tháp [thờ xá-lợi] ở chùa A Dục Vương tại Ninh Ba là do vào năm Thái Khang thứ ba (282) đời Tấn Vũ Đế có một vị tăng là Huệ Đạt[21], vị này chính là Lợi Tân Bồ Tát thị hiện, lễ bái thỉnh cầu, [tháp xá-lợi] bèn từ đất vọt lên. Sư bèn dựng chùa A Dục Vương, thờ tháp xá-lợi ấy trong lòng tháp đá nơi đại điện, cửa tháp thường khóa chặt. Có ai muốn chiêm ngưỡng xá-lợi phải thông báo trước cho vị chủ tháp biết.

Lễ Phật trong đại điện xong, quỳ ở bậc thềm ngoài điện, nơi ấy thường có người quỳ. Phàm ai muốn chiêm ngưỡng, đều quỳ tiếp theo đó. Tháp chủ thỉnh tháp ra, trước hết cho người quỳ phía trong xem, rồi cho khắp những người quỳ tiếp theo được xem. Dẫu trong một ngày có người theo chiêm ngưỡng mấy lượt cũng chẳng lấy đó làm phiền. Tháp ấy cao một thước bốn tấc, chu vi cũng chỉ hơn một thước. Tầng giữa tháp trống rỗng, bên trong ấy treo một quả chuông đặc ruột, ngay chính giữa đáy chuông có gắn một cây kim. Xá-lợi được gắn trên mũi kim. Bốn mặt trổ cửa sổ, có chấn song chạm trổ ngăn che, chẳng thò tay vào được, [người chiêm bái] liền ghé mắt dòm qua khe chấn song chạm trổ.

Viên xá-lợi ấy hình dáng, màu sắc, lớn – nhỏ, nhiều – ít, cố định hay di động đều không nhất định. Những người bình thường nhìn vào phần nhiều thấy là một hạt, cũng có người thấy là hai, ba, bốn hạt, có người thấy xá-lợi dính vào đáy chuông không chuyển động, có người thấy xá-lợi tụt xuống khỏi mũi kim chừng khoảng một tấc. Có người thấy xá-lợi chợt dâng lên chợt hạ xuống, chợt nhỏ, chợt lớn. Có người thấy là màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, và mỗi sắc lại đậm – nhạt khác nhau, hoặc có cả hai màu, hoặc có nhiều màu sắc khác nhau. Có người thấy màu sắc tăm tối, có người thấy màu sắc sáng ngời. Chẳng riêng gì mỗi người thấy mỗi khác, mà ngay cả đối với một người cũng phần nhiều chuyển biến bất nhất. Lại có người thấy có hình như hoa sen và tượng Phật, Bồ Tát. Cũng có kẻ nghiệp lực sâu nặng, hoàn toàn trọn chẳng thấy được gì!

Khi thấy xá-lợi nhỏ thì nó to bằng hạt đậu xanh nho nhỏ. Cũng có người thấy xá-lợi to bằng hạt đậu nành hoặc bằng quả táo tàu. Trong niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, Lại Bộ thượng thư là Lục Quang Tổ dốc lòng tin tưởng Phật pháp, cực lực hộ trì, cùng mấy vị thân hữu đến xem, thoạt đầu thấy xá-lợi to bằng hạt đậu đỏ, kế đó to như hạt đậu nành, to như trái táo, rồi to như quả dưa, rồi to như bánh xe, quang minh chói ngời, tâm mục thanh lương. Khi ấy, tháp [đá] thờ xá-lợi bị hư, tháp [đựng xá-lợi] được thờ trong nhà kho. Họ Lục liền phát tâm trùng tu điện tháp. Bạn bè ông ta cũng được thấy xá-lợi rất xinh đẹp nhưng không lạ lùng đặc biệt thần diệu như ông Lục.

Cần biết rằng: Đức Như Lai đại từ lưu lại chân thể Pháp Thân để gieo thiện căn xuất thế cho chúng sanh trong đời sau. Bởi lẽ, những kẻ do được thấy sự thần dị ấy đều sanh lòng chánh tín. Từ đấy sửa ác tu lành, dứt lòng tà, giữ lòng thành để mong đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, mãi cho đến khi khôi phục được Phật tánh sẵn có hòng viên mãn vô thượng Bồ Đề. Đấy chính là đức Như Lai do bản tâm tiếp dẫn bèn rủ lòng thị hiện tướng chẳng thể nghĩ bàn. Nguyện kẻ thấy nghe đều cùng sanh cảm niệm sâu xa thì may mắn lắm thay! Trong năm Quang Tự 21 (1895), Quang may mắn được kiền thành lễ xá-lợi mấy tuần, lại còn đọc Dục Vương Sơn Chí nên biết cặn kẽ.

 

  1. Tuyên cáo thành lập Phật Giáo Cư Sĩ Lâm ở khu Kim Sa thuộc Nam Thông

      Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Thánh nhân Nho giáo chú trọng nhân quả, [điều này] được thấy trong kinh truyện nhiều khôn xiết kể. Khổng Tử khen ngợi Châu Dịch vừa mở đầu liền nói: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện ắt niềm vui có thừa, nhà tích điều bất thiện, ắt tai ương có thừa). Cần biết rằng: Đã có “dư khánh, dư ương” ảnh hưởng đến con cháu thì sự vui hay tai ương nơi kẻ gây tạo càng lớn hơn nữa! Nhưng sự vui hay tai ương nơi người gây tạo ấy cố nhiên chẳng thể chuyên luận trong đời hiện tại, ắt phải luận đến cả đời kế tiếp, đời sau thì mới viên mãn, châu đáo. Từ ngay câu nói này để suy xét tấm lòng của thánh nhân thì sự lý nhân quả ba đời, luân hồi trong lục đạo đã được tỏ lộ rõ ràng vượt ngoài lời nói.

Cơ Tử trần thuật Hồng Phạm, cuối thiên sách bèn nói: “Hưởng dụng Ngũ Phước, oai dụng Lục Cực” (Thuận theo thiên lý sẽ hưởng năm điều phước, hễ trái nghịch sẽ bị sáu điều cực nhọc). Lời nói về Ngũ Phước, Lục Cực ấy đã bao hàm sâu xa ý nghĩa nhân quả ba đời. Ấy chính là bậc thánh vương cai trị bằng đức độ, giáo hóa dân, mong họ sẽ thuận theo Ngũ Phước, sợ hãi Lục Cực, tu đức, lập mạng, hướng lành, lánh xui. Những nhà Nho trong cõi đời chẳng suy xét, quy hết [Ngũ Phước, Lục Cực] về sự thưởng phạt trong sự cai trị của nhà vua. Chẳng những họ đã vu báng sâu xa sự cai trị của nhà vua mà còn mâu thuẫn với sự lý. Tống Nho trộm lấy ý nghĩa huyền áo trong kinh Phật để nêu tỏ những ý nghĩa trong Nho giáo, sợ ai nấy sẽ đều học Phật đến nỗi Nho môn bị ghẻ lạnh bèn “một đao chặt rời” pháp căn bản để “trị mình, trị người, trị nước, trị thiên hạ ngõ hầu khắp mọi chúng sanh đều được siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử” của đức Phật đã nói, khiến cho hết thảy mọi người không còn mong mỏi thuận theo [thiên lý] hay kiêng sợ nữa, cho rằng nhân quả báo ứng chính là do đức Phật bày ra để gạt gẫm bọn ngu phu, ngu phụ tuân phụng giáo pháp của Ngài, chứ thật ra chẳng hề có chuyện ấy. Con người chết đi, hình hài đã hư nát, thần hồn cũng phiêu tán, dẫu có chém – chặt – xay – giã sẽ thi thố vào đâu? Thần hồn đã phiêu tán rồi thì còn ai để thọ sanh nữa đây?

Do bởi lẽ đó, nhà Nho đối với nhân quả, luân hồi đều chẳng dám nhắc tới, chỉ ỷ vào chánh tâm thành ý để duy trì thế đạo nhân tâm. Đã không có nhân quả luân hồi, hễ chết là hết thì chánh tâm thành ý có ích gì đâu? Không chánh tâm thành ý có bị tổn hại gì đâu? Từ đấy, thiện chẳng có gì để khuyên, ác chẳng có gì để trừng phạt, đến nỗi hùa nhau đề xướng tham dục, khen thưởng ác hạnh, chẳng lấy đó làm thẹn, lại ngược ngạo coi đó là vinh, đều là vì những lời lẽ đả phá bài xích nhân quả luân hồi ươm thành, đạo làm người gần như chấm dứt! Do vậy, những vị có lòng lo cho thế đạo nhân tâm hùa nhau đứng lên cứu vãn. Cư Sĩ Lâm, Tịnh Nghiệp Xã v.v… được kiến lập khắp nơi, đề xướng nhân quả, luân hồi và pháp môn Tịnh Độ để vượt thoát nhân quả luân hồi, ắt phải “do bởi đất mà té thì phải do từ đất mà đứng dậy”.

Kim Sa Cư Sĩ Lâm đã được thành lập, sẽ một vai gánh vác danh nghĩa, thực chất, sự nghiệp của hàng cư sĩ thì không lâu sau sẽ đích thân thấy cõi đời trở lại thuở Đường Ngu, con người mong trở thành thánh, thành hiền. Nói tới cái danh nghĩa “cư sĩ” thì [cư sĩ] chính là những vị sống tại gia tu đạo. Nói tới thực chất thì chính là giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tu hành điều lành trong thế gian để lập nền tảng, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, nguyện cho khắp mình lẫn người đều cùng liễu sanh tử. Người làm được như thế thì mới chẳng phụ cái danh là Cư Sĩ. “Sự nghiệp” chính là dùng thân để làm gương, hoằng dương sự giáo hóa của đức Phật, chỉ lấy “tự lợi, lợi tha, tự lập, lập người” làm chí hướng, sự nghiệp. Đối với hư danh, lợi lộc phù phiếm đều xem nhẹ, chẳng hề bận lòng; đối với luân lý, thanh quy quyết chẳng vi phạm, khiến cho người thấy kẻ nghe đều sanh lòng ngưỡng mộ. Đấy gọi là “dùng lời lẽ để dạy thì bị tranh cãi, dùng thân để dạy thì người ta thuận theo”.

Chuyện thế gian hay xuất thế gian, không một chuyện nào chẳng lấy thân làm gốc. Nếu gốc chẳng lập, dẫu có làm gì đi nữa thì cũng chỉ là chuyện phô trương bề ngoài mà thôi! Đã không chân tu ắt sẽ chuốc lấy sự khinh thường từ bên ngoài, lại còn ngược ngạo tạo bằng cớ cho kẻ tà kiến hủy báng Phật pháp. Tự lợi lẫn lợi tha đều mất thì đại sự sanh tử làm sao liễu được? Nếu là những lâm hữu tham dự Cư Sĩ Lâm, ai nấy hãy nên phát tâm kim cang kiên cố, thề làm chuyện lợi ích cho mình lẫn người, trọn hết luân thường học Nho, tận tánh học Phật, noi dấu bậc tiên giác trong quá khứ, chẳng chịu thua kém chút nào. Đấy gọi là đệ tử thật sự của đức Phật, là bậc đại trượng phu thật sự. Có như vậy thì danh nghĩa, thực chất, sự nghiệp của bậc cư sĩ mới có thể rạng rỡ ngay trong cõi đời này, để lại tiếng thơm cho con cháu vậy! (Đầu Đông năm Giáp Tuất – 1934)

 

IV. Kệ tụng, tán dương, đề từ

 

  1. Kệ viết trên bức tranh vẽ tháp tàng kinh Linh Nham của Phí Pha Long ở Ngô Giang

      Cao ngất trên đỉnh núi, dựng bảo tháp vòi vọi, trong tháp chứa tượng Phật, và các thứ kinh sách. Kinh Phật đặt trong tháp, thường phóng đại bi quang, tuy phàm phu chẳng thấy, cũng ngầm được lợi ích. Ví như nắng Xuân chiếu, muôn cây cỏ đều sanh, do nhân duyên thù thắng, gieo thành Phật thiện căn, đến khi cơ duyên chín, tinh tấn tu tịnh hạnh, khôi phục được Phật tánh, vốn sẵn trong tự tâm, thành ngay đạo Bồ Đề. Cổ nhân dựng tháp này, muốn nối sâu chí Phật. Tháp lâu ngày đổ nát, kinh Phật bèn lộ ra. Cư sĩ Phí Pha Long, thâu nhặt chừng đó quyển, tu bổ, tặng Linh Nham, cũng tặng những thân hữu. Rồi vẽ cảnh Linh Sơn, làm kỷ niệm mai sau. Tưởng nghĩ Phật từ bi, khiến hàm thức được thấy, sự thật khó nghĩ suy!

Sợ nghe chẳng tin nhận, nên dùng chuyện thông thường, nhằm tỏ lợi thù thắng: Đời có rắn cực độc, cùng chó dại thật dữ, nếu cắn xé quần áo, người ấy ắt phải chết. Hoặc lại cắn bóng người, hoặc trừng mắt nhìn người, người ấy cũng chết ngay, do độc nghiệp nặng nề. Ác nghiệp của chúng sanh, thế lực còn như thế. Huống là Phật từ bi, hơn thiên địa, cha mẹ! Hễ vừa được thấy nghe, liền được lợi khó tưởng. Nếu nghĩ sâu nghĩa này, ắt đau lòng khóc mãi. Nguyện khắp hết mọi người, cảm Phật đại từ bi, hãy như cứu đầu cháy, niệm Phật cầu nhiếp thọ.

Thấy chuyện Phật giáo hóa, và thấy các chúng sanh, đều tưởng như thấy Phật, chẳng dám sanh khinh rẻ, công đức thù thắng ấy, hồi hướng sanh Tây Phương, quyết đến lúc lâm chung, được chính Phật tiếp dẫn, dùng ngay những điều này, để cầu siêu cha mẹ, đấy là hiếu chân thật. Vì thế, kinh Phạm Võng, dạy hiếu thuận phụ mẫu. Tận pháp giới phàm – thánh, đều khiến được thành Phật, hòng trọn hết luân thường, chẳng thẹn là Phật tử. Ông Phí muốn cầu siêu, cho cha mẹ của mình, bức vẽ xin đề kệ, do vậy suy nguyên ý, viết kệ để khích lệ (Cuối Thu năm Canh Thìn – 1940)

 

  1. Kệ hồi hướng chung cho các thiện tín đã đóng góp tài lực lưu thông, xoay vần truyền bá, xem đọc bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ

Tam giới hết thảy pháp, chỉ do một tâm tạo. Thuận đạo thì tốt lành, nghịch lý ắt hung ác. Lành thay người hiền xưa, lòng giống như trời đất, dùng sức tài trí mình, tán trợ quyền sanh thành, luôn muốn làm lợi khắp, cho thiên hạ hậu thế. Bác ái giúp đỡ người, trọn chẳng coi là đức, công to, danh tiếng trỗi, đức lớn, tốt lành tới. Sống hưởng trọn Ngũ Phước, dư khánh truyền hậu duệ. Phong thái ấy hưng khởi, thế giới tự an bình, ai nấy đều lễ, nhượng, đều nghĩ trọn hết tình. Buồn thay lũ tiểu nhân! Chỉ biết có riêng mình, suy nghĩ cùng cư xử, trọn chẳng tuân lẽ trời, hãm người để tự an, tổn người để tự ích, chỉ chuộng lợi trước mắt, nào hay túc phước hao, đến khi nghiệp kết quả, khổ báo vô cùng cực. Uổng bị người thương xót, tội nghiệp làm sao dứt?

Trên từ thuở Đường Ngu, dưới đến cuối đời Minh, các sự tích thiện ác, các sử đều chép rành. Nay thế đạo chìm đắm, người hiểu biết đều lo, bạn tôi Nhiếp Vân Đài, lập cách để cứu vớt, riêng thỉnh Hứa Chỉ Tịnh, soạn Cảm Ứng Thống Kỷ, ấn loát rộng lưu thông, mong ai nấy sẽ tự, học theo cùng răn giữ. May được các thiện sĩ, bỏ tiền hơn vạn đồng, kính in hai vạn bộ, nhằm kết khắp thiện duyên. Dùng khoản tiền còn dư, in riêng bản giấy báo, chữ nhỏ, giá rẻ hơn, cho vừa sức thanh niên. Bản này in bốn vạn, lưu truyền khắp xa gần. Phàm những ai thấy nghe, không ai chẳng hoan hỷ. Sau hai lượt xuất bản, Chỉ Tịnh lại giảo duyệt, tăng thêm, sửa đôi chút, thân thiết hơn bản trước. Cư sĩ Lý Kỳ Khanh, nguyện bỏ tiền khắc in. Bản mẫu thỉnh thợ khéo, mong vĩnh viễn lưu truyền. Tôi cũng cho tái bản, hai loại sách kể trên, thêm lời tựa “Tăng Tu”, để mong lưu truyền mãi.

Sự lý của nhân quả, đã hiển lộ rạng ngời. Người tâm lo thế đạo, có cái để thi thố. Nguyện khắp ai thấy nghe, lập cách lưu truyền rộng, ngõ hầu dứt cạnh tranh, tiến thẳng đến đại đồng. Nguyện người phát khởi ấy, cũng như vị biên tập, các thiện sĩ giúp in, người xem bắt chước theo, hiện tại cùng vị lai, hết thảy các thiện nhân, cùng tiêu các ác nghiệp, cùng tăng thắng thiện căn, sống sẽ hưởng Ngũ Phước, mất thì lên chín phẩm, tiên vong sanh Tịnh Độ, hậu duệ làm chuẩn mực, cho khắp cả cõi đời, vật giàu, dân khỏe mạnh, khiến cho người bốn phương, đều ngưỡng mộ nước ta (Ngày lành tháng Sáu nhuận, năm Canh Ngọ, tức năm Dân Quốc 19 – 1930)

 

  1. Kệ hồi hướng kính vì các thiện tín đã thí tiền bạc và xoay vần truyền bá, xem đọc Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

      Cao cả Quán Thế Âm! Thệ nguyện khó nghĩ bàn, thành Chánh Giác đã lâu, lại hiện thân Bồ Tát, theo từng loại hiện hình, tầm thanh hòng cứu khổ. Đáng tiếc người thế gian, phần nhiều đều chẳng biết, đặc biệt soạn sách này, mong được lưu truyền rộng. May được các thiện tín, đứng in tới mấy vạn. Từ đây lần lượt biết, lại tiếp tục in thêm, đến số mấy chục vạn, an ủi lòng Bồ Tát. Lại được khắc in khắp, truyền rộng trong ngoài nước, để biết Quán Thế Âm, đấng hết thảy nương tựa.

Ví như ngọn đuốc lớn, chiếu khắp trong đường tối. Ví như đại thiết luân, độ khắp kẻ chìm đắm, đạo sư cho kẻ mù, thuốc men cho người bệnh, thành quách lánh giặc cướp, gạo thóc thuở đói kém. Cần biết ân Bồ Tát, hơn đất chở trời che, dẫu trọn kiếp tuyên dương, cũng chỉ nêu chút phần! Nguyện những vị đứng in, nghiệp chướng đều tiêu diệt, phước huệ đều tăng trưởng, mọi việc đều như ý. Sống thì hưởng Ngũ Phước, mất lên ngay chín phẩm. Các tổ tông quá khứ, nhờ đây sanh Tịnh Độ. Cha mẹ trong hiện tại, đều được hưởng thọ khang. Tất cả bọn cháu con, đều rạng rỡ tiếng nhà. Mùa màng thường sung túc, giặc cướp thảy đổi lòng, nhà nhà sùng từ thiện, chốn chốn hành nghĩa nhân. Nhờ đây thói bạc ác, chuyển thành nếp thuần phác. Pháp giới các hữu tình, đều được viên Chủng Trí (Mùa Xuân năm Bính Dần, tức năm Dân Quốc 15 – 1926)

 

  1. Kệ hồi hướng cho khắp những vị giúp in, đọc tụng, thọ trì, xoay vần lưu thông các bản kinh Phật

      Nguyện do công đức này, tiêu trừ túc hiện nghiệp, tăng trưởng các phước huệ, viên thành thắng thiện căn, tất cả kiếp đao binh, các nạn như đói kém, thảy đều tiêu trừ sạch, ai nấy tập lễ, nhượng. Hết thảy người giúp in, hoặc xoay vần lưu truyền, quyến thuộc đều yên vui, người đã khuất siêu thăng, mưa gió thường đúng thuận, nhân dân đều khang ninh, pháp giới các hàm thức, đồng chứng đạo Vô Thượng.

 

  1. Kệ hồi hướng cho khắp những vị thiện tín bỏ tiền [ấn tống], lưu truyền, thấy nghe, thọ trì, xoay vần lưu thông bản nghiên cứu Người Học Phật Có Nên Ăn Thịt Hay Không?

      Sát kiếp thời gần đây, từ xưa chưa từng có! Suy tìm đến cội nguồn, quả thực do tham ăn. Riêng lưu truyền sách này, muốn nhờ đây cứu vãn, nguyện khắp người thấy nghe, đều kiêng thịt, ăn chay. Ăn chay rất vệ sinh, chẳng hại mạng con vật, khiến lòng ta nhân từ, trên kế thừa vãng thánh. Sát nghiệp đã chẳng kết, thế đạo tự thái bình. Chỉ pháp cứu vật này, lợi quần manh mãi mãi. Các vị do công đức, vãng sanh Phật tịnh độ, thấy Phật, chứng Vô Sanh, trở thành bậc nương tựa, cho khắp cả lục đạo.

 

  1. Kệ đề trên vách quan phòng chùa Báo Quốc ở Tô Châu(năm Dân Quốc 24 – 1935)

      Sống uổng bảy mươi năm, tháng ngày chẳng còn mấy, như tù dẫn ra chợ, mỗi bước gần cái chết, tạ tuyệt hết thảy sự, để chuyên tu Tịnh Độ, nếu hiểu lòng ngu thành, mới là chân liên hữu.

 

  1. Kệ hồi hướng lễ niệm Quán Âm Bồ Tát

      Kính lạy Quán Thế Âm, từ bi đại đạo sư, chứng vô thượng đã lâu, an trụ Thường Tịch Quang. Vì thương chúng sanh khổ, lại hiện thân mười cõi, nên dùng thân nào độ, liền hiện ngay thân ấy. Gần là sanh đường lành, xa là chứng Bồ Đề. Bồ Tát từ bi lực, chư Phật thuật chẳng trọn. Đệ tử con tên là… từ vô thủy đến nay, do bởi sức ác nghiệp, luân hồi trong sáu nẻo, trải qua trần sát kiếp, không cách nào thoát lìa, may nhờ túc thiện căn, được nghe tên Bồ Tát, muốn nương sức từ bi, đời này sanh Tịnh Độ. Xưng thánh hiệu dài lâu, kiêm lễ bái, cúng dường, sám hối các ác nghiệp, tăng trưởng các thiện căn. Nguyện rủ lòng từ mẫn, tiêu diệt các tội chướng, phóng quang chiếu thân con, duỗi tay xoa đầu con, cam lộ rưới đỉnh con, gột phiền cấu tâm con, khiến cho thân tâm con, đều được thanh tịnh cả. Con nguyện hết thân này, đến tận kiếp vị lai, nguyện bảo khắp chúng sanh, ân đức của Bồ Tát, khiến họ đều quy y, đều phát tâm Bồ Đề. Nguyện rủ lòng từ mẫn, chứng minh và nhiếp thọ.

 

  1. Đề từ cho tác phẩm Ngọc Trụ Đại Sư Tâm Tích Tụng

      Ngọc Trụ đại sư là đồng học của Quang vào năm mươi năm trước. Sư tánh tình chất trực, khiêm hòa, tu trì thiết thực, chân thành, nghiêm túc, chẳng làm trụ trì, chẳng thâu đồ chúng giống như Quang. Sư chú trọng trì Luật và niệm Phật, nên vào tuổi già thường khắc in nhiều trước tác của Luật Tông. Ấy là vì muốn tạo nền tảng vững vàng ngõ hầu những kẻ thông sáng trong đời sau đều cùng sanh Cực Lạc. May mắn thay, Sư đã về An Dưỡng, thẹn cho Quang vẫn bị ràng buộc trong cõi đời này, nguyện Sư cầu Phật rủ lòng tiếp dẫn, ngõ hầu cùng được theo học với Như Lai.

 

  1. Hoa Nghiêm Kinh Cảm Ứng Tụng

      Một bộ kinh Hoa Nghiêm, là vua trong các kinh, chỗ quy tông cuối cùng, hướng dẫn sanh Tây Phương. Không cơ nào chẳng độ, không pháp nào chẳng nhiếp. Dẫu có muốn tán dương, hết kiếp vẫn chẳng trọn. Nếu chẳng có túc căn, tên kinh chẳng được nghe, huống là được biên chép, thọ trì siêng ròng ư? Nghĩa lý của kinh này, chẳng thể nghĩ bàn được. Quả báo cùng công đức, cũng lại giống như thế. Ấn loát vừa xong xuôi, Hồi Lộc[22] đã đến cửa, vượt lệ giao trong đêm, người vừa đi, tiệm cháy. Chép rồi, đóng bìa xong, chợt gặp phải đại kiếp, cả nhà phải trốn xa, mọi vật đều bị cướp, chỉ riêng bộ kinh này, trọn chẳng bị thương tổn. Trở về vừa trông thấy, khôn ngăn nỗi mừng vui. Kiếp vốn thuộc cộng nghiệp, lòng Thành thuộc biệt nghiệp. Do lòng Thành cảm vời, nên Ứng cũng đặc biệt. Nghĩa lớn lao trong kinh, đã nêu trong lời tựa, nay soạn bài tụng này, tỏ lòng thành, linh ứng. Nguyện những người thấy nghe, ai nấy chăm tu trì, để mong hết tuổi thọ, sẽ dự hội Liên Trì.

      Ấn Quang pháp sư lại vì cư sĩ Tung Kiều soạn thêm bài Tả Kinh Linh Cảm Tụng (ca tụng sự linh cảm do chép kinh), gởi thư dặn dò phải đem những sự thực về mấy lần nguy hiểm được bình an không tai nạn để viết mấy câu giải thích sau bài kệ, ngõ hầu người đọc đều cùng sanh tín tâm. Theo cư sĩ [Tung Kiều], cư sĩ chép kinh [Hoa Nghiêm] xong, giao cho xưởng in Văn Tân in ra. In lần đầu một ngàn trang, in xong vào bảy giờ tối ngày nọ. Nhà in có lệ hễ sau sáu giờ sẽ không giao hàng hóa ra ngoài. Lần này chợt phá lệ, giao đến nhà cư sĩ. Vừa mới chở đến cửa thì xưởng Văn Tân bị chập điện cháy rụi. Ấy là do [thiện căn] đặc biệt xui khiến như vậy, chứ nếu không thì  sao lại bảo giao ra ngoài để rồi có sự xảo hợp như thế?

Ngày Mười Ba tháng Ba năm Giáp Tuất (1934), trời đã hoàng hôn, hàng xóm ở nơi cư ngụ của cư sĩ thiếu cẩn thận [gây cháy nhà], chỉ cách một bức tường vây, tình thế nguy ngập sắp giáng xuống [nhà cư sĩ]. Cư sĩ chép kinh, tâm trí chẳng để ý chuyện bên ngoài, rốt cuộc tai không nghe thấy gì, đến khi người nhà kinh hoàng lôi cư sĩ tránh đi thì vẫn còn hai hàng viết chưa xong. Do từ khi chép kinh đến nay, đối với mỗi một trang chưa hề bỏ dở giữa chừng; [cư sĩ] chẳng muốn dễ dãi phá lệ ấy, nên vẫn ngồi yên chép cho xong. Đến khi chép xong, thế lửa đã suy, rốt cuộc bình yên không sao cả. Chuyện này lại dường như ngầm được thần che chở vậy.

      Mùa Xuân năm Bính Tý (1936) chép kinh viên mãn, giao cho Tích Cổ Trai tại Thang Gia Cảng đóng thành sách. Đóng xong, giao trả về. Ngày hôm sau, tiệm bán giấy Cao Vạn Phong ở ngay trước cửa bị hỏa hoạn. Đã thoát khỏi tai ương, lại còn không bị một giọt nước nào làm ố trang kinh. Giống như khi đánh nhau, người đời hay nói: “Đạn bắn trúng người quả thật có mắt”. Nếu không có thần linh che chở, làm sao được như thế?

      Mùa Thu năm Đinh Sửu (1937), Ngô Môn thất thủ, bị vây hãm, kiếp nạn lớn lao xảy ra, cả nhà cư sĩ phải tỵ nạn nơi xa. Tất cả đồ đạc đều bị cướp phá sạch bách, chỉ riêng kinh còn nguyên, chẳng bị tổn hoại mảy may. Cứ tưởng nhà cửa sẽ bị phá hủy tan hoang, may nhờ vào kinh này mà được thoát nạn. Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, nên rốt cuộc có chứng cớ rõ ràng như vậy. Người đời phần nhiều chẳng tin, ngược ngạo sanh lòng hủy báng, quả thật là những kẻ được đức Như Lai gọi là “phường đáng thương xót”. Vì thế, lão nhân nói: “Nguyện những ai thấy nghe, ai nấy chăm tu trì, để mong hết tuổi thọ, sẽ dự hội Liên Trì”. Quả thật là lời khẩn thiết mổ tim vẩy máu, cầu cho khắp mọi người trong cõi đời đều cùng gắng sức.

Một ngày mùa Thu năm Mậu Dần (1938), vâng theo mạng lệnh của Ấn lão pháp sư, Đức Sâm viết thay.

 

  1. Tiêu Sơn Cát Đường Thượng Nhân Vãng Sanh Tụng

      Lớn thay môn Tịnh Độ! Quy túc của các pháp, thích hợp mọi căn cơ, không căn nào chẳng gồm. Trên thì nhiếp Đẳng Giác, dưới chẳng sót ác nghịch. Muôn dòng đổ vào biển, do Phật đại nguyện lực. Sư Cát Đường cao cả, đời trước trồng huệ căn, đã nổi bật từ nhỏ, xuất gia vượt trần tục. Từ đấy Luật – Giáo – Tông, ý chỉ đều thấu hiểu. Muốn liễu ngay đời này, liền chuyên tu Tịnh Độ, đặc biệt phát ba tâm, mong tòa sen thượng phẩm. Tuổi thọ mới năm tư, tịnh nghiệp đã viên thành, biết trước lúc vãng sanh, bảo chúng niệm Phật tiễn. Sư vẫn niệm rõ ràng, đột nhiên nhập tịch định. Đồ chúng muốn truyền dương, cậy tôi thuật đại lược. Nguyện những kẻ thấy nghe, ai nấy đều chú ý.

 

  1. Bài tụng tặng cho các thiện tín thuộc Phật Quang Xã

     Tam Quy, Ngũ Giới, Lục Trai nhật, cho kẻ sơ cơ để nhập môn. Nếu nguyện hoa khai tự thấy Phật, chuyên tu Tịnh hạnh, gieo căn sâu.

 

  1. Bài tụng tặng cho đại hội xã hữu của Phật Quang Xã

      Đức Phật giơ cành hoa, ngài Ca Diếp mỉm cười, đạo vốn ở nơi tâm, không áo diệu chi khác. Người cùng một tâm này, tâm cùng một lý này. Đạo tâm thật nhỏ nhiệm, tuy nhỏ, thật ra một! Trong đời người có dục, dục do nơi cảnh sanh. Nếu tiền cảnh chẳng có, niệm cũng chẳng khởi được! Nếu các dục lăng xăng, đạo tâm bị lấp mất. Lấp mất, gọi là mê. Giác chính là chẳng mê. Mê gọi là vô minh, vô minh gọi là si. Tâm tham với tâm sân, đều sanh từ nơi đó. Do Hoặc mà tạo nghiệp, đấy gọi là “ác nhân”. Đã gieo cái nhân ác, quả khổ sẽ sanh theo.

Phật thương bọn chúng sanh, phát lòng Từ vô duyên, nói ra Giới – Định -Huệ, để trị tham – sân – si. Nhân Giới sẽ sanh Định, nhân Định bèn phát Huệ. Huệ chính là Bát Nhã, soi toạc màn vô minh. Giống như gươm trảm yêu, như đèn trong nhà tối, từ khổ thoát ra vui, từ phàm bèn nhập thánh, không gì chẳng do đây, cùng lên đạo Đại Thừa. Chỉ nương vào Bát Nhã, chính là Ba La Mật. Tâm Kinh và Kim Cang, đều giảng rõ nghĩa này. Hành Tâm Kinh sâu xa, là đức Quán Tự Tại. Hiểu tâm thấy rõ tánh, Ngũ Uẩn còn đâu nữa? Đấy ước về Lý tu, công phu ở nơi hiểu. Còn bộ kinh Kim Cang, nói toạc khắp bốn tướng. Chân lý đã hiển lộ, bốn tướng đều là vọng. Biên chép cùng đọc tụng, và giảng nói cho người, trong kinh thường tán thán, phước đức sẽ vô lượng. Đây bởi do lẽ nào? Tự giác, giác tha vậy. Lần lượt làm lợi nhau, trọn chẳng có hạn lượng. Đấy chính là sự tu, công nằm ngay nơi hạnh. Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba không sai biệt, đạo đồng, tâm cũng đồng. Vì thế không sai biệt. Vũ, Tắc và Nhan Tử, đổi chỗ cũng như thế[23]. Đạo đồng, tâm cũng đồng, cho nên đều như vậy. Nếu không có chúng sanh, Phật pháp cũng chẳng lập. Nếu chẳng hề lợi người, thì làm sao tự lợi?

      Nhan Tử suốt ba tháng, chẳng trái nghịch lòng nhân. Vũ, Tắc vốn vì vậy, cứu người đói, chìm đắm. Trong mỗi một chúng sanh, đều sẵn có Phật tánh, kẻ Thập Ác mười niệm, được sanh về Tịnh Độ, khắp đại thiên thế giới, đều cùng một cái tâm, “do tâm này thành Phật”, để làm thành căn cứ, quang minh lẫn thọ mạng, đều cùng là vô lượng, một pháp hội Linh Sơn, đến nay vẫn chưa tan.

 

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên

Quyển 3

(Phần 6 hết)

 

[1] Theo Nho gia, Đại Đồng là một thế giới toàn hảo, trong đó con người không có lòng vật dục riêng tư. Khái niệm này bắt nguồn từ thiên Lễ Vận sách Lễ Ký. Theo đó, Khổng Tử do có việc phải sang Lạp Tân, xong việc, đi du ngoạn, chợt thở dài vì cảm thán cho tình hình nước Lỗ. Ngôn Yển bèn hỏi nguyên cớ, Khổng Tử đáp: “Đại đạo được thực hành bởi ba vị thánh quân anh minh thời Tam Đại, Khâu tôi chưa đạt đến, nhưng sẵn chí mong mỏi. Hễ đại đạo được lưu hành thì thiên hạ đều là của chung. Chọn lựa người hiền, cử người tài năng, thành tín, hòa thuận. Cho nên con người chẳng chỉ lo phụng dưỡng cha mẹ của chính mình, chẳng lo nuôi dạy con cái của riêng mình, mà ắt sẽ khiến cho người già được chết an lành, kẻ trẻ khỏe được sử dụng đúng tài năng, trẻ thơ được trưởng thành, cứu giúp người góa bụa, những kẻ mồ côi, lẻ loi, tàn tật đều được giúp đỡ. Nam tròn bổn phận, nữ có nơi nương tựa. Vật dụng không bị vứt bỏ trên đất, nhưng chẳng giấu diếm cho riêng mình. Chẳng ngại ngần ra sức làm lụng, nhưng chẳng cậy công. Vì thế, những mưu mẹo bị ngăn chặn, không thể dấy lên được, trộm cắp, loạn tặc chẳng thể xảy ra. Do vậy, cổng ngõ chẳng cần phải đóng. Đó gọi là Đại Đồng”.

[2] Luân Bảo (Cakra-ratna) là bánh xe bằng chất báu, chính là một trong bảy món báu của Chuyển Luân Thánh Vương (Cakravarti-rāja) được cảm thụ bởi sức phước báo của vua, giúp vua có thể đi tới khắp mọi nơi, không ai ngăn trở được. Luân bảo có bốn loại vàng, bạc, đồng, sắt, riêng luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương (Kim Luân Vương) có đến một ngàn căm. Chuyển Luân Thánh Vương dùng luân bảo ấy để bay đi khắp mọi nơi, chinh phục khắp bốn đại châu.

[3] Hoa đèn là phần bấc (tim) đèn cháy còn sót lại có hình từa tựa như cái hoa nên gọi là hoa đèn. Cổ nhân thường cho rằng khi thắp đèn mà bấc đèn cháy để lại hoa đèn sẽ có điềm lành.

[4] Nguyên văn “kiêu kính chi hành vi”. Kiêu (梟) là loài cú vọ, thường được dùng để sánh ví cho sự tham lam tàn nhẫn. Kính (獍) là một loài thú theo truyền thuyết vừa lọt lòng liền ăn thịt mẹ, nên những đứa con bạc ác bất hiếu thường bị gọi là “kính nhi” (獍 兒).

[5] Theo kinh Vô Lượng Thọ (bản dịch của ngài Khang Tăng Khải đời Ngụy), đức Phật A Di Đà ngoài danh hiệu Vô Lượng Thọ, còn có mười hai danh hiệu như sau: 1) Vô Lượng Quang Phật 2) Vô Biên Quang Phật 3) Vô Ngại Quang Phật 4) Vô Ðối Quang Phật 5) Viêm Vương Quang Phật 6) Thanh Tịnh Quang Phật 7) Hoan Hỷ Quang Phật 8) Trí Tuệ Quang Phật 9) Bất Ðoạn Quang Phật 10) Nan Tư Quang Phật 11) Vô Xứng Quang Phật 12) Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật.

[6] Năm đói kém, thiên tai dữ dội.

[7] Vân Ô: tức Vân Thê và núi Ô Long. Vân Thê là đạo tràng Tịnh Độ của Liên Trì đại sư (Bát Tổ của Tịnh Tông), Ô Long là đạo tràng Tịnh Độ của Thiếu Khang đại sư (Ngũ Tổ Tịnh Độ Tông).

[8] “Bố kim vô địa”: Bố Kim (trải vàng) là điển tích trưởng giả Cấp Cô Độc đem vàng trải lên mặt đất để mua lại khu vườn của thái tử Kỳ Đà (Jeta) nhằm dựng tinh xá cúng dường đức Phật. Do vậy, “bố kim” thường dùng để chỉ hành động cúng dường rộng rãi của tín đồ. Từ ngữ “bố kim vô địa” ở đây chỉ được dùng với ý nghĩa sư Ích Châu không có đạo tràng hoặc không có tài sản để duy trì một đạo tràng nhằm tu tập theo đường lối do Sư đề xướng.

[9] Khu Ô (đuổi quạ) là danh từ thường dùng để chỉ hàng Sa-di, từ bảy đến mười ba tuổi. Do còn bé quá, không làm được gì, chỉ được cắt cử đuổi quạ hay chim chóc đến ăn thóc lúa của chư Tăng phơi phóng. Ở đây dùng với hàm ý khiêm tốn: Diệu Liên chẳng có tài năng gì ra hồn!

[10] Nguyên văn “cưỡng bão”, ta thường dịch là cái địu, tức là một tấm vải có gắn dây buộc ở bốn phía, người Trung Hoa thường dùng để buộc con vào sau lưng trong khi người mẹ làm việc. “Thôi địu” nghĩa là trẻ không cần phải địu nữa, thường là khi đã lên hai tuổi, có thể tự đi lại được, không cần phải ẵm.

[11] Tuyền Đà La Ni là một trong ba môn Đà La Ni được nói đến trong phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát của kinh Pháp Hoa, hàm nghĩa: Xoay chuyển cái tâm phàm phu chấp trước vào tướng Có của các pháp để thấu đạt được trí lực nơi lý Không. Đây là kết quả của Không Quán.

[12] Phán thích: Phán định, giải thích một kinh thuộc thời nào trong Ngũ Thời, thuộc giáo nào trong Ngũ Giáo. Nói cách khác, phán thích là vận dụng lập luận nhằm giải thích, biện minh cho sự phân loại, hệ thống hóa kinh điển đã được đức Phật giảng dạy trong suốt một đời.

[13] Ngài Trí Giả đã đem Phật chia thành sáu địa vị (tức sáu mức độ chứng đắc) gọi là Lục Tức Phật, nghĩa là:

1) Lý Tức Phật (còn gọi là Tác Lý Phật) chỉ hết thảy chúng sanh. Do hết thảy chúng sanh đều sẵn có Phật tánh, chẳng hai, chẳng khác gì với hết thảy chúng sanh nên xét về Lý thì chúng sanh đều là Phật. Do vậy gọi là Lý Tức Phật.

2) Danh Tự Tức Phật (còn gọi là Danh Tự Phật): Nghe thiện tri thức giảng nói, hoặc do đọc kinh điển liền hiểu rõ “Lý Tánh chính là tên gọi khác của Phật”. Những người này thông đạt hiểu rõ về mặt danh tự “các pháp đều là Phật pháp”, tức là nhận thức và “chứng đắc” Phật quả chỉ qua sự hiểu biết danh tự nên gọi là Danh Tự Tức Phật.

3) Quán Hạnh Tức Phật: Đã hiểu rõ hết thảy pháp đều là Phật pháp, y giáo tu hành để đạt đến mức hiểu rõ tâm, lý huệ tương ứng, lời nói phù hợp với việc làm và sự tu tập nên gọi là Quán Hạnh Tức Phật. Nếu hiểu chi tiết hơn thì từ địa vị này lại chia làm năm phẩm, tức Tùy Hỷ Phẩm, Độc Tụng Phẩm, Thuyết Pháp Phẩm, Kiêm Hành Lục Độ Phẩm, và Chánh Hành Lục Độ Phẩm.

4) Tương Tự Tức Phật: Bậc đã đạt đến mức lục căn thanh tịnh, đoạn trừ Kiến Hoặc, Tư Hoặc, chế ngự được vô minh.

5) Phần Chứng Tức Phật (còn gọi là Phần Chân Tức Phật): Đoạn vô minh, chứng Trung Đạo nhưng chỉ được một phần, chưa trọn vẹn.

6) Cứu Cánh Tức Phật: Chứng đắc Phật Quả Toàn Giác.

Sáu địa vị này xét về Lý không tách rời Phật Tánh sẵn có trong tự tâm, nên gọi là “tuy sáu mà thường tức”, tùy theo mức độ mê ngộ sâu hay cạn, công phu tu hành sâu hay cạn, mà sự chứng đắc khác biệt nên nói “tuy tức mà thường sáu”.

[14] Phật Lũng là ngọn núi cao nhất ở phía Nam rặng Thiên Thai, chính là nơi ngài Trí Giả trụ tích. Do vậy, đôi khi đại sư còn được gọi là Phật Lũng Thiền Sư. Trong chùa Chân Giác trên ngọn Phật Lũng hiện vẫn còn tháp thờ nhục thân Trí Giả đại sư.

[15] Giới Hiền (Śīlabhadra) sống khoảng thế kỷ thứ 6, hay thứ 7, là một vị Luận Sư nổi tiếng của Đại Thừa Phật Giáo Du Già Hạnh (Duy Thức), trụ trì chùa Na Lan Đà ở tại nước Ma Kiệt Đà, Ấn Độ. Sư thuộc dòng dõi hoàng gia Samatata ở Đông Ấn, hiếu học từ thuở nhỏ, tham học với khắp các bậc minh triết. Khi đến Na Lan Đà, Sư gặp được Hộ Pháp Bồ Tát, nghe ngài giảng pháp, tin tưởng, giác ngộ, bèn theo xuất gia. Năm 30 tuổi, Sư từng viết luận khiến các sư trưởng ngoại đạo khắp cả một giải Nam Ấn Độ phải chịu thua. Sư trụ trì chùa Na Lan Đà rất lâu, chuyên hoằng truyền giáo nghĩa Duy Thức. Sư y cứ các bộ Giải Thâm Mật Kinh, Du Già Sư Địa Luận v.v… chia Phật giáo thành ba thời là Hữu, Không, Trung, lập ra thuyết Ngũ Chủng Tánh. Khi ngài Huyền Trang đến cầu học, Sư đã hơn trăm tuổi. Do đức độ và kiến thức của Sư, đại chúng không kêu trực tiếp pháp danh nữa mà gọi Sư bằng mỹ hiệu Chánh Pháp Tạng. Về nỗi khổ của đại sư Giới Hiền, trong thư trả lời cư sĩ Châu Tụng Nghiêu (Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển 1), Tổ đã cho biết: “Xưa kia, Giới Hiền luận sư ở Tây Vực, đức cao khắp đời, đạo lẫy lừng Tứ Trúc (bốn xứ Thiên Trúc). Do túc nghiệp nên thân mắc ác bệnh, khổ sở cùng cực, chẳng thể chịu đựng nổi, muốn tự tử, chợt thấy ba vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm giáng xuống, bảo: “Ông trong kiếp xa xưa kia, nhiều lần làm quốc vương não hại chúng sanh, đáng lẽ đọa ác đạo từ lâu. Do ông hoằng dương Phật pháp nên phải chịu nỗi đau khổ nhỏ này trong cõi người để tiêu diệt nỗi khổ địa ngục cả kiếp dài lâu. Ông nên gắng chịu đựng, xứ Đại Đường có một vị Tăng tên là Huyền Trang, ba năm nữa sẽ đến đây học pháp”. Giới Hiền luận sư nghe xong, ráng chịu đau sám hối, lâu ngày lành bệnh. Đến ba năm sau, ngài Huyền Trang đến đó, ngài Giới Hiền bảo đệ tử thuật lại tình trạng đau khổ của căn bệnh. Người kể lại nỗi khổ nghẹn ngào, ứa lệ, đủ thấy sự khổ ấy rất lớn”.

[16] “Nhĩ Thuận” là sáu mươi tuổi. Nhĩ Thuận vốn là một thành ngữ phát xuất từ một câu nói của Khổng Tử trong sách Luận Ngữ: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí ư học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mạng, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng sở dục, bất du củ” (Ta dốc chí học tập từ năm mười lăm, đến năm ba mươi tuổi ý chí đã định, bốn mươi tuổi không còn lầm lẫn, năm mươi tuổi hiểu mạng trời, sáu mươi tuổi tai nghe đã thuần, bảy mươi tuổi hành xử thuận theo lòng muốn, không trái vượt quy củ).

[17] Còn gọi là “tùy táng vật” hoặc “bồi táng vật”, tức những thứ thường dùng để chôn theo người chết để người ấy sử dụng trong cõi Âm! Thời cổ, những gia đình quý tộc thường chôn theo người chết rất nhiều vật dụng bằng ngọc, bằng đá và những kim loại quý.

[18] Bà này họ Vương, pháp danh là Thánh Duyên, chồng họ Hà nên được gọi là Hà Thị Vương Thánh Duyên.

[19] Thọ y: Chỉ chung những thứ quần áo, giày vớ may sẵn để mặc cho người chết khi tẩm liệm.

[20] Nam Thiệm Bộ Châu, là cách phiên âm khác của Nam Diêm Phù Đề (Daksina-Jambu-dvīpa), đôi khi còn phiên âm là Diêm Phù Lợi, Thiệm Bộ Đề, Diêm Phù Đề Bệ Ba. Jambu vốn là một loại cây, dưới gốc sanh ra một loại vàng rất quý gọi là Diêm Phù Đàn Kim. Theo phẩm Diêm Phù Đề, quyển 18 kinh Trường A Hàm, châu Nam Diêm Phù Đề phía Nam hẹp, phía Bắc rộng, kích thước chừng bảy ngàn do-tuần. Hình dáng mặt người sống trong châu ấy giống như hình thể của đại châu (tức trên rộng, dưới hẹp). Phía Bắc có ao A Nậu Đạt là nơi phát nguyên sông Hằng, có năm trăm con sông chảy vào biển Đông v.v…

[21] Theo A Dục Vương Tự Sơn Chí, ngài Huệ Đạt tục danh là Lưu Tát Ha, vốn là người xứ Ly Thạch, Tinh Châu, nằm mộng thấy một vị Tăng người Ấn Độ báo cho biết ông ta mắc tội sẽ đọa địa ngục, hãy nên sang Cối Kê đảnh lễ tháp A Dục Vương để sám hối các tội. Họ Lưu tỉnh giấc liền xuất gia, pháp danh là Huệ Đạt, sang Cối Kê tìm tháp. Sư tìm mãi không được, đau lòng, phiền muộn. Một đêm nọ, chợt nghe dưới đất vẳng lên tiếng chuông, ba giờ sau, tháp báu từ dưới đất vọt lên. Tháp ấy chẳng phải bằng vàng, ngọc, đồng, sắt, cũng không phải là bạch ngọc, sắc đỏ đậm ánh tía, điêu khắc cực kỳ tinh xảo. Chính giữa tháp có treo một cái chuông đựng xá-lợi. Do vậy, Huệ Đạt liền dựng tinh xá thờ tháp ấy ngay tại đó, siêng năng tu hành lễ sám. Ngôi chùa ấy về sau trở thành chùa A Dục Vương. Cái tên Quảng Lợi là do Tống Chân Tông sắc tứ, nhưng dân chúng vẫn gọi là A Dục Vương Tự như cũ. Đến thời Minh, Minh Thái Tổ lại đổi tên chùa Quảng Lợi thành Dục Vương Thiền Tự.

[22] Hồi Lộc theo truyền thuyết là tên một vị thần lửa, vốn là tên một viên quan trông nom giữ lửa cho Hoàng Đế vào thời cổ. Do vậy, sau này thường dùng chữ Hồi Lộc để chỉ hỏa tai.

[23] Ý nói: Vua Đại Vũ, Hậu Tắc và Nhan Uyên do địa vị khác nhau nên làm những công hạnh khác nhau, nhưng đều cùng xuất phát từ một đạo tâm. Nhan Uyên giữ lòng nhân, vua Đại Vũ trị thủy cứu dân khỏi nạn lụt. Hậu Tắc lo cấy cày, gieo những giống lúa tốt, giúp dân khỏi đói.

Tin liên quan