Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên
Quyển 3
(Phần 5)
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
- Thư trả lời cư sĩ X…
Người niệm Phật trước hết phải hiểu duyên do của pháp môn Tịnh Độ rồi mới đọc khắp các kinh luận thì [sẽ thấy rõ các kinh luận] đều nhằm nêu tỏ ý nghĩa Tịnh Độ, cũng như sẽ thiết tha tu hạnh Tịnh Độ. Nếu chẳng hiểu duyên do của pháp môn Tịnh Độ thì hễ nghiên cứu kinh giáo đến tột cùng sẽ nghĩ nghĩa lý của kinh giáo ấy là cao sâu, coi nghĩa lý Tịnh Độ là thiển cận đến nỗi đảo ngược vị trí của Chánh Hạnh và Trợ Hạnh, hoặc vứt Tịnh Độ ra sau ót, chỉ gieo được ích lợi sẽ đắc độ trong đời vị lai, quyết khó thể liễu sanh thoát tử, góp mặt cùng các vị thượng thiện nhân ngay trong đời này.
Niệm Phật nếu chẳng hôn trầm sẽ tán loạn, đấy chính là hiện tượng chứng tỏ cái tâm [niệm Phật] hời hợt, hờ hững cho xong việc! Nếu niệm Phật với cái tâm như bị té vào lửa nước, như đang gặp phải giặc cướp mong gấp được cứu giúp thì sẽ tự chẳng có căn bệnh ấy. Hãy nên sắp xếp thời gian, lúc nào sẽ nghiên cứu, lúc nào sẽ trì tụng. Khi nghiên cứu thì chẳng được vượt quá thời gian hạn định, vì nếu không, sẽ cảm thấy nghiên cứu thú vị, sẽ trở thành nghiên cứu suốt ngày, chẳng những gây trở ngại cho niệm Phật, mà còn sợ rằng do dụng tâm quá độ sẽ bị thương tổn. Đấy gọi là: “Ngược ngạo ghét dễ dàng, đơn giản, tìm cầu khó khăn, khéo quá hóa vụng”, thật đáng xót thương!
Trong hiện thời, lòng người bại hoại đến cùng cực, đi lại bên ngoài dẫu không mắc họa cũng rất nguy hiểm. Nếu ông biết được ý này thì tâm niệm Phật sẽ tự thiết tha, tâm nghiên cứu giáo nghĩa sẽ tự nhạt bớt! Vì sao vậy? Vì trong khi hoạn nạn, chẳng thể nào gởi lòng nơi phương diện tri kiến, hiểu nghĩa được! Lại còn thường nên đem những điều này để răn nhắc con cái, con dâu, khiến cho bọn họ ai nấy đều niệm Phật và niệm Quán Âm mỗi ngày. Nếu cả nhà đều sanh lòng kiêng sợ, chí thành niệm Phật và niệm danh hiệu Quán Âm sẽ chẳng đến nỗi mắc họa. Nếu không, muốn vĩnh viễn không gặp tai họa quả thật rất khó thể đạt được! Chuyện dạy dỗ con cái có quan hệ rất lớn. Dạy con gái lại càng khẩn yếu hơn dạy dỗ con trai. Bởi lẽ, nếu con gái hiền thì khi còn ở nhà sẽ khiến cho anh em trai, chị em gái đều nhìn theo bắt chước làm lành; khi xuất giá sẽ giúp chồng dạy con đúng phép tắc, khiến cho chồng lẫn con đều thành hiền thiện. Nếu con gái chẳng được dạy dỗ sẽ gây họa chẳng thể nói trọn hết đâu nhé!
- Thư trả lời cư sĩ Quách Hán Nho
Tam tôn Phật: đức Thích Ca kết Thí Vô Úy Ấn, [tức là] bàn tay phải ngửa lên đặt trong lòng, tay trái úp xuống đặt trên gối trái. Dược Sư Phật và Di Đà Phật tay kết ấn tương tự nhau, nhưng Dược Sư Phật kết Đại Tam Muội Ấn, [tức là] bàn tay phải đặt trên bàn tay trái; còn Di Đà Phật kết Di Đà Ấn, bàn tay trái đặt trên bàn tay phải. Tượng Phật [vẽ trên vải hay giấy] bị nhăn rút (xếp nếp) thì nên dùng bàn ủi [để ủi cho thẳng lại], phía dưới [bàn ủi] lót khăn trải bàn, còn tượng Phật thì đặt trên bàn [dưới tấm khăn trải bàn]. Một người dùng hai tay căng cho tượng thẳng thớm, người kia cầm bàn ủi để ủi. Vàn muôn phần chớ nên dùng khăn trải giường để lót! [Nếu không dùng khăn trải bàn thì] dùng những tờ giấy dài, trải mấy lớp cũng được. Hãy đốt bàn ủi bằng than sạch bỏ thêm hương. Nên chùi mặt bàn ủi cho sạch sẽ, đừng để bàn ủi quá nóng. Nóng quá sẽ làm tượng Phật bị hư hại, chỉ ủi cho thẳng mà thôi!
Hiện thời các nước Tây Dương đang đánh nhau dữ dội, nếu chẳng mau kết thúc, chắc sẽ lan sang nước ta. Các nước trong ngoài mạnh – yếu khác nhau, nhưng đều bị tổn hại giống hệt như nhau; chứ chẳng phải là nước thua trận bị thiệt hại, còn nước thắng được lợi. Xét theo sự thực để luận thì người bị kẻ khác giết cố nhiên đáng thương, nhưng kẻ chuyên giết người càng đáng thương hơn! Đối với kẻ chỉ biết chuyện trước mắt thì kẻ thắng dường như được lợi, chứ nếu nhìn vào đời kế tiếp hay đời sau nữa thì kẻ giết người càng khổ sâu xa hơn người bị hắn giết gấp vạn lần! Tiếc rằng người đời đều chẳng biết [như vậy]!
Thanh Lương Sơn Chí có chép: Vào đời Tùy, ở Đại Châu, Triệu Lương Tướng giàu nứt đố đổ vách, sanh được hai đứa con, trưởng là Doanh, thứ là Mạnh. Doanh mạnh mẽ, còn Mạnh yếu đuối. Ông bố sắp chết, chia gia sản làm hai phần, Mạnh được phần hơn. Cha chết rồi, Doanh cướp sạch gia nghiệp của Mạnh, chỉ để lại cho Mạnh mảnh vườn và căn nhà. Mạnh phải làm thuê để kiếm sống. Không lâu sau Doanh chết đi, đầu thai làm con của Mạnh, có tên là Hoàn. Lại chẳng bao lâu sau, Mạnh chết, đầu thai vào nhà Doanh làm cháu nội của Doanh, tên là Tiên. Hoàn làm đầy tớ trong nhà Doanh. Tiên muốn triều bái Ngũ Đài, sai Hoàn theo hầu. Hoàn biết bác mình cướp sạch tài sản, tính muốn giết Tiên, nay may mắn được dịp thuận tiện; đến chỗ vắng vẻ ở Ngũ Đài, rút con dao đã ngầm giấu, bảo Tiên: “Ông nội mày cướp gia nghiệp của tao khiến cho đời tao khốn cùng. Nay tao giết mày để vơi hận!” Tiên chạy lẹ, Hoàn đuổi theo, chạy vào một am tranh. Một vị lão tăng ngăn lại bảo: “Không được hành hung ở chỗ này!” Hoàn nói: “Tôi giết kẻ oán mà thôi!” Vị lão tăng mời ngồi, đưa cho mỗi người một chén trà để uống, [uống xong] liền biết chuyện đời trước, đều cùng khóc òa lên, bèn xuất gia trong núi ấy. Nếu các nước đều thấy chuyện đời trước, đời sau, há vẫn cứ chuyên coi giết người là chánh sách trọng yếu để làm cho đất nước hùng mạnh nữa ư?
Xét theo ý nghĩa thì nên xây dựng sơn môn (cửa chùa) theo lối Tam Quan, [hàm nghĩa] Tam Giải Thoát Môn, một cửa mà đủ ba nghĩa:
1) Không Giải Thoát môn.
2) Vô Tướng Giải Thoát môn.
3) Vô Nguyện Giải Thoát môn.
Do ba môn giải thoát mà vào thẳng được điện báu Niết Bàn. Do Không nên Vô Tướng. Do Vô Tướng nên Vô Nguyện. Hiểu rõ bản thể của hết thảy các pháp chính là Không thì Không và Có đều chẳng thể gọi tên được, cho nên là Vô Tướng. Hễ Vô Tướng thì chẳng có tâm nguyện chấp Không lẫn chấp Có.
Đề xướng Phật học hãy nên lấy “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành” làm gốc. Được như thế thì đối với pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều chẳng trái nghịch. Nếu không, còn là tội nhân nơi Danh Giáo, làm sao kham học Phật để mong liễu sanh thoát tử ư? “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành” chính là giới đại lược trong Giới Kinh nhà Phật; Văn Xương Âm Chất Văn trích dẫn hai câu này. [Người đời] chỉ biết Âm Chất Văn có lời ấy, chẳng biết xuất xứ của nó sâu xa đến thế.
Học Phật trong đời Mạt thì phải nên chú trọng nơi biết nhân quả và tu Tịnh Độ. Bởi lẽ, biết nhân quả thì chẳng dám dối mình, lừa người, làm chuyện thương thiên hại lý, tổn người lợi mình. Tu Tịnh Độ thì dẫu là phàm phu đầy dẫy triền phược vẫn có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Trong các pháp môn khác đều phải đoạn sạch phiền não rồi mới có thể liễu sanh thoát tử. Nếu không, dẫu cho đại triệt đại ngộ, có đại trí huệ, đại biện tài, biết được quá khứ, vị lai, muốn đi liền đi, muốn tới liền tới vẫn chẳng thể liễu được; huống là kẻ đầy dẫy phiền não ư?
Hôm qua nhận được thư của hội Phật giáo ở quý địa gởi đến bằng đường hàng không, biết đất Cam (Cam Túc) bị hạn hán chẳng khác gì Thiểm Tây, khôn ngăn cảm thương! Quý hội [cầu đảo] đã tròn hai mươi mốt ngày vẫn chưa đổ mưa. Ngụy Huệ Tư do thấy tăng chúng núi Linh Nham đều là hạng chân thật tu hành [liền gởi thư xin mở Phật thất cầu mưa] nhưng tình trạng tai nạn quá dữ dội chỉ đành tận tâm tận lực mà làm thôi, chứ được mưa trọn khắp hay không thì chẳng thể nào lo toan trái nghịch được! Thư của Huệ Tư gởi tới bằng đường hàng không cũng nhận được vào buổi chiều, tôi liền gởi thư cho Linh Nham. Trong hôm Mười Sáu thỉnh hai mươi vị Tăng niệm thánh hiệu Quán Âm suốt bảy ngày, để cầu các nơi bị hạn đều được mưa trút xuống. Theo lệ, để mời hai mươi vị thì phải tốn hai trăm đồng, Quang đã thay mặt quý hội bỏ tiền ra, chẳng cần phải gởi khoản tiền ấy đến nữa!
Quý hội hãy nên thông cáo khắp nhân dân trong vùng cùng niệm thánh hiệu “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, chứ không cần phải làm nhiều nghi thức [rườm rà], chỉ đem công đức niệm Bồ Tát để hồi hướng cho các vị linh hiển, thần thông trong chốn núi non được tăng trưởng oai phước, hồi hướng cho các cô hồn đều được vãng sanh Tây Phương, so ra sẽ hữu ích hơn! Ngay như tế lễ thần thánh cũng đừng dùng đồ huyết nhục. Chuyện gì cũng lấy thành kính làm gốc, chứ không phải là do nghi thức [trịnh trọng] cho đẹp mắt!
- Thư trả lời cư sĩ Dương Chấn Nhân
Cổ nhân nói: “Xử thế nên như tướng quân chống địch, làm người nên như cô gái còn trinh giữ thân. Tướng quân hễ thua trận ba quân đều tan vỡ. Cô gái trinh trắng hễ thất thân thì muôn sự đều như ngói vỡ”. Hãy nên dè dặt kinh sợ sao cho giữ vẹn được di thể của cha mẹ ta để lại, bảo vệ được Phật tánh sẵn có của ta.
Trong Ngũ Giới chẳng nói đến chuyện hút thuốc là vì trong thời đức Phật chưa có nạn ấy. Thói nghiện ngập ấy bắt đầu thịnh hành từ cuối thời Minh. Tăng sĩ không tu hành chính là chủng tử địa ngục, nên những hành vi hạ lưu không gì chẳng trọn đủ! Huống chi ai nấy đều hút thì bọn họ còn có gì kiêng dè nữa ư? Ông đã biết bọn chúng là lũ bại hoại, sao còn hỏi [tại sao] không có giới ấy? Há có phải là trong hết thảy hành vi bọn chúng đều chẳng trái giới, chỉ phạm mỗi một giới này ư? Cái hại của thuốc lá thơm còn quá thuốc lá Tây. Nước ta cùng quẫn quá nửa là vì lẽ này! Quang đã nghĩ sâu xa về những chất độc hại ấy, thường khuyên người khác đừng hút. Trong ấy có những chất độc như morphine, heroin v.v… nếu phụ nữ trẻ tuổi hút vào chắc chắn sẽ không sanh nở được! Điều này do một đệ tử quy y tên là Triệu Nguyệt Tu, tự Hằng Quang, đích thân nghe một nữ giáo viên ngoại quốc răn nhắc các nữ sinh. Xin hãy nói rộng rãi với mọi người thì công đức ấy sẽ giống như bảo toàn dòng dõi cho người ta vậy!
- Thư trả lời cư sĩ Trương Nhữ Chiêu
Ông Trúc Thụy Liên là người cực trung hậu, có chí hoằng pháp lợi người, sẽ nhận lời mời. Cách học ở nơi đây chớ nên dựa theo chương trình trong nhà trường, hãy nên dựa theo sự tu trì để truyền dạy. Thoạt đầu hãy nên dạy học sinh đọc chánh văn của Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Phật Di Giáo Kinh, Bát Đại Nhân Giác Kinh. Lại còn dùng những bản chú giải của Ngẫu Ích đại sư để giảng diễn. Tiếp đó, dạy họ đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh để hiểu cặn kẽ nguyên do của môn Tịnh Độ thì sẽ dám đối trước mọi người khuyên tu Tịnh nghiệp, chẳng bị dao động mê hoặc bởi những giáo lý cao sâu huyền diệu của các tông khác. Tiếp đấy là học Phạm Võng Kinh, rồi nghiên cứu Tịnh Độ Thập Yếu và đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Kẻ thông minh thì chẳng ngại gì xem nhiều sách của Tịnh tông, mà cũng chẳng cần đặc biệt vì cái tiếng tăm mở mang Quốc Học[1] mà phải học văn chương.
Kinh Phật, chú giải và các trước thuật của cổ nhân đều là văn chương. Hãy nên dạy cho họ suy gẫm tường tận ý nghĩa của từng lời lẽ, từng lời hỏi – đáp giữa chủ và khách cũng như ý nghĩa cùng tột thì suốt ngày xem kinh sách chính là suốt ngày tập tành văn chương! Trước kia, pháp sư Nguyệt Hà giảng kinh Hoa Nghiêm, lại thỉnh một vị lão nho dạy Quốc Văn, lại thỉnh một vị chuyên giảng nói văn chương để giảng nghĩa chữ. Quang nghe chuyện, không nghĩ [pháp sư Nguyệt Hà] làm như vậy là đúng lắm, bởi lẽ kinh chẳng phải là văn chương hay sao? Chú giải chẳng phải là văn chương hay sao? Suốt ngày xem kinh đọc chú giải, chẳng đủ là phương pháp để tập luyện cách viết văn hay sao? Chưa đầy một năm sau, do chi phí quá tốn kém phải giải tán, bèn dời sang chùa Hải Triều ở Hàng Châu. Sư có gởi thư mời những người từng theo học [nơi học viện cũ] đến học [tại học viện mới]; do vậy Quang đem ý ấy nói với Sư.
Ông cho rằng hàng bạch y làm thầy của tỳ-kheo-ni và giảng giải giới luật chắc sẽ trái nghịch với cấm chế của đức Phật; chỉ cần [vị cư sĩ ấy] chẳng coi mình là thầy mà giữ địa vị đồng học, cùng nhau nghiên cứu thì trọn chẳng bị trở ngại gì! Nhưng cần phải chú trọng thực hành, đừng chỉ chú trọng học tập văn tự. Văn tự chỉ là thứ dùng kèm thêm cho cái thân, còn đức hạnh mới là cái gốc của con người. Huống chi bọn họ đều chẳng phải đang trong lứa tuổi thơ ấu; nếu lấy [đường lối học tập] Quốc Học, Quốc Văn như Trúc cư sĩ đã lập để làm tông chỉ chủ yếu thì sẽ thành chương trình của một trường học [dạy chữ] thông thường, chứ không phải là căn bản của một học viện nhằm huấn luyện tu trì. Ông ta không hiểu rõ chuyện này cho lắm, hãy nên đem lời Quang thưa rõ cùng ông ta, ắt ông ta sẽ chẳng đến nỗi không nghĩ như vậy là đúng!
Sau này, phàm hễ có ai cầu xin soạn truyện ký, sẽ lấy cớ có lời thề không viết tiểu truyện cho ai để từ chối. Nếu không, kẻ ham danh ghét thật sẽ hằng ngày cầu xin viết tiểu truyện để mong khi chết đi được coi là cao tăng, tức là đã biến giả thành thật, khiến cho người ta đối với chuyện thật cũng chê là giả tạo, Phật pháp sẽ bị suy bại sát đất cũng đều do hạng người thông minh ấy gây nên!
II. Tự
- Lời tựa cho sách Danh Sơn Du Phỏng Ký
Trí thức của con người không nhờ vào học vấn, lịch duyệt sẽ không thể nào khai thông được! Nhưng những cuộc đất thánh đạo tràng nơi danh sơn trong thiên hạ sẽ dễ gây xúc động, phát khởi chí hướng “mong thành thánh thành hiền” nơi con người nhất, có quan hệ đối với chuyện lập thân, tu nghiệp, thành đức, đạt tài cũng lớn lắm. Vì thế, xưa nay những người nhiệt tâm sẵn chí “tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha” thường chẳng ngại nhọc nhằn bươn bả tới thăm để mong những cảnh mình được trông thấy, những gì mình ngộ nhập sẽ bồi bổ thân tâm, mở mang, phát khởi trí thức của chính mình.
Trong số những vị đi khắp nơi thời cổ thì có hòa thượng Thiên Tuế Bảo Chưởng[2] vốn là người Trung Thiên Trúc, sống tại Thiên Trúc khoảng năm trăm năm, vào cuối đời Hán mới đến phương này. Trải qua các thời Tam Quốc, hai triều Tấn (Tây Tấn và Đông Tấn), Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy cho đến năm Hiển Khánh thứ hai (657) đời Đường Cao Tông, Ngài đã một ngàn lẻ bảy mươi hai tuổi mới nhập diệt. Vì thế, phàm là những danh sơn, thánh đạo tràng khắp Nam – Bắc [Trung Hoa], không đâu Ngài chẳng đích thân đến thăm viếng và ở lại nơi ấy. Đến cuối đời Minh, Tử Bách tôn giả cũng đi thăm khắp các danh sơn. Do Sư một ngày đi được hơn ba trăm dặm nên tuy không thọ bằng ngài Bảo Chưởng nhưng những nơi Sư đến thăm cũng gần bằng ngài Bảo Chưởng.
Trong giới Tăng – tục gần đây chỉ có cư sĩ Cao Hạc Niên là đi du lịch rộng xa nhất. Phàm tứ đại danh sơn, Ngũ Nhạc, Chung Nam, Thiên Thai, Nhạn Đãng, La Phù, Kê Túc, Võ Đang, Vân Cư, Lô Nhạc, Hoàng Sơn đều đã từng tới một lần hoặc tới đôi ba lần. Phàm địa thế, tình hình nhân sự cùng những di tích cổ xưa, thắng cảnh, và đạo tràng, chùa miếu, cũng như tất cả những sự tích của các bậc cao tăng, danh sĩ ở những nơi ông ta đã đi qua đều chép lại đầy đủ dựa trên những điều thưa hỏi được. Một là nhằm để an ủi những kẻ do chẳng thể hành cước nên không cách nào biết được những dấu tích thù thắng tại các thánh đạo tràng, hai là có thể dùng làm một tài liệu hướng dẫn lớn lao cho hàng sơ cơ học Phật biết lối tìm thầy hỏi bạn.
Vì thế, trong Dân Quốc nguyên niên (1912), Phật Học Tùng Báo từng sao lục [và đăng tải những ghi chép này] để dâng tặng những người có cùng chí hướng. Đến nay, các vị cư sĩ Vương Nhất Đình, Hứa Chỉ Tịnh, Nhiếp Vân Đài, Địch Sở Thanh, Giản Ngọc Giai lại muốn tập hợp những bài viết ấy thành một cuốn sách để độc giả được đọc toàn bộ. Điều này cũng chưa bao giờ chẳng phải là sự hướng dẫn ban đầu để dẫn người khác vào được biển Phật vậy!
- Lời tựa tái bản Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh
Tâm thể của Phật và chúng sanh… (cho đến) chỉ mong họ biết được nguyên do mà thôi (đoạn này hoàn toàn giống với bài tựa tái bản Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh trong Tăng Quảng Văn Sao, quyển ba). Đoạn văn trên đây chính là lời tựa do tôi viết cho ông Trương Thụy Tăng ở Dương Châu khi ông ta tái bản cuốn kinh này vào giữa Hè năm Nhâm Tuất, tức năm Dân Quốc 11 (1922). Ý nghĩa tổng quát của kinh cũng như nguyên ủy lưu thông đã được trình bày đại lược [qua đoạn văn ấy].
Nay có một đệ tử ở Thiểm Tây là Mã Côn Sơn cùng với một đệ tử ẩn danh ở Lan Châu phát tâm lưu thông kinh này. Món tiền do Côn Sơn tự bỏ ra và bạn bè giúp đỡ tổng cộng là bảy trăm đồng; món tiền do cư sĩ ẩn danh tự bỏ ra và bạn bè giúp đỡ gộp chung thành ba trăm đồng. Họ đem một ngàn đồng này gởi đến Tô Châu, cậy Quang thay họ lo liệu ấn tống. Côn Sơn chuyên sản xuất thuốc lá kiểu Tây Dương tại Lan Châu nhiều năm, là người cực chân thành, chuyên dốc, nhưng chưa biết Phật pháp. Bốn năm trước, do một đồng nghiệp người Thiểm Tây là Lý Tiên Đào khuyên chỉ, bèn quy y Tam Bảo, ăn chay, niệm Phật. Mùa Thu năm trước, xưởng chế tạo đạn dược ở Lan Châu phát nổ. Hôm ấy, những người cùng làm nghề sản xuất thuốc lá tổ chức diễn tuồng ở lầu Minh Thủy để cúng thần, hơn một trăm người thuộc xưởng của Lý Tiên Đào đều đi xem, chỉ có mình đứa con của viên Phó Kinh Lý ở lại xưởng. Hơn một trăm người thuộc xưởng Côn Sơn cũng đều đi vắng hết. Chuyện này cũng không biết rõ nguyên do ra sao. Họ đi khỏi không lâu, xưởng chế tạo đạn dược ở ngoài thành phát nổ, nhà cửa trên mấy con đường ở ngoài thành đều bị chấn động, đổ nát, vô số người bị thương! Trong xưởng của Tiên Đào chỉ có căn phòng nơi người con của viên Phó Kinh Lý đang ở là không bị sụp đổ. Trong xưởng của Côn Sơn, chỉ có gian phòng thờ Phật là vẫn đứng vững sừng sững, kiếng cũng không nứt vỡ. Những nơi khác đều sụp đổ hết. Do nhân duyên này, nhân sĩ Lan Châu dần dần sanh lòng tin tưởng. Côn Sơn càng thêm tăng trưởng tín tâm.
Trong năm ngoái, những cuộc đảo chánh quân sự nhiễu nhương liên tiếp xảy ra, nhân dân khốn khổ không thể nào diễn tả được. Do vậy, [Côn Sơn và vị cư sĩ ẩn danh] phát tâm lưu thông kinh này, mong rằng những người đọc kinh này ắt sẽ chú trọng lòng kính, giữ lòng thành, tay sạch, bàn sạch, ngồi ngay ngắn chẳng lười nhác, dễ ngươi chút nào, như đối trước thánh dung, đích thân nghe viên âm. Lại phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, ngăn giận, chặn dục, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì lợi ích ấy chẳng thể nào diễn tả được. Nếu chẳng chí thành và chẳng trọn hết bổn phận thì sẽ được cảm ứng nhỏ nhoi, chứ không phải là lòng Từ của đức Phật chẳng trọn khắp, [nguyên nhân là] vì tâm chẳng tương ứng với Phật vậy! Đạo cảm ứng giống như gõ chuông. Gõ mạnh thì chuông kêu to, gõ nhẹ thì chuông kêu nhỏ. Trong đời thường có những kẻ do tiểu cảm mà được đại ứng chính là vì công đức tu trì trong đời trước cảm nên. Tán rằng:
Dược Sư Như Lai Lưu Ly Quang,
Thệ nguyện rộng sâu chẳng thể lường,
Hiển là sanh thiện, nhóm phước khánh,
Mật là diệt ác, tiêu họa ương.
Dẹp khổ ắt mong sạch nhị tử,
Ban vui muôn đức trọn phô bày,
Pháp giới thánh phàm cùng quy mạng,
Nhờ ân mau chứng được chân thường.
(Cuối Xuân năm Đinh Sửu, tức năm Dân Quốc 26 – 1937)
- Lời tựa cho tác phẩm Quảng Trường Thiệt
Pháp không có tướng nhất định, hễ hợp căn cơ thì là tốt đẹp. Cùng là một pháp nhất vị, nhưng đức Như Lai giảng nói bằng nhiều phương cách. Giống như cỗ ngon quý báu của bậc Đại Sĩ, nếu gặp được người trưởng thành liền dọn hết cả ra để họ được ăn no. Nếu gặp trẻ thơ, do chúng chẳng thể tự cắn nuốt được, ắt phải thay chúng cắn xé nhỏ ra, mớm cho chúng, ngõ hầu làm lợi cho thân tâm của chúng để chúng mau được trưởng thành.
Cư sĩ Khổ Hạnh đã dùng những lời rõ ràng gần gũi để diễn tả đại lược về pháp môn Tịnh Độ phổ độ chúng sanh của Như Lai với ước mong làm cho những kẻ chưa phát tâm sẽ nhanh chóng sanh lòng tin, để sau đó họ nghiên cứu các kinh, luận, trước thuật của Tịnh Độ sẽ được hưởng lợi ích thật sự. Hơn nữa, những lời đơn giản, rõ ràng như thế thật ra đã được tuyên dương bởi tướng lưỡi rộng dài của Như Lai, là đại pháp môn vô thượng viên đốn thành thủy thành chung để mười phương chư Phật phổ độ chúng sanh và chúng sanh trong chín giới viên thành Phật đạo. Vì thế, lấy từ ngữ Quảng Trường Thiệt (lưỡi rộng dài) làm tựa đề nhằm mong những ai chưa phát tâm hễ đọc đến sẽ liền phát tâm. Cố nhiên người đã nhập môn sẽ chẳng cần đến; nhưng cách thức cắn ăn hay mớm cho trẻ thơ thì người nuôi nấng trẻ thơ vẫn cần phải tìm hiểu, suy xét. Tuy chính mình chẳng cần đến, nhưng cũng không thể chẳng chuẩn bị cho người sơ cơ! (tháng Mười năm Quý Hợi, tức năm Dân Quốc 12 – 1923)
- Lời tựa ấn hành tác phẩm Tư Quy Tập
Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, như trời che khắp, dường đất chở đều. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra khỏi pháp này, dưới là tội nhân nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy. Thật đáng gọi là “pháp môn tổng trì của tam thế chư Phật, là đạo đặc biệt mầu nhiệm trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai”. Pháp môn này lớn lao, thâu nhiếp căn cơ rộng rãi, dùng sức ít mà đạt hiệu quả nhanh chóng, nhưng thường bị những kẻ hơi thông hiểu Tông – Giáo xem nhẹ, coi là pháp môn dành cho lũ ngu phu ngu phụ tu trì, chẳng biết sự lớn – nhỏ, khó – dễ giữa Phật lực và tự lực chẳng thể dùng ngôn ngữ, văn tự để hình dung được! Bởi lẽ, hết thảy các pháp môn đều phải nương vào sức Giới – Định – Huệ để tu tới địa vị “nghiệp tận, tình không” thì mới có phần liễu sanh tử. “Nghiệp tận, tình không” há nói dễ dàng ư? Đoạn Kiến Hoặc giống như cắt đứt dòng nước chảy xiết rộng bốn mươi dặm, huống là Tư Hoặc ư? Dẫu cho kiến địa cao sâu, hễ Phiền Hoặc chưa đoạn thì vẫn luân hồi y như cũ. Nếu thọ sanh lần nữa thì người lui sụt trong vạn kẻ có đến mười ngàn, người tăng tấn trong ức kẻ hiếm khi có tới ba bốn người! Tự lực chẳng đủ để nương tựa, dám khoe khoang trí mình, chẳng tùy thuận đạo thệ nguyện nhiếp thọ của Như Lai ư?
Người tu pháp môn Tịnh Độ chỉ cần có đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, chí thành khẩn thiết, như con nhớ mẹ mà niệm, những hành vi trong thường nhật đều chẳng trái nghịch Phật pháp lẫn tình nghĩa thế gian thì lúc lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Dẫu là kẻ chưa đoạn được Hoặc nghiệp mảy may nào, hễ được đới nghiệp vãng sanh thì sở đắc của kẻ ấy còn cao trỗi hơn bậc A La Hán nghiệp tận tình không, vì chủng tánh bất đồng vậy! Huống hồ bậc đã đoạn [được Hoặc nghiệp] thì cần gì phải nói nữa! Bởi lẽ, Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh tâm lực chẳng thể nghĩ bàn. Hai sức chẳng thể nghĩ bàn là Phật lực và pháp lực cùng hợp lại khiến cho tự tâm lực được hiển hiện trọn vẹn (loại tự lực này rất khác với loại tự lực chẳng cậy vào Phật lực và pháp lực), cho nên so với kẻ chuyên cậy vào tự lực sẽ giống như hằng hà sa số lần sự khác biệt vời vợi giữa trời và vực. Do vậy biết: Chẳng thể đem đạo lý của hết thảy pháp môn thông thường để bàn luận pháp môn này được, bởi nó là pháp môn đặc biệt. Tôi thường có một cặp câu đối như sau:
Pháp môn quảng đại, phổ bị tam căn, nhân tư cửu giới đồng quy, thập phương cộng tán.
Phật nguyện hồng thâm, bất di nhất vật, cố đắc thiên kinh tịnh xiển, vạn luận quân tuyên.
(Pháp môn rộng lớn, độ khắp ba căn, do vậy chín giới cùng hướng về, mười phương chung khen ngợi,
Phật nguyện to sâu, chẳng sót một ai, nên được ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận cùng tuyên nói).
Theo phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm, trọn hết các bậc Pháp Thân đại sĩ trong Hoa Nghiêm thế giới hải như Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt địa vị đều nhất trí tiến hành, vâng theo lời Phổ Hiền Bồ Tát dạy, dùng công đức của mười đại nguyện vương cầu sanh Tây Phương nhằm mong viên mãn Phật quả. Những kẻ khoe khoang trí mình, miệt thị Tịnh Độ, tưởng chính mình vượt trỗi những vị Bồ Tát ấy, chính là mất trí điên cuồng, cầu thăng hóa đọa, biến khéo thành vụng!
Những kinh sách hoằng dương Tịnh Độ nhiều khôn kể xiết. Đại sư Như Sầm tập hợp những ngôn luận của chư Phật, Bồ Tát, tổ sư và những Tịnh nghiệp học nhân trong thời gần đây (những vị tri thức trong đời gần đây xưng là “học nhân” vì trước đấy đã có Phật, Bồ Tát, các vị tổ sư, xin đừng nghi ngại, kinh ngạc), đặt tên là Tư Quy Tập, cậy Quang viết lời tựa. Quang lúc bé chẳng nỗ lực, về già chẳng làm được gì, chỉ đành viết ra những nghĩa lý chính mình đã tin tưởng trong suốt năm mươi chín năm cho xong trách nhiệm, nhằm giãi bày lòng ngu thành, mong cho những người cùng hàng đều được sanh về Tây Phương, dẫu bị những vị đại trí huệ chê bai, thóa mạ đều chẳng bận lòng! Do vậy bèn ca rằng:
Ưng đương phát nguyện, nguyện vãng sanh,
Khách lộ, khê sơn, nhậm bỉ luyến,
Tự thị bất quy, quy tiện đắc,
Cố hương phong nguyệt hữu thùy tranh?
(Nẻo khách, suối non mặc người luyến,
Hãy nên phát nguyện, nguyện vãng sanh,
Tự mình chẳng về, về liền được,
Gió trăng quê cũ há ai giành?)
Xin những vị mong nghĩ trở về [quê cũ] đều chú ý!
(Ba ngày trước tiết Đông Chí năm Kỷ Mão, tức năm Dân Quốc 28 – 1939)
- Lời tựa cho sự việc kính cẩn chép đại kinh Hoa Nghiêm nhằm trọn hết lòng hiếu thảo
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh chính là do đức Như Lai khi mới thành Chánh Giác đã xứng theo pháp giới tánh và hết thảy các vị Pháp Thân Đại Sĩ phá vô minh chứng pháp tánh thuộc bốn mươi mốt địa vị nói ra sở chứng của đức Như Lai và Bồ Đề giác đạo tự sẵn có trong bản tánh của hết thảy chúng sanh. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm là vua trong Tam Tạng, hết thảy các kinh đều lưu xuất từ kinh này. Hàng phàm phu và Nhị Thừa tuy cùng hiện diện trong Bồ Đề đạo tràng, rốt cuộc chẳng thấy, chẳng nghe, vì đấy chẳng phải là cảnh giới của họ! Tuy phàm phu và Nhị Thừa chẳng thấy chẳng nghe, nhưng đây quả thật là pháp luân căn bản để độ khắp trời người lẫn chúng sanh trong sáu nẻo. Vì sao vậy? Hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân thì mới liễu sanh tử. Còn pháp môn Niệm Phật chỉ cần trọn đủ lòng tín nguyện, trì danh hiệu Phật liền được cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Chúng sanh đời Mạt chẳng dễ gì đạt tới mức đoạn Hoặc chứng Chân, bỏ một pháp môn này thì đông đảo chúng sanh sẽ chẳng có dịp thoát khổ!
Trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh này, Thiện Tài đã viên mãn tâm Thập Tín, nghe theo lời đức Văn Thù dạy, tham học với khắp các tri thức. Thoạt đầu ở dưới tòa của ngài Đức Vân bèn nghe pháp môn Niệm Phật. Đến cuối cùng, tới chỗ Phổ Hiền Bồ Tát, đức Phổ Hiền liền dùng oai thần gia bị khiến cho sở chứng của Thiện Tài bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật. Đấy gọi là Đẳng Giác Bồ Tát. Đức Phổ Hiền bèn khen ngợi công đức thù thắng nhiệm mầu của Như Lai khiến cho Thiện Tài sanh lòng vui mừng, liền đó, Ngài dạy Thiện Tài phát mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật quả và khuyên hết thảy các vị Pháp Thân đại sĩ trong Hoa Nghiêm hải chúng. Phàm những vị thuộc về Hoa Tạng hải chúng đều là các đại Bồ Tát thuộc những địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác v.v… mà vẫn phải hồi hướng vãng sanh Tây Phương thì mới có thể đích thân chứng được Bồ Đề giác đạo sẵn có trong cái tâm này, huống là những kẻ thấp kém hơn ư? Nhưng theo chương Hạ Phẩm Hạ Sanh của Quán Kinh, kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác lúc lâm chung tướng địa ngục hiện, được thiện tri thức dạy niệm Phật bèn niệm mười tiếng hoặc chỉ mấy tiếng cũng đều có thể vãng sanh Tây Phương, được dự vào phẩm cuối. Chẳng phải là kinh Hoa Nghiêm giảng về pháp “thành Phật trong một đời” mà chỗ quy tông cuối cùng lại gom về vãng sanh Tây Phương đó sao? Các tri thức Thiền – Giáo trong cõi đời há nên coi pháp môn Niệm Phật là pháp quyền biến, Tiểu Thừa, phương tiện, chẳng phải là đạo cứu cánh ư?
“Hết thảy chúng sanh đều sẵn đủ trí huệ của đức Như Lai, nhưng do vọng tưởng chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng, chấp trước thì Nhất Thiết Trí, Vô Sư Trí liền được hiện tiền”. Do nghe nghĩa này nên hết thảy phàm phu sẽ chẳng đến nỗi đề cao thánh cảnh, nhưng lại cam phận phàm ngu. Do vậy biết kinh này chính là pháp môn rốt ráo thành thủy thành chung để mười phương tam thế chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Bất luận căn tánh như thế nào đều phải nương theo đây để tu tập, nhưng chỗ thiết yếu nhất chỉ là một môn Niệm Phật. Ấy là vì “toàn thể tánh trở thành tu” nên bậc thượng thượng căn chẳng thể vượt khỏi khuôn khổ này. Do “toàn thể Sự chính là Lý” nên phường hạ hạ căn cũng có thể đạt tới được. Kinh này chính là cội nguồn của giáo pháp trong toàn bộ Đại Tạng, là chỗ quy túc của hết thảy pháp môn.
Cư sĩ Vưu Dưỡng Hòa ở Tô Châu tuy xuất thân từ gia đình phú quý, nhưng trọn chẳng có tập khí của bọn mặc quần lụa nõn[3], dốc lòng tin tưởng Phật pháp, nghiêm túc trọn hết đạo hiếu. Mẹ ông ta sợ con bị tập tục xoay chuyển, nên khi bị bệnh nặng sắp mất đã dặn con phải cung kính chép kinh Hoa Nghiêm để mong con được huân tập, tiêm nhiễm thành chủng tử, vĩnh viễn trở thành gốc đạo, đồng thời là để trên báo đáp Tứ Ân, dưới giúp cho Tam Hữu (Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới). Mẹ ông ta đáng gọi là “khéo dùng lòng Từ!” Trong thời kỳ cư tang, hằng ngày ông ta cẩn thận chép kinh để mong từ mẫu được tăng cao phẩm sen và tiêu trừ ác nghiệp của bản thân. Nếu chẳng phải là đã có thiện căn từ đời trước thì làm sao như thế được?
Nay kinh đã chép xong, bèn cậy bạn phương ngoại[4] là đại sư Văn Đào xin Quang viết lời nêu rõ ý nghĩa bộ kinh để mong sau này những ai xem đến đều cùng sanh lòng chánh tín. Trộm nghĩ: Ý nghĩa của kinh Hoa Nghiêm dẫu dùng mực nhiều như biển cả, đến tận cùng đời vị lai tuyên dương ý nghĩa của từng câu, từng chữ vẫn chẳng thể trọn hết được! Huống chi Quang là kẻ hời hợt, nông cạn, vô tri, làm sao có thể tán dương một hai điều cho được? Nhưng vẫn chẳng nên cô phụ ý ông ta nghĩ đến, do vậy bèn viết sơ lược đại ý những điều cương yếu và lợi ích để trao lại. Nếu có thể nương theo đó để tu hành thì rốt ráo thành Phật còn đạt được, huống là những văn nghĩa khác ư? (Mồng Một tháng Sáu năm Mậu Thìn, tức năm Dân Quốc 17 – 1928)
- Lời tựa lưu thông phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Nêu lên những tông lớn trong các pháp do đức Như Lai đã giảng trong suốt một đời Ngài thì có năm tông là Luật, Giáo, Thiền, Mật và Tịnh. Năm tông này đều cùng hiển thị tam nghiệp thân – khẩu – ý, tam học Giới – Định -Huệ của đức Phật cũng như hết thảy tam-muội, vạn đức. Vì thế, chẳng thể đề cao hay hạ thấp, so sánh hơn – kém được, hoặc chọn lọc, lấy – bỏ được! Nhưng đối với sự tu tập của từng người học thì phải xét kỹ pháp nào khế hợp với căn tánh của chính mình để tu. Thâm nhập một môn so ra đỡ tốn sức hơn! Nhưng trong năm tông ấy, không tông nào chẳng lấy Luật làm căn bản, lấy Tịnh làm chỗ quy túc. Trong thời đức Phật tại thế đã như vậy, huống nay đang là thời đại Mạt Pháp ư?
Do pháp môn Tịnh Độ thông trên thấu dưới, thích hợp khắp ba căn, phàm – thánh cùng nương về, trên là Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được, dưới là tội nhân Ngũ Nghịch cũng có thể dự vào trong. Ấy là vì hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, nếu chưa đạt đến mức “nghiệp tận, tình không” sẽ chẳng thể liễu sanh thoát tử; còn pháp môn Tịnh Độ kiêm cậy vào Phật lực. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha thì sẽ có thể đới nghiệp vãng sanh. So sánh giữa hai pháp thì sự khó – dễ khác biệt vời vợi một trời một vực! Xét đến duyên khởi của pháp này, quả thật là từ trong kinh Hoa Nghiêm. Do kinh chưa dạy rõ về nhân hạnh quả đức của Phật Di Đà, sự trang nghiêm thù thắng của Tịnh Độ, sự tu nhân chứng quả của hành nhân nên nhiều người xem thường [Tịnh Độ], chẳng chịu đề xướng.
Xưa kia, lúc đức Như Lai mới thành Chánh Giác, đã cùng các vị đại Bồ Tát trong Hoa Tạng thế giới hải hỏi – đáp, nói ra các pháp nhân quả của Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác. Những vị dự hội đều là các vị Pháp Thân đại sĩ đã phá vô minh, chứng pháp tánh thuộc bốn mươi mốt địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác. Tuy nói đến pháp môn Thập Tín, nhưng địa vị Thập Tín chưa phá vô minh, chưa chứng pháp tánh, nên chẳng thể dự hội được, huống là phàm phu, Nhị Thừa ư? Cho đến hội cuối cùng, tức phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện Tài sau khi viên mãn tâm Thập Tín, nghe lời ngài Văn Thù dạy, liền tham học với khắp các tri thức.
Thoạt đầu, ở nơi tỳ-kheo Đức Vân nghe giảng pháp môn Niệm Phật liền chứng Sơ Trụ, trở thành Pháp Thân Đại Sĩ. Từ đấy tham học khắp các tri thức, ở chỗ vị nào cũng có sở chứng. Cuối cùng đến chỗ Phổ Hiền Bồ Tát, được ngài Phổ Hiền khai thị và được sức oai thần [của ngài Phổ Hiền] gia bị, sở chứng bằng với Phổ Hiền và bằng với chư Phật, trở thành Đẳng Giác Bồ Tát. Đức Phổ Hiền bèn nói kệ xưng tán công đức thù thắng nhiệm mầu của Như Lai, khuyến khích Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng cùng dùng công đức của mười đại nguyện vương để nhất trí tiến hành hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhằm mong viên mãn Phật Quả. Nhưng kinh Hoa Nghiêm trọn chẳng nói đến thệ nguyện của đức Di Đà và sự trang nghiêm trong Tịnh Độ, cũng như nhân quả vãng sanh, bởi lẽ các vị Đại Sĩ ấy đều đã biết rõ, không cần phải nhắc lại nữa!
Hơn nữa, kinh Hoa Nghiêm được dịch lần đầu dưới đời Tấn chỉ có sáu mươi quyển; lần dịch kế tiếp là vào đời Đường nhằm thời Võ Tắc Thiên, gồm tám mươi quyển. Hai lần dịch này đều chưa trọn hết kinh văn, sau khi ngài Phổ Hiền nói kệ tán Phật, [pháp hội] chưa kết thúc mà kinh văn đã hết (trước kia không có giấy, kinh ở Tây Vực đều chép trên lá cây Bối Đa[5]. Do vậy chẳng chép dễ dàng hoặc có khi bị lược bớt. Hơn nữa, lá Bối dùng dây xâu lại có thể bị lạc mất. Do vì lẽ này mà kinh văn chưa truyền trọn hết sang Trung Hoa. Nếu được đóng thành một quyển giống như kinh sách ngày nay thì không mắc khuyết điểm này).
Đến năm Trinh Nguyên 11 (799) đời Đường Đức Tông, quốc vương Ô Đồ[6] tại Nam Thiên Trúc tiến cống toàn văn phẩm Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, gồm bốn mươi quyển. Ba mươi chín quyển đầu chính là phẩm Nhập Pháp Giới trong bản Hoa Nghiêm tám mươi quyển, nhưng văn nghĩa tường tận hơn. Quyển thứ bốn mươi thì trong hai bản dịch đời Tấn và Đường đều không có. Phần này chính là phần kinh văn nêu rõ sau khi ngài Phổ Hiền khen ngợi công đức của Phật xong bèn khuyến tấn vãng sanh Tây Phương. Khi ấy, Thanh Lương quốc sư cũng tham dự trong dịch trường, trước đấy Ngài đã sớm đích thân soạn sớ sao cho bản tám mươi quyển để lưu truyền, Ngài bèn đặc biệt soạn riêng một bản sớ cho quyển kinh này để lưu truyền riêng. Ngài Khuê Phong viết lời sao để xiển dương rộng rãi thêm. Ngài lại soạn sớ cho toàn bộ kinh văn trong bốn mươi quyển. Trải qua nhiều cuộc tang thương bị thất truyền đã lâu. Gần đây, [bản sớ giải ấy] được đưa từ Đông Doanh (Nhật Bản) về lại Trung Hoa.
Cho nên biết một quyển kinh này chính là phần quy túc của toàn bộ kinh Hoa Nghiêm. Trong Hoa Nghiêm thế giới hải[7] có vô lượng vô biên cõi Tịnh Độ, nhưng ắt phải lấy cầu sanh về Tây Phương làm hạnh để viên mãn Phật quả; đủ biết một pháp niệm Phật cầu sanh Tây Phương vốn bắt nguồn từ hội Hoa Nghiêm. Nhưng do phàm phu, Nhị Thừa chẳng dự hội này, không cách chi vâng nhận được, cho nên trong hội Phương Đẳng, đức Phật mới vì khắp hết thảy phàm phu, Nhị Thừa và các Bồ Tát, tuyên nói kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, kinh A Di Đà, khiến cho họ đều biết nhân hạnh quả đức của Phật Di Đà, sự trang nghiêm thù thắng của Tịnh Độ, sự tu nhân chứng quả của hành nhân, ngõ hầu hết thảy phàm phu đầy dẫy triền phược và hàng Nhị Thừa đã đoạn Kiến Hoặc, Tư Hoặc cùng với bậc Pháp Thân Đại Sĩ đã phá Vô Minh Hoặc đều cùng thoát khỏi cõi Ngũ Trược này, sanh lên chín phẩm sen trong cõi kia ngay trong đời này để tấn tu dần dần mãi cho đến khi viên mãn Bồ Đề mới thôi!
Pháp Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ lớn lao thay! Mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thành thủy thành chung đều nhờ vào đây. Dẫu muốn tán dương trọn hết kiếp cũng chẳng thể cùng tận. Bạn tôi là Dật Nhân[8] thường tụng kinh này, muốn in ra rộng rãi, Quang khuyên nên in toàn bộ Tịnh Độ Ngũ Kinh để cho người ta hiểu rõ nguyên do của việc hồi hướng vãng sanh dạy trong kinh này thì dù Sự hay Lý, dù nhân hay quả mỗi mỗi đều rõ ràng, trọn chẳng áy náy gì nữa! Do Sư đã trót phát nguyện, cho nên in trước một vạn cuốn; sau đấy sẽ chuyên in Tịnh Độ Ngũ Kinh. Bởi vậy, tôi thuật bày duyên khởi của kinh này và Tịnh Độ Ngũ Kinh như thế đó! (ngày Rằm giữa Xuân năm Bính Tý Âm Lịch, tức năm Dân Quốc 25 – 1936).
- Lời tựa cho tác phẩm Hám Sơn Đại Sư Niên Phổ Sớ
Mạnh Tử nói: “Cùng tắc độc thiện kỳ thân, đạt tắc kiêm thiện thiên hạ” (hễ còn nghèo cùng thì giữ cho riêng mình thiện, hễ hiển đạt thì sẽ làm cho thiên hạ cùng thiện). Đây là lời luận định dựa theo pháp thế gian. Nếu luận theo Phật pháp, khi hiển đạt, cố nhiên nên làm cho người khác cùng được thiện, nhưng trong khi nghèo cùng vẫn có thể làm cho người khác được thiện. Nghiêm trì giới luật, đôn đốc luân thường, lấy thân làm gương để đốc thúc người khác, khiến cho hết thảy mọi loài đều nhìn theo bắt chước làm lành. Đợi khi cái tâm vui sướng hướng theo đã dấy lên rồi, bèn dạy cho họ biết sự lý “nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo, tâm vốn là Phật nhưng phải do nhân duyên niệm Phật vãng sanh thì mới đích thân chứng được”. Phàm những kẻ hữu tâm, không ai chẳng vui vẻ thuận theo. Vì thế các bậc cao tăng đời trước đi đến đâu cũng thường có nhiều người quy y, so với sự giáo hóa cai trị của nhà vua còn tạo lợi ích sâu đậm hơn.
Vào cuối đời Minh, kỷ cương của vương triều suy đồi, đại thần không có quyền hành, những kẻ nắm quyền đều là bọn thái giám vô tri vô thức. Kẻ gian ác ỷ quyền làm chuyện tệ hại, kẻ mang ý nguyện chân thật thì thiếu tài trí để lập phương cách [cứu vãn] đến nỗi dân khốn đốn, nước nguy ngập, hết cả thuốc chữa! Hám Sơn, Tử Bách, Liên Trì, Diệu Phong cùng xuất hiện trong thời ấy, ngầm giúp cho đạo bình trị, thầm cải thiện cuộc sống nhân dân rất lớn. Vì hoằng pháp, ngài Hám Sơn bị vu cáo, bị đày đi làm lính thú[9] ở Quảng Châu. Ngài đã cứu nhân dân đất Việt (Quảng Đông), giữ cho xã tắc tồn tại lâu dài vừa sâu vừa xa. Nếu ngài Hám Sơn chẳng bị đày đi làm lính thú ở Quảng Châu, dân Quảng châu đã sớm lâm vào cảnh hiểm, tạo thành mối lo cho nước nhà. Những chuyện như dẹp bỏ thuyền chặn xét thâu thuế, dẹp yên sự nổi loạn của dân chúng, đem lại hòa bình cho Khâm Châu v.v… đều do Sư khuyên nhủ một buổi mà giải quyết xong. Nếu chẳng phải là bậc thừa nguyện thị hiện giáng sanh cứu dân trong cơn nước lửa thì làm sao đạt được như thế? Các vị cư sĩ như Diệp Ngọc Phủ v.v… lập chùa Trạm Sơn ở Thanh Đảo, đấy chính là chỗ ngài Hám Sơn do hoằng pháp mà bị vu báng. Nghĩ đến đức sâu của ngài Hám Sơn, bèn đặc biệt in bộ Niên Phổ Sớ, ngõ hầu sau này ai đọc đến sẽ đều nức lòng vậy!
- Lời tựa cho tập sách Khuyến Giới Sát Phóng Sanh Văn
Sự tình sát sanh ăn thịt thê thảm lắm thay, lại còn di họa vừa sâu vừa xa! Con người và loài vật đều cùng bẩm thụ sự sanh thành trưởng dưỡng của trời đất mà sống, cùng được hưởng cái thân huyết nhục, cùng có tánh linh tri, cùng biết tham sống sợ chết, hướng lành tránh dữ, quyến thuộc đoàn tụ thì vui sướng, ly tán bèn đau xót, được ban ân thì cảm ơn, bị làm khổ thì ôm lòng oán hận. Mỗi một điều đều giống như nhau. Hiềm rằng loài vật do sức ác nghiệp đời trước phải đọa làm súc sanh, hình thể khác biệt, miệng chẳng thể nói được! Lẽ ra con người phải thương chúng nó bị đọa lạc, mong cho chúng nó đều được sống yên vui. Sao lại nỡ lòng vì chúng nó hình dạng khác biệt, trí lực thấp kém, bèn xem chúng như thức ăn, cậy vào trí lực, tài lực của chính mình để vây bắt khiến chúng nó chịu nỗi khổ cùng cực “dao chặt, nung nấu” nhằm sướng miệng, thỏa bụng ta trong chốc lát vậy thay?
Kinh dạy: “Hết thảy những loài có mạng sống, không một loài nào chẳng yêu mến thọ mạng”. Cứ từ ta suy ra, ắt sẽ hiểu, đừng giết, đừng đánh đập. Ông Hoàng Sơn Cốc nói:
Thịt ta, thịt chúng sanh,
Tên khác, thể vốn đồng,
Vốn cùng một chủng tánh,
Chỉ thân xác khác nhau,
Khổ não bọn chúng chịu,
Béo ngọt ta hưởng riêng,
Chớ đợi Diêm Vương xử,
Tự suy ắt biết mà!
Chỉ vì con người chẳng biết đặt mình vào hoàn cảnh ấy để xét lại, đến nỗi đem chuyện khổ sở cùng cực, thảm thiết cùng cực giáng xuống thân loài vật mà lòng vui sướng, tự bảo mình có phước, chẳng biết phước thọ đã vun bồi từ đời trước sẽ bởi đấy mà dần dần bị tiêu diệt, trong vị lai sẽ đời đời phải hứng chịu những nỗi khổ độc chẳng có lúc nào xong! Nếu trong lúc sát sanh ăn thịt mà nghĩ đến chuyện này, dẫu có kẻ đem cái chết uy hiếp buộc phải sát sanh ăn thịt, vẫn chẳng dám làm!
Trong niên hiệu Đồng Trị – Quang Tự nhà Thanh, tiên sinh Lương Kính Thúc ở Phước Châu đã soạn Khuyến Giới Lục, ghi chép những quả báo nhãn tiền do sát sanh. [Trong sách ấy có chép truyện] huyện lệnh Bồ Thành là ông X… kiêng sát sanh đã lâu, nhưng bà vợ tánh nết bạo ngược, hung hăng, lại tham ăn tục uống, hằng ngày lấy chuyện giết mổ chúng sanh làm điều khoái trá. Gặp ngày sinh nhật, sai đầu bếp chuẩn bị đầy đủ sẵn. Dưới bếp, lợn, dê lủ khủ, gà, ngỗng cả bầy, vươn cổ kêu ai oán, sẽ đều bị giết sạch. Ông ta trông thấy, thương xót, bảo vợ: “Đúng hôm sinh nhật bà, chúng nó sẽ lâm vào tử địa, lẽ ra nên phóng sanh để cầu phước thọ”. Bà vợ trả treo: “Nếu tuân theo lời dạy, cấm nam nữ chung đụng, kiêng sát sanh thì mấy chục năm sau nhân loại tuyệt diệt, khắp thiên hạ đều là cầm thú! Ông đừng thốt lời lẩm cẩm ấy nữa! Tôi chẳng bị kẻ khác gạt đâu!” Ông ta biết không thể khuyên răn được, thở dài bỏ đi.
Đêm hôm ấy bà vợ ngủ say, bất giác mộng thấy thân đi xuống bếp, thấy đầu bếp mài dao xoèn xoẹt, bọn tôi trai tớ gái đứng vây quanh xem. Chợt thấy hồn mình hợp làm một với thân lợn. Gã đầu bếp trước hết trói chặt bốn vó lợn, đặt lên một cái ghế gỗ to, chẹn đầu lợn, cầm dao bén chọc vào yết hầu lợn, đau thấu tâm can. Lại nhúng vào nước sôi sùng sục, cạo lông khắp thân, đau khắp mình mẩy. Lại xẻ từ cổ xuống đến bụng, đau đớn cùng cực khó chịu đựng được. Hồn bèn cùng với ruột gan tan nát, cảm thấy bồng bềnh không nơi nương tựa. Một lúc lâu sau lại thấy gá vào thân dê, sợ hãi tột cùng, gào lên cuồng loạn, nhưng bọn tôi trai tớ gái vẫn ngây ngô cười hềnh hệch như thể không một đứa nào thấy nghe gì. Nỗi thảm do bị cắt xẻ nơi thân dê ấy còn gấp bội lần thân lợn. Rồi lại cắt cổ gà, mổ vịt, không con nào [bị làm thịt, bà ta] chẳng đích thân hứng chịu [nỗi khổ].
Mổ xẻ khắp loạt rồi, vừa mới hơi hoàn hồn thì một người đầy tớ già cầm một con cá chép vàng óng ánh đến. Hồn bà ta lại nhập vào thân cá, nghe một đứa tớ gái vui vẻ hô: “Phu nhân khoái ăn món này lắm, bà ta đang ngủ say. Hãy mau giao cho nhà bếp làm món [canh] cá viên để làm món điểm tâm!” Liền có người cạo vảy, lóc mật, chặt đầu, vạt đuôi. Khi cạo vảy thì giống như bị tùng xẻo, khi cắt bỏ mật thì như bị mổ bụng. Rồi lại bị đặt lên thớt, phầm phập băm vụn ra. Khi ấy, cứ mỗi nhát dao là một lần đau đớn, giống như đã hóa thành trăm ngàn vạn ức thân hứng chịu hình phạt lăng trì vậy! Tận hết sức hét lên như điên cuồng mới tỉnh ngủ, con hầu bé bước vào thưa: “Món cá viên đã nấu xong, mời phu nhân dùng điểm tâm”. Liền lập tức bảo bỏ đi. Hồi tưởng lại cảnh sợ hãi, mồ hôi đẫm như mưa, do vậy dặn đầy tớ bãi bỏ tiệc tùng. Ông cật vấn cặn kẽ, bà bèn thuật chuyện đầy đủ. Ông cười nói: “Bà một mực không chịu tin Phật. Nếu chẳng hứng chịu các nỗi khổ não, làm sao có thể buông dao đồ tể xuống được?” Bà vợ chỉ lắc đầu không nói. Từ đấy thôi ăn mặn mà ăn chay cùng giữ giới kiêng sát sanh. Đấy là chuyện trong niên hiệu Gia Khánh.
Hình thể giữa người và vật do tội hay phước mà sai khác. Đã may mắn được làm người thì phải nên thương xót loài vật cùng mang cái thân máu thịt này, cùng có tánh linh tri này mà tìm cách cứu vớt, che chở để bọn chúng thoát lìa sự giết chóc thì người ấy đời đời sẽ được làm người. Nếu lại còn có thể tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì sẽ cậy vào sức từ tâm không giết ấy mà sẽ từ tạ Sa Bà mãi mãi, mau thoát nỗi khổ luân hồi, cao đăng An Dưỡng, vĩnh viễn hưởng niềm vui chân thường. Nếu coi loài vật là thức ăn rồi mặc tình tàn sát thì khi một hơi thở ra không hít vào được nữa, thần thức sẽ đọa trong loài ấy, dẫu có hối cũng chẳng ích gì!
Hơn nữa, vị phu nhân [được nhắc đến trong câu chuyện trên đây] tánh tình tàn nhẫn, hung ác, trọn chẳng thể đem tình lý khuyên nhủ được, nhưng do một đêm nằm mộng liền thôi ăn mặn mà ăn chay, kiêng giết, phóng sanh. Do vậy biết rằng con người và loài vật vốn không hai. Đời sống giống như giấc mộng, sự – lý tương đồng. Nếu chẳng mau chóng sửa đổi tâm trước, khó khỏi hứng chịu quả báo sau này. Hễ sanh làm dị loại thì đời đời kiếp kiếp thường bị giết chóc, muốn lại được làm thân người, trọn chẳng có lúc nào! Vì thế, sau khi nằm mộng bèn liền giác ngộ. Do [đích thân cảm nhận] nỗi khổ thảm khốc, chỉ sợ đời sau phải chịu đựng lần nữa. Nhưng vị phu nhân ấy trong đời trước vốn có thiện căn lớn lao nên mới lấy được người chồng từ thiện, nhưng vì mê muội sâu nặng nên trải qua mấy chục năm hun đúc vẫn chẳng thể cảm hóa được bà ta. Nếu chẳng nằm mộng thấy như thế thì nỗi khổ trong tương lai sẽ chẳng thể nào nói được nổi!
Kính khuyên người đời ai nấy đều nghĩ đến điều này thì sẽ thấy hết thảy các thứ thịt giống như thịt của chính mình. Dẫu bị uy hiếp, dùng cực hình khống chế vẫn chẳng dám ăn, huống hồ chẳng bị ai sai khiến ư? Quan Đạo Doãn xứ Cối Kê là Hoàng Hàm Chi bẩm tánh nhân từ, ăn chay thờ Phật, do thấy gần đây thiên tai nhân họa liên tiếp xảy ra, nguyên do phần lớn là do sát sanh ăn thịt mà khởi. Do vậy liền viết cuốn Khuyến Giới Sát Phóng Sanh Văn (văn khuyên kiêng giết, phóng sanh) bằng thể văn Bạch Thoại, cho đúc bản kẽm để lưu truyền nhằm mong độc giả đều cùng phát khởi tấm lòng trung hậu, khoan dung, trắc ẩn, không nghĩa nào chẳng rõ, không điều nghi chẳng cởi gỡ. Lại còn được pháp sư Đế Nhàn thuộc chùa Quán Tông ước theo nghĩa “đồng thể duyên sanh” và ý chỉ của các kinh Phạm Võng, Lăng Nghiêm, Lăng Già v.v… để viết lời tựa, còn Quang thì dựa theo tình lý và những sự thực trong cõi đời gần đây để phụ họa thêm, ngõ hầu những ai biết yêu thương chính mình sẽ đều cùng yêu thương loài vật (mùa Xuân năm Dân Quốc 13 – 1924)
- Lời tựa quyên mộ lập hội Một Vạn Người Kết Duyên Cùng Sanh Tây Phương của chùa Kim Đài tại Đan Dương
Đức Đại Giác Thế Tôn thương xót chúng sanh mê trái tự tâm, luân hồi lục đạo trải kiếp lâu xa, không được cứu vớt, không chỗ quay về, chịu các thứ khổ sở, cay đắng không thể thoát khỏi. Do vậy, dấy lòng Vô Duyên Từ, vận lòng Đồng Thể Bi, thị hiện giáng sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội. Trong thời gian ấy, do tùy theo căn cơ mà lập giáo sai khác, do duyên mà pháp khác biệt. Đại, Tiểu, Thiên, Viên, Quyền, Thật, Đốn, Tiệm, thảy đều thuận theo cơ duyên khiến cho mỗi căn cơ đều được lợi ích. Nhưng trong số ấy, tìm lấy một pháp thích hợp cả ba căn, thâu tóm trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn, thực hiện dễ mà thành công cao, dùng sức ít mà đạt hiệu quả nhanh chóng, chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà được dự vào Hải Hội, nhất định ra khỏi luân hồi ngay trong một đời này thì không gì thù thắng siêu tuyệt bằng “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương!” Vì thế, các kinh Đại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v.v… các vị đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v… các vị đại tổ sư như Mã Minh, Long Thọ v.v… đều cùng cực lực tán thán, khuyên khắp hết thảy mọi người tu trì.
Tới khi đại giáo được truyền sang Đông, Viễn công đại sư ẩn cư tại Lô Sơn, sáng lập Liên Xã, hoằng dương, lưu truyền rộng rãi pháp này. Lúc kết xã lần đầu tiên, cao tăng, đại nho dự hội gồm một trăm hai mươi ba vị. Nếu tính suốt đời Ngài, trong ba mươi mấy năm, những người tham dự Liên Xã niệm danh hiệu Phật, được tiếp dẫn vãng sanh nhiều khôn kể xiết! Từ đấy về sau, đời nào cũng có cao nhân hoằng dương Liên tông, hướng dẫn làm lợi hàm thức. Trong thời hai vua Tống Thái Tông và Tống Chân Tông, pháp sư Tỉnh Thường trụ trì chùa Chiêu Khánh ở Tây Hồ, tỉnh Chiết Giang, hâm mộ di phong Lô Sơn, kết Tịnh Hạnh Liên Xã. Văn Chánh Công Vương Đán là người quy y đầu tiên, trở thành người xướng suất hướng dẫn. Phàm là những vị quan to, hạng quyền thế, học sĩ đại phu xưng là đệ tử dự vào liên xã cũng được một trăm hai mươi mấy vị. Hàng sa-môn lên đến mấy ngàn, còn thường dân khó lòng kể xiết. Sau này có Lộ Công Văn Ngạn Bác làm quan trải bốn đời vua Nhân Tông, Anh Tông, Thần Tông, Triết Tông [nhà Tống] ra vào làm quan, làm tướng năm mươi mấy năm, làm quan đến chức Thái Sư, được phong là Lộ Quốc Công, bình sinh dốc lòng tin tưởng Phật pháp. Tuổi già càng dốc sức hướng về đạo, chuyên tâm niệm Phật chưa từng lười nhác chút nào, cùng pháp sư Tịnh Nghiêm ở kinh đô lập hội mười vạn người cầu sanh Tịnh Độ. Trong thời ấy, đa số hàng sĩ đại phu được ông giáo hóa; ông thọ đến chín mươi hai tuổi, niệm Phật qua đời. Ông có làm một bài tụng như sau:
Tri quân đảm khí đại như thiên,
Nguyện kết Tây Phương thập vạn duyên,
Bất vị tự thân cầu kế hoạt,
Đại gia tề thượng độ đầu thuyền.
(Biết anh gan lớn bằng trời,
Tây Phương xin hãy kết mười vạn duyên,
Chẳng nhằm tính kế sống riêng,
Mọi người đều đã bước lên đầu thuyền)
Chùa Kim Đài là chốn thù thắng ở Đan Dương, là đạo tràng Tịnh Độ. Thoạt đầu là đạo quán[10], chính là chỗ Thầm Mẫu[11] đời Tấn tu luyện bay lên vậy. Đến đời Tống đổi tên thành Tiên Đài Quán. Từ đời Tống đến đời Thanh có lúc hưng, lúc suy khác nhau. Trong niên hiệu Hàm Phong, bị đốt trụi trong chiến tranh trở thành khoảng đất trống. Đến giữa niên hiệu Đồng Trị, đại sư Bảo Lâm và bốn người cùng chí hướng vân du đến nơi đây bèn kết lều tranh để ở, dần dần lập Liên Xã, tiếp đãi người lui tới tu tập. Đến năm Quang Tự 23 (1897), xây dựng đại điện. Do vậy, điện đường, liêu xá mới hơi hoàn bị, kham làm nơi cho Tăng chúng an trụ tu hành. Tông chỉ của họ là chuyên tu Tịnh nghiệp cầu lên thượng phẩm, vì thế đặt tên chùa là Kim Đài (đài vàng).
Năm Dân Quốc thứ năm (1926) đặc biệt lập ra quy ước, vĩnh viễn biến chùa thành thập phương thường trụ, sai pháp đồ là Huệ Môn,Tâm An, Học Tài, Bồi Căn v.v… nối tiếp làm Trụ Trì. Học trò Sư là Phổ Đạo, sau khi xuất gia, tham yết khắp các danh sơn, đến tận Ấn Độ. Phàm những nơi thánh tích rành rành của đức Thích Ca đều đến lễ bái, gặp gỡ cao nhân thật nhiều. Lúc trở về thỉnh được một bức tượng Phật bằng ngọc, mấy viên chân thân xá-lợi của Như Lai, đáng gọi là “mộ đạo, trọng pháp”, chẳng sợ gian nan, cay đắng.
Trụ Trì hiện thời là Bồi Căn, muốn lập mấy gian Niệm Phật Đường để làm chỗ tinh tấn tu trì Tịnh nghiệp quanh năm. Lại lo chùa không có tài sản cố định, sau này sẽ khó lòng duy trì vĩnh viễn, cũng như muốn cho khắp những ai hữu duyên đều được thấm nhuần pháp lợi, thẹn chẳng có đạo phong như Lô Sơn, Chiêu Khánh, lại chẳng có sức của một vị thầy nghiêm túc như Lộ Công. Do vậy bèn châm chước, lập ra hội Một Vạn Người Kết Duyên. Phàm những ai gia nhập hội đều bỏ ra một đồng, dùng công đức của một vạn người để tậu hết ruộng đất, lấy hoa lợi thu được hằng năm để cung cấp chi phí cơm áo cho các vị sư niệm Phật, ngõ hầu có cái vốn để tu trì, hành đạo không bị trở ngại, suốt đời quy mạng, dốc lòng thành cho đến hết báo thân, thoát Sa Bà, sanh về Cực Lạc, vượt dòng phàm, dự vào hội thánh, đều do một vạn người thành tựu.
Chế ra một tấm bảng hình hoa sen ghi tên hết những người bỏ tiền ra, treo hai bên vách của Niệm Phật Đường để mong họ vĩnh viễn được hưởng Phật quang, thường nghe Phật hiệu. Do Phật lực, pháp lực, sức tu trì cầu nguyện khẩn thiết của chúng tăng mà trong đời hiện tại tội chướng sẽ ngầm tiêu, các duyên thuận thảo, thích hợp, sẽ hưởng năm điều phước như Cơ Tử đã luận, trọn đủ tam đa như người được sắc phong ở đất Hoa đã chúc tụng[12]. Lâm chung sẽ được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương, giã biệt tám sự khổ trong nhân gian, lìa năm thứ suy trong đường trời[13]. Từ đấy thường hầu Phật Di Đà, hằng dự vào hải chúng, nghe viên âm mau thấu hiểu tự tánh, thấy diệu cảnh triệt chứng duy tâm. Niềm vui ấy chẳng thể nào ví dụ được! Những người giúp cho kẻ khác được thành tựu bằng cách bỏ ra một bữa ăn của chính mình để giúp cho người khác thành tựu sẽ hưởng quả báo đến tận đời vị lai trọn chẳng có lúc nào hết. Có ai muốn siêu độ tiên vong và tự cầu vãng sanh thì xin hãy ghi phương danh, cùng đăng tên trên bảng sen.
- Lời tựa cho Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã Lưu Thông Bộ (bộ phận phát hành kinh sách của Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã)
Phật pháp là đèn đuốc cho đêm dài vô minh, là thuyền bè trong biển khổ sanh tử. Giữ thân, xử thế, mong thành thánh, thành hiền, cùng lý, tận tánh, liễu sanh thoát tử, không gì chẳng được [Phật pháp] giúp cho thành tựu từ đầu cho đến cuối. Ấy là vì đức Như Lai thuyết pháp tùy thuận căn cơ của chúng sanh. Đối với kẻ căn cơ nông cạn thì Ngài dạy giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thâm nhập sâu dần ắt sẽ có thể đạt đến mức tam nghiệp thanh tịnh, nhất tâm viên minh. Đối với kẻ căn cơ sâu thì Ngài liền giảng diệu lý tâm tánh khiến cho họ lập tức ngộ nhập, nhưng công phu tu trì vẫn chẳng rời những chuyện giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận v.v… Đấy gọi là: “Pháp không cạn – sâu. Cạn hay sâu do người. Người căn tánh viên đốn nhận lãnh pháp thì không pháp nào chẳng viên”.
Những kẻ chỉ chú trọng bàn nói điều huyền lẽ diệu, miệt thị sự tướng nhân quả và pháp môn Niệm Phật đều là vì chưa thể thấu hiểu cặn kẽ: Đức Như Lai chứng đắc triệt để tâm tánh, thành Bồ Đề đạo đều do trải bao kiếp tu các điều lành, tích công lũy đức mà ra! Muốn chứng tâm tánh để thành giác đạo, nếu chẳng thực hiện từ “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành” thì có khác nào chim không cánh lại muốn bay, cây không rễ lại muốn xum xuê đó ư?
Quang lạm dự vào Tăng chúng đã năm mươi năm, chẳng có ích gì thế gian lẫn xuất thế gian, thường nghĩ thế đạo, nhân tâm ngày càng đi xuống, tính lưu thông thiện thư và những sách Phật đơn giản, gần gũi để mong vãn hồi. Năm Dân Quốc thứ bảy (1918), bèn khắc in An Sĩ Toàn Thư. Sách này dựa ngay trên nhân quả trong thế gian để làm sáng tỏ chân lý của đạo Nho, đạo Thích. Người trí đọc đến sẽ lên thẳng bờ giác, kẻ ngu xem tới cũng thoát đường mê. Đến năm Dân Quốc thứ mười (1921), có người bạn khuyên nên in theo dạng rút nhỏ để lưu truyền khắp cả nước; nhưng do người hèn kém, đức mỏng manh, chỉ quyên mộ in được năm sáu vạn bộ. Sau đấy lại có người tiếp tục in ra, cũng được năm sáu vạn bộ. Ấn Quang Văn Sao cũng in mấy vạn.
Ngoài ra những loại sách chỉ có một cuốn thì cũng có tới mười mấy thứ tùy duyên in ra để biếu tặng. Cuốn Di Đà Kinh Bạch Thoại Chú của ông Hoàng Hàm Chi đã in mấy vạn bản. Tâm Kinh và Triêu Mộ Công Khóa Bạch Thoại Chú (chú giải khóa tụng sáng tối bằng thể văn Bạch Thoại) cũng là những sách được người học Phật thích xem. Cuốn Quán Âm Bổn Tích Tụng của Hứa Chỉ Tịnh đã in được tám vạn bản. Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ đã in sáu vạn bản. Về sau này, bộ sách này sẽ được in ra đến mấy chục trăm vạn bản, quả thật là một bộ sách sẽ tạo căn cứ lớn lao cho sự vãn hồi thế đạo nhân tâm. Các loại sách ấy đều có lưu lại Chỉ Bản, hoặc hai ba bốn bức khác nhau, để mong sau này sẽ được tiếp tục in. Quang già rồi, muốn diệt tung tích, ẩn náu lâu dài để đợi lúc lâm chung, nhưng các vị Vương Nhất Đình, Thí Tỉnh Chi, Nhiếp Vân Đài, Trầm Tinh Thúc, Quan Quýnh Chi, Hoàng Hàm Chi v.v… và thầy Minh Đạo bàn định thiết lập Lưu Thông Bộ trong Tịnh Nghiệp Xã, cử một hai vị chân tâm thật hạnh, tự lợi, lợi tha để lo liệu chuyện ấn hành, biếu tặng v.v… thì kinh sách sẽ được cuồn cuộn nối tiếp lưu thông không ngớt.
Trừ những loại sách này ra, nếu có những sách nào hợp căn cơ ích lợi cho cõi đời cũng sẽ sắp chữ, ấn loát, lưu thông, chỉ không chấp nhận những thứ sách thâu thập tràn lan, tà – chánh xen tạp v.v… đến nỗi hoại loạn Phật pháp, khiến cho chúng sanh nghi ngờ, lầm lạc, ngõ hầu hết thảy những người cùng hàng trong hiện tại và vị lai đều cùng mở mang chánh kiến, đều cùng gội ân Phật. Từ đấy biết nhân quả, cẩn thận đối với tội – phước, dứt cạnh tranh, đề cao lễ nghĩa, nhân nhượng, thay đổi phong tục, cõi đời sẽ lại được giống như thuở Đường Ngu, vật sung túc, dân bình yên, tự cùng hưởng thái bình nào có khó chi?
- Lời tựa cho tờ niên san số thứ hai của Phật Giáo Tịnh Nghiệp Xã ở Vô Tích
Hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng ra ngoài nhân quả. Có kẻ chẳng tin chê là mờ mịt, chẳng thể truy cứu, nên thành ra bỏ thiện nhân, thiện quả để chọn lấy ác nhân, ác quả. Bởi lẽ, tin nhân quả thì sẽ dè dặt, kinh sợ, răn dè, cẩn thận ngay trong những nơi không ai thấy được, kiêng nể ngay trong chỗ không ai nghe được, tu sửa đức mình. Không tin nhân quả thì sẽ phóng túng, tà vạy, xa xỉ, trọn chẳng kính sợ mạng trời, khinh miệt ngôn giáo của thánh hiền, buông tuồng không nể nang. Vì thế, kinh Thư nói: “Tác thiện giáng chi bách tường, tác bất thiện giáng chi bách ương” (làm lành thì trăm điều lành giáng xuống, làm điều chẳng lành thì trăm nỗi tai ương giáng xuống). Kinh Dịch chép: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương” (nhà chất chứa điều lành ắt sự vui có thừa, nhà chất chứa chuyện chẳng lành ắt tai ương có thừa). Gia đình hưng thịnh hay suy sụp, đất nước bình yên hay loạn lạc không gì chẳng do vì lẽ này gây nên.
Vì thế Khổng Tử muốn làm sáng tỏ Minh Đức phải lấy “cách vật” (trừ khử vật dục) làm gốc. “Vật” (物) là gì? Chính là những thứ tư dục chẳng hợp lẽ trong tự tâm. “Cách” (格) là gì? Như người mạnh mẽ chiến đấu với giặc, ắt mong sao tư dục phải tháo chạy ra xa. Tư dục trong tự tâm đã bị trừ khử rồi thì chánh tri sẵn có sẽ tự hiển lộ; đúng đúng, sai sai đều rõ ràng, ý thành, tâm chánh, thân tu. Như vậy thì “cách vật” chính là căn bản để “làm sáng tỏ Minh Đức”. Đã có thể trừ khử món vật tư dục thì trọn chẳng đến nỗi có những tri kiến tà vạy, sai bậy không hợp lý. Do vậy sẽ tấn tu không ngừng, muốn chẳng đạt đến địa vị thánh hiền cũng không thể được! Tiếc cho cõi đời phần nhiều chẳng suy xét lẽ này, đều coi việc thúc đẩy tri thức của chính mình đến mức cùng cực nhằm thấu hiểu cùng tận nguyên lý của mọi sự vật trong thiên hạ là “trí tri cách vật”. Đấy là coi cành nhánh như cội gốc, coi cội gốc là cành nhánh! Mất mát lớn lắm!
Chỉ vì thánh mất niệm mà thành cuồng, do cuồng khắc chế được ý niệm mà thành thánh. Bước đầu tiên chỉ là có “cách vật” được hay không mà thôi! Hễ “cách vật” được thì sẽ cao đăng địa vị thánh hiền; chẳng “cách vật” được thì sẽ rớt vào loài cầm thú. Người học Phật tu Giới – Định – Huệ, đoạn tham – sân – si, cũng chính là thể hiện ý “cách vật trí tri” vậy! Ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành để dốc sức tu thiện pháp thế gian; lại hằng ngày còn thường xưng niệm vạn đức hồng danh của A Di Đà Phật thì lâu ngày chầy tháng sẽ hợp với khí phận của Phật, khi còn sống sẽ tự giống như bậc hiền thánh, lúc mất liền sanh về cõi nước Như Lai.
Ông Viên Lệ Đình ở Vô Tích xưa kia là một gã ngông cuồng, do nghe Phật pháp biết nhân quả báo ứng đều do tự tâm cảm vời, muốn bỏ ác quả để tận lực tu thiện nhân. Do thấy chính mình may mắn đã được biết tới [những điều trên đây], bèn thương xót những kẻ khác chưa ngộ, liền tập hợp những người cùng chí hướng, lập ra Tịnh Nghiệp Xã. Phàm những ai gia nhập đều tùy theo khả năng của chính mình mà sốt sắng hành điều lành thế gian để mong chẳng phụ cái đạo làm người, kiêng giết, bảo vệ sanh vật, ăn chay, niệm Phật, ngõ hầu cùng sanh về cõi Cực Lạc. Nay đã hơn ba năm rồi, đem những ý nghĩa trọng yếu đã được đề xướng trong Liên Xã, những hành trạng tu trì của đại chúng trong Liên Xã và những lợi ích đạt được, cũng như những sự nghiệp đã thực hiện, những kinh phí đã dùng trong hai năm gần đây nhất, mỗi mỗi đều ghi chép đầy đủ kể từ ngày thành lập đến nay để tạo thành tờ niên san kỳ thứ hai. [Ông Viên] muốn đem in ra, yêu cầu tôi viết lời tựa. Do vậy bèn lược thuật đại ý của nhân quả, cách vật trí tri để trình bày. Đối với nguyên do của sự tu trì Tịnh nghiệp thì đã có những kinh luận và trước thuật Tịnh Độ nên không cần phải nhắc đến ở đây!
- Lời tựa cho Hoằng Hóa Nhật Ký
Chuyện trong thiên hạ lúc thoạt đầu đều do một hai người phát khởi; rốt cuộc một người xướng, trăm người họa, cỏ rạp theo gió đùa. Huống chi đại pháp của đức Như Lai chính là đạo sẵn có trong cái tâm của chúng sanh, nhưng do mê chưa ngộ nên ai nấy đều tự trái nghịch. Một mai có bậc tiên giác bảo ban, sẽ như đến trước gương báu đích thân thấy được diện mục sẵn có của chính mình, mới biết từ trước tới nay luôn là kẻ chẳng tự biết! Do vậy buồn – vui chen lẫn, tâm tình bồi hồi, đem những điều mình đã biết thưa khắp với những kẻ cùng hàng, nguyện cho khắp mọi người cùng chứng được Phật tánh sẵn có để thoát khỏi luân hồi huyễn vọng, ngõ hầu chẳng phụ [danh xưng] con người sánh cùng trời đất thành ba ngôi, sẵn có cái tâm bình đẳng không hai với Như Lai.
Từ khi đại pháp được truyền sang phương Đông, những bậc vua thánh tôi hiền các đời đa số đều hộ trì, lưu thông. Trong số ấy có một hai tên vua bạo ngược, dăm kẻ sĩ thiên chấp lầm lạc hủy diệt, hoặc chê bai xằng bậy, như ngửa mặt nhổ lên trời, giơ tay che mặt trời, trọn chẳng gây tổn hại gì cho bầu trời hay mặt trời được, chỉ khiến cho bọn vô tri bắt chước tạo nghiệp và bậc có trí sanh lòng thương xót sâu xa! Những nhà Nho đời sau chưa hề đọc kinh Phật, thường dựa theo những lời lẽ của bọn Hàn – Âu – Trình – Châu xúm nhau gièm báng, chẳng biết họ Hàn, họ Âu trọn chẳng hiểu gì về Phật pháp mà cứ xằng bậy chê bai những hình tích khác với thế gian. Bọn Trình – Châu do tri kiến môn đình quá nặng, ngấm ngầm sùng phụng [Phật pháp] nhưng mặt ngoài chống trái, muốn cho thiên hạ đời sau đều tưởng bọn họ đã đích thân chứng đắc tâm pháp của thánh nhân, nên thường thốt ra những lời “bịt tai trộm linh” để ngăn lấp kẻ hậu học khiến họ không học theo Phật pháp được. Nếu là kẻ tầm thường kém cỏi, ắt sẽ suốt đời chẳng thể được nhuần gội pháp trạch của Phật, hiểu biết tự tâm. Nếu là bậc đặc biệt thông đạt thì thoạt đầu bị những thuyết ấy mê hoặc, rốt cuộc ắt sẽ tin nhận Phật giáo. Như các vị Trương Quý Trực, Sa Kiện An v.v… trong đời gần đây đều đọc kỹ càng kinh Phật, thấu hiểu sâu xa lý ấy, dùng kinh để làm chứng, dùng tâm để ấn, chẳng bị chướng ngại bởi những lời ngăn chặn của bọn chúng, tiến thẳng đến pháp bình đẳng, đại đạo Bồ Đề không có cao – thấp ấy của đức Như Lai.
Cư sĩ Giang Dịch Viên ở Vụ Nguyên, tỉnh An Huy, phẩm đức lẫn học vấn đều ưu tú, chí hạnh cao thượng, đảm nhiệm vai trò giáo chức đã lâu, tận tâm giảng dạy. Do quá sức mệt nhọc nên trong năm Dân Quốc thứ 10 (1921) bèn ngã bệnh nặng. Các thầy thuốc ở Thượng Hải đều không chữa trị được. Ông ta vốn chẳng tin tưởng chút nào vào Phật pháp, một người bạn thương ông ta bệnh khổ, khuyên ông ta hãy ăn chay niệm Phật và niệm kinh Kim Cang, lược thuật lợi ích do niệm Phật, niệm kinh. Dịch Viên tin nhận, vâng làm, chẳng thuốc men gì mà bệnh tự lành. Cảm kích tột bậc, lắng lòng nghiên cứu mới biết Phật là đại thánh nhân, giáo pháp của Ngài có những chuyện chẳng thể nghĩ bàn. Từ đấy mới biết tâm pháp của thánh nhân Nho giáo phần nhiều đã bị vùi lấp bởi những thứ văn tự mang nặng tánh chất tri kiến môn đình của tiên Nho, liền chọn lấy pháp môn Tịnh Độ là pháp “thực hiện dễ, thành công cao” để cực lực đề xướng trong làng. Do pháp này thích hợp khắp ba căn, dạy cho ai nấy đều giữ vẹn luân thường, đều trọn hết bổn phận, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Vì thế, được hết thảy mọi người tin tưởng.
Ba bốn năm qua, người sanh lòng tin niệm Phật rất đông. Có người mắt đã lòa lại được sáng, có kẻ bệnh ngặt liền lành, có người biết trước lúc mất, ngồi niệm Phật qua đời. Năm trước Vụ Nguyên bị hạn hán, kỳ đảo không linh nghiệm, ông ta bèn suất lãnh mọi người niệm Phật, mưa ngọt liền trút xuống. Do vậy, bèn lập Phật Quang Xã nhằm tuyên truyền xa gần. Người cùng ấp là Trình Tiểu Bằng, sáng suốt, mẫn tiệp, chuyên dốc, thành thật, là giáo viên, rất ngưỡng mộ học thức, phẩm hạnh của Dịch Viên, nhưng hơi nghi ngờ sự tu trì gần đây của ông ta, chẳng biết có bị trở thành mê tín hay không, hay là chân chánh thấy được đạo cả; do vậy liền tìm đến thân cận để giải quyết lòng ngờ.
Ông ta được Dịch Viên gần là lấy chính bản thân mình, xa là lấy muôn loài, chứng bằng kinh, ấn bằng tâm, chẳng tiếc sức thừa, uyển chuyển dạy dỗ. Ông ta liền giống như được nhuần thấm bởi mưa đúng thời, như ngồi hưởng gió Xuân, bèn dốc trọn lòng nghiên cứu, cực lực khuyến hóa. Từ Vụ Nguyên đến Hưu Ninh, cho tới Hấp Huyện, Y Huyện, cho đến Kỳ Môn, thăm viếng khắp những vị cao minh, thông đạt, sẵn lòng tin tưởng, hướng về Phật pháp để lần lượt khuyên dạy. Sau thời gian hơn nửa năm đã giới thiệu hơn bốn trăm người tham dự Phật Quang Xã. Phàm với những nơi đi qua, những người gặp gỡ, những cảnh ngộ từng trải, gặp phải chiến tranh hay không, những chuyện phát khởi lòng tin chân thật tu trì và những lời vấn đáp giữa đôi bên, sự xướng họa giữa chủ và khách, đều chọn lấy những điều trọng yếu để ghi chép đại lược, đặt tên là Hoằng Hóa Nhật Ký.
Bản ghi chép này bất quá tùy nơi chốn, tùy duyên mà ghi chép những điều thấy, nghe, tuyên nói, để mong báo cáo với Dịch Viên nhằm chứng tỏ tấm lòng vui sướng, thật sự tin phục, tận lực hoằng hóa đạo này cũng như tình cảnh: Do “con người có cùng tâm này, tâm cùng một lý này” nên vừa đề xướng đều sanh lòng chánh tín tu trì mà thôi. Thoạt đầu, ông ta không có ý định truyền bá để mong xa – gần đều biết tới. Dịch Viên đọc xong, vui mừng vì thấy ông ta vừa mới nghe Phật pháp liền có được nhiệt tâm, nghị lực ấy. Các nơi trong tỉnh An Huy phong khí [Tịnh Độ] chưa được mở mang, thế mà Tiểu Bằng xướng suất, hướng dẫn trong vòng nửa năm đã khiến cho đa số người đời sanh lòng chánh tín, tu trì Tịnh nghiệp. Nếu chẳng phải ai nấy sẵn có Phật tánh, từng được thọ ân Phật từ đời trước, làm sao có thể đạt được như vậy? Do đó bèn viết lời tựa, giao phó cho thợ in khắc ván để truyền bá bốn phương nhằm mong tạo thành một căn cứ hòng cứu vãn thế đạo nhân tâm. Bất Huệ cùng Dịch Viên giao du thuận thảo, cũng như được mang tiếng ké là một thành viên của Phật Quang Xã, nên cũng gắng soạn một bài tựa để giãi bày nỗi lòng ngu thành của tôi, mong người thấy nghe đều cùng sanh lòng chánh tín, cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh Tịnh Độ, cùng thành Phật đạo đó thôi!
- Lời tựa cho sách Gia Đình Bảo Giám
Xem khắp cổ kim, dù nhà hay nước, hưng thịnh, suy vong, bình yên, loạn lạc, chưa bao giờ chẳng lấy cái thân của cá nhân đang cầm quyền để làm cội gốc. Vì thế nói: “Cái gốc của thiên hạ là đất nước, cái gốc đất nước là gia đình, cái gốc của gia đình là thân”. Nhưng muốn nước nhà quật khởi, hưng thịnh, lại cần phải biết cái gốc để lập thân. “Cội gốc để lập thân” như tôi vừa nhắc đến chính là “dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, đôn đốc luân thường, tin sâu nhân quả, dè dặt kiêng sợ, chỉ sợ trái vượt”. Làm được như thế thì sẽ có thể tỏa rạng được Minh Đức, ở yên nơi cảnh giới tốt đẹp tột cùng.
Lý ấy, sự ấy, phàm những ai có hiểu biết đều có thể thực hiện được; nhưng chẳng phải là lạ lùng, đặc biệt, huyền diệu đến nỗi muốn cầu mà không được. Bởi lẽ, đạo của Nghiêu – Thuấn chỉ là hiếu – đễ mà thôi. Chỉ vì thánh mất niệm thành cuồng, cuồng khắc chế được ý niệm bèn thành thánh. Thất phu, thất phụ nếu thực hiện được như thế thì gần là con cái và anh em trai, chị em gái, chị em dâu đều cùng nhìn theo bắt chước nhau làm lành. Lâu ngày, phong thái ấy sẽ lan ra cả làng, cả ấp. Do vậy, kinh Thi khen ngợi Văn Vương là “hình ư quả thê, chí ư huynh đệ, dĩ ngự ư gia bang” (làm gương cho vợ của chính mình, rồi đến anh em, cho đến khắp cả nước nhà) chính là do ý nghĩa này.
Nhưng thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm! Bởi lẽ, gia đình chính là nơi phát sanh hiền tài trong thiên hạ; cha mẹ chính là những người để bậc hiền tài trong trời đất noi gương. Giáo dục trong gia đình nghiêm ngặt, chánh đáng thì những đứa con có thiên tư sẽ có thể tỏa rạng Minh Đức, ở yên nơi tốt lành tột cùng, hễ cùng quẫn thì riêng mình thiện mà cũng nêu gương trong làng, trong ấp, hễ hiển đạt bèn làm cho cả thiên hạ cùng được thiện, lập đại công, dựng đại nghiệp, ân trùm hoàn vũ, thấm nhuần không ngằn mé. Con gái thì giúp chồng dạy con, giữ vững chức phận phụ nữ, làm bậc mẫu nghi trong chốn khuê các, làm bậc thầy gương mẫu cho nữ giới. Lệ trạch[14] tạo lợi ích cho lẫn nhau như thế, đức đẹp càng tỏa rạng; há chẳng thể nào thuần phong mỹ tục, thiên hạ thái bình ư?
Những điều vừa nói trên đây chính là luận theo phía những kẻ có thiên tư thượng đẳng. Dẫu những kẻ thiên tư thuộc loại trung – hạ cũng biết tôn kính lễ nghĩa, vâng giữ phép tắc, biết giữ yên bổn phận, quyết chẳng đến nỗi trở thành hạng ương bướng, hèn hạ, chống đối. Trong cõi đời, muốn cho gia đình lẫn đất nước được quật khởi, hưng thịnh, thì cố nhiên phải nên chú trọng nơi đường lối giáo dục trong gia đình. Một người bạn tôi sẵn lòng lo toan cho đời, đau đớn nghĩ thiên tai nhân họa thường xuyên giáng xuống, nhân dân khốn khổ chẳng thể kêu gào nơi đâu, bèn đem mười thiên giáo huấn về vâng giữ luân thường, vốn là của báu gia truyền của nhà ông Thạch Thành Kim và tác phẩm Châu Tử Gia Huấn Giải của Châu Phụng Minh ghép chung lại, đặt tên là Gia Đình Bảo Giám, tính ấn hành để lưu truyền rộng rãi, ngõ hầu những người muốn hưng khởi nước nhà trong cõi đời đều có cái để làm vốn.
Toan tính xong xuôi bèn sai Quang cất bút trần thuật những nét chánh yếu để tạo thành lời tựa. Tuy lời lẽ [trong lời tựa này] không phù hợp sát sao cho lắm, nhưng ý nghĩa quả thật đích xác, không dối trá. Nguyện những người yêu nước thương nòi, thương yêu con cái trong cõi đời, mỗi người đều giữ lấy một cuốn để giáo hóa, chỉ dạy con cái thì thành tích chắc sẽ vượt ngoài những điều mong mỏi vậy. Ví như đang khát mà có được nước cam lộ, chẳng những hết khát mà còn nhanh chóng trừ được nhiệt não, thân tâm thanh lương.
Sách này văn chương tuy nông cạn, thông tục, nhưng quả thật là cửa ngõ để mong thành thánh, thành hiền. Đến khi đã thâm nhập thì sẽ lên thẳng chỗ huyền diệu, sâu thẳm, ai có thể cự lại được? Vua Thuấn là bậc đại thánh nhân mà vẫn còn thích suy xét những lời nông cạn, huống là những lời lẽ tinh thâm, thuần túy tột bậc thiết thực đối với thân tâm này ư? Nguyện ai nấy quý trọng, gìn giữ để làm tấm gương soi sáng tương lai thì gia đình may mắn lắm mà thiên hạ cũng may mắn lắm thay!
- Lời đề từ và bài tựa cho sách Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận Giảng Nghĩa
Thế pháp, xuất thế pháp,
Chỉ do một tâm tạo.
Tâm sanh thì pháp sanh,
Tâm diệt, pháp bèn diệt.
Muốn hiểu cách diệt tâm,
Phải biết cội nguồn pháp.
Hễ hiểu cội nguồn pháp,
Pháp diệt, tâm chẳng còn.
Ngũ Uẩn đã không tịch,
Nhất Chân cũng chẳng lập.
Viên mãn Bồ Đề đạo,
Độ hết thảy khổ ách.
Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận[15] là do Thiên Thân Bồ Tát muốn cho người đời đều biết bản thể bất sanh, bất diệt, thường trụ bất biến của cái tâm, nên tạo ra luận này nhằm giảng rõ: “Tất cả các pháp thế gian hay xuất thế gian nếu gom về số mục đại cương thì có một trăm pháp”. Trong một trăm pháp ấy, chỉ có một pháp Chân Như là chủ thể, những pháp khác đều nương theo Chân Như mà lập. Nếu hiểu rõ hết thảy các pháp vốn tự bất sanh thì hết thảy các pháp đều là Chân Như. Như vậy thì pháp nào cũng viên thông, sự gì cũng là đạo. Tịch – chiếu cùng dung thông, đâu đâu cũng gặp nguồn. Nếu tùy theo căn cơ để lợi sanh thì vạn đức phô bày trọn vẹn. Nếu tâm ngầm khế lý thì một pháp chẳng lập!
Quán Thế Âm Bồ Tát dùng Bát Nhã sâu xa để soi thấy Ngũ Uẩn đều không. Ngũ Uẩn là danh xưng đại lược của trăm pháp. Đã thấy chúng đều là không thì Ngũ Uẩn đều trở thành Bát Nhã sâu xa. Như Phật quang vừa chiếu đến thì mọi tối tăm đều tiêu, không một tí tẹo đen tối nào còn lưu lại được! Người học đạo hiểu được chỗ quan yếu này thì Tánh hay Tướng, Hiển hay Mật đều hệt như nhau. Nếu không, sẽ chấp vào lời lẽ, trọn chẳng có chỗ chỉ quy; vào biển đếm cát, uổng công nhọc nhằn! Cư sĩ Quý Thánh Nhất túc căn sâu dầy, quyết chí siêng học, thân cận pháp sư Đế Nhàn chùa Quán Tông đã lâu, đã hiểu được tâm yếu của tông Thiên Thai, lại còn đọc rộng rãi các kinh luận thuộc Tánh – Tướng, hiểu trọn vẹn các đế lý Chân và Tục. Khi trước đã chú giải Tâm Kinh, nay lại chú giải luận này để mong sao Tánh Tông lẫn Tướng Tông đều như nước hòa với sữa, tu trì đơn hay kép tùy theo ý mình ưa thích. Ông ta dùng những từ rõ ràng dễ hiểu để xiển dương khiến cho [người đọc có thể] hiểu được lý sâu.
Ấy là vì muốn cho người đọc đều cùng mở mang tri kiến chân chánh, cùng ngộ pháp môn duy tâm, cùng chứng được Chân Như sẵn có trong trăm pháp, cùng thấy được tướng Không của các pháp nơi Ngũ Uẩn. Nếu người học từ chỗ rộng rãi thấy được chỗ ước lược, biết được cái chủ yếu trong mọi điều thì chẳng những các pháp chẳng thể đạt được mà ngay cả Chân Như, tướng Không cũng chẳng thể đạt được! Có như vậy thì mới vui sướng cuộc đời, không còn có chuyện gì phải vướng mắc nữa! Nếu như căn cơ kém hèn, chẳng thể đạt được như vậy; cố nhiên hãy nên sanh lòng tin phát nguyện, niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, như ngài Vĩnh Minh đã dạy: “Nhược đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ” (nếu được thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ) chính là vì ý này. Do Quang mong trở về mà chưa được, thường nghĩ đến những ai đang còn rong ruổi nên mới nói lời này, đừng trách là “ăn nói dây cà ra dây muống” thì may mắn lắm thay! (ngày mồng Tám tháng Chạp năm Quý Dậu, tức năm Dân Quốc 22 – 1933)
- Lời tựa cho tác phẩm Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh Tân Sớ
Chân Như Phật Tánh, chúng sanh và Phật trọn không hai. Do tu trì nghịch hay thuận mà thánh – phàm khác biệt vời vợi một trời một vực! Ấy là vì chúng sanh tuy sẵn có Tánh Đức, nhưng trọn chẳng có Tu Đức. Dẫu có tu tập vẫn đều trái nghịch Tánh Đức, nên gọi là “nghịch tu”. Bởi vậy, Tánh Đức không có cách nào hiển hiện để thọ dụng được! Phật thì từ nơi Lý Thể của Tánh Đức sẵn có bèn dụng công Tu Đức về mặt Sự, do vậy Tam Hoặc đều hết sạch, bởi đó Nhị Nghiêm[16] đều viên mãn. Công Tu Đức đến cùng cực thì Tánh Đức phô bày trọn vẹn, thường trụ Tịch Quang, hưởng thụ pháp lạc. Nhưng do bi tâm vô tận, đức Phật lại thị hiện giáng sanh trong thế gian, thị hiện thành Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi nói đủ mọi pháp khiến cho ai nấy đều biết lấy “hạt châu trong chéo áo”, theo đường trở về nhà.
Lại do chúng sanh đời Mạt Pháp chướng sâu, huệ cạn, nếu cậy vào tự lực quyết khó thể liễu sanh thoát tử ngay trong đời này. Do vậy, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, khiến cho hàng phàm phu sát đất và các vị Bồ Tát tín giải tu chứng đều cùng nương theo hoằng thệ nguyện lực của A Di Đà Phật vãng sanh Tây Phương để mong triệt chứng Tánh Đức trọn chẳng tiếc nuối gì! Đấy chính là khuôn phép lớn lao xuất thế độ sanh của đức Như Lai. Đức Phật thị hiện giáng thế tại Ấn Độ vào năm thứ 26 (969 trước Công Nguyên) đời Châu Chiêu Vương. Trải qua một ngàn năm đến năm Vĩnh Bình thứ mười (67) đời Hán Minh Đế, vua mới thỉnh hai vị Phạm tăng là tôn giả Ca Diếp Ma Đằng (Kāśyapa Mātanga) và tôn giả Trúc Pháp Lan (Dharmaratna) mang kinh Phật, tượng Phật tới Lạc Dương. Hai vị tôn giả do thấy người Hoa mới nghe Phật pháp, nếu đem kinh viên đốn sâu xa chỉ dạy thì giáo pháp chẳng phù hợp căn cơ, khó thể được lợi ích! Do thấy Tứ Thập Nhị Chương Kinh văn lẫn nghĩa rõ ràng, con người dễ lãnh hội, nên dịch ra tiếng Hán trước.
Thế nhưng, Phật trí viên diệu, tuy cạn mà sâu, giáo lý viên đốn vẫn trọn đủ [trong bản kinh ấy]. Kẻ nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí, tùy theo trí thức của đương sự mà thôi! Chú giải kinh này chỉ có bản của ngài Ngẫu Ích là nêu bật được tông chỉ, những bản chú giải khác cũng đều có lợi cho căn cơ một thời. Cư sĩ Quý Thánh Nhất đã có huệ căn từ đời trước, quy y với bậc tri thức của tông Thiên Thai là pháp sư Đế Nhàn, đích thân được nghe diễn giảng, khá có tâm đắc. Do vậy, bèn tùy duyên diễn nói, nhưng vẫn luôn chú trọng hướng dẫn về Cực Lạc. Đấy chính là tuân theo chỗ kết đảnh cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm, cũng giống như điều được đề xướng trong Thập Nghi Luận của Thiên Thai đại sư (Trí Giả đại sư). Bởi lẽ, pháp môn Tịnh Độ chính là chỗ quy túc của hết thảy các pháp môn. Hoa Nghiêm còn như thế, hậu học dám chẳng vâng theo ư?
Gần đây do có người thỉnh giảng kinh này, [cư sĩ bèn] thuận theo thời nghi, đặc biệt viết lời sớ giải mới, lập ra cách thức hòng dễ dẫn dắt kẻ mới học sẽ được nhờ vào đây mà tiến đến chỗ cao hơn; do đây mà người ta sanh được lòng tin, ắt sẽ xoay vần khuyến hóa rộng rãi hơn. Bởi vậy, chẳng tiếc lời giảng giải tường tận để không một nghĩa nào bị ẩn kín. Một bữa, đưa cho Quang xem bản thảo, lại cậy viết lời tựa. Quang vừa sanh ra được sáu tháng liền bị bệnh mắt, trong suốt sáu tháng chưa từng mở mắt, nên mục lực kém xa người khác. Nay tuổi đã bảy mươi lăm, mục lực càng suy yếu, chẳng thể xem kỹ ý nghĩa, đành nêu lên những điểm chánh yếu cho xong trách nhiệm. Mong sao những ai đọc kinh này và bản sớ giải này đều chú trọng hiểu tâm, rõ gốc, hiểu rõ pháp vô vi và xa lìa tài sắc, kiên quyết, dũng mãnh tu trì để mong đích thân chứng được vô thượng giác đạo “vô niệm, vô tác, phi tu, phi chứng”.
- Lời tựa ấn hành sách Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận Giảng Nghĩa
Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này; hết thảy hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này, thật sự là đạo thành thủy thành chung để chư Phật viên mãn Bồ Đề mà cũng là pháp để chúng sanh cậy vào Phật từ lực hòng liễu thoát ngay trong đời này. Lý ấy rất sâu, sự ấy cực dễ. Vì thế con người phần nhiều chẳng thể thấu hiểu những chỗ ẩn kín, nên hoặc cầu phước báo trời người, chẳng dám gánh vác ngay, hoặc bỏ tín nguyện cầu sanh để chuyên khán câu “người niệm Phật là ai”, khiến cho pháp do đức Như Lai đặc biệt lập ra để khắp hết thảy thượng thánh hạ phàm sẽ cậy vào Phật từ lực được cao dự Liên Trì hải hội ngay trong đời này bị trở thành pháp tự lực.
Do đã không có tín nguyện, dẫu có đích thân thấy được [người niệm Phật] là ai thì cũng chỉ là đại triệt đại ngộ mà thôi! Nếu Phiền Hoặc chưa hết thì vẫn luân hồi y như cũ. Do cảnh duyên trược ác, kẻ mê mất đông đảo, muốn liễu sanh thoát tử ắt phải đợi đến năm con lừa! Chẳng đáng buồn sao? U Khê đại sư[17] nương theo bổn nguyện, thị hiện giáng sanh, hiểu trọn vẹn Giáo, ngộ tự tâm nơi Thiền, dốc lòng tu Tịnh nghiệp, lợi khắp trời người, thương những kẻ mê muội trong cõi đời, chẳng biết “Tây Phương Cực Lạc thế giới vốn là duy tâm Tịnh Độ; đạo sư A Di Đà Phật vốn là tự tánh Di Đà”, bèn bỏ sự thực để chấp lấy lý Không rồi dạy người khác niệm “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Rốt cuộc cho rằng “đạo lợi khắp thánh phàm của đức Như Lai chỉ nhằm biểu thị pháp hoặc là chuyện ngụ ngôn”, chỉ mong khai ngộ, mặc kệ những điều khác, đến nỗi kẻ cao minh đâm ra chẳng bằng phường ngu phu ngu phụ cắm cúi niệm Phật mà có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp diệu đạo, cảm ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn liền được vãng sanh. Căn bệnh là do ham cao chuộng xa, chứ chưa thật sự hiểu sâu xa nguồn cội của sự cao xa. Rốt cuộc biến khéo thành vụng, cầu thăng lên đâm ra bị đọa xuống, thật đáng buồn thương! Đại Sư buồn xót khôn cùng, riêng soạn bộ [Tịnh Độ] Sanh Vô Sanh Luận nhằm chỉ thẳng tâm tánh của ba thứ tâm – Phật – chúng sanh không sai biệt.
Tâm tánh ấy có đủ vô lượng đức, bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến, nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng. Do mê hay ngộ khác nhau đến nỗi có mười giới sai biệt. Nhưng ngay trong mười giới ấy, mỗi mỗi không gì chẳng phải là “tâm sẵn đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là”. Cầu sanh Tây Phương chính là chân vô sanh, do sanh về cõi Tây Phương “tâm sẵn đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là”; không phải như kẻ chấp Lý phế Sự chỉ có cái danh xuông, chứ thật sự chẳng có cảnh Tây Phương! Ấy chính là “quyết định sanh nhưng không có tướng sanh, quyết định vô sanh nhưng không có tướng vô sanh”, sanh mà vô sanh vậy. Lấy tín nguyện niệm Phật để cầu sanh vào cõi Tây Phương “tâm sẵn đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là” của chính mình, cho nên tuy sanh mà không có tướng sanh, tuy không sanh nhưng chẳng trụ vào tướng vô sanh. Đấy chính là ý chỉ tổng quát của Sanh Vô Sanh Luận.
Hiểu rõ điều này thì ai chịu trái nghịch Tánh để tạo nhân quả trong tam đồ lục đạo nữa ư? Ngay cả nhân quả xuất thế trong tam thừa cũng chẳng coi là cao tột, tiến thẳng vào nhân quả Bồ Đề vô thượng vậy. Luận này gồm có mười chương, mỗi mỗi đều lấy ý chỉ “tâm sẵn đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là”, Tam Đế, Tam Quán để giảng rõ ý nghĩa khiến cho đứa con cùng quẫn lê la ăn xin đích thân thấy được hạt minh châu nơi chéo áo, gã lữ khách cô đơn lênh đênh trở về quê nhà sẵn có, trên khế hợp Phật tâm, dưới khế hợp thời cơ. Vì thế khi Ngài soạn luận xong, đem giảng diễn, nhạc trời vang rền khắp hư không để làm chứng cớ rõ rệt.
Từ đời Minh cho đến nay, đã hơn ba trăm năm, đời nào cũng có người lưu thông truyền bá bộ luận này. Gần đây, thế đạo nhân tâm ngày càng đi xuống, người có lòng lo toan muốn vãn hồi biết rằng nếu chẳng nhờ vào sự lý “nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo” như đức Phật đã dạy thì chẳng thể biến đổi lòng người được! Nếu chẳng nhờ vào pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương sẽ chẳng thể liễu sanh tử. Do vậy, họ đều nghiên cứu Phật học, nhưng vẫn riêng dốc sức nơi pháp môn Tịnh Độ. Cư sĩ Quý Tân Ích ở Hải Môn đã có huệ căn từ đời trước, dốc lòng tin tưởng Phật thừa, từng được đích thân theo học giảng kinh dưới tòa của ngài Đế Nhàn. Đối với ý chỉ Tam Đế, Tam Quán của tông Thiên Thai đã hiểu chắc chắn không còn sót gì. Do vậy các cư sĩ nơi thành Tô Châu thỉnh ông giảng giải luận này, ghi lại những lời giảng thành sách, đặt tựa đề là [Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận] Giảng Nghĩa, sai Quang viết lời tựa. Do vậy, tôi bèn đọc văn ấy, đáng gọi là “nêu tỏ được lý, phù hợp Thật Tướng sâu xa, lời lẽ hay khéo như hoa trời”. Nguyện những độc giả cùng vâng lãnh ý nghĩa “tâm sẵn đủ, tâm tạo, tâm làm, tâm là” để rồi chân tín, nguyện thiết, chí thành niệm Phật, cầu sanh Tây Phương thì mới chẳng phụ ngài U Khê một phen khổ tâm tạo luận cũng như ông Quý giảng nghĩa vậy!
- Lời tựa mừng thọ vợ chồng tiên sinh Lý Phụng Kỳ
Con người sống trong thế gian thọ hay yểu, cùng quẫn hay hanh thông, đều có nhất định hoặc không nhất định. Hễ nhất định thì Nho gia gọi là Mạng, gọi là “trời ban cho”. Nhưng trời đại công vô tư, há lẽ nào lại ban phát cao – thấp khác xa nhau, muôn phần chẳng bình đẳng ư? Há lẽ nào trời cũng có tư dục đối xử nồng hậu hay lợt lạt, khinh – trọng ư? Nhà Nho chẳng nói đến ba đời, vì thế coi cái nhân đời trước là “mạng trời’ (Thiên Mạng), chẳng biết nhà Phật gọi cái Thiên Mạng vừa được nhắc đến ấy là quả báo! Đức Phật gọi thân này là Báo Thân. “Báo” có nghĩa là do cái nhân gồm những điều thiện, sự ác đã tạo trong đời trước nên cảm lấy cái quả phải hứng chịu thọ – yểu, cùng quẫn – hanh thông trong đời này. Những điều ấy có nhất định.
Còn bất định là dốc chí tu trì, tích lũy điều lành và công đức, mong thành thánh, thành hiền, hay mặc sức phóng túng, buông lung không kiểm điểm, lười nhác quá mức, tự ruồng rẫy, tự phụ bạc chính mình. Ấy là vì sức của những điều thiện sự ác đã làm trong đời này mạnh mẽ nên chuyển biến những nghiệp báo trong đời trước khiến cho chúng sanh trở thành tốt đẹp hơn hay kém cỏi hẳn đi. Điều này thường được gọi là: “Trời định thắng người, nhưng người định cũng thắng được trời”. Kinh Thi ghi: “Vĩnh ngôn phối mạng, tự cầu đa phước” (thường suy nghĩ xem hành vi của chính mình có hợp với lẽ trời hay không để mong cầu cuộc sống được hưởng nhiều điều tốt đẹp). Kinh Thư chép: “Tác thiện giáng chi bách tường, tác bất thiện giáng chi bách ương” (làm điều lành thì trăm điều tốt đẹp giáng xuống, làm điều bất thiện, trăm tai ương sẽ giáng xuống). Kinh Dịch chép: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương”. Lễ Ký chép: “Cố đại đức tất đắc kỳ lộc, tất đắc kỳ vị, tất đắc kỳ danh, tất đắc kỳ thọ” (vì thế những người có đức lớn lao ắt sẽ được hưởng lộc, ắt sẽ có địa vị, ắt sẽ có danh tiếng, ắt sẽ sống lâu). Những lời ấy đều là ước theo những gì cảm được bởi sự tu trì trong đời này để nói. Do vậy, biết: “Mạng do chính ta làm chủ, phước do chính ta cầu!” Quyền [hưởng nhận] “thọ, giàu, mạnh khỏe, bình yên” do ta thao túng; chẳng qua trời do thấy ta tu trì bèn soi xét ban tặng mà thôi, chứ chẳng hề có chuyện hậu đãi hay lợt lạt, khinh hay trọng trong ấy!
Tiên sinh Phụng Kỳ có chí nơi ấy, vì thế khi còn đang dốc chí học hành, do gia đạo bần hàn, con cái đông đúc, sợ cao đường (mẹ) chắc phải ưu tư, bèn lo buôn bán ở Thượng Hải, mong sẽ thỏa chí phụng dưỡng. Nào ngờ chọn lầm kẻ quản lý, chưa đầy ba năm mà đã hụt vốn quá nửa. Ông bèn dốc chí xét đoán thời cơ, chuyên tâm tự quản lý. Mới được một năm đã được lời to, do vậy buôn bán phát đạt, ngày càng hưng thịnh, bèn vừa phụng dưỡng cha mẹ, anh em êm ấm, giúp đỡ kẻ nghèo khó, mở trường học để làm cái gốc tạo lập lớn lao hòng “kế thừa người trước, mở mang cho người sau”, thực hiện rộng rãi hoài bão “dân là ruột thịt, loài vật giống như ta”.
Bà vợ đức hạnh của ông ta là Hoàng phu nhân, bẩm tánh hiền thục, ôn hòa, cung kính, đoan trang, thận trọng, nên được bố mẹ chồng, chị em dâu, vợ lẽ v.v… yêu mến. Gia đình thuận thảo, không ai kèn cựa. Đối với chuyện nuôi dạy con cái thì áp dụng cách giáo hóa vừa từ vừa nghiêm, khoan dung lẫn nghiêm khắc. Dẫu không phải là con do chính mình đẻ ra vẫn chăm chút còn hơn con đẻ. Đức đẹp ấy thật đáng làm bậc mẫu nghi trong chốn khuê các, làm bậc thầy nêu gương cho nữ giới. Vì thế, con cái đều thành tài. Liêu Tường thành thật, đáng tin, không dối trá, kế nghiệp buôn bán rất thành công. Vinh Tường thì an cư lạc đạo, hoằng dương Phật pháp. Cháu trai, cháu gái đều sẵn tánh thuần hậu, tương lai sẽ thành tài lập đức là điều có thể đoán trước được. Phàm những điều này đều do tiên sinh và phu nhân đức dầy, lòng nhân sâu đậm vun bồi mà ra.
Ôi! Ngũ Phước được nói trong sách Hồng Phạm, không một điều nào [hai vợ chồng tiên sinh] chẳng có đủ. Đang trong lúc hai vị cùng thọ đến tuổi cổ hy (bảy mươi tuổi) này, nếu chẳng dâng lời chúc tụng, ắt sẽ tự khuất, khuất người. Than ôi! Quang là đệ tử Phật, Phật sẵn lòng mong cho hết thảy chúng sanh đều được thành Phật vì hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh, đều kham làm Phật. Phật thọ vô lượng giống như mười phương, chúng sanh đã sẵn đủ Phật tánh thì cớ sao tuổi thọ lại khác biệt? Chỉ vì chúng sanh mê chưa ngộ, trái nghịch giác, xuôi theo trần lao, do tình sanh nên trí bị cách ngăn, do tâm tưởng biến đổi nên hình thể khác biệt. Do vậy mới có tam giới lục đạo, đủ mọi hiện tượng khổ – vui. Thọ mạng trong nhân gian cao lắm cũng không ngoài trăm năm, dẫu cõi trời Phi Phi Tưởng thọ đến tám vạn bốn ngàn đại kiếp, nhưng đến khi hết tuổi thọ vẫn phải đọa xuống dưới. Rốt cuộc so với con phù du (con vờ) sáng sanh tối chết nào có khác gì!
A Di Đà Phật phổ độ chúng sanh, chỉ cần có lòng tín nguyện trì danh hiệu Phật, chắc chắn lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Đã vãng sanh Tây Phương thì sẽ siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, thân cận Di Đà, kề cận hải chúng, chứng Vô Sanh Nhẫn, lên địa vị Bất Thoái, ngay trong một đời này liền viên thành Phật đạo. Lợi ích ấy dù hết cả kiếp vẫn khó nói trọn! So với những gã câu nệ hẹp hòi, tự xưng là thông gia, nhưng lại mua rương trả châu, bỏ vàng gánh gai thì nào phải chỉ khác biệt vời vợi một trời một vực ư? Đấy là pháp dễ tu trì nhất, dễ thành tựu nhất trong Phật pháp, lợi ích ấy lại vượt trỗi hết thảy các pháp khác, bởi đã lấy Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, cho nên nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân. Tiên sinh và phu nhân nếu chẳng vì thấy con người [Quang kém hèn] mà vứt bỏ lời này thì trong ao bảy báu nơi cõi Tây Phương sẽ lại lập tức thấy trổ hai đóa sen tử kim. Xin hãy suy nghĩ sâu xa, xin hãy suy nghĩ sâu đậm vậy!
- Lời tựa cho cuốn Văn Sao Trích Yếu
Thuốc không sang – hèn, thuốc chữa được bệnh là thuốc hay. Pháp không tinh – thô, pháp hợp căn cơ là pháp diệu. Pháp môn tu trì vô lượng vô biên, bọn độn căn đời Mạt thật khó thể thông hiểu trọn khắp. Huống hồ đã không chứng nhập thì làm sao có thể đạt lợi ích cho được? Quang túc nghiệp sâu nặng, hạnh trong hiện đời nhỏ yếu, lạm dự vào Tăng chúng đã năm mươi năm. Một câu Phật hiệu vẫn chưa trì đến mức “tâm và Phật tương ứng”, nói gì các thứ pháp môn khác! Mười mấy năm qua thường có những người lầm nghe lời kẻ khác ngỡ Quang là tri thức đến nỗi gởi thư từ qua lại để cầu khai thị. Cố nhiên Quang nghiêm túc giữ bổn phận, đem những gì chính mình biết được và chính mình tu tập thưa trình. Nếu người hỏi kiến thức cao minh, trí huệ rộng lớn liền xin người ấy hãy chuyển sang hỏi bậc cao nhân, quyết chẳng dám đem sự hèn tệ của chính mình để ngăn giữ người, đến nỗi họ chẳng thể đạt đến chỗ cao minh, khuất lấp thiên tư tài đức của họ.
Có kẻ bảo Quang nghiêm cấm người khác đọc tụng, nghiên cứu kinh luận Đại Thừa, chẳng biết phàm ai đến chỗ Quang xin dạy bảo, nếu như [người thưa hỏi ấy] thân vướng vít trong lưới tục, hoặc tuổi tác đã cao; đối với những kẻ bận bịu công việc, tháng ngày chẳng còn mấy, mà vẫn dạy họ xem đọc, nghiên cứu tràn lan, chứ trước hết chẳng dạy họ hiểu rõ rệt thấu triệt nguyên do của pháp môn Tịnh Độ, chắc họ sẽ có phần gieo thiện căn, hiểu giáo lý, chứ đối với chuyện liễu sanh thoát tử, sợ sẽ chẳng có hy vọng gì, bởi chỉ chú trọng đọc tụng, nghiên cứu để mong khai ngộ tự chứng, chẳng còn chú trọng tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Họ chẳng biết phàm phu đầy dẫy Hoặc nghiệp, muốn cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử ngay trong đời này còn khó hơn lên trời. Vì vậy, Quang chẳng nề hà bị chê bai, giãi tấm lòng thành bảo ban.
Có những kẻ chẳng hiềm lời lẽ hủ bại của Quang là ô uế bèn lưu truyền, đặt tên là Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao. Lại có người chọn lấy những ý cốt yếu, phân loại, biên tập đặt tên là Gia Ngôn Lục. Cư sĩ Lý Huệ Thực ở huyện Thái lại muốn trích lấy những lời phù hợp kẻ sơ cơ để dẫn dắt những ai từng đọc sách Nho nhưng không hiểu rõ nguyên do vì sao Nho và Thích “đồng nhưng bất đồng, bất đồng nhưng đồng” sẽ học Phật, tổng cộng là bấy nhiêu bài đó, tính in ra để lưu truyền rộng khắp, cậy tôi viết lời tựa. Tôi nói: “Đã có Gia Ngôn Lục, cần gì lại phải in trích yếu?” Ông ta đem những ý trên đây để cố thỉnh, đành thuật những điều chánh yếu vậy!
- Lời tựa tái bản cuốn Bát Nhã Dung Tâm Luận
Kim Cang Kinh chính là khuôn mẫu do đức Phật dạy con người phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, xa lìa trọn vẹn phàm tình – thánh kiến để hành lục độ vạn hạnh. Vì thế nói: “Ngã ưng diệt độ nhất thiết chúng sanh, diệt độ nhất thiết chúng sanh dĩ, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả” (Ta hãy nên độ hết thảy chúng sanh, diệt độ hết thảy chúng sanh rồi mà thật ra chẳng có chúng sanh nào được diệt độ cả). Ấy là vì: Trong chẳng thấy tướng Ta là người hóa độ; ngoài thì chẳng thấy tướng người được độ và tướng chúng sanh; giữa là chẳng thấy có tướng thọ giả[18] chứng đắc Vô Dư Niết Bàn. Xa lìa trọn vẹn bốn tướng, chẳng vướng vào sáu trần, nên được xứng tánh tu trọn khắp lục độ vạn hạnh để trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Đấy gọi là “không trụ vào đâu để sanh tâm, sanh tâm nhưng không trụ vào đâu”. Nếu có trụ thì cái tâm được sanh ấy sẽ đọa trong phàm tình thánh kiến, sẽ trái nghịch với nghĩa “tam luân thể không[19], nhất đạo thanh tịnh”. Do vậy, một câu “hãy nên không trụ vào đâu để sanh tâm” quả thật là cương yếu của bài kinh này, mà cũng là kim chỉ nam cho hết thảy những người hành Bồ Tát đạo.
Dung Tâm Luận của U Khê đại sư đã ước theo tứ giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên) để giải thích, nhưng hội quy về Viên Giáo ngõ hầu người tu trì rốt ráo đạt được lợi ích thật sự, quả thật đã khế hợp sâu xa Phật tâm, hữu ích cho pháp đạo. Tiếc là chưa được lưu thông, khá đáng tiếc nuối! Đại sư Thiện Pháp sao được một bản, cư sĩ Vương Mưu Phụng trông thấy nguyện khắc ván, cậy Quang giảo chánh những chỗ sao chép sai lầm. Do vậy tôi bèn đại lược chọn lấy những nghĩa trọng yếu của kinh Kim Cang để ghép vào đầu sách nhằm mong người đọc luận này sẽ có cái để hướng dẫn. (Cuối Thu năm Đinh Mão, tức năm Dân Quốc 16 – 1927)
- Lời tựa cho sách Phổ Khuyến Học Phật Đàm
Phật pháp lớn lao không gì chẳng bao trùm, không gì nhỏ nhặt chẳng được nêu lên. Phàm ai muốn học thì phải nên chú trọng thực hành. Nếu không, sẽ như đọc toa thuốc nhưng chẳng uống thuốc, muốn cầu lành bệnh há có được chăng? Do vậy, người niệm Phật cần phải giữ vẹn luân thường, trọn hết chức phận của chính mình, dứt lòng tà, giữ lòng Thành, đánh đổ những ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, biết nhân hiểu quả, mong thành thánh thành hiền, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Lại còn phải thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, quyết định cầu sanh thế giới Cực Lạc. Dùng những điều này để tự hành, lại còn dùng để dạy người, khiến cho trong là gia đình, ngoài là người đời đều cùng được thấm nhuần sự giáo hóa của Phật, cùng sanh Tịnh Độ, ngõ hầu chẳng cô phụ sự giáo hóa của đức Phật, chẳng phụ tánh linh của chính mình.
Nếu hờ hững nghiên cứu tràn lan các thứ pháp môn và cũng nương theo đó tu trì thì sẽ có phần làm một vị đại thông gia và hưởng phước báo trời người trong đời sau, chứ muốn liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh sợ khó thể mộng được! Vì sao vậy? Do hết thảy các pháp môn đều phải đoạn Hoặc chứng Chân thì mới hòng liễu sanh thoát tử, chứ không như pháp môn Tịnh Độ: Cậy vào Phật từ lực sẽ có thể đới nghiệp vãng sanh. Phật lực, tự lực khác biệt hệt như một trời một vực! Hiểu rõ điều này sẽ chẳng dám cậy vào tự lực, vứt bỏ Phật lực để kéo dài kỳ hạn liễu sanh tử tới bao nhiêu số kiếp trong vị lai.
Cư sĩ Lưu Đạt Huyền do thấy đại kiếp tràn ngập, chẳng có lúc nào thái bình, bèn lắng lòng nghiên cứu kinh Phật, mới biết “Phật pháp là cái gốc của hết thảy pháp”. Nếu có thể y theo lời Phật dạy để hành thì trên là đoạn Hoặc chứng Chân hòng khôi phục bản tánh, dưới là đổi ác hướng lành để làm hiền nhân. Hiền nhân có thể dùng thân để hướng dẫn người khác, trong là gia đình, ngoài là người đời đều sẽ nhìn theo bắt chước làm lành, thay đổi phong tục nhưng chẳng hay chẳng biết. Mạnh Tử nói: “Cùng tắc độc thiện kỳ thân” (Hễ cùng quẫn thì riêng mình thiện). Nếu làm được những điều như vừa nói trên đây thì dẫu cùng quẫn vẫn có thể làm cho làng ấp đều cùng được thiện đâu có khó chi? Do vậy, bèn dùng lời văn thông tục để soạn thành mấy chục thiên Phổ Khuyến Học Phật Đàm (những lời bàn luận nhằm khuyên khắp mọi người đều học Phật) để mong người trí lẫn kẻ ngu đều cùng hiểu, ai nấy đều tu trì thì thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui chắc sẽ đích thân thấy được. [Trong lời tựa cho sách này], cư sĩ Phạm Cổ Nông đã nêu bày những điều ẩn kín, Bất Huệ chỉ nói đến sự thực hành trong khi học Phật và đường nhanh tắt để liễu sanh tử nhằm làm cho ai nấy đều cùng liễu sanh thoát tử ngay trong đời này. So với cậy vào tự lực để tu trì hết thảy các pháp khác thì sự khó – dễ còn gấp mấy lần sự khác biệt giữa ngày và kiếp vậy! (Đầu Thu năm Canh Ngọ (1930) thời Dân Quốc)
- Lời tựa sách Nhân Quả Thực Chứng
Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Khổng Tử khen ngợi Châu Dịch, vừa mở đầu liền nói: “Tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương” (Nhà nào tích thiện điều vui có thừa, nhà nào tích điều bất thiện tai ương có thừa). Nhìn từ bề mặt, câu nói này luận về sự vui mừng, tai ương ảnh hưởng tới con cháu; chứ nếu luận trên thực tế, sự vui mừng hay tai ương quy về bản thân người ấy càng lớn hơn gây ảnh hưởng đến con cháu nhiều lắm. Cơ Tử trần thuật sách Hồng Phạm, cuối cùng mới nói: “Hưởng dụng ngũ phước, oai dụng lục cực” (thuận theo lẽ phải thì sẽ được hưởng năm điều phước, hễ trái nghịch thì sẽ hứng chịu sáu điều khổ cực). “Dụng” nghĩa là “sẽ”. “Cực” là khốn cùng, khổ sở, đau đớn. Trên thực tế, Ngũ Phước Lục Cực đã thể hiện cái nhân thiện hay ác trong đời trước và quả báo thiện hay ác trong đời này. Trong kinh điển Nho gia khi nói về tiền nhân hiện quả (nhân đời trước, quả đời này) và hiện nhân hậu quả (nhân đời này, quả đời sau) thì hai câu nói ấy của Khổng Tử và Cơ Tử rõ ràng nhất.
Kinh Phật nói nhân quả ba đời tường tận, chu đáo nhất. Nói toát yếu là: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị” (Muốn biết cái nhân đời trước thì những gì phải hứng chịu trong đời này chính là nó đấy; muốn biết quả đời sau thì [hãy nhìn vào] những gì đã làm trong đời này). Con người thường gọi khổ – sướng, hên – xui phải hưởng chịu trong đời này là Mạng, cho đó là mệnh lệnh từ cõi trời, nào biết đấy chính là quả báo của những điều thiện – ác do chính mình đã làm trong đời trước. Trời đâu có hạ lệnh hậu đãi người kia, bạc đãi kẻ này? Vì thế, sách Cảm Ứng Thiên chép: “Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu” (Họa – phước không có cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy).
Quả báo thiện – ác như bóng theo hình. Nếu biết được lý này thì trên chẳng oán trời, dưới chẳng hờn người, dè dặt, kiêng nể, kinh sợ tu tỉnh, trừ khử những món vật tư dục trong tâm chính mình thì chánh tri sẵn có trong tự tâm sẽ phát hiện. Do vậy, kẻ mất niệm thành cuồng sẽ đều khắc chế được ý niệm mà trở thành thánh. Đấy chính là loại nhân quả được nói bởi Nho giáo mà còn có lợi ích lớn lao như thế, huống hồ đức Phật dạy con người tu Giới – Định – Huệ, đoạn tham – sân – si, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành! Thoạt đầu là đoạn sạch Phiền Hoặc thế gian, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Tiếp đến là dần dần tấn tu cho đến khi Chân cùng Hoặc tận, huệ mãn, phước trọn, triệt chứng tự tâm, thành Bồ Đề đạo đều chẳng ra ngoài nhân quả. Do vậy nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh”.
Tống Nho cho Phật nói nhân quả ba đời, luân hồi trong lục đạo chính là căn cứ để gạt gẫm hạng ngu phu ngu phụ tuân phụng giáo pháp của Ngài, chứ thật ra không có chuyện ấy. Hơn nữa, con người chết rồi thì hình hài sẽ hư mất, thần thức cũng phiêu tán, dẫu bị chặt – chém – xay – giã sẽ thi thố vào đâu? Hơn nữa, thần hồn đã tản mát rồi, lấy ai để thọ sanh? Đả phá, bài xích nhân quả khiến cho con người không có cái để e sợ, không có gì để mong mỏi thì thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để trừng phạt. Do thiện hay ác đều không có nhân quả, Nghiêu hay Kiệt thì cũng đều chết sạch, kẻ không có chí hướng cao xa ai lại chịu khăng khăng làm lành, dè dặt kiêng ác để cầu cái hư danh sau khi đã chết ư? Đả phá, bài xích nhân quả luân hồi, hiểu sai be bét “cách vật trí tri”, chỉ lấy “thành ý chánh tâm, trọn hết tình nghĩa, bổn phận” để làm pháp giác ngộ cõi đời, giáo hóa dân chúng, sáng tỏ đạo, đạt đến bình trị, chẳng biết đôn đốc nơi “trừ khử món vật tư dục trong tự tâm để thấy được chánh tri sẵn có trong tự tâm, chỉ bày nhân quả báo ứng trong đời trước đời này, đời này đời sau” thì có khác gì xoi thủng đê để mong nước đừng chảy tràn lan, bỏ thức ăn mà mong dân chẳng bị chết đói, há có được chăng?
May mắn là ai nấy sẵn có cái tâm có thể làm Nghiêu – Thuấn, có thể thành Phật. Bất hạnh là chẳng được dạy đúng pháp đến nỗi không tránh khỏi làm hạng dân quê, làm hạng chúng sanh chẳng biết quay về cội, trở lại nguồn. Ông Châu Quần Tranh ở Vĩnh Gia từ thời thơ ấu đến lúc nhược quan (hai mươi tuổi) chẳng biết nhân quả, đã lâm vào tình thế “thánh mất niệm thành cuồng”. Đến đầu thời Dân Quốc, do được nghe Phật pháp từ các bậc tiên triết và thiện tri thức trong làng, mới biết nhân quả, mong mỏi được là hạng người khắc chế ý niệm trở thành thánh, khôn ngăn xót mình xót người, thương mình thương người, liền đem những sự tích nhân quả xác đáng, thiết thực do chính mình đã thấy nghe chép lại thành một cuốn sách, đặt tên là Nhân Quả Thực Chứng. Tính đem in ra để mong ai nấy đều biết nhân rõ quả, siêu phàm nhập thánh, xin tôi viết lời tựa dẫn khởi, tôi bèn viết lời tựa này để nêu rõ những điều chánh yếu (Đầu Hè năm Kỷ Mão, tức năm Dân Quốc 28 – 1939)
- Lời tựa sách Triêu Mộ Khóa Tụng Bạch Thoại Giải Thích
Đại giáo truyền sang phương Đông gần hai ngàn năm. Dù Tăng hay tục ai nấy đều tùy theo pháp nào gần gũi với tánh mình mà tu trì. Tuy pháp môn tu trì có đủ mọi thứ sai khác, nhưng tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối, siêu độ cô hồn, cầu sanh Tịnh Độ thật sự là những điều chánh yếu. Vì thế, từ các kinh chú, các pháp môn, cổ đức đã chọn lọc lấy những phần chánh yếu, soạn thành hai thời công khóa sáng – tối để các hành nhân y theo đó tu trì nhằm tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ, báo đáp Tứ Ân, siêu độ cô hồn. Do lòng Từ rộng lớn của đức Phật, do tận hết lòng Thành của chính mình, cố nhiên đạo ấy thông trên thấu dưới, ích lợi ấy dù cõi âm hay dương gian đều chẳng hề thiếu sót. Do vậy, đạo tràng trong thiên hạ dù Tông hay Giáo, dù Luật hay Tịnh, không đâu chẳng kính vâng lấy đó làm chương trình [tụng niệm] nhất định.
Đầu đời Thanh đã có người soạn cuốn Nhật Khóa Tiện Mông[20] nhưng chỉ giải thích đại lược câu chữ mà thôi! Gần đây có pháp sư Hưng Từ soạn cuốn Nhị Khóa Hiệp Giải khá tường tận, rõ ràng, nhưng do văn tự hơi sâu nên kẻ sơ cơ chưa được lợi lạc cho lắm. Cư sĩ Hoàng Hàm Chi trong mấy năm trước đã từng soạn cuốn Sơ Cơ Tịnh Nghiệp Chỉ Nam và Di Đà Bạch Thoại Giải Thích in tới hơn mấy chục vạn bản. Những người đề xướng học Phật ở những nơi khác đều tiếp tục thỉnh sách. Cố nhiên, Hoàng Hàm Chi biết văn Bạch Thoại chẳng thể nào súc tích, trang trọng như Văn Ngôn được, nhưng do nó có thể giúp cho người kém học vấn sẽ nhờ vào đấy để lãnh hội được, nên ông hoàn toàn dùng thể văn Bạch Thoại để giải thích khóa tụng sáng tối. Ông rất sợ kiến giải của chính mình chắc sẽ có những chỗ chưa thấu đáo nên mỗi mỗi đều cậy người bạn là cư sĩ Cố Hiển Vi sửa chữa. Lại do thấy những ý nghĩa tột cùng của những danh tướng được nói đến trong sách ấy có lẽ [độc giả] chưa hoàn toàn hiểu trọn, nên trước đấy đã viết các tập sách Phật Pháp Đại Ý, Tâm Kinh Bạch Thoại Giải Thích và Di Đà Kinh Bạch Thoại Giải Thích, khá nhiều tác phẩm đều được đề xuất lưu hành riêng.
Hai thời khóa tụng có được bản giải thích này thì kẻ sơ cơ sẽ nối tiếp nhau hưởng các thứ lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, trì tụng kinh chú quý tại chí thành. Dẫu trọn chẳng biết nghĩa, mà nếu có thể hết lòng thành, cạn lòng kính, kiền thành, khẩn thiết thọ trì thì lâu ngày chầy tháng tự nhiên sẽ nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận, tâm minh, còn có thể thấu hiểu trực tiếp ý Phật, huống là những giải thích về mặt văn tự và ý nghĩa của chúng ư? Nếu không, dẫu có thấu hiểu thông suốt nhưng do chẳng chí thành thì chỉ trở thành tình kiến phàm phu, dò đoán suy lường mà thôi; chứ không có cách nào đạt được lợi ích chân thật và sự cảm ứng chân thật của kinh! Do hoàn toàn là thức tâm[21] phân biệt suy lường thì làm sao có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp diệu đạo, hễ vừa vượt thoát liền chứng nhập trực tiếp, mau chóng đạt lợi ích thù thắng?
Thường thấy ngu phu ngu phụ cắm cúi tu trì đạt được lợi ích hơn hẳn kẻ thông minh nhiều lắm. Ấy là vì một đằng hết lòng Thành, cạn lòng kính, chuyên tâm nhất chí, còn một đằng thì hờ hững, lợt lạt, tán loạn, hư vọng suy lường mà ra! Xin các độc giả đều biết ý này, đấy chính là đã hiểu trọn ý nghĩa của kinh, khi trì tụng sẽ chẳng còn sanh phân biệt nữa, sẽ như đối trước thánh dung đích thân lắng nghe viên âm, trọn không thấy có một niệm nào để được thì lợi ích ấy chẳng thể dùng ngòi bút để hình dung được đâu! Đấy chính là bí quyết trì tụng. Nguyện khắp các đồng nhân đừng coi thường lời này thì may mắn lắm thay! (Giữa Xuân năm Canh Ngọ, tức năm Dân Quốc 19 – 1930)
- Lời tựa cho lễ truyền giới tại Viên Giác thiền viện ở Ngư Sơn, huyện Sào
Đức Như Lai dùng ba sự để giữ cho chánh pháp tồn tại lâu dài trong thế gian khiến cho chúng sanh đều được độ thoát. Ba sự ấy là gì? Chính là Giới – Định – Huệ. Do chúng sanh một mực trái nghịch đạo giác, xuôi theo trần lao, luân hồi trong lục đạo, nên nay đức Phật muốn làm cho họ bỏ trần lao thuận theo đạo giác, hướng tới chứng được Niết Bàn. Nếu không có Giới thì chẳng có gì trói buộc, ắt sẽ đến nỗi đuổi theo trần cảnh, khởi Hoặc, tạo nghiệp. Không có Định, sóng thức cuồn cuộn, làm sao tâm không trụ vào đâu cho được! Không có Huệ sẽ do đâu triệt chứng được chân tâm sẵn có? Vọng Hoặc huyễn khởi sẽ do đâu mà nhanh chóng diệt mất? Vì thế, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhiếp tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Huệ. Đấy gọi là Tam Vô Lậu Học”.
Hãy nên biết: Cả ba điều này chính là một, tuy một nhưng là ba. Đừng cho rằng Giới chỉ là nền tảng ban đầu của Định và Huệ mà thôi! Phàm Luật Nghi Giới giữ cho thân chẳng làm [những điều ác] thì có thể gọi là nền tảng ban đầu, nhưng Định Cộng Giới giữ cho tâm chẳng khởi [những vọng niệm] và Đạo Cộng Giới[22] nghiệp tận tình không, Chân cùng, trí rạng, há chẳng phải là toàn thể đại dụng của Định và Huệ ư? Há nên chỉ coi là nền tảng ban đầu ư? Nhưng Định Cộng Giới và Đạo Cộng Giới lấy Luật Nghi Giới làm bản thể, chỉ do công dụng trì giới sâu hay cạn mà lập ra hai cái tên ấy, chứ chẳng phải là nói đến thứ giới bổn nào khác cả! Người đời thường lấy Luật Nghi để bàn luận, đến nỗi chẳng biết hoặc coi thường ý nghĩa chế giới lớn lao của đức Như Lai! Chẳng khởi sự từ Văn Huân[23] mà mong đạt được Chân Giới, Chân Định, Chân Huệ, đáng than lắm thay!
Pháp đạo của đức Như Lai có phạm vi rộng khắp mười cõi, tuy các bậc đại sĩ hoằng pháp ai nấy đều Tam Học viên minh, nhưng do kiến lập môn đình, mỗi vị chẳng thể không chuyên chú trọng [nơi một môn]. Hoặc chuyên chú nơi “Chỉ Tác Trì Phạm”[24] thì thành Luật. Hoặc chuyên chú nơi tu quán giảng diễn thì thành Giáo. Hoặc chuyên chú nơi tham cứu bổn lai để mong triệt ngộ thì thành Tông (Thiền). Tông mang tên là “giáo ngoại biệt truyền” (truyền riêng ngoài giáo) còn Luật là “giáo nội chân truyền” (chân truyền bên trong giáo). Nói “biệt truyền” là muốn cho con người thấy được bản thể ở ngoài ngôn ngữ; chứ không có nghĩa là Tông vượt xa hẳn ra ngoài giáo lý!
Hãy thử nghĩ xem: Lúc đức Thế Tôn cầm cành hoa giơ lên, ngài Ca Diếp mỉm cười, bổn địa phóng quang, triệt để hiển lộ. Hiểu rõ điều ấy thì tất cả hình sắc trọn khắp thế gian, không gì chẳng phải là đóa hoa đang được đức Thế Tôn cầm, không gì chẳng làm cho con người thấy được triệt để diện mục sẵn có của chính mình trước khi được cha mẹ sanh ra. Huống chi vô thượng diệu pháp được nói bởi chính kim khẩu của đức Như Lai lại chẳng phải là đóa hoa ấy hay sao, chẳng thể làm cho con người đích thân thấy được bản lai diện mục ư?
Nhưng trăm vạn trời người dẫu thấy đức Thế Tôn cầm cành hoa giơ lên thảy đều ngơ ngác, cũng như đang cưỡi lừa lại đi tìm lừa, trọn chẳng thể lãnh hội được. Nếu biết [bản lai diện mục] chính là ở ngay nơi đấy thì bao nhiêu người sẽ thành tựu ngay trong đời hiện tại, đỡ tốn sức biết bao nhiêu. Do mê nên chẳng biết quay trở lại, giống như chàng Diễn Nhã [trong kinh Lăng Nghiêm nhìn vào gương trông thấy] đầu mình, vô cớ phát cuồng chạy quàng lên; hạt châu trong chéo áo mà oan uổng chịu bần cùng, thật đáng buồn thay! Cần biết rằng Luật, hay Giáo, hay Tông, phải trọn vẹn cả ba thứ này thì mới có thể tiếp nối huệ mạng, truyền pháp đạo của đức Phật được! Nếu bị thiếu khuyết sẽ chẳng đủ để trên là chứng A Nậu Bồ Đề, dưới là độ hết thảy hàm thức.
Lô Xá Na Phật lấy Giới làm Thể, do không điều ác nào chẳng hết sạch nên gọi là Tịnh, không điều thiện nào chẳng trọn vẹn nên gọi là Mãn[25]. Đoạn ác tu thiện chính là cùng vâng giữ Chỉ và Tác. Do vậy, Luật là Phật thân, Giáo là Phật ngữ, Tông là Phật tâm. Ba thứ tâm – ngữ – thân quyết chẳng thể tách rời, quyết khó thể thiếu sót. Nếu không, thì một cánh khó bay, một bánh xe chẳng thể di chuyển được! Muốn tự lợi, lợi tha sẽ khó thể như nguyện!
Viên Giác Am ở Ngư Sơn sáng lập từ đời Minh tồn tại cho đến ngày nay, dẫu có lúc chìm, lúc nổi, hoặc suy, hoặc thịnh khác nhau. Đến năm Dân Quốc thứ tám (1919), Trụ Trì là hòa thượng Cảnh Công phát Tứ Hoằng Thệ quyên mộ tu bổ, đến năm Dân Quốc 15 (1926), điện vũ phòng ốc đều mới mẻ rạng ngời. Do điện vũ đã thành, lại muốn truyền giới bởi kiến tạo tùng lâm chính là vì để thực hiện việc [truyền giới] này. Do vậy, từ ngàn dặm gởi thư yêu cầu tôi viết lời tựa nhằm nêu bật ý nghĩa này. Vì thấy hoằng truyền giới pháp chính là một chánh điển (nghi lễ chánh yếu) trong pháp môn nên tôi chẳng thể từ tạ được. Hiềm rằng Quang đối với Tông, với Luật, với Giáo đều chẳng có tâm đắc gì, làm sao có thể chẳng phụ lòng Sư giao phó cho được? Chỉ đành thuật tóm tắt những điều mà tri kiến hèn tệ của chính mình có thể lãnh hội được từ những gì Phật, Tổ, cổ đức đã nói cho xong trách nhiệm.
Kinh Di Giáo dạy: “Này các thầy tỳ-kheo! Sau khi ta diệt độ, hãy nên tôn trọng, quý trọng, cung kính Ba La Đề Mộc Xoa[26] như trong tối tăm gặp được ánh sáng, như kẻ nghèo được báu vật. Hãy nên biết đấy chính là đại sư của các thầy giống như ta trụ thế, trọn chẳng khác gì!” Kinh Phạm Võng dạy: “Ta là Phật đã thành, các ông là Phật chưa thành. Nếu tin được như thế thì giới phẩm đã trọn đủ”. Lại nói: “Chúng sanh nhận lãnh giới nhà Phật liền dự vào địa vị Phật, địa vị giống với bậc Đại Giác, đúng là con của chư Phật”. Nguyện các Phật tử thọ giới ai nấy đều tự biết chính mình vốn sẵn là Phật, nhưng do mê trái nên ngược ngạo nhờ vào sức công đức Phật tánh ấy mà luân hồi trong lục đạo, chịu các sự khổ cùng cực.
Như Chuyển Luân Thánh Vương mộng thấy mình là con kiến, lần theo mùi tanh bò ở dưới thềm, tự thấy mình hèn nhỏ, nhưng thân vua nằm ở trên giường vẫn y nguyên như cũ chẳng mất. Đến khi tỉnh giấc mới biết huyễn hoặc biến thành kiến, chứ trọn chẳng có thực thể! Hết thảy chúng sanh cũng giống như thế. Phật vốn là chưa thành, nghiệp vốn là không nhưng lầm lạc tạo dựng, đề cao thánh cảnh, cam phận phàm ngu, nhường cho mình đức Thích Ca Thế Tôn làm một vị trượng phu hùng mãnh, há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Nếu các Phật tử thọ giới ai nấy đều gắng sức thì chẳng những không phụ một phen nhọc lòng truyền giới của hòa thượng Cảnh Công mà còn an ủi được một phen thánh ý xuất thế chế giới của đức Như Lai vậy!
- Lời nói đầu dành cho bản báo cáo kết toán thâu nhập lần thứ sáu của Hoằng Hóa Xã ở Tô Châu
Nhân quả báo ứng là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh. Pháp môn Tịnh Độ là đạo để hết thảy lục đạo tam thừa đạt đến mục đích liễu sanh thoát tử, viên chứng Bồ Đề. Kể từ sau khi Tống Nho bài xích nhân quả, pháp “trị quốc, trị gia, trị thân, trị tâm” chỉ còn là cành lá, trọn chẳng có cội gốc, dẫn đến những thói cuồng loạn không cứu vãn được, hết cả thuốc chữa! Dẫu học Phật chẳng tu Tịnh Độ vẫn có thể triệt ngộ tự tâm, thâm nhập kinh tạng, nhưng nếu chưa đạt đến địa vị “nghiệp tận, tình không” thì vẫn luân hồi trong lục đạo y như cũ! Biển sanh tử sâu thăm thẳm, đường Bồ Đề xa vời vợi, muốn cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử sẽ khó như lên trời!
Bất Huệ nghiệp nặng, phước nhẹ, nghiệp sâu, huệ cạn, tuy có lòng cứu nước, cứu dân, tự lợi, lợi tha nhưng không có đạo để hoằng pháp cứu vớt mọi người, tự lập, lập người, chỉ đành lượng theo sức mình ấn hành lưu truyền đôi chút những kinh sách thiết yếu, khế cơ tuyên nói về nhân quả và Tịnh Độ để mong kẻ thấy người nghe đều cùng sanh chánh tín, cùng tu Tịnh nghiệp, đều cùng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành nhằm trọn hết tấm lòng tôi mà thôi!
Mùa Xuân năm Canh Ngọ, tức năm Dân Quốc 19 (1930), thầy Minh Đạo tính lập ra Hoằng Hóa Xã tại Thượng Hải Tịnh Nghiệp Xã để lưu thông các kinh sách đã ấn tống trong mấy năm trước, được các vị cư sĩ tán trợ, đã bắt đầu hoạt động. Vào đầu Hạ, Bất Huệ bế quan tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu nhất loạt không hỏi đến. Năm sau, Hoằng Hóa Xã dời về chùa Báo Quốc, khá phát đạt. Đến tháng Mười năm nay, sư Minh Đạo mất, chuyện Hoằng Hóa Xã không giao được cho ai, chỉ đành tự đảm nhiệm. Nhưng tôi là một Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo đã bảy mươi sáu tuổi lại thù tiếp vụng về, nếu các đại cư sĩ có lòng Bồ Đề vì pháp, vì người vẫn duy trì như cũ thì kinh sách của Hoằng Hóa Xã sẽ có thể lưu truyền xa gần, chẳng đến nỗi do vì Bất Huệ lo liệu mà bị bỏ phế, hoạt động rời rạc vậy! Viết những điều này để mong các đại cư sĩ sáng soi (Giữa Xuân năm Bính Tý, tức năm Dân Quốc 25 – 1936)
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên
Quyển 3
(Phần 5 hết)
[1] Quốc Học là thuật ngữ của người Trung Hoa dùng để chỉ một môn học nghiên cứu về văn hóa, học thuật, tư tưởng, triết học của Trung Hoa như một tổng thể và chia ra nhiều chuyên ngành như nghiên cứu kinh học, huấn hỗ, lục nghệ (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số), kể cả những môn như bói toán, phong thủy, tướng số v.v…
[2] Ngài Bảo Chưởng (?-657) là người Trung Ấn Độ, được cõi đời xưng tụng là Bảo Chưởng Thiên Tuế Hòa Thượng (vị Hòa Thượng tay báu ngàn tuổi). Theo truyền thuyết, lúc ngài sanh ra tay trái nắm chặt mãi đến bảy tuổi mới mở ra, nên có tên là Bảo Chưởng. Ngài đến Trung Hoa vào đầu thời Tam Quốc (khi Tào Tháo còn chưa phế vua Hán), vào đất Thục (Tứ Xuyên) tham lễ Phổ Hiền Bồ Tát. Sư thường nhịn ăn, hằng ngày tụng kinh Bát Nhã đến hơn một ngàn quyển. Một bữa, đột nhiên bảo đại chúng: “Ta nguyện trụ thế một ngàn năm, nay đã sáu trăm hai mươi sáu năm rồi!” Vì thế, có danh xưng là Thiên Tuế. Sư từng tham phỏng Ngũ Đài, Lô Sơn v.v… Không lâu sau, Tổ Đạt Ma sang Trung Hoa, Sư bèn đến hỏi đạo, được khai ngộ. Từ năm Trinh Quán 15 (641), Sư ở lại chùa Bảo Nghiêm tại Bồ Giang, chơi thân với Lãng Thiền Sư, thường sai một con chó trắng đưa thư, Lãng sư sai con vượn xanh đưa thư đáp lời.
[3] Nguyên văn “hoàn khố” (quần may bằng lụa nõn). Đây là một thành ngữ ngụ ý chê bai con em những gia đình phú quý chỉ biết hưởng thụ, xa xỉ, phù phiếm, rỗng tuếch, vô tích sự! Thành ngữ này vốn phát xuất từ một câu nói trong thiên Tự Truyện của Hán Thư: “Xuất dữ vương, hứa tử đệ ư quần, tại vu ỷ nhu hoàn khố chi gian, phi kỳ hảo dã” (Đi ra ngoài cùng với vua bao nhiêu là con em xúm xít, ở trong đám áo thêu rực rỡ, quần lụa nõn ấy, có hay ho chi đâu?) “Hoàn” vốn là một thứ lụa mỏng mịn mặt, rất đắt tiền, những kẻ trẻ tuổi chuộng xa hoa, bóng bẩy thường ưa mặc loại lụa này.
[4] Phương ngoại: Người xuất gia làm bạn với người thế tục thường tự xưng là “phương ngoại”, ngụ ý mình đã xa lánh cõi trần, không còn dính dấp vào thế tục nữa.
[5] Bối Đa, gọi đủ là Bối Đa La (Pattra) là một loại thực vật có lá to, thường được dùng để chép kinh (thường gọi là Bối diệp kinh). Cây Pattra có tên khoa học là Laurus Oassia, gồm nhiều loại nhỏ, loại cây có lá được dùng phổ biến nhất là cây Đa La (Tāla). Cây Đa La thân cứng, lá dài, chất lá dày. Để chép kinh, người ta đem lá phơi khô, cắt thành từng miếng vuông vức, hai bên khoét lỗ để buộc dây xâu lại cho khỏi thất lạc, dùng kim trổ chữ trên lá rồi dùng mực bôi lên để hiện chữ.
[6] Ô Đồ (Odra), đôi khi còn phiên là Ô Trà, là một vương quốc cổ ở Đông Ấn Độ, nay thuộc vùng Orīssa. Sử Trung Hoa thường chép sai thành nước Ô Trành. Theo Đại Đường Tây Vực Ký, xứ ấy khí hậu ôn hòa, con người dáng vẻ khôi ngô, ham học, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, sùng phụng Phật giáo Đại Thừa.
[7] Kinh Hoa Nghiêm chia các cõi Phật thành hai thứ: Quốc độ hải và thế giới hải.
1) Quốc độ hải là cõi Phật chẳng thể nghĩ bàn, là y báo để tự thể của chính đức Phật hưởng dụng trên Phật quả, tức là cảnh giới viên dung tự tại không cách nào hình dung được. Chỉ có mình đức Phật thấu hiểu, cảm nhận được, ai chưa thành Phật sẽ không cách nào nhận biết được.
2) Đối lập với quốc độ hải là thế giới hải, tức là các cảnh giới, cõi nước dành cho những đối tượng đức Phật giáo hóa. Do nhìn về phương diện chưa giác ngộ viên mãn sẽ có mười pháp giới nên Thế Giới Hải còn gọi là Thập Phật Nhiếp Hóa Chư Thế Giới Chủng, tức là cùng một cõi Phật, nhưng do trình độ chứng ngộ sai khác sẽ thấy khác nhau, cảm nhận khác nhau. Mức độ nhận thức về Phật trong mười pháp giới ấy khác nhau nên nhìn về mặt hình tướng dường như có đến quả vị Phật nơi mười pháp giới khác nhau. Vì thế, gọi là Thập Phật. Thế Giới Hải lại được chia thành ba loại lớn:
- a) Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải (còn gọi gọn là Liên Hoa Tạng Thế Giới, Hoa Tạng Giới), là cảnh giới sở chứng của bậc Chứng Nhập Sanh, tuy có thể diễn nói được, nhưng cũng chỉ là hình dung đại lược đôi phần. Các hình tướng trong thế giới ấy trùng trùng duyên khởi vô cùng vô hạn giống như những hạt châu trong lưới Thiên Đế phản chiếu lẫn nhau.
- b) Thập Chủng Thế Giới Hải, gồm mười thứ ở ngoài tam thiên đại thiên thế giới, tức thế giới tánh, thế giới hải, thế giới luân, thế giới viên mãn, thế giới phân biệt, thế giới toàn, thế giới chuyển, thế giới liên hoa, thế giới tu di, thế giới tướng. Tức là những cảnh giới được thấy bởi bậc Thập Địa Bồ Tát.
- c) Vô Lượng Tạp Loại Thế Giới Hải, nói về hình trạng của các thế giới giống như núi Tu Di, như bánh xe, như sông ngòi, như lầu, đài v.v…
Nói chung, tùy theo mức độ chứng ngộ mà thấy đủ mọi loại thế giới, nhưng các thế giới ấy đều viên dung vô ngại. Do vậy, gọi chung là Hoa Nghiêm thế giới, tức là khu vực được giáo hóa bởi đức Tỳ Lô Giá Na.
[8] Dật Nhân chính là biệt hiệu của hòa thượng Chân Đạt.
[9] Lính canh giữ biên phòng gọi là Thú. Phạm tội bị đày ra biên cương làm lính canh thì gọi là “trích thú”. Do ngài Hám Sơn được Thái Hậu nhà Minh đặc biệt tôn sùng, kính ngưỡng, cúng dường Sư rất trọng hậu, Minh Thần Tông vốn hâm mộ Đạo giáo, lại bực bội vì Thái Hậu đã dùng khá nhiều tiền để cúng dường Phật giáo cũng như hỗ trợ Sư trong công cuộc hoằng pháp nên khi bọn đạo sĩ ở Lao Sơn vu cáo Sư tu bổ chùa Hải Ấn đã chiếm đoạt đạo quán, vua liền thừa cơ khép tội Sư lén lút tu bổ chùa, tự tiện xây dựng chùa Trạm Sơn, chiếm đoạt điền sản của đạo sĩ, đầy Sư đi làm lính thú ở Lôi Châu (Quảng Châu) vào năm Vạn Lịch 23 (1595). Trong suốt thời gian bị đi đày ở Quảng Đông, Sư dùng thân phận tù nhân hoằng dương giáo pháp, đạo phong ảnh hưởng rất lớn. Mãi tới năm Vạn Lịch 42 (1614), Thái Hậu mất, vua mới xuống chiếu cho Sư được mặc lại Tăng phục.
[10] Đạo quán: Miếu thờ và đạo tràng tu tập của đạo sĩ, còn gọi là đạo viện.
[11] Thầm Mẫu tức Thầm Anh, là người nước Ngô thời Tam Quốc. Theo Thái Thượng Linh Bảo Tịnh Minh Tông Giáo Lục, Thầm Mẫu vốn là người xứ Hoàng Đường, quận Đan Dương, tu tiên, tóc bạc phơ, mặt như trẻ thơ, răng tóc không rụng, nên người đời gọi là Anh Mỗ (bà cụ già có vẻ mặt như trẻ con), dân gian liền đồn đại bà ta đã đắc đạo. Sách Thanh Vi Tiên Phổ ghi: “Thượng Thanh Nguyên Quân Tây Hóa Thánh Mẫu, còn có hiệu là Linh Bảo Tịnh Minh Hoàng Tố Thiên Tôn, chính là nữ chân nhân Thầm Mẫu vậy, được bậc cao tiên cõi trời Thượng Thanh truyền cho ba chương Thượng Minh Ngọc Thư, ngầm tu đạo mầu, cảm được ngọc phù (ấn bùa bằng ngọc) sanh lên cung Tây Hóa Tịnh Quang trên cõi trời”.
[12] Tam Đa là đa phước, đa thọ, đa tử (nhiều phước, lắm thọ, đông con cháu). Đây là một điển tích thường được biết đến bằng từ ngữ “Hoa phong tam chúc”. Điển tích này xuất phát từ đoạn văn sau đây trong thiên Thiên Địa sách Trang Tử: “Nghiêu quán vu Hoa, Hoa phong nhân đối: ‘Thỉnh chúc thánh nhân, sử thánh nhân phú, sử thánh nhân thủ thọ, sử thánh nhân đa nam tử” (Vua Nghiêu đến thăm đất Hoa, người được sắc phong ở đất Hoa thưa: ‘Xin chúc thánh nhân, mong cho thánh nhân giàu có, mong cho thánh nhân sống thọ, mong cho thánh nhân nhiều con trai).
[13] Ngũ suy: Năm tướng trạng hoặc dấu hiệu chứng tỏ một vị trời sắp hết tuổi thọ. Nếu nói chi tiết thì theo như Tăng Nhất A Hàm Kinh, quyển 24, có hai loại:
1) Đại Ngũ Suy Tướng gồm y phục dơ bẩn (y phục chư thiên luôn thơm sạch, sáng láng, lúc tuổi thọ sắp hết tự nhiên sanh dơ bẩn), hoa trên mão tự nhiên bị héo, dưới nách toát mồ hôi, thân thể bốc mùi hôi hám, chẳng còn ưa thích tòa ngồi của chính mình.
2) Tiểu Ngũ Suy Tướng: Tiếng nhạc không còn trỗi lên (do phước báo, cõi trời thường tấu âm nhạc, nhưng đến lúc một vị trời sắp hết thọ mạng, tự nhiên không còn nghe thấy tiếng nhạc), ánh sáng nơi thân bị tắt mất, nước tắm dính vào thân, sanh lòng tham đắm vào cảnh bên ngoài không buông bỏ được, mắt chớp lia lịa.
[14] Lệ trạch: Giúp đỡ lẫn nhau, giồi mài lẫn nhau. Từ ngữ này vốn phát xuất từ một câu trích từ phần giải thích ý nghĩa quẻ Đoài trong chương Tượng Truyện của sách Châu Dịch: “Lệ trạch, Đoài, quân tử dĩ bằng hữu giảng tập”. Theo đó, “lệ trạch” có nghĩa là hai cái đầm thông với nhau, nước được thông thương từ đầm này qua đầm kia, giống như bạn bè trao đổi bồi đắp kiến thức, học thuyết cho nhau. Do vậy, câu trên thường được giảng là: “Quẻ Đoài giống như hai cái đầm thông với nhau [đắp đổi nước cho nhau], quân tử do kết giao với bạn bè tốt mà giảng giải, nghiên cứu, luyện tập đạo lý với nhau”.
[15] Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận (Mahāyāna-śatadharma-prakāśamukha-śāstra) còn gọi là Bách Pháp Minh Môn Luận, Bách Pháp Luận v.v… được soạn bởi Thiên Thân Bồ Tát, ngài Huyền Trang dịch sang tiếng Hán. Nội dung trích lục phần Bách Pháp Danh Số trong Du Già Sư Địa Luận, được coi là một bộ luận trọng yếu của Pháp Tướng Tông. Luận này phân loại hết thảy các pháp trong thế gian thành năm vị, một trăm loại lớn (ngũ vị bách pháp). Bộ luận này được chú giải rất nhiều bởi những vị đại đức nổi danh thuộc nhiều tông phái khác nhau như Khuy Cơ, Đại Thừa Quang, Đàm Khoáng, Hám Sơn Đức Thanh, Ngẫu Ích Trí Húc v.v…
[16] Nhị nghiêm: Gọi đủ là “nhị chủng trang nghiêm”, có hai cách hiểu:
1) Trí Huệ Trang Nghiêm và Phước Đức Trang Nghiêm. Kinh Đại Bát Niết Bàn, quyển 27, giảng: “Nhị Chủng Trang Nghiêm, một là trí huệ, hai là phước đức. Nếu có Bồ Tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm ấy thì sẽ hiểu biết Phật Tánh”. Cách hiểu này thông dụng nhất.
2) Nhị Nghiêm là hình tướng trang nghiêm và đệ nhất nghĩa trang nghiêm. Kim Cang Kinh Toản Yếu Sớ giảng:
- Hình tướng trang nghiêm: Con người nhận biết cõi Phật có đủ mọi thứ hình tướng trang nghiêm, nhưng biết đấy chưa phải là trang nghiêm chân thật.
- Đệ nhất nghĩa trang nghiêm: Tâm thanh tịnh không chấp trước, nương theo trí huệ chân thật, thông đạt cõi Phật nơi tự tánh, duy tâm hiển hiện.
[17] U Khê đại sư chính là ngài Truyền Đăng (không rõ năm sanh và năm mất), ngài họ Diệp, hiệu là Vô Tận. Xuất gia từ nhỏ với ngài Tiến Hiền Ảnh Am, sau theo học giáo nghĩa Thiên Thai với ngài Bách Tùng. Năm Vạn Lịch thứ mười (1582) đời Minh, do hỏi ngài Bách Tùng về ý chỉ của Lăng Nghiêm Đại Định, bị ngài Bách Tùng trừng mắt nhìn trân trối, Sư đột nhiên khế nhập. Năm Vạn Lịch 15 (1587), Sư sang chùa Cao Minh ở U Khê dạy dỗ đồ chúng, nghiên cứu Thiền lẫn Tịnh. Cuốn Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận được hoàn thành trong thời gian này, điểm đặc sắc là vận dụng ý chỉ Tam Quán của tông Thiên Thai để xiển dương pháp môn Tịnh Độ. Năm Vạn Lịch 25 (1597), Sư lại soạn những tác phẩm A Di Đà Kinh Lược Viên Trung Sao, Lăng Nghiêm Kinh Huyền Nghĩa, Tục Xuất Thiên Thai Sơn Phương Ngoại Chí, Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông Sớ, Tánh Thiện Ác Luận, Duy Ma Kinh Vô Ngã Sớ, Thiên Thai Truyền Phật Tâm Ấn Ký Chú. Sư thường tu các sám pháp Pháp Hoa, Đại Từ, Quang Minh, Di Đà, Lăng Nghiêm v.v… mỗi năm hành bốn thứ tam-muội. Khi lâm chung, Sư viết năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, cao giọng xướng đề kinh hai lượt, rồi thanh thản qua đời.
[18] Thọ Giả tướng (Jīvasamjñā): Theo quan điểm thông tục, mỗi cá thể sẽ có một linh hồn hoặc nhân cách, linh hồn ấy sẽ luân chuyển thọ sanh tồn tại thật sự. Đó gọi là Thọ Giả Tướng. Trong Kim Cang Bát Nhã Sớ, quyển 3, ngài Cát Tạng đã viết: “Ngoại đạo chấp có Thần Ngã, chết đây sanh kia, trải khắp sáu đường nên gọi là Thọ Giả”. Ngoài ra, theo quyển 2 của kinh Đại Phẩm Bát Nhã thì Thọ Giả chính là một trong mười sáu tên gọi khác của Ngã.
[19] “Tam luân thể không” là lúc bố thí thì người bố thí, kẻ tiếp nhận và vật bố thí đều vốn là không, phá sạch tướng chấp trước. Nói chi tiết hơn thì:
1) Thí Không: Đối với người bố thí thì thân ta vốn là không, đã biết là vô ngã, sẽ không còn có cái tâm mong cầu phước báo, nên gọi là Thí Không.
2) Thọ Không: Đã thấu hiểu không có người bố thí thì cũng không có người nhận, nên chẳng khởi lên ý tưởng ngạo mạn, nên gọi là Thọ Không.
3) Thí Vật Không: Chữ Vật chỉ cho những của cải, vật chất. Đã thấu hiểu hết thảy là không thì dù có được thí cũng thấy như không thí, chẳng khởi ý tưởng tham cầu nên gọi là Thí Vật Không.
[20] Cuốn sách này do ngài Thích Hải Khoan biên soạn dưới đời vua Ung Chánh.
[21] Thức tâm (còn gọi là Tâm Sở Pháp), tức cái tâm bị chi phối bởi tác dụng của sáu thức hay tám thức; gọi như vậy để phân biệt với chân tâm.
[22] Luật Nghi Giới: Những giới luật do đức Phật chế định nhằm giữ cho ba nghiệp thân miệng ý của hành giả được thanh tịnh, ngăn ngừa những vọng niệm nẩy sanh, có tác dụng “phòng phi, chỉ ác” (ngăn ngừa những điều sai trái, dứt các điều ác). Định Cộng Giới: Giới đạt được do đạt đến mức tinh thuần nơi Định, tức là do Định tâm bất tán nên luôn giữ được giới thể, giới tướng thanh tịnh. Tâm thường an trụ trong Định nên tất cả hành vi, tạo tác, tâm niệm tương ứng với Định, không còn rong ruổi theo trần cảnh nên tuy không chú tâm giữ gìn giới tướng mà không trái phạm giới. Đạo Cộng Giới cũng tương tự, nhưng là sự giữ giới tinh thuần do tác dụng của Huệ Học.
[23] Văn Huân: Do nghe pháp mà tâm thức được huân tập.
[24] Chỉ Tác Trì Phạm: Gọi đúng ra là “Chỉ Trì, Tác Phạm”, tức là những giới hễ ngăn dứt không làm thì là Trì Giới (nên gọi là Chỉ Trì), còn hễ làm thì bị coi là phạm giới (nên gọi là Tác Phạm). Hiểu rộng hơn thì Chỉ Tác Trì Phạm chỉ chung cho mọi giới tướng.
[25] Lô Xá Na Phật chính là Báo Thân Phật. Danh hiệu Lô Xá Na gồm hai nghĩa Tịnh và Mãn.
[26] Ba La Đề Mộc Xoa (Prātimoksa) chính là giới luật để bảy chúng đệ tử Phật ngăn ngừa tội lỗi nơi thân – khẩu – ý, xa lìa các phiền não Hoặc nghiệp hòng được giải thoát. Ba La Đề Mộc Xoa thường được dịch nghĩa là Tùy Thuận Giải Thoát, Xứ Xứ Giải Thoát, Biệt Biệt Giải Thoát, Biệt Giải Thoát, Tối Thắng, Vô Đẳng Học v.v… Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì Ba La Đề Mộc Xoa thường chỉ cho giới luật của hàng xuất gia, được chia thành tám tiểu loại: Ba La Di, Tăng Tàn, Bất Định, Xả Đọa, Đơn Đọa, Ba-La-Đề Đề-Xá-Ni, Chúng Học, Diệt Tránh Pháp.